Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đảng về đạo đức và yêu cầu đặt ra trong giai đoạn hiện nay, trách nhiệm bản thân đồng chí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (347.71 KB, 11 trang )

Chủ đề:
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG VỀ
ĐẠO ĐỨC VÀ YÊU CẦU ĐẶT RA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN
NAY, TRÁCH NHIỆM BẢN THÂN ĐỒNG CHÍ
BÀI LÀM

Hồ Chí Minh là một trong những nhà tư tưởng, những lãnh tụ cách mạng
đã bàn nhiều nhất đến vấn đề đạo đức Người không để lại những tác phẩm đạo
đức lớn. Những tư tưởng lớn của Người về đạo đức đã nằm trong những bài viết,
bài nói ngắn gọn, được diễn đạt rất cô đọng, hàm súc theo phong cách phương
Đông, rất quen thuộc với con người Việt Nam. Bản thân Người lại thực hiện
trước nhất những tư tưởng ấy, nhiều hơn cả những điều Người đã nói, đã viết về
đạo đức Người vừa là một nhà đạo đức học lớn, lại vừa là tấm gương đạo đức
trong sáng nhất, tiêu biểu nhất đã được thế giới thừa nhận.
Vì vậy tìm hiểu Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đảng về đạo đức
không phải chỉ thông qua những tác phẩm của Người về đạo đức, mà quan trọng
hơn phải thông qua chính hành vi được thể hiện trong tồn bộ hoạt động thực
tiễn của Người, thông qua mẫu mực đạo đức trong sáng mà Người đã để lại cho
Đảng, cho dân tộc, cho nhân loại. Sự thống nhất giữa tư tưởng và hành vi, động
cơ và hiệu quả, giữa lý luận và thực tiễn đã trở thành một đặc trưng nổi bật của
Hồ Chí Minh, đặc trưng này đã làm cho Hồ Chí Minh phân biệt với rất nhiều
nhà tư tưởng, nhiều lãnh tụ cách mạng khác từ trước đến nay.
I. NGUỒN GỐC, BẢN CHẤT, ĐẶC ĐIỀM TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ
CHÍ MINH
1. Nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức: là sự kết hợp những giá trị đạo đức tốt
đẹp của dân tộc với tinh hoa đạo đức nhân loại; truyền thống với hiện đại;
phương Đơng phương Tây, được hình thành và phát triển từ yêu cầu của sự
1



nghiệp giải phóng dân tộc. Đạo đức học Mác-Lênin đem đến cho tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh bản chất khoa học, cách mạng và nhân văn, tạo nên một cuộc
cách mạng trong quan niệm về đạo đức.
Một trong những nhân tổ ảnh hưởng đến sự hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức là đạo đức Nho giáo. Ngoài ảnh hưởng của tư tường đạo đức
Nho giáo, tư tường Hồ Chí Minh cịn chứa đựng những giá trị đạo đức Phật giáo
như đại từ, đại bi, cứu khổ, cứu nạn, yêu thương con người, hướng thiện... Cống
hiến to lớn của Hồ Chí Minh là đã nêu cao vai trò của đạo đức, làm một cuộc
cách mạng về đạo đức. Tư tưởng đạo đức của Người là thống nhất giữa nhận
thức với hành động, nói đi đơi với làm, lý luận gắn liền với thực tiễn, đạo đức
với cuộc sống.
2. Bản chất, đặc điểm tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức mang bản chất cách mạng và nhân văn
của giai cấp cơng nhân. Đó là đạo đức mới, khác hẳn về bản chất với đạo đức
cũ, đạo đức phong kiến. Hồ Chí Minh đã làm một cuộc cách mạng trên lĩnh vực
đạo đức với ý nghĩa là đạo đức phục vụ cách mạng, phục vụ Tổ quốc, phục vụ
nhân dân.
- Tư tưởng Hồ Chỉ Minh về đạo đức thể hiện sự thống nhất giữa chính trị
với đạo đức.
- Tư tưởng Hồ Chí Mình về đạo đức là sự thống nhất giữa tư tưởng và
hành động, lý luận và thực tiễn, nói và làm.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức thống nhất giữa đức với tài.
- Tư tưởng Hồ Chỉ Minh về đạo đức thống nhất giữa đạo đức cách mạng
và đạo đức đời thường
- Tư tưởng Hồ Chỉ Minh về đạo đức là sự thống nhất giữa giáo dục cảm
hóa với thượng tơn, tn thủ pháp luật,
- Tư tưởng Hồ Chỉ Minh về đạo đức rất toàn điện. Hồ Chí Minh bàn đến
việc rèn luyện, tu dưỡng, xây dựng đạo đức trong mọi mơi trường như gia đình,
cơng sở, xã hội, đội ngũ cán bộ, công chức trong công sở, ở mọi lứa tuổi, mọi
giai tầng xã hội từ nhi đồng, thiếu nhi, thanh niên, phụ nữ đến các bậc phụ

2


huynh; đạo đức ở mọi công việc, nghề nghiệp như công an, bộ đội, giáo viên,
ngành y.
II. NỘI DUNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC
1. Vai trị vị trí của đạo đức cách mạng
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng giữ một vai trò hết sức quan
trọng. Nó là động lực giúp chúng ta vượt qua khó khăn cũng như khi cách mạng
thắng lợi. Nhờ có đạo đức mà “thắng không kiêu, bại không nản”, luôn giữ được
thái độ chất phác, khiêm tốn, giản dị, hịa mình với nhân dân. Nhờ có đạo đức
cách mạng mà những người cách mạng vượt qua được cú sốc “kiêu ngạo cộng
sản”.
Đạo đức cách mạng cũng chính là tiêu chí, thước đo lòng cao thượng của
mỗi con người.
Đạo đức cách mạng càng cần thiết đối với người cách mạng, người cán
bộ, đảng viên.
Theo quan điểm Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng tạo nên sức hấp dẫn
của chủ nghĩa xã hội. Bởi vì, chủ nghĩa xã hội khơng chỉ đạt được các mục tiêu
về kinh tế, chính trị, mà cịn phải thấm nhuần sâu sắc các giá trị về xã hội, văn
hóa, đạo đức, nhân văn.
2. Những phẩm chất đạo đức cơ bản
Hồ Chí Minh có nhiều cách giải thích về đạo đức cách mạng. Trong tác
phẩm Đạo đức cách mạng (1958), Người viết, nói tóm tắt, thì đạo đức cách
mạng là quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Ra sức làm việc
cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện tốt đường lối, chính sách của
Đảng. Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích
của cá nhân mình. Hết lịng hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu
tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc. Đạo đức cách mạng là tuyệt đối
trung thành với Đảng, với nhân dân. Đạo đức cách mạng là hịa mình với quần

chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của
quần chúng.
Bốn phẩm chất đạo đức cơ bản.
3


(1).Trung với nươc, hiếu với dân: Trung với nước, hiếu với dân là phẩm
chất đạo đức giải quyết mối quan hệ giữa cá nhân với Đảng, Tổ quốc và nhân
dân. “Trung với nước, hiếu với dân” là mối quan hệ với đất nước với dân tộc,
thể hiện trách nhiệm với sự nghiệp dựng nước, giữ nước và sự phát triển của đất
nước.
(2).Cần, kiệm, liêm, chinh, chi công vô tư: Cần, kiệm, liêm, chính là phẩm
chất đạo đức giải quyết mổi quan hệ “với mình”. Hồ Chí Minh cho rằng cần,
kiệm, liêm, chính là bốn đức tính cần có của con người, một lẽ tự nhiên như bốn
mùa của trời, bốn phương của đất. Nó là thước đo phẩm chất người của mỗi
người, vì “thiếu một đức thì khơng thành người”, cần, kiệm liêm, chính đặc biệt
cần thiết đối với cán bộ, đảng viên vì họ là những người có quyền, nếu thiểu
lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút.
(3). Yêu thương con người: Đây là phẩm chất đạo đức giải quyết mối quan
hệ với người khác. Kết hợp nghiên cứu lý luận với những trải nghiệm, Hồ Chí
Minh cho rằng trên đời này chỉ có hai loại người: áp bức và bị áp bức, người ác
và người thiện và hai thứ việc: việc chính và việc tà. Những người làm việc
chính là người thiện, làm việc tà là người ác. Thương yêu, quý trọng con người
trong tư tưởng Hồ Chí Minh ln đứng vững trên lập trường của giai cấp công
nhân, biến thành hành động cụ thể, tức là tình thương yêu con người dành cho
con người đang sống thực trên đời này, bị áp bức, đói nghèo, bệnh tật.
(4). Tinh thần quốc tế trong sang
3. Những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới
Thứ nhất, tu dưỡng đạo đức suốt đời: Theo Hồ Chí Minh, mỗi người phải
tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức hằng ngày, bền bỉ suốt đời. Để có đạo đức

cách mạng, thì việc tu dưỡng phải gắn với đời sống thực tế và thực hiện nhiệm
vụ cách mạng. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa
xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố.
Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Đạo đức cách
mạng nhằm giải phóng con người (thốt khỏi các quan niệm, giá trị đạo đức cũ),
đó là đạo đức của những con người được giải phóng. Vì vậy, sự tu dưỡng phải
4


xuất phát từ lưong tâm của mỗi người, hướng đến mục tiêu phụng sự Tổ quốc,
phục vụ nhân dân. Không vượt qua được chính mình, khơng chiến thắng được
“giặc trong lịng” thì khơng thể có đạo đức cách mạng.
Thứ hai, nêu gương đạo đức: Nêu gương đạo đức, nói thỉ phải làm, nói đi
đơi với làm. Đạo làm gương là một nét đẹp của văn hóa phương Đơng. Khi ca
ngợi đạo đức của Lênin, Hồ Chí Minh cho rằng: Đối với các dân tộc phương
Đơng, một tấm gương sống cịn có giá trị hơn một trãm bài diễn viên tuyên
truyền. Theo quan điểm Hồ Chí Minh, lý luận phải gắn với thực tiễn nhưng điều
quan trọng nhất về mặt đạo đức là lấy hiệu quả làm thước đo. Người chỉ rõ:
“trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta
được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách đạo đức”.
Làm gương ở nhiều môi trường và cấp độ khác nhau. Nhân dân ta thường nói
“đảng viên đi trước, làng nước theo sau”. Trong mọi biểu hiện làm gương thì
người đứng đầu, cán bộ chủ chốt giữ một vai trò rất quan trọng. Muốn hướng
dẫn cấp dưới và nhân dân thì mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước.
Thứ ba, xây đi đôi với chống: Nguyên tắc này xuất phát từ nhận thức khoa
học, đảng viên và cán bộ cũng là người. Ai cũng có tính tốt và tính xấu. Trong
Đảng và mỗi con người, vì những lý do khác nhau, “không phải người người
đều tốt, việc việc đều hay”. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đảng ta khơng phải trên trời
sa xuống. Nó ở trong xã hội mà ra. Trong cuộc đấu tranh cách mạng, thường
xuyên có ba kẻ địch chống phá là: bọn đế quốc là kẻ địch rất nguy hiểm; thói

quen và truyền thống lạc hậu cũng là kẻ địch to; loại địch thứ ba là chủ nghĩa cá
nhân.
Chống và xây đi liền với nhau. Lấy gương người tốt việc tốt hàng ngày
giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng
các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới. Trong mối
quan hệ giữa chống và xây, cần nhận thức chống cũng nhằm xây, đi liền với xây
nhưng xây là nhiệm vụ chủ yếu và lâu dài để kiến tạo một nền đạo đức mới ở
Việt Nam, xây dựng một xã hội mới với những con người có đạo đức.
III. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG
5


TÌNH HÌNH HIỆN NAY.
1. Thực trạng suy thối đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ
đảng viên và nguyên nhân.
Thời gian qua, bằng nhiều giải pháp (tuyên truyền, giáo dục, triển khai
các cuộc vận động học tập và làm theo tư tưởng đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh trong tồn Đảng và tồn xã hội...), tình trạng đạo đức, lối sống của cán bộ,
đảng viên đã có sự chuyển biến tích cực, từng bước ngăn chặn và đẩy lùi tiêu
cực, suy thối trong Đảng và xã hội; góp phần xiét lại kỷ luật, kỷ cương trong
Đảng.
Tuy nhiên, như Đảng nhận định: “Công tác rèn luyện, quản lý đảng viên ở
một số nơi chưa được quan tâm đúng mức, cịn thiếu chặt chẽ; có nơi cịn bng
lỏng sinh hoạt đảng, chất lượng sinh hoạt chưa cao, sinh hoạt chi bộ ở nhiều nơi
vẫn cịn hình thức; tính chiến đấu trong tự phê bình và phê bình cịn yếu. Một số
tổ chức cơ sở đảng, một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức chưa
gương mẫu... Một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí,
ngại khó, ngại khổ, suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa”. Tình trạng tham nhũng, lãng phí vẫn cịn nghiêm trọng
với những biểu hiện ngày càng tinh vi, phức tạp, gây bức xúc trong dư luận, ảnh

hưởng đến niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Tình trạng suy
thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên chưa bị đẩy lùi; có mặt, có bộ phận diễn biến còn phức tạp. Việc học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh chưa đều, chưa đi vảo chiều
sâu ở nhiều ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị; một số nơi thực hiện cịn mang
tính hình thức, làm giảm lòng tin của cán bộ, đảng viên, nhân dân đối với Đảng,
Nhà nước và chế độ.
Nguyên nhân
Nguyên nhân khách quan: là do tác động từ khủng hoảng của chủ nghĩa
xã hội trên thế giới sau sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở
Đông Âu; từ mặt trái của kinh tế thị trường; nhiều vấn đề mới phức tạp phát sinh
từ thực tiễn nhưng chưa được lý giải và xử lý kịp thời, hiệu quả; các thế lực thù
6


địch, phản động đẩy mạnh thực hiện chiến lược “diễn biến hịa bình”.
Ngun nhân chủ quan là do bản thân cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng,
rèn luyện; lập trường tư tưởng không vững vàng; sa vảo chủ nghĩa cá nhân, bị
cám dỗ danh lợi.
Cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên về chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chưa được coi trọng đúng mức, kém hiệu
quả. Sinh hoạt đảng cịn hình thức. Cơng tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý
luận chưa có chiều sâu. Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý, trong đó có cả cán bộ
cấp cao thiếu tiên phong, gương mẫu. Việc xử lý cán bộ, đảng viên vi phạm còn
nương nhẹ, nể nang, thiếu cương quyết. Cơ chế, kiểm sốt quyền lực chậm được
hồn thiện, cịn nhiều sơ hở. Thiếu cơ chế để xử lý, thay thế kịp thời những cán
bộ lãnh đạo, quản lý yếu về năng lực, giảm sút uy tín. Việc thực hiện kỷ cương,
kỷ luật của Đảng chưa nghiêm, cịn có biểu hiện “nhẹ trên, nặng dưới”. Cơng tác
thanh tra, kiểm tốn, điều tra, truy tố, xét xử chưa chặt chẽ, xử lý chưa đủ
nghiêm minh. Cơng tác đấu tranh phịng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt

yêu cầu; việc kê khai tài sản, thu nhập cịn hình thức. Việc phát huy vai trị của
Mặt trận Tổ quốc, các đồn thể chính trị xã hội, các cơ quan truyền thông và
nhân dân trong đấu tranh ngăn chặn suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong cán bộ, đảng viên cịn hạn chế, hiệu quả chưa cao.
Đảng đã nhận thức sâu sắc nguy cơ, thực chất, mức độ nghiêm trọng của
tình hình và chỉ rõ: “Cơng tác cán bộ cịn có mặt hạn chế, việc thực hiện một số
nội dung trong các khâu của công tác cán bộ ở một số nơi cịn hình thức. Tình
trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, chủ nghĩa cá nhân, “lợi
ích nhóm”, bệnh lãng phí, vơ cảm, bệnh thành tích ở một bộ phận cán bộ, đảng
viên chưa bị đẩy lùi.
Những hạn chế, khuyết điểm trên đây địi hỏi tồn Đảng phải nghiêm túc
nhìn nhận, nỗ lực phấn đấu để khắc phục, tiếp tục lãnh đạo đất nước phát triển
nhanh, bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa” Quan điểm chỉ đạo của
Đảng là kiên quyết, kiên trì thực hiện với quyết tâm chỉnh trị cao, nỗ lực lởn
nhằm khắc phục những biểu hiện tiêu cực, suy thối về tư tưởng chính trị, đạo
7


đức lối sống trong cán bộ, đảng viên; Kiên quyết khắc phục những yếu kém
trong công tác cán bộ và quản lý cán bộ; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên,
nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp có bản lĩnh chính trị vững vàng,
có đạo đức, trách nhiệm, năng lực và động cơ đúng đắn, thực sự tiên phong,
gương mẫu, ln đặt lợi ích của tập thể, quốc gia, dân tộc lên trên lợi ích cá
nhân. Xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm người đứng đầu. Kết hợp “xây” và
“chống”; “xây” là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài; “chống” là nhiệm vụ
quan trọng, cấp bách. Thực hiện quyết liệt, đồng bộ các giải pháp, giải quyết
những vụ việc gây bức xúc trong dư luận, để củng cố niềm tin của nhân dân đối
với Đảng.
3. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức trong tình hình hiện
nay.

Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là giải
pháp quan trọng nhất trong việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức đối
với các tổ chức đảng, các cấp chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội, địa
phương, đơn vị và mỗi cá nhân trong tình hình hiện nay. Để rèn luyện, tu dưỡng
đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cần tập trung vào một số nội
dung chính sau đây:
Thứ nhất, thực hiện chuẩn mực đạo đức “Trung vói nước, hiếu với dân
Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp của tồn dân tộc, của cả hệ thống
chính trị, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, kiên
quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội
chủ nghĩa; bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa,
bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ nền văn hóa dân tộc; giữ vững mơi
trường hịa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự an tồn xã hội.
Ln tơn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; hết lòng, hết sức
phục vụ nhân, giải quyết kịp thời những nguyện vọng chính đáng của dân; khắc
phục thói vơ cảm trước những khó khăn, bức xúc của nhân dân, chống bệnh
quan liêu.
8


Thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và
làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Cụ thể, học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, chúng ta phải luôn ghi nhớ và
làm theo lời dạy của Người về sức mạnh vô địch của nhân dân, “cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng; phải “lấy dân làm gốc”.
Khơi dậy tinh thần, nghị lực, ý chí và khát vọng vươn lên, quyết tâm vượt
qua nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc, sớm đưa nước
ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Ln có ý thức giữ gìn sự đồn kết trong Đảng, đoàn kết dân tộc, trong cơ

quan, đơn vị. Có tinh thần trách nhiệm cao đối với cơng việc; có lương tâm
nghề-nghiệp trong sáng, ra sức cống hiển nhiều nhất cho đất nước. Giải quyết
đúng đắn mối quan hệ cá nhân " gia đình - tập thể “xã hội; quan hệ giữa nghĩa
vụ và quyền lợi, với tinh thần phấn đấu hy sinh cho lợi ích chung, việc gì lợi cho
dân thì quyết chí làm, việc gì hại cho dân thì phải hết sửc tránh; phải đặt lợi ích
của Tổ quốc và nhân dân lên trên, lên trước lợi ích cá nhân.
Thứ hai, thực hiện đúng lời dạy “Cần kỉệm liêm chính, chí cơng, vơ tư”,
nêu cao phẩm giá con người Việt Nam trong thời kỳ mới
Tích cực công tác, lao động sáng tạo, năng suất cao, chất lượng, hiệu quả;
biết quý trọng công sức lao động và tài sản của tập thể, của nhân dân. Đẩy mạnh
việc học tập với thái độ khiêm tốn, cầu thị.
Phải biết làm người công bộc tận tụy, trung thành của nhân dân, “lo trước
thiên hạ, vui sau thiên hạ”, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí,
chủ nghĩa cá nhân, lối sống cơ hội, thực dụng, bè phái, “lợi ích nhóm”. Đối với
cán bộ lãnh đạo, quản lý, đảng viên phải loại bỏ thói tham vọng chức quyền, “tư
duy nhiệm kỳ”, chạy theo danh lợi, địa vị, quyền hành, lạm dụng quyền hạn,
chức vụ để chiêm đoạt của công, đục khoét của Nhà nước và nhân dân, thu vén
cho gia đình, cá nhân, cục bộ, địa phương chủ nghĩa.
Kiên quyết chống bệnh lười biếng, lối sống buông thả, hưởng thụ, vị kỷ,
nói khơng đi đơi với làm, nói nhiều làm ít. Phải rèn luyện đời tư chính trực,
trong sáng, không tự kiêu, tự đại; khơng nịnh hót người trên, khơng xem khinh
9


người dưới; phải để công việc nước lên trên, lên trước việc tư, việc nhà; “dĩ
cơng vi thượng”.
Phải đặt mình trong tổ chức, trong tập thể, tôn trọng kỷ cương, kỷ luật,
nguyên tắc tổ chức của Đảng, thực hiện đúng đường lối, chính sách, pháp luật
của Nhà nước.
Thứ ba, thực hiện chủ nghĩa nhân vãn, sống có nghĩa có tình

Phải thật sự có tình thương u đồng bào, những người lao động bình
thường, những người nghèo khổ, có hồn cảnh khó khăn, “những người chịu
đựng cái kết quả của sự lãnh đạo của ta”. Yêu thương phải biển thành hành
động, phát huy năng lực, trí tuệ, sáng tạo của con người và vì con người, làm
cho ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành, chữa bệnh, có chỗ ở.
Phải tin vào nhân dân, coi “dân là gốc” với nhận thức có lực lượng dân
chúng, việc to mấy, khó khăn mấy làm cũng được. Khơng có thi việc gì ỉàm
cũng khơng xong.
Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau, giúp nhau tiến bộ. Sống với
nhau phải có nghĩa có tình thì mới gọi là hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin. Muốn vậy,
phải tự phê bình và phê bình chân thành, thường xuyên, nghiêm chỉnh giúp nhau
sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm để không ngừng tiến bộ.
Giữ vững tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung. Trên cơ sở bảo đảm
lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật
pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi, vừa hợp tác vừa đấu tranh, thực hiện
nhất quán đường lối đổi ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hợp tác và phát triển; đa
dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên có trách nhiệm của cộng
đồng quốc tế.
Tóm lại. trên cơ sở kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác-Lênin, to tưởng Hồ Chí Minh phải: “Thực hiện những giải pháp đột phá
nhằm ngăn chặn có hiệu quả sự xuống cấp về đạo đức, lối sống, đẩy lùi tiêu cực
xã hội và các tệ nạn xã hội”. Tập trung “nghiên cứu, bổ sung hoàn thiện các giá
trị đạo đức cách mạng theo tinh thần “Đảng ta là đạo đức, là văn minh- cho phù10


hợp -với điều kiện mới và truyền thong văn hóa tốt đẹp của dân tộc... Đẩy mạnh
giáo dục đạo đức cách mạng, làm cho mỗi cán bộ, đảng viên thấy rõ bổn phận và
trách nhiệm của mình, ln vững vàng trước khó khăn, thách thức và khơng bị
cám dỗ bởi vật chất, tiền tài, danh vọng. Nâng cao ý thức tu dưỡng, rèn luyện và

thực hành đạo đức cách mạng. Tăng cường đấu tranh chống các quan điểm,
hành vi phản đạo đức, phi đạo đức.
Qua nghiên cứu, học tập về Tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, nội dung
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức. Các q thầy, cơ học viện đã hướng dẫn
phương pháp nghiên cứu khoa học luận giải, phân tích và truyền đạt cho học
viên lớp hồn chỉnh cao cấp lý luận chính trị K15-C01 rất nhiều kiến thức về lý
luận và thực tiễn, giá trị to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng về
đạo đức. Là một đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam và là một cán bộ, công
chức nhà nước.Tôi luôn kiên định với Chủ nghĩa Mác – LêNin – Tư tưởng Hồ
Chí Minh; chấp hành nghiêm chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, quy định của
Đảng, chính sách pháp luật Nhà nước. Trước hết chấp hành nghiêm các nội
dung Kết luận số 01-KL/TW ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực
hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị khóa XII về đẩy
mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, gắn với
thực hiện Kế hoạch thực hiện chuyên đề hằng năm của chi bộ cụ thể hoá ban hành
kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 04-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương
khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn
biến”,“tự chuyển hóa” trong nội bộ’’; theo chức năng, nhiệm vụ và tình hình thực
tế của cơ quan, đơn vị; Quy định số 37-QĐ/TW ngày 25/10/2021 của Ban Chấp
hành Trung ương về Những điều dảng viên không được làm. Tham gia tổ chức
thực hiện và vận động nhân dân địa phương thực hiện tốt chủ trương tái cơ cấu
ngành nơng nghiệp của tỉnh ĐồngTháp; tích cực thực hiện mơ hình chung sức
xây dựng nơng thơn mới, đơ thị văn minh; thường xuyên phê bình, đấu tranh,
xây dựng chi bộ cơ quan ngày càng trong sạch vũng mạnh./.
11




×