Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (298.05 KB, 10 trang )

Chủ đề:
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ VẬN DỤNG TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÊ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI
MỚI HIỆN NAY
I. PHẦN MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Lãnh tụ vĩ đại của Đảng Cộng sản Việt Nam, Anh hùng
giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hoá thế giới. Người ra đi, nhưng đã để lại cho toàn
Đảng, toàn dân ta một di sản vơ cùng to lớn – đó là tư tưởng về xây dựng cách mạng.
Có thể nói rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng cách mạng được bắt nguồn từ
truyền thống của dân tộc Việt Nam, nền tư tưởng đã được hình thành hàng ngàn năm
suốt chiều dài lịch sử dân tộc và kế thừa tư tưởng phương Đông cũng như tinh hoa của
nhân loại và dựa trên nền tảng tư tưởng cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa có chọn lọc những giá trị của dân tộc, phù hợp với yêu
cầu của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới và hướng tới việc xây dựng con
người mới có đủ đức, đủ tài phục vụ đất nước và làm rạng ngời con người Việt Nam.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, xã hội lồi người là phát triển theo xu hướng đi
lên, các xã hội trước tạo tiền đề để xã hội sau bước lên một hình thái cao hơn về chất
lượng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là ngọn cờ dẫn dắt sự nghiệp cách mạng của Đảng và
nhân dân ta, trong đó tư tưởng của Người về chủ nghĩa xã hội là một bộ phận hết sử
quan trọng. Nhất quán với các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin, Hồ Chí Minh
quan niệm chủ nghĩa xã hội là một học thuyết khoa học và cách mạng của giai cấp vơ
sản nhằm xóa bỏ ách thống trị tư bản chủ nghĩa, thực hiện lý tưởng giải phóng giai
cấp và giải phóng tồn thể xã hội lồi người.
Chủ nghĩa xã hội còn được hiểu với tư cách là một chế độ xã hội thuộc hình thái
kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa mà việc xây dựng và hồn thiện nó như một q
trình lịch sử lâu dài để từng bước đạt tới mục tiêu.
Cái mới và là sự sáng tạo của Hồ Chí Minh khi nói về bản chất của chủ nghĩa
xã hội là ở chỗ Người phát hiện thấy lý tưởng xã hội chủ nghĩa đã chung đúc tất cả lý
tưởng, giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng xã hội. Hồ Chí Minh còn
thấy một điểm rất quan trọng thuộc về bản chất của chủ nghĩa xã hội là muốn đạt tới


lý tưởng, mục tiêu xã hội chủ nghĩa phải thường xuyên chống lại chủ nghĩa cá nhân.
Người nhìn nhận chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội bảo đảm sự phát triển hài hoà
giữa cá nhân và xã hội. Hồ Chí Minh làm phong phú thêm hướng tiếp cận chủ nghĩa
xã hội. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã làm sáng tỏ bản chất chủ
nghĩa xã hội từ những kiến giải về kinh tế, chính trị và xã hội.

1


II. NỘI DUNG:
1.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ và đặc điểm xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
1.1.1 Về thời kỳ quá độ
Theo quan điểm của các nhà kinh điển, có hai phương thức quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Phương thức thứ nhất là quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội từ những
nước tư bản phát triển ở trình độ cao. Phương thức thứ hai là quá độ gián tiếp lên chủ
nghĩa xã hội ở những nước chủ nghĩa tư bản phát triển còn thấp, hoặc như V.LLênin
cho rằng, những nước có nền kinh tế lạc hậu, chưa trải qua thời kỳ phát triển của chủ
nghĩa tư bản, cũng có thể đi lên chủ nghĩa xã hội được trong điều kiện cụ thể nào đó,
nhất là trong điều kiện đảng kiểu mới của giai cấp vô sản nắm quyền lãnh đạo (trở
thành đảng cầm quyền) và được một hay nhiều nước tiên tiến giúp đỡ.
Trên cơ sở vận dụng lý luận về cách mạng không ngừng; về thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác-Lênin và xuất phát từ đặc điểm tình hình thực tế
Việt Nam, Hồ Chí Minh đã khẳng định con đường cách mạng Việt Nam là tiến hành
giải phóng dâh tộc, hồn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiển dần lên chủ
nghĩa xã hội. Như vậy, quan điểm của Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam là thực hiện hình thái quá độ gián tiếp. Cụ thể: Việt Nam quá độ từ
một xã hội thuộc địa, phong kiến, nông nghiệp lạc hậu, sau khi giành được độc lập
dân tộc tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Chính ở nội
dung này, Hồ Chí Minh đã cụ thể hóa và bổ sung những luận điểm làm phong phú

thêm lý luận Mác-Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
1.1.2 Về đặc điểm của thời kỳ quá độ ở Việt Nam
Theo Hồ Chí Minh, thời kỳ quá độ “Ịà thời kỳ dân chủ mới” tiến dần lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam là hình thái quá độ gián tiếp với: “Đặc điểm to nhất của ta
trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã
hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”. Đặc điểm này chi phối
tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó, Hồ Chí Minh đặc biệt lưu ý
đến mâu thuẫn cơ bản của thời kỳ quá độ, đó là mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển cao
của đất nước theo xu hướng tiến bộ và thực trạng kinh tế - xã hội quá thấp kém của
nước ta (điểm xuất phát thấp); mâu thuẫn giữa những tư tưởng mới xã hội chủ nghĩa,
(đang hình thành) với những tàn tích phong kiến, phản động do chế độ thực dân để lại;
đây là thời kỳ đấu tranh quyết liệt giữa tư tưởng cách mạng, tiến bộ với tư tưởng trì trệ
lạc hậu, cá nhân chủ nghĩa... Hồ Chí Minh nhận định: “Chúng ta phải xây dựng một
xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta. Chúng ta phải
thay đổi triệt để những nếp sổng, thói quen, ý nghĩ và thành kiến có gốc rễ sâu xa
hàng ngàn năm... biến nước tạ từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công
nghiệp”
2


1.1.3 Về nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội
Theo Hồ Chí Minh, thực chất thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là
quá trìhh cải biến nền sản xuất lạc hậu thành nền sản xuất tiên tiến, hiện đại. Thực
chất quá trình cải tạo, phát triển nền kinh tế quốc dân cũng là cuộc đấu tranh giai cấp
gay go, phức tạp trong điều kiện mới, khi mà nhân dân ta hoàn thành cơ bản cách
mạng dân tộc dân chủ, so sánh lực lượng trong nước và quốc té đã có những biến đổi.
Điều này địi hỏi phải áp dụng tồn diện các hình thức đấu tranh về chính trị, kinh tế,
vãn hóa, xã hội nhằm chống lại các thế lực đi ngược lại con đường xã hội chủ nghĩa.
Người khẳng định: “nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng
vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội... tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, cơng nghiệp

và nơng nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng
xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới,
mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài”. Đặc biệt quan trọng là vai trò lãnh đạo
của Đảng “lãnh đạo toàn dân thực hiện dân chủ mới, xây dựng điều kiện để tiến lên
chủ nghĩa xã hội”
1.2 Quan điểm của Hồ Chí Minh về nội dung xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam
1.2.1 Về chính trị
Nội dung quan trọng nhất là phải giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của
Đảng. Đảng phải luôn tự đổi mới và tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu, có hình thức tổ chức phù hợp để đáp ứng các yêu cầu, nhiệm vụ mới. Bước
vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng đã trở thành đảng cầm quyền. Mối
quan tâm lớn nhất của Người về đảng cầm quyền là làm sao cho Đảng khơng trở thành
Đảng quan liêu, xa dân, thối hóa, biến chất, làm mất lịng tin của dân, có thể dẫn đến
nguy cơ sai lầm về đường lối, cắt đứt mổi quan hệ máu thịt với nhân dân và để cho
chủ nghĩa cá nhân nảy nở dưới nhiều hình thức. Cùng với nội dung nhiệm vụ xây
dụng Đảng câm quyền, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc củng cố và mở rộng
Mặt trận dân tộc thống nhất, nòng cốt là liên minh cơng nhân, nơng dân và ứí thức, do
Đảng Cộng sản lãnh đạo; củng cố và tăng cường sức mạnh tồn bộ hệ thơng chính trị
cũng như từng thành tố của nó.
1.2.2 Về kinh tế
Hồ Chí Minh đã đề cập trên các mặt: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, cơ
chế quản lý kinh tế, vấn đề tăng năng suất lao động trên cơ sở tiến hành cơng nghiệp
hóa xã hội chủ nghĩa. Trong đổ,' Người nhấn mạnh, chính sách kinh tế của Đảng và
Chính phủ nhằm thực hiện 4 mục tiêu: Công tư đều lợi, chủ thợ đều lợi, cơng nơng
giúp nhau, lưu thơng trong ngồi: “Bốn chính sách ấy là mấu chốt để phát triển kinh tế
nước ta” .

3



Về cơ cấu kinh tế, Hồ Chí Minh đề cập cơ cấu ngành vả cơ cấụ các thành phần
kinh tế, cơ cấu kinh tế vùng, lãnh thổ. Người quan niệm hết sức độc đáo về cơ cấu
kinh tế nông - công nghiệp, lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, củng cố hệ thống
thương nghiệp làm cầu nối tốt nhất giữa các ngành sản xuất xã hội, thỏa mãn nhu cầu
thiết yếu của nhân dân. Đối với kinh tế vùng, lãnh thổ, Hồ Chí Minh lưu ý phải phát
triển cả kinh tể đô thị và kinh tế nông thôn. Người chú trọng chỉ đạo phát triển kinh tế
vùng núi, hải đảo, vừa tạo điều kiện không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống của
đồng bào, vừa bảo đảm an ninh, quốc phòng cho đất nước. Xuất phát từ đặc điểm và
điều kiện thực tiễn đất nước, Hồ Chí Minh là người đầu tiên chủ trương phát triển cơ
cấu kinh tế nhiều thành phần trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Người xác định rõ vị trí và xu hướng vận động của từng thành phần kinh tế. Nước ta
cần ưu tiên phát triển kinh tế quốc doanh để tạo nền tảng vật chất cho chủ nghĩa xã
hộỉ, thúc đẩy việc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Kinh tế hợp tác xã là hình thức sở hữu tập
thể của nhân dân lao động, Nhà nước cần đặc biệt khuyến khích, hướng dẫn và giúp
đỡ nó phát triển.
về tổ chức hợp tác xã, Hồ Chí Minh nhấn mạnh nguyên tắc dần dần, từ thấp đến
cao, tự nguyện, cùng có lợi, chống chủ quan, gị ép, hình thức. Đối với người làm
nghề thủ cơng và lao động riêng lẻ khác, Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản
xuất, ra sức hướng dẫn và giúp họ cải tiến cách làm ăn, khuyến khích họ đi vào con
đường hợp tác. Đối với những nhà tư sản cơng thương, vì họ đã tham gia ủng hộ cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân, có đóng góp nhất định trong khôi phục kinh tế và sẵn
sàng tiếp thu, cải tạo để góp phần xây dựng nước nhà, xây dựng chủ nghĩa xã hội, nên
Nhà nước khơng xóa bỏ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và của cải khác của họ, mà
hướng dẫn họ hoạt động làm lợi cho quốc kế dân sinh, phù hợp với kinh té nhà nước,
khuyển khích và giúp đỡ họ cải tạo theo chủ nghĩa xã hội bằng các hình thức tư bản
nhà nước.
Bên cạnh chể độ và quan hệ sở hữu, Hồ Chí Minh rất coi trọng quan hệ phân
phối và quản lý kinh tế. Quản lý kinh tế phải dựa trên cơ sở hạch toán, đem lại hiệu
quả cao, sử dụng tốt các đòn bẩy trong phát triển sản xuất. Người chủ trương và chỉ rõ

các điều kiện thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động: làm nhiều hưởng nhiều,
làm ít hưởng ít, khơng làm khơng hưởng. Gắn liền với nguyên tắc phân phối theo lao
động, Hồ Chí Minh bước đầu đề cập vấn đề khoán trong sản xuất: “Chế độ làm khoán
là một điều kiện của chủ nghĩa xã hội, nó khuyến khích người cơng nhân ln ln
tiến bộ, cho nhà máy tiến bộ. Làm khốn là ích chung và lại lợi riêng... làm khoán tốt
thích hợp và công bằng dưới chế độ ta hiện nay”
1.2.3 Về văn hóa- xã hội
Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến vấn đề xây dựng con người mới. Đặc biệt, Người
đề cao vai trị của văn hóa, giáo dục và khoa học kỹ thuật trong xã hội xằ hội chủ
nghĩa. Hồ Chí Minh cho rằng, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội nhất định phải có học
4


thức, cần phải học cả văn hóa, chính trị, kỹ thuật và chủ nghĩa xã hội cộng với khoa
học chắc chắn đưa lồi người đến hạnh phúc vơ tận. Hồ Chí Minh rất coi trọng việc
nâng cao dân trí, đào tạo và sử dụng nhân tài, khẳng định vai trò to lớn của văn hóa
trong đời sống xã hội.
1.3 Bước đi và các biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Hồ Chí Minh xác định rõ nhiệm vụ lịch sử, nội dung của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Người chỉ ra hình thức, bước đi, biện pháp tiến hành xây
dưng chủ nghĩa xã hội, biến nhận thức lý luận thành chương trình hành động, thành
hoạt động thực tiễn hằng ngày. Để xác định bước đi và tìm cách làm phù hợp với Việt
Nam, Hồ Chí Minh đề ra hai nguyên tắc có tính chất phương pháp luận:
Một là,xây dựng chủ nghĩa xã hội là một hiện tượng phổ biến mang tính quốc
tế, cần quán triệt các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về xây dựng chế độ
mới, có thể tham khảo, học tập kinh nghiệm của các nước anh em. Học tập những
kinh nghiệm của các nước tiên tiến, nhưng khơng được sao chép, máy móc, giáo đều.
Hồ Chí Minh cho rằng, Việt Nam có thể làm khác Liên Xơ, Trung Quốc và các nước
khác, vì Việt Nam có điều kiện cụ thể khác.
Hai là, xác định bước đi và biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội chủ yếu xuất

phát từ điều kiện thực tế, đặc điểm dân tộc, nhu cầu và khả năng thực tế của nhân dân.
Trong khi nhấn mạnh hai nguyên tắc trên đây, Hồ Chí Minh lưu ý vừa chống
việc xa rời các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, quá tuyệt đối hóa cái
riêng, những đặc điểm của dân tộc, vừa chống máy móc, giáo đều khi áp dụng các
nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin mà khơng tính đến những điều kiện lịch sử cụ thể
của đất nước và của thời đại.
Cùng với việc chỉ ra bước đi, Hồ Chí Minh đã gợi ý nhiều phương thức, biện
pháp tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trên thực tế, Người đã sử dụng một số
cách làm cụ thể sau đây:
- Thực hiện cải tạo xã hội cũ xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo với xây
dựng, lấy xây dựng làm chính.
- Kết hợp xây đặng và bảo vệ, đồng thời tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược ở
hai. miền Nam - Bắc khác nhau trong phạm vi một quốc gia.
- Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có kế hoạch, biện pháp, quyết tâm để thực
hiện thắng lợi kế hoạch.
- Trong điều kiện nước ta, biện pháp cơ bản, quyết định, lâu dài trong xây dựng
chủ nghĩa xã hội là đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hồ Chỉ Minh cho rằng, phải huy động hết tiềm năng,
nguồn lực có trong dân để đem lại lợi ích cho dân. Nói cách khác, phải biến sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội thành sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo. Vai trò
5


lãnh đạo của Đảng cầm quyền là tập hợp lực lượng, đề ra đường lối, chính sách để huy
động và khai thác triệt để các nguồn lực của dân, vì lợi ích của quần chúng lao động.
Mặc dù những quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam rất rõ ràng, cụ thể, nhưng do nhiều lý do khách
quan và chủ quan (hạn chế về kinh nghiệm, trình độ nhận thức lý luận; tiến hành xây
dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện chiến tranh...) nên công cuộc cải tạo kinh tế xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc (1954-1964); công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội (trong thời kỳ quá độ) ở các thời kỳ sau đó đã phạm phải nhiều hạn

chê, khuyết điểm, sai lầm. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng đã chỉ rõ:
“Chúng ta có khuyết điểm trong việc đánh giá tình hình cụ thể của đất nước, trong
việc xác định mục tiêu và bước đi của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội... chủ
quan nóng vội và bảo thủ trì trệ trong bố trí cơ cấu kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và
quản lý kinh tế, lại phạm những sai lầm mới, nghiêm trọng trong lĩnh vực phân phôi,
lưu thông, đã bng lỏng chun chính vơ sản toong quản lý kinh tế, xã hội, toong đấu
tranh tư tưởng, văn hóa, trong việc chống lại những âm mưu, thủ đoạn phá hoại thâm
độc của kẻ thù. Những sai lầm nói trên là sai lầm nghiêm trọng về chủ trương, chính
sách lớn, về chỉ đạo chiến lược và về tổ chức thực hiện... Khuynh hướng tư tưởng chủ
yếu của những sai lầm ấy, đặc biệt là những sai lầm về chính sách kinh tế, là bệnh chủ
quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội, là khuynh hướng
buông lỏng trong quản lý kinh tế, xã hội, không chấp hành nghiêm chỉnh đường lối và
nguyên tắc của Đảng. Đó là những biểu hiện của tư tưởng tiểu tư sản vừa “tả” khuynh,
vừa hữu khuynh...”
Từ nhận thức đến hành động, Đảng đã rút ra những bài học từ hạn chế, sai lầm,
khuyết điểm... để xác định quyết tâm chính trị, khắc phục sai lầm, xây dựng đường lối
đổi mới, lãnh đạo nhân dân ta giành được những thành ti.ru to lớn, có ý nghĩa lịch sử
trong cơng cuộc đổi mới.
1.4 Liên hệ thực tiễn:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam bao quát những vấn đề cốt lõi, cơ bản nhất, trên cơ sở vận dụng và
phát triển sáng tạo học thuyết Mác-Lênin. Đó là các luận điểm về đặc điểm, mục tiêu
và động lực của chủ nghĩa xã hội; về tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ; về
nhiệm vụ lịch sử, nội dung, các hình thức, bước đi và biện pháp phù hợp của thời kỳ
quá độ, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tư tưởng đó trở thành tài sản vô giá, cơ
sở lý luận và kim chỉ nam cho việc kiên tri, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của
Đảng, đồng thời gợi mở nhiều vấn đề về xác định hình thức, biện pháp và bước đi phù
hợp với những đặc điểm và xu thế vận động của thời đại ngày nay.
Trên cơ sở tổng kết lý luận - thực tiễn, quan điểm của Đảng về chủ nghĩa xã
hội; về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sát thực, cụ thể hóa, tiếp tục

đường lối đổi mới, kiên định theo con đường “độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”
6


nhận thức của Đảng Đảng, bên cạnh những thời cơ, vận hội, hiện nay đất nước đang
phải đối đâu với hàng loạt thách thức, khỏ khăn cả trên bình diện quốc tế cũng như từ
các điều kiện thực tể trong nước. Trong bối cảnh đó, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội được Đảng xác định trên những vấn
đề cơ bản cơ bản sau đây.
1.4.1 Kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
Hồ Chí Minh là người tìm ra con đường giải phóng dân tộc Việt Nam: Con
đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội là lý tưởng, đồng thời là mục tiêu cao cả của toàn Đảng, toàn dân ta. Trong điêu
kiện nước ta, độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội, sau khi giành được
độc lập dân tộc phải đi lên chủ nghĩa xã hội, vì đó là quy luật tiến hóa trong q trình
phát triển của xã hội lồi người. Do đó, về nhận thức lý luận và thực tiễn, cần khẳng
định ràng, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới đáp ứng được khát vọng của toàn dân tộc: Độc
lập cho dân tộc, dân chủ cho nhân dân, cơm no, áo ấm cho mọi người dân Việt Nam.
Dù đã đạt được những thành tựu quan trọng: “Tuy nhiên, chủ nghĩa tư bản vẫn
không thể khắc phục được những mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó. Các cuộc khủng
hoảng vẫn tiếp tục diễn ra... Và hôm nay, chúng ta lại chứng kiến cuộc khủng hoảng
nhiều mặt, cả về y tế, xã hội lẫn chính trị, kinh té đang diễn ra dưới tác động của đại
dịch Covid-19 và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thử tư. Kinh tế suy thoái đã làm
phơi bày sự thật của những bất công xã hội trong các xã hội tư bản chủ nghĩa: đời
sống của đa số dân cư lao động bị giảm sút nghiêm trọng, thất nghiệp gia tăng; khoảng
cách giàu - nghèo ngày càng lớn, làm trầm trọng thêm những mâu thuẫn, xung đột
giữa các sắc tộc. Những tình huống “phát triển xấu”, những nghịch lý “phản phát
triển”, từ địa hạt kinh tế " tài chính đã tràn sang lĩnh vực xã hội, làm bùng nổ các xung
đột xã hội, và ở khơng ít nơi từ tình huống kinh tế đã trở thành tình huống chính trị

với các làn sóng biểu tình, bãi cơng, làm rung chuyển cả thể chế. Sự thật cho thấy, bản
thân thị trường tự do cúa chủ nghĩa tư bản không thể giúp giải quyết được những khó
khăn, và trong nhiều trường hợp cịn gây ra những tổn hại nghiêm trọng cho các nước
nghèo; làm sâu sắc thêm mâu thuẫn giữa lao động và tư bản tồn cầu. Sự thật đó cũng
làm phá sản nhũng lý thuyết kinh tế hay mơ hình phát triển vốn xưa nay được coi là
thời thượng, được khơng ít các chính khách tư sản ca ngợi, được các chuyên gia của
họ coi là tối ưu, hợp lý” .
Từ thực tiễn đó, nhìn nhận trên binh diện thế giới và thực tiễn cách mạng Việt
Nam, quan điểm của Đảng là: “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là
thực sự vì con người, chứ khơng phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá
con người.

7


1.4.2 Kiên định đường lối đổi mới của Đảng, khơi dậy khát vọng phát triển
đất nước phồn vinh, hạnh phúc và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn
dân tộc, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
Chủ trương của Đảng phải tiếp tục nâng cao nhận thức và hoàn thiện, đồng bộ
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: “Nâng cao chất lượng, hiệu quả
quản trị quốc gia, xây dựng và thực thi pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch”;
“Tiếp tục hoàn thiện thể chế, phát triển đầy đủ, đồng bộ các yếu tố thị trường, các loại
thị trường”; “Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; nâng cao hiệu quả hội nhập kinh
tế quốc tế” . Đảng nhấn mạnh, thực hiện kinh tế thị trường, phải tận dụng các mặt tích
cực của nó, đồng thời phải biết cách ngăn chặn, phòng tránh các mặt tiêu cực, bảo
đảm nhịp độ phát triển nhanh, bền vững trên tất cả mọi mặt đời sống xã hội: kinh tế,
chính trị, xã hội, văn hóa, mơi trường; khơng vì phát triển, tăng trường kinh tế bằng
mọi giá mà làm phương hại các mặt khác của cuộc sống con người, vấn đề đặt ra là
trong quá trình phát triển, phải giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, biết cách sử
dụng các thành tựu của loài người phục vụ cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội,

nhất là thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư
(cách mạng 4.0), làm cho tăng trưởng kinh tế luôn đi liền với sự tiến bộ, công bằng xã
hội, sự trong sạch, lành mạnh về đạo đức, văn hóa tinh thần.
Qn triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, sức mạnh của nhân dân là sức mạnh vô địch;
nguồn lực của nhân dân, của con người Việt Nam bao gồm trí tuệ, tài năng, sức lao
động, của cải là vô cùng to lớn. Để phát huy tốt sức mạnh của toàn dân tộc nhằm xây
dựng và phát triển đất nước, cần giải quyết tổt các vấn đề sau:
"Tin dân, trọng dân, dựa vào dân, chăm lo đời sống của nhân dân, xác lập quyền
làm chủ của nhân dân trên thực tế, làm cho chế độ dân chủ được thực hiện trong mọi
lĩnh vực hoạt động của con người, nhất là ở địa phương, cơ sở, làm cho dân chủ thật
sự trở thành động lực của sự phát triển xã hội. Chăm lo mọi mặt đời sông của nhân
dân để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
- Thực hiện nhất quán chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh, trên cơ
sở lấy liên minh cơng - nơng - trí thức làm nịng cốt, tạo nên sự đồng thuận xã hội
vững chắc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
1.4.3 Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải biết tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận lợi,
tận dụng tối đa sức mạnh của thời đại. Ngày nay, sức mạnh của thời đại tập trung ở
cuộc cách mạng khoa học, công nghệ, xu thế tồn cầu hóa. Chúng ta cần ra sức tranh
thủ tối đa các cơ hội do xu thế đó tạo ra để nâng cao hiệu quả họp tác quốc tế; phải có
cơ chế, chính sách đứng để thu hút vốn đầu tư, kinh nghiệm quản lý và công nghệ
hiện đại, thực hiện kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại theo tư tưởng Hồ
Chí Minh.
8


Cách đây hơn nửa thế kỷ, Hồ Chí Minh nêu rổ, sức mạnh thời đại còn là những
thành tựu của khoa học công nghệ và sức mạnh của các lực lượng u chuộng hịa
bình trên thế giới, của tình đồn kết quốc tế vô sản vô tư trong sáng... Đê có thể kết
họp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, Hồ Chí Minh yêu cầu phải tuyên truyền,

giáo dục chủ nghĩa yêu nước chân chính kết hợp với chủ nghĩa quốc tế trong sáng cho
giai cấp công nhân và nhân dân lao động nước mình. Người phân tích: “Tinh thần yêu
nước là kiên quyết giữ gìn quyền độc lập, tự do và đất đai toàn vẹn của nước mình.
Tinh thần quốc tế là đồn kết với các nước bạn và nhân dân các nước khác để giữ gìn
hịa bình thế giới, chống chính sách xâm lược và chính sách chiến tranh của đế quốc...
Tinh thần yêu nước và tinh thần quốc tế liên hệ khăng khít với nhau” . Tuy nhiên,
Người chỉ rỗ, kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ sự ủng hộ của các lực lượng
quốc tế không phải là thụ động ngồi chờ, mà phải có tinh thần chủ động, dựa vào sức
mình là chính, tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, sự ủng hộ
của nhân dân tiến bộ trên thế giới, đồng thời không quên nghĩa vụ quốc tế của mình,
tư tưởng của Người đến nay vẫn vẹn nguyên giá trị lỷ luận và thực tiễn.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn hiện nay, Đảng chỉ rõ, trên tinh
thần chủ động, tích cực hội nhập, phải phát huy nội lực là yếu tố quyết định gắn với
ngoại lực và sức mạnh thời đại; đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động nâng cao
nhận thức, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc, lấy giá trị văn hóa, con người Việt
Nam là nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng; phát huy tinh thần cống hiến vì đất
nước của tất cả các tầng lớp nhân dân; coi đó là một nguồn lực to lớn, mạnh mẽ của sự
nghiệp phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
1.4.4 Chăm lo xây đựng Đảng vững mạnh, làm trong sạch bộ máy nhà
nước, đẩy mạnh đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, thực hiện cần,
kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư
Thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phát huy quyền làm
chủ của nhân dân cần đến vai trò lãnh đạo của một đảng cách mạng chân chính, một
nhà nước kiến tạo, liêm chính, hành động thật sự của dân, do dân và vì dân. Muốn vậy
phải:
- Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền, thật sự là một đảng “đạo đức,
văn minh”; cán bộ, đảng viên gắn bó máu thịt với nhân dân, vừa là người hướng dẫn,
lãnh đạo nhân dân, vừa hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, gương mẫu trong mọi việc.
- Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mạnh mẽ, sáng suốt của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; thực hiện cải cách nền hành chính quốc gia một

cách đồng bộ để phục vụ đời sống nhân dân.
- Bằng các giải pháp thiết thực, cụ thể, hình thành một đội ngũ cán bộ liêm
khiết, tận trung với nước, tận hiếu với dân; kiên quyết đưa ra khỏi bộ máy chính
quyền những “ơng quan cách mạng”, lạm. dụng quyền lực của dân để mưu cầu lợi ích
9


riêng; phát huy vai trò của nhân dân trohg cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham
nhũng, lãng phí, giữ vững sự ổn định chính trị - xã hội của đất nước.
- Giáo dục mọi tầng lớp nhân dân ý thức biết cách làm giàu cho đất nước, hăng
hái đẩy mạnh tăng gia sản xuất kình doanh gắn liền với tiết kiệm để xây dựng nước
nhà. Trong điều kiện đất nước còn nghèo, tiết kiệm phải trở thành quốc sảch, thành
một chính sách kinh tế lớn và cũng là một chuẩn mực đạo đức, một hành vi vãn hóa
như Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Một dân tộc biết cần, biểt kiệm” là một dân tộc vãn
minh, tiến bộ; dân tộc đó chắc chắn sẽ thắng được nghèo nàn, lạc hậu, ngày càng giàu
có về vật chất, cao đẹp về tinh thần.
III. KẾT LUẬN
Ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đã xuất hiện những
điều kiện thuận lợi và cả những vấn đề mới, thách thức mới. Vấn đề cốt lõi là các cấp
ủy đảng, mọi cán bộ, đảng viên phải nắm vững tư tưởng chỉ đạo, sợi chỉ đỏ xuyên suốt
trong tư tưởng Hồ Chí Minh là: bất kỳ việc gì cũng vì hạnh phúc nhân dân. Cuộc vận
động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” do Đảng ta phát động là
đợt sinh hoạt chính trị lớn có nhiều ý nghĩa quan trọng, trong đó việc quán triệt về
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, nghiên cứu tư tưởng, đạo đức, tác phong
và những lời dạy của Người về đạo đức cách mạng của người đảng viên càng có ý
nghĩa thiết thực.
Tóm lại. Đối với cán bộ đảng viên tư tưởng của Bác vừa là hệ thống lý luận gắn
liền với thực tiễn dễ đi vào lòng người, rất dễ nhớ, dễ làm đồng thời còn là những lời
dạy bảo thân thương, chân tình mà mỗi người đều thấm nhuần. Vì vậy, trong thời kỳ
kinh tế thị trường như hiện nay, mỗi cán bộ đảng cần phải nghiên cứu vận dụng đạo

đức cách mạng vào từng vị trí cơng tác của mình một cách thường xun liên tục để
hồn thành tốt nhất nhiệm vụ được giao, đó chính là thể hiện tinh thần trách nhiệm đối
với nghề nghiệp, thực hiện lời dạy bảo đồng thời cũng là mệnh lệnh thiêng liêng xuất
phát từ trái tim, từ tấm lịng tơn kính đối với Bác Hồ, vị Cha già mn vàn kính yêu
của dân tộc Việt Nam.

10



×