Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội trong sự nghiệp đổi mới hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (304.62 KB, 10 trang )

CHỦ ĐỀ
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội trong sự nghiệp
đổi mới hiện nay
BÀI LÀM
PHẦN MỞ ĐẦU
Với lập trường kiên định, bản lĩnh vững vàng, quyết tâm cao, nỗ lực lớn và
sự đồng sức, đồng lịng của tồn Đảng, toàn quân và toàn dân, con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã ngày càng rõ nét hơn, sự nghiệp đổi mới và phát
triển ở Việt Nam cũng ngày càng đạt được những thành tựu to lớn hơn. Tại Đại
hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng một lần nữa đã khẳng định: “Qua
35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được
hồn thiện và từng bước được hiện thực hóa. Chúng ta đã đạt được những thành
tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những
năm trước đổi mới. Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất
nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày
nay. Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả
một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn
Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; đường lối đổi mới của Đảng ta là
đúng đắn, sáng tạo; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu, quyết định mọi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh chính trị của Đảng tiếp tục là
ngọn cờ tư tưởng, lý luận dẫn nhất dân tộc ta vững vàng tiếp tục đẩy mạnh toàn
diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; là nền tảng để Đảng ta hoàn thiện đường lối
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới”.
Để tiếp tục kiên định con đường đã chọn, thiết thực đưa Nghị quyết Đại hội
lần thứ XIII của Đảng vào cuộc sống, mỗi cán bộ, đảng viên đã tầng lớp nhân
dân cần trang bị lý luận chính trị về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ


nghĩa xã hội ở Việt Nam theo lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Trong phạm vi bài thu hoạch với chủ đề “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng chủ nghĩa xã hội trong sự nghiệp đổi mới hiện nay”, bản thân mong muốn
được góp phần vào việc phản bác những quan điểm sai lầm, phiến diện, thù địch
về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đồng thời, khẳng định sự lựa


2
chọn của Đảng ta về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là hoàn toàn
đúng đắn, vừa đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân, vừa phù hợp với
quy luật khách quan.
PHẦN NỘI DUNG
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Hồ Chí Minh bày tỏ quan điểm của mình về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
khơng chỉ trong một bài viết, hay một câu nói chuyện mà tùy từng lúc, từng nơi,
tùy từng đối tượng người đọc, người nghe mà Người diễn đạt quan điểm của
mình. Vẫn là theo các nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ
nghĩa xã hội, nhưng với cách diễn đạt ngơn ngữ nói và viết của Hồ Chí Minh, thì
những vấn đề đầy chất lý luận chính trị phong phú, phức tạp được biểu đạt bằng
ngôn ngữ của cuộc sống, của nhân dân Việt Nam, rất mộc mạc, dung dị, dễ hiểu.
Hồ Chí Minh có quan điểm tổng quát khi coi chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa
xã hội như là một chế độ xã hội bao gồm các mặt rất phong phú, hồn chỉnh,
trong đó con người được phát triển toàn diện, tự do, một xã hội mọi thiết chế, cơ
cấu xã hội đều nhằm tới mục tiêu giải phóng con người. Người diễn đạt quan
điểm của mình về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trên một số mặt cụ thể, như
chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội… nhưng khơng nên tuyệt đối q từng mặt,
hoặc tách rời các mặt riêng rẽ, mà quan điểm của Người được đặt trong một
tổng thể, được nhìn nhận một cách khái qt.

1.1. Về chính trị
Đó là một chế độ chính trị do nhân dân là chủ và làm chủ; Nhà nước là của
dân, do dân và vì dân, dựa trên khối đại đoàn kết toàn dân mà nịng cốt là liên
minh cơng - nơng - lao động trí óc do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Mọi quyền lực
trong xã hội đều tập trung trong tay nhân dân. Nhân dân là người quyết định vận
mệnh cũng như sự phát triển của đất nước dưới chế độ xã hội chủ nghĩa. Hồ Chí
Minh coi nhân dân có vị trí tối thượng trong mọi cấu tạo quyền lực. Chủ nghĩa
xã hội chính là sự nghiệp của chính bản thân nhân dân, dựa vào sức mạnh của
toàn dân để đưa lại quyền lợi cho nhân dân.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội thể hiện sự nhất quán trong
tư duy lý luận và hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh. Từ khi trở thành người
cộng sản đến khi trở thành lãnh tụ, nguyên thủ quốc gia, mối quan tâm hàng đầu
của Hồ Chí Minh là gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội phù hợp với từng
thời kỳ của cách mạng Việt Nam.
Theo Hồ Chí Minh, xây dựng chủ nghĩa xã hội chính là xây dựng tiềm lực
phát triển của dân tộc trên tất cả các lĩnh vực. Với các thiết chế đó và nền tảng
tinh thần riêng có, chủ nghĩa xã hội có khả năng vận động liên tục, tự bảo vệ
vững chắc các thành quả cách mạng của nhân dân.


3
Hồ Chí Minh chỉ rõ, chủ nghĩa xã hội càng phát triển, càng đạt đến độ chín
muồi thì các tiềm lực, nhất là tiềm lực vật chất lỹ thuật của dân tộc càng mạnh,
đất nước càng có điều kiện củng cố độc lập của mình, tăng cường khả năng
phịng thủ.
1.2. Về kinh tế
Chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội có nền kinh tế phát triển cao, gắn
liền với sự phát triển của khoa học - kỹ thuật. Đó là xã hội có một nền kinh tế
phát triển dựa trên cơ sở năng suất lao động xã hội cao, sức sản xuất luôn phát
triển với nền tảng phát triển khoa học - kỹ thuật, ứng dụng có hiệu quả những

thành tựu khoa học - kỹ thuật của nhân loại.
Chủ nghĩa xã hội là chế độ khơng cịn người bóc lột người. Đây là một vấn
đề được hiểu như một chế độ hồn chỉnh, đạt đến độ chín muồi. Trong chủ nghĩa
xã hội khơng cịn bóc lột, áp bức bất công, thực hiện chế độ sở hữu xã hội về tư
liệu sản xuất và thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động. Đó là một xã hội
được xây dựng trên nguyên tắc công bằng, hợp lý.
1.3. Về văn hóa - xã hội
Chủ nghĩa xã hội là một xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức; là một
xã hội có hệ thống quan hệ xã hội lành mạnh, cơng bằng, bình đẳng; trong chế
độ xã hội chủ nghĩa “khơng có người bóc lột người”, một xã hội bình
đẳng…Trong xã hội khơng cịn sự đối lập giữa lao động chân tay và lao động trí
óc, giữa thành thị và nơng thơn, con người được giải phóng, có điều kiện phát
triển tồn diện, có sự hài hịa trong phát triển của xã hội và tự nhiên; các dân tộc
trong nước, đồn kết, bình đẳng và giúp nhau cùng tiến bộ.
Hồ Chí Minh khẳng định, chủ nghĩa xã hội từ lý tưởng, mục tiêu… là một
chế độ xã hội tốt đẹp, thể hiện tính hơn hẳn tất cả các chế độ xã hội đã có trong
lịch sử. Bản chất tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội được thể hiện bằng mục tiêu phục
vụ lợi ích của Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Đó là giá trị để khẳng định và kiểm
nghiệm bản chất xã hội chủ nghĩa, của hệ thống lý luận và chính sách thực tiễn.
Trượt ra khỏi quỹ đạo đó, thì hoặc là chủ nghĩa xã hội giả hiệu (chỉ trên danh
nghĩa), hoặc không đúng với lý tưởng và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Với bản
chất tốt đẹp, chủ nghĩa xã hội đã khẳng định tính ưu việt, hơn hẳn so với các chế
độ xã hội đã tồn tại trong lịch sử, đồng thời cho thấy mối quan hệ biện chứng
giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người
với sự hình thành các giá trị mới, tạo điều kiện cho mỗi con người và toàn xã hội
phát triển. Hồ Chí Minh khẳng định chủ nghĩa xã hội: “xứng đáng là thế giới của
lồi người”.
Có thể nói, trong bối cảnh hiện nay đòi hỏi phải nắm vững mục tiêu, bản
chất của chủ nghĩa xã hội, nắm vững tinh thần và phương pháp “Dĩ bất biến, ứng
vạn biến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh để tìm tịi, phát hiện ra những quy luật phát

triển của cách mạng Việt Nam, sáng tạo ra những nội dung mới, cách làm mới
phù hợp với điều kiện của đất nước và xu thế của thời đại để mục tiêu lý tưởng
của Người từng bước trở thành hiện thực trên đất nước ta.


4
2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội trong
sự nghiệp đổi mới hiện nay
2.1. Thời cơ và thách thức
2.1.1. Thời cơ
Thời cơ bên ngồi: Hiện nay, hịa bình hợp tác và phát triển vẫn là xu thế
lớn. Các nước muốn có hịa bình, ổn định, tăng cường hợp tác đang trở thành
nhu cầu lớn để tập trung nguồn lực cho phát triển. Đây là cơ hội lớn mà Việt
Nam cần tranh thủ để tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách tồn diện
và đi vào chiều sâu.
Tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục phát triển tạo điều kiện giao lưu
trong các lĩnh vực kinh tế, giáo dục và đào tạo, khoa học và cơng nghệ, hoạt
động văn hóa... Trong điều kiện này, chúng ta có thể tiếp cận đến các nguồn lực
từ bên ngoài, đồng thời là cơ hội để tiếp thu những giá trị mới, tiến bộ của thế
giới, phù hợp với Việt Nam để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Với những thành tựu của khoa học và công nghệ hiện đại, của kinh tế tri
thức và cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là công nghệ số phát triển mạnh
mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực và mở ra nhiều cơ hội cho Việt Nam. Việc
ứng dụng những thành tựu của khoa học và công nghệ, của cách mạng công
nghiệp lần thứ tư, nhất là công nghệ số, làm tăng cường tiềm lực khoa học và
công nghệ của đất nước, đồng thời mở ra cơ hội mới cho sự phát triển nhanh và
bền vững của Việt Nam.
Thời cơ bên trong: Sau 35 năm đổi mới, thế và lực, sức mạnh tổng hợp
quốc gia, uy tín quốc tế của đất nước ngày càng được nâng cao, tạo ra những

tiền đề quan trọng để chúng ta tiếp tục kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới đất nước. Cơ sở vật chất - kỹ thuật
của chủ nghĩa xã hội đã được xác lập, ổn định chính trị và mối quan hệ đồng
thuận giữa Đảng và nhân dân về cơ bản được giữ vững.
2.1.2. Những thách thức
Thách thức bên ngoài: Bối cảnh quốc tế cịn nhiều diễn biến phức tạp, khó
lường, ảnh hưởng lớn đến con đường phát triển định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam.
Trong bối cảnh tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế, sự cạnh tranh trên trường
quốc tế cả về kinh tế và chính trị đang là một thách thức lớn, bởi vì trong khơng
ít trường hợp, các nước lớn lợi dụng vấn đề kinh tế để tạo sức ép về kinh tế và
chính trị, hoặc phân biệt đối xử, từ đó gây khó khăn cho sự nghiệp đổi mới, cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nếu khơng vượt qua được những thách thức
từ bên ngồi thì tụt hậu xa hơn về kinh tế là nguy cơ hiện hữu.
Chiến lược “diễn biến hịa bình” của các thế lực thù địch, xuyên tạc nhằm
phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, loại bỏ vai trò lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam.


5
Thách thức bên trong: Nguy cơ tụt hậu, rơi vào bẫy thu nhập trung bình cịn
lớn. Nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa cịn tiềm ẩn. Tình trạng tham
nhũng, lãng phí ở Việt Nam hiện nay có xu hướng phát triển đang là lực cản lớn
cho con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Những hạn chế trong công tác xây dựng
Đảng như suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.
Tóm lại, ở Việt Nam hiện nay có cả thuận lợi, thời cơ để phát triển, đồng
thời, đang phải đối mặt với nhiều nguy cơ, thách thức cần phải vượt qua. Giữa
thời cơ và thách thức có mối quan hệ qua lại và có thể chuyển hóa lẫn nhau.
Thời cơ có thể trở thành thách thức nếu không được tận dụng kịp thời. Tận dụng
được các thời cơ để phát triển và dùng thời cơ để chế ngự thách thức, đồng thời

khắc phục, chuyển hóa được các thách thức thành thời cơ sẽ tạo nên sức mạnh
đảm bảo giữ vững mục tiêu con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở
nước ta.
2.2. Nội dung xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay theo quan
điểm Hồ Chí Minh
2.2.1. Về chính trị
Trong giai đoạn hiện nay, ý chí, khát vọng của người dân Việt Nam vẫn là
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; bảo vệ vững chắc nền độc lập,
thống nhất của Tổ quốc, xây dựng, phát triển đất nước hùng cường, phồn vinh,
hạnh phúc, sánh vai với các nước trên thế giới, có vị thế xứng đáng trên bản đồ
thế giới, có trách nhiệm cao trong giải quyết các vấn đề tồn cầu trên tinh thần
tơn trọng, hịa bình, hợp tác và phát triển.
Nội dung quan trọng nhất là phải giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của
Đảng. Đảng phải luôn tự đổi mới và tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu, có hình thức tổ chức phù hợp để đáp ứng các yêu cầu, nhiệm
vụ mới. Chú trọng xây dựng mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân;
mọi đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và hoạt động Nhà nước đều vì lợi
ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Mơ hình
chính trị và cơ chế vận hành tổng quát là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và
nhân dân làm chủ. Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng nền
dân chủ xã hội; đảm bảo quyền lực thực sự thuộc về nhân dân là một nhiệm vụ
trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam. Bên cạnh đó, quan tâm củng cố và
mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, nịng cốt là liên minh cơng nhân, nơng dân
và trí thức, do Đảng Cộng sản lãnh đạo; củng cố và tăng cường sức mạnh toàn
bộ hệ thống chính trị cũng như từng thành tố của nó.
Điển hình trong thực hiện nhiệm vụ chính trị về thực hiện Chương trình
mục tiêu quốc gia về xây dựng nơng thôn mới, với mục tiêu là thay đổi diện mạo
nông thôn, nâng cao đời sống vật chất lẫn tinh thần cho nhân dân, trong thời
gian qua, các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đồn thể các địa

phương đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động với đa dạng các hình thức
nhằm giúp người dân nhận thức rõ vai trị “chủ thể” của mình. Từ đó, tập hợp,
phát huy sức mạnh tổng hợp trong nhân dân, đồng thời thực hiện tốt phương


6
châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát và dân thụ hưởng”
thể hiện sinh động thơng qua các cơng trình, phần việc trong thực hiện 19 tiêu
chí. Đây được xem là một chủ trương đúng đắn, hợp lịng dân và đã có được
hiệu ứng tích cực trong toàn xã hội. Kết quả, đến hết năm 2019, có hơn 4.800 xã
đạt chuẩn nơng thơn mới, chiếm 54% tổng số xã, bình quân cả nước đạt 15,7
tiêu chí/xã, khơng cịn xã đạt dưới 5 tiêu chí, hồn thành trước 1,5 năm và vượt
mục tiêu 10 năm (2010 – 2020). Đến hết năm 2020, có trên 62% số xã đạt chuẩn
nông thôn mới và 173 huyện đạt chuẩn nông thôn mới.
2.2.2. Về kinh tế
Đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta. Bởi nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập
quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự
quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm thực hiện mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành
quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật cùng phát triển lâu dài,
hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trị chủ
đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố và phát triển;
kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; kinh tế có vốn đầu
tư nước ngồi được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch
phát triển kinh tế - xã hội.
Nếu như trước đổi mới (năm 1986), Việt Nam vốn là một nước nghèo lại bị

chiến tranh tàn phá rất nặng nề, để lại những hậu quả hết sức to lớn cả về người,
về của và môi trường sinh thái. Nhờ thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế bắt
đầu phát triển và phát triển liên tục với tốc độ tương đối cao trong suốt 35 năm
qua với mức tăng trưởng trung bình khoảng 7% mỗi năm. Quy mô GDP không
ngừng được mở rộng, năm 2020 đạt 342,7 tỷ đô la Mỹ (USD), trở thành nền
kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN. Thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng 17
lần, lên mức 3.512 USD; Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp
từ năm 2008. Từ một nước bị thiếu lương thực triền miên, đến nay, Việt Nam
không những đã đảm bảo được an ninh lương thực mà còn trở thành một nước
xuất khẩu gạo và nhiều nông sản khác đứng hàng đầu thế giới. Công nghiệp phát
triển khá nhanh, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ liên tục tăng và hiện nay chiếm
khoảng 85% GDP. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng mạnh, năm 2020 đạt
trên 540 tỷ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt trên 280 tỷ USD. Về cơ cấu
nền kinh tế xét trên phương diện quan hệ sở hữu, tổng sản phẩm quốc nội của
Việt Nam hiện nay gồm khoảng 27% từ kinh tế Nhà nước 4% từ kinh tế tập thể,
30% từ kinh tế hộ, 10% từ kinh tế tư nhân trong nước và 20% từ khu vực có vốn
đầu tư nước ngồi.
2.2.3. Về văn hóa - xã hội


7
Văn hóa được xem là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh,
động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; xác định phát triển văn hóa
đồng bộ, hài hịa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là một
định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nền
văn hóa mà Việt Nam xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, dựa trên các giá trị tiến bộ, nhân văn;
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời
sống tinh thần xã hội, kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của
tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những thành tựu, tinh hoa văn hóa nhân

loại, phấn đấu xây dựng một xã hội văn minh, lành mạnh vì lợi ích chân chính
và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm
mỹ ngày càng cao. Trong đó, xác định con người giữ vị trí trung tâm trong chiến
lược phát triển; phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là
động lực cho công cuộc đổi mới; phát triển giáo dục - đào tạo và khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu; bảo vệ mơi trường là một trong những vấn đề
sống cịn, là tiêu chuẩn để phát triển bền vững; xây dựng gia đình hạnh phúc,
tiến bộ làm tế bào lành mạnh, vững chắc của xã hội, thực hiện bình đẳng giới là
tiêu chí của tiến bộ, văn minh.
Tại kỳ Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XIII của Đảng đã có đánh giá: Tỷ
lệ hộ nghèo trung bình mỗi năm của nước ta giảm khoảng 1,5%; giảm từ 58%
năm 1993 xuống cịn 5,8% năm 2016 theo chuẩn nghèo của Chính phủ và dưới
3% vào năm 2020 theo chuẩn nghèo đa chiều. Việt Nam tập trung hồn thành
xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000 và phổ cập giáo dục trung
học cơ sở năm 2010; số sinh viên đại học, cao đẳng tăng gần 17 lần trong 35
năm qua. Người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi và người cao tuổi được cấp bảo hiểm
y tế miễn phí. Tuổi thọ trung bình của dân cư tăng từ 62 tuổi năm 1990 lên 73,7
tuổi năm 2020. Việc chăm lo cho những gia đình có cơng với cách mạng, phụng
dưỡng các Mẹ Việt Nam anh hùng được thực hiện ngày càng tốt hơn. Đời sống
văn hóa cũng được cải thiện đáng kể; sinh hoạt văn hóa phát triển phong phú, đa
dạng. Hiện Việt Nam có khoảng 70% dân số sử dụng internet, là một trong
những nước có tốc độ phát triển công nghệ tin học cao nhất thế giới. Liên hợp
quốc đã công nhận Việt Nam là một trong những nước đi đầu trong việc hiện
thực hóa các mục tiêu thiên niên kỷ…
Điển hình, đại dịch covid-19 đã diễn biến phức tạp, nhất là trong đợt bùng
phát lần thứ tư, tốc độ lây lan rất nhanh, gây ảnh hưởng sức khỏe và tính mạng
của người dân, ảnh hưởng nghiêm trọng đến kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, toàn
Đảng, toàn quân và toàn dân ta đã nêu cao tinh thần “Chống dịch như chống
giặc”. Trong đó, mỗi xã, phường, mỗi khu dân cư là một “pháo đài”, mỗi người
dân là “chiến sĩ” trên mặt trận phịng chống dịch; các mơ hình “Tổ Covid cộng
đồng”, “Tổ tự quản vùng xanh phòng chống dịch” đã được triển khai thực hiện

một cách hiệu quả. Cũng trong thời gian chịu ảnh hưởng của dịch, Chính phủ đã
kịp thời ban hành Nghị quyết số 68 để hỗ trợ cho những đối tượng chịu ảnh
hưởng do dịch covid-19. Qua đó, giúp các gia đình có điều kiện để vượt qua khó
khăn, chung tay cùng với chính quyền phòng, chống dịch một cách hiệu quả.


8
Bên cạnh đó, nhiều hoạt động nghĩa tình thể hiện tinh thần “Tương thân tương
ái” của dân tộc đã được phát huy thông qua việc chia sẻ những suất cơm, nhu
yếu phẩm dùng trong sinh hoạt hàng ngày, tặng gạo, hỗ trợ nông sản cho người
dân trong khu vực phong tỏa, khu cách ly… với quyết tâm “Không để ai bị bỏ
lại phía sau”.
Từ thực tế trên có thể khái quát: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt
Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực
lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc,
có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình
đẳng, đồn kết, tơn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng
sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
2.3. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội tại
tỉnh Tiền Giang
2.3.1. Thành tựu
Các cấp ủy thường xuyên đổi mới về nội dung và phương thức lãnh đạo;
phân định rõ nhiệm vụ của các tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và
các tổ chức chính trị - xã hội trong thực hiện nhiệm vụ chính trị. Việc ban hành
Nghị quyết theo hướng ngắn gọn, dễ hiểu, tập trung vào những vấn đề trọng
tâm, lĩnh vực đột phá, mang tính chiến lược. Thường xuyên củng cố mối quan
hệ giữa Đảng với nhân dân, tạo điều kiện cho nhân dân tham gia xây dựng

Đảng, xây dựng chính quyền, đồn thể. Trong đó, thời gian qua, Đảng bộ tỉnh
Tiền Giang đã phát huy bài học đại đồn kết tồn dân tộc thơng qua nhiều cách
làm hay, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn như: đa dạng trong hình thức tun
truyền các chủ trương, chính sách để sớm đưa Nghị quyết của Đảng vào đời
sống; tổ chức các hội thi nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; phát hiện,
tuyên dương, nhân rộng các tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến trong học tập và
làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh;… Nhờ đó, hàng năm có
trên 85% tổ chức cơ sở Đảng hoàn thành tốt nhiệm vụ; hơn 98% đảng viên hồn
thành nhiệm vụ trở lên.
Tiền Giang có vị trí thuận lợi là cửa ngõ tiếp giáp giữa vùng kinh tế trọng
điểm phía Nam và khu vực đồng bằng sơng Cửu Long. Do vậy, tỉnh Tiền Giang
đã và đang tăng cường sự liên kết, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh và thu
hút đầu tư. Nổi bật là tỉnh đã xây dựng và ban hành Nghị quyết 10-NQ/TU của
Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh về phát triển kinh tế - đơ thị 3 vùng tỉnh Tiền Giang
trong q trình định hướng phát triển kinh tế nhằm khai thác tiềm năng, lợi thế
của từng địa phương, từng vùng phù hợp với lợi ích chung của tỉnh. Tỉnh phát
huy nguồn lực và đẩy mạnh phát triển các thành phần kinh tế. Đến nay, các xã,
phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh đều có doanh nghiệp hoạt động, đây là thành
phần kinh tế có tốc độ tăng giá trị gia tăng cao hơn tốc độ tăng bình quân chung
của tỉnh, đạt 8,8%/năm; chiếm tỷ trọng 17,2% so với GRDP của tỉnh. Khu vực


9
kinh tế nhà nước tăng bình quân 7,5%/năm, chiếm tỷ trọng 12,1% so với tổng
GRDP của tỉnh. Song song đó, tỉnh triển khai thực hiện có hiệu quả “Đề án tái
cơ cấu ngành nông nghiệp”, tuyên truyền, vận động người dân cải tạo vườn tạp
trồng các loại cây trồng có giá trị kinh tế cao; đưa cây màu xuống chân ruộng
nhằm tăng lợi nhuận trên cùng đơn vị diện tích; chuyển đổi mơ hình sản xuất
kém hiệu quả sang chăn nuôi với các con giống chất lượng, đáp ứng nhu cầu thị
trường…

Tiền Giang là mảnh đất giàu truyền thống văn hóa, lịch sử, cách mạng. Phát
huy truyền thống đó, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Tiền Giang đã chú
trọng việc bảo tồn, phát huy các di tích văn hóa, lịch sử phục vụ cho giáo dục
truyền thống, phát triển du lịch. Ngồi ra, các thiết chế văn hóa, cơ sở vật chất
thể thao được đầu tư và hoạt động có hiệu quả trở thành một “món ăn tinh thần”
gần gũi cho người dân. Đồng thời, nhân dân tích cực tham gia phong trào “Toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, nhờ đó tỷ lệ đạt danh hiệu Gia đình
văn hóa, Ấp văn hóa, Xã văn hóa nơng thơn mới, Con đường văn hóa, Cơ sở thờ
tự văn hóa ngày càng tăng và bền vững. Bên cạnh đó, cơng tác an sinh xã hội
được tỉnh thực hiện tốt với nhiều hoạt động thiết thực như: các Mẹ Việt Nam
anh hùng còn sống đều được các cơ quan, đơn vị nhận phụng dưỡng suốt đời;
chăm lo đời sống, hỗ trợ vốn cho gia đình chính sách, hộ nghèo, hộ khó khăn
phát triển kinh tế ổn định cuộc sống; thực hiện có hiệu quả “Quỹ vì người
nghèo”; … Hàng năm, địa phương tạo việc làm cho trên 20 nghìn người; tỷ lệ hộ
nghèo của tỉnh kéo giảm còn dưới 2%; 100% xã, phường, thị trấn đạt tiêu chí
quốc gia về y tế xã…
2.3.2. Hạn chế
Sự phối hợp gữa các cấp, các ngành trong tổ chức thực hiện Nghị quyết có
lúc, có nơi thiếu chặt chẽ. Một số cấp ủy, tổ chức đảng thực hiện chưa tốt chức
năng kiểm tra, giám sát, chậm phát hiện, xử lý tổ chức đảng, đảng viên sai
phạm.
Các thế lực thù địch tăng cường hoạt động chống phá với phương thức, thủ
đoạn tinh vi hơn, gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự trên địa bàn.
Việc hợp tác, liên kết phát triển theo chuỗi giá trị trong sản xuất và tiêu thụ
sản phẩm chưa có sự gắn kết chặt chẽ, người nơng dân cịn rơi vào cảnh “được
mùa mất giá”.
Tội phạm và các tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp. Chất lượng giáo dục,
chăm sóc y tế cịn nhiều bất cập.
2.3.3. Giải pháp
Cần phát huy tốt tinh thần đoàn kết, dân chủ, trách nhiệm, quyết tâm đổi

mới, phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được
giao; chú trọng phân tích, dự báo tình hình, sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm và
thường xuyên kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực hiện.


10
Đẩy mạnh cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng, ngăn chặn, đẩy lùi những
quan điểm, biểu hiện sai trái, lệch lạc gắn với xử lý nghiêm các tổ chức đảng,
cán bộ, đảng viên vi phạm quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Tăng cường sức mạnh khối đại đồn kết tồn dân tộc thơng qua các phong
trào thi đua, các cuộc vận động. Kịp thời biểu dương khen thưởng các tập thể, cá
nhân điển hình tiên tiến trên các lĩnh vực để tạo sức lan tỏa trong cộng đồng.
Đa dạng hóa các hình thức hỗ trợ để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
cho người dân. Đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi để người dân phát huy quyền
làm chủ của mình trong góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền.
PHẦN KẾT LUẬN
Tư tưởng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam là một nội dung cơ bản cốt lõi thể hiện sự sáng tạo rất lớn của Chủ tịch Hồ
Chí Minh khi vận dụng lý luận Mác - Lênin trong hoàn cảnh cụ thể của Việt
Nam. Bối cảnh trong nước và quốc tế hiện nay đặt ra yêu cầu cấp thiết là phải
không ngừng bổ sung phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội Việt Nam trên cơ sở đảm bảo các nguyên lý cơ bản của Chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh sao cho phù hợp với đặc điểm của
dân tộc, với xu thế của thời đại. Từ lý luận và thực tiễn đều cho thấy, xây dựng
chủ nghĩa xã hội là kiến tạo một kiểu xã hội mới về chất, hồn tồn khơng thể
đơn giản, dễ dàng. Đây là cả một sự nghiệp sáng tạo vĩ đại, đầy thử thách, khó
khăn, một sự nghiệp tự giác, liên tục, hướng đích lâu dài, khơng thể nóng vội.
Người dân Việt Nam ln tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tin tưởng
vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội con đường mà Đảng, Bác Hồ, các thế hệ cha anh đã lựa chọn và đổ biết bao mồ
hôi xương máu mới giành được. Đi lên chủ nghĩa xã hội vẫn là ý chí, nguyện

vọng của người dân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Là một đảng viên, cơng chức cơng tác tại Văn phịng cấp ủy huyện, bản
thân luôn kiên định với mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội mà chủ tịch Hồ Chí
Minh và Đảng ta đã vạch ra; luôn ý thức trách nhiệm của mình trong việc tham
mưu cho Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, Thường trực cấp ủy ban hành các văn
bản lãnh đạo, chỉ đạo các cấp ủy cơ sở, cán bộ, đảng viên, cơng chức, viên chức,
đồn viên, hội viên và Nhân dân thực hiện tốt các chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; thường xuyên nắm bắt thông tin, kịp
thời tham mưu cho cấp ủy đấu tranh, phản bác các luận điệu sai trái, bôi nhọa,
xuyên tạc chế độ xã hội chủ nghĩa của các thế lực thù địch, phản động, góp phần
cùng với cấp ủy, chính quyền các cấp và Nhân dân giữ vững con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội với mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”.



×