Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

Giáo trình lịch sử Đông Nam Á, trường đại học Đà Lạt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (882.51 KB, 123 trang )



TRệễỉNG ẹAẽI HOẽC ẹAỉ LAẽT
F 7 G






GIAO TRèNH
LCH S ễNG NAM

(Tỏi bn ln th nht cú sa cha v b sung)


BI VN HNG








Lịch sử Đông Nam Á - 2 -
MỤC LỤC

CHƯƠNG I. KHÁI QUÁT VỀ ĐÔNG NAM Á 5
I. ĐỊA LÍ TỰ NHIÊN CỦA ĐÔNG NAM Á 5
II. ĐỊA LIÙ KINH TẾ CỦA ĐÔNG NAM Á 6


III. ĐỊA LÍ VĂN HÓA CỦA ĐÔNG NAM Á 6
IV. DÂN CƯ ĐÔNG NAM Á 8
V. KHÁI LƯC CÁC GIAI ĐOẠN LỊCH SỬ CỦA ĐÔNG NAM Á 9
1. TỪ THỜI NGUYÊN THỦY ĐẾN XÃ HỘI CÓ GIAI CẤP VÀ NHÀ
NƯỚC
9
2. GIAI ĐOẠN XÁC LẬP VÀ PHÁT TRIỂN THỊNH ĐẠT CỦA CÁC
VƯƠNG QUỐC ĐÔNG NAM Á
11
3. GIAI ĐOẠN SUY THOÁI CỦA CÁC QUỐC GIA PHONG KIẾN
ĐÔNG NAM Á VÀ PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CHỐNG ÁCH
THỐNG TRỊ CỦA CHỦ NGHĨA THỰC DÂN PHƯƠNG TÂY
12
4. ĐÔNG NAM Á TỪ NĂM 1945 ĐẾN NAY 13
CHƯƠNG II. CAMPUCHIA 15
I. ĐẤT NƯỚC VÀ DÂN CƯ 15
1. ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN 15
2. DÂN CƯ 15
II. CÁC GIAI ĐOẠN LỊCH SỬ CAMPUCHIA 16
1. SỰ RA ĐỜI CỦA QUỐC GIA SƠ KỲ CAMPUCHIA 16
2. SỰ KHÔI PHỤC VÀ PHÁT TRIỂN CỦA VƯƠNG QUỐC
CAMPUCHIA (802 - 1181)
18
3. SỰ THỊNH ĐẠT VÀ BƯỚC ĐẦU SUY THOÁI CỦA VƯƠNG
QUỐC CAMPUCHIA (1181-1434)
19
4. GIAI ĐOẠN KHỦNG HOẢNG, SUY VONG CỦA VƯƠNG QUỐC
CAMPUCHIA VÀ PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CHỐNG THỰC
DÂN PHÁP XÂM LƯC CỦA NHÂN DÂN CAMPUCHIA (1434 -
1945)

23
5. CAMPUCHIA TỪ 1945 ĐẾN NAY 28
CHƯƠNG III. LÀO 34
I. ĐẤT NƯỚC VÀ DÂN CƯ 34
1. ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN 34
2. DÂN CƯ 34
II. CÁC GIAI ĐOẠN LỊCH SỬ LÀO 35
1. LỊCH SỬ LÀO TRƯỚC KHI NHÀ NƯỚC LAN XẠNG RA ĐỜI 35
2. SỰ HÌNH THÀNH VÀ NHỮNG BƯỚC THĂNG TRẦM CỦA NHÀ
NƯỚC LAN XẠNG
36
Bùi Văn Hùng Khoa Lòch sử

Lịch sử Đông Nam Á - 3 -
3. THỜI KỲ SUY YẾU VÀ KHỦNG HOẢNG, ÁCH THỐNG TRỊ
CỦA XIÊM, PHÁP VÀ PHONG TRÀO ĐẤU TRANH GIÀNH ĐỘC
LẬP CỦA NHÂN DÂN LÀO (ĐẦU THẾ KỶ XVIII ĐẾN 1945)
39
4. NƯỚC LÀO TỪ 1945 ĐẾN NAY 42
CHƯƠNG IV. THÁI LAN 48
I. ĐẤT NƯỚC VÀ DÂN CƯ 48
1. ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN 48
2. DÂN CƯ 49
II. CÁC GIAI ĐOẠN LỊCH SỬ CỦA THÁI LAN 49
1. LỊCH SỬ THÁI LAN TRƯỚC KHI CÁC QUỐC GIA SƠ KỲ CỦA
NGƯỜI THÁI RA ĐỜI
49
2. CÁC QUỐC GIA SƠ KỲ CỦA NGƯỜI THÁI 50
3. VƯƠNG QUỐC XIÊM TỪ 1767 ĐẾN 1945 52
4. THÁI LAN TỪ 1945 ĐẾN NAY 56

CHƯƠNG V. MIANMA 59
I. ĐẤT NƯỚC VÀ DÂN CƯ 59
1. ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN 59
2. DÂN CƯ 60
II. CÁC GIAI ĐOẠN LỊCH SỬ CỦA MIANMA 60
1. SỰ RA ĐỜI CỦA CÁC QUỐC GIA SƠ KỲ Ở MIANMA 60
2. SỰ PHÁT TRIỂN THỊNH ĐẠT CỦA MIANMA( 1044 - 1752) 62
3. SỰ SUY THOÁI CỦA VƯƠNG QUỐC MIANMA VÀ PHONG
TRÀO ĐẤU TRANH CHỐNG SỰ XÂM LƯC VÀ NÔ DỊCH CỦA
THỰC DÂN ANH (1752 – 1948)
64
4. MIANMA TỪ NĂM 1948 ĐẾN NAY 68
CHƯƠNG VI : MALAIXIA 71
I. ĐẤT NƯỚC VÀ DÂN CƯ 71
1. ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN 71
2. DÂN CƯ 72
II. CÁC GIAI ĐOẠN LỊCH SỬ MALAIXIA 73
1. CÁC QUỐC GIA SƠ KỲ TRÊN BÁN ĐẢO 73
2. GIAI ĐOẠN THỊNH ĐẠT CỦA MALAIXIA (1403 -1511) 74
3. MALAIXIA TỪ NĂM 1511 ĐẾN NĂM 1957 75
4. MALAIXIA TỪ 1957 ĐẾN NAY 79
Chương VII . SINGAPORE 81
I. ĐẤT NƯỚC VÀ DÂN CƯ 81
1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN 81
2. DÂN CƯ 81
II. CÁC GIAI ĐOẠN LỊCH SỬ SINGAPORE 82
1. SINGAPORE TRƯỚC NĂM 1819 82
2. SINGAPORE TỪ 1819 ĐẾÙN 1965 82
Bùi Văn Hùng Khoa Lòch sử


Lịch sử Đông Nam Á - 4 -
3. SINGAPORE TỪ 1945 ĐẾN NAY 85
CHƯƠNG VIII. INĐÔNÊXIA 87
I. ĐẤT NƯỚC VÀ DÂN CƯ 87
1. ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN 87
2. DÂN CƯ 87
II. CÁC GIAI ĐOẠN LỊCH SỬ INĐÔNÊXIA 88
1. SỰ RA ĐỜI CỦA QUỐC GIA SƠ KỲ INĐÔNÊXIA 88
2. THỜI KỲ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC QUỐC GIA INĐÔNÊXIA (THẾ
KỶ VII-XVI)
90
3. SỰ XÂM LƯC CỦA THỰC DÂN PHƯƠNG TÂY VÀ PHONG
TRÀO ĐẤU TRANH GIÀNH ĐỘC LẬP CỦA NHÂN DÂN
INĐÔNÊXIA TỪ ĐẦU THẾ KỶ XVI ĐẾN 1945
91
4. NƯỚC CỘNG HÒA INĐÔNÊXIA TỪ NĂM 1945 ĐẾN NAY 98
CHƯƠNG IX. PHILIPPIN 102
I. ĐẤT NƯỚC VÀ DÂN CƯ 102
1. ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN 102
2. DÂN CƯ 102
II. CÁC GIAI ĐOẠN LỊCH SỬ CỦA PHILIPPIN 103
1. LỊCH SỬ PHILIPPIN ĐẾN TRƯỚC NĂM 1521 103
2. SỰ XÂM LƯC VÀ THỐNG TRỊ CỦA THỰC DÂN TÂY BAN
NHA ĐỐI VỚI PHILIPPIN (TỪ THẾ KỶ XVI ĐẾN CUỐI THẾ KỶ
XIX )
105
3. PHONG TRÀO DÂN TỘC TƯ SẢN PHILIPPIN CUỐI THẾ KỶ XIX
ĐẦU THẾ KỶ XX
109
4. PHILIPPIN TỪ NĂM 1951 ĐẾN NAY 116

CHƯƠNG X. BRUNÂY 118
I. ĐẤT NƯỚC VÀ DÂN CƯ 118
1. ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN 118
2. DÂN CƯ 119
II. CÁC GIAI ĐOẠN LỊCH SỬ BRUNÂY 119
1. BRUNÂY TRƯỚC NĂM 1888 119
2. BRUNÂY TỪ 1888 ĐẾN NAY 121
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH 123

Bùi Văn Hùng Khoa Lòch sử

Lịch sử Đông Nam Á - 5 -
CHƯƠNG I. KHÁI QUÁT VỀ ĐÔNG NAM Á

I. ĐỊA LÍ TỰ NHIÊN CỦA ĐÔNG NAM Á
Đông Nam Á là một khu vực trải ra từ khoảng 92
o
kinh Đông đến 140
o
kinh
Đông và từ khoảng 28
o
vó Bắc đến 15
o
vó Nam. Diện tích toàn khu vực ước khoảng
4 triệu km
2
, dân số hiện nay khoảng gần 490 triệu người
1
. Bản đồ hành chính của

khu vực Đông Nam Á hiện nay gồm 11 nước. Đông Nam Á lục đòa gồm 6 nước là
Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan, Mianma và Malaixia. Đông Nam Á hải đảo
gồm 5 nước là Inđônêxia, Brunei, Singapore, Philippin và Đông Timo.
Đông Nam Á nằm giữa hai đại dương lớn là Thái Bình Dương và Ấn Độ
Dương. Do điều kiện vò trí đòa lí như vậy, lẽ ra Đông Nam Á có điều kiện khí hậu
khắc nghiệt, nhưng Đông Nam Á lại là phần chủ yếu và tiêu biểu của khu vực
“Châu Á gió mùa”
2
nên đã giảm bớt những khắc nghiệt của khí hậu cận chí tuyến
và xích đới.
Gió mùa và khí hậu biển đã làm cho Đông Nam Á đáng lẽ khô cằn trở lên
xanh tốt và trù phú. Gió mùa đã tạo nên cho Đông Nam Á hai mùa tương đối rõ
rệt. Mùa khô lạnh mát và mùa mưa tương đối nóng, ẩm. Mùa mưa kéo dài từ tháng
tư đến tháng 11 với những cơn mưa nhiệt đới có quy luật đã cung cấp cho con người
đủ nước dùng trong đời sống và sản xuất trong năm, đồng thời cũng tạo nên những
cánh rừng nhiệt đới phong phú về thảo mộc và muông thú. Tuy nhiên, gió mùa
cũng tạo nên sự thất thường với biên độ nhiệt không lớn lắm cho khí hậu trong khu
vực. Mưa nhiệt đới xen kẽ giữa rừng núi, bờ biển và đồng bằng tạo nên cảnh quan
đa dạng với độ ẩm khá cao. Vì vậy, Đông Nam Á thường thiếu những không gian
rộng cho sự phát triển kinh tế, xã hội trên qui mô lớn và nhất là thiếu điều kiện tự
nhiên cho sự phát triển kỹ thuật tinh tế và phức tạp.
Mặc dù có những hạn chế đó, nhưng Đông Nam Á vẫn có những điều kiện
tự nhiên hết sức thuận lợi cho đời sống của con người. Đông Nam Á tỏ ra thích hợp
với sự sinh trưởng của các loại cây trồng và là quê hương của các loại cây gia vò,
hương liệu như hồ tiêu, sa nhân, đậu khấu, hồi, quế đàn hương, trầm hương và
cây lúa nước. Đông Nam Á còn là nơi qui tụ nhiều loại động vật phong phú như hổ,

1
Theo số liệu tổng điều tra dân số năm 1996, nguồn “Các dân tộc ở Đông Nam Á”, [9]
2

“Châu Á gió mùa” do các nhà đòa lý gọi để chỉ một khu vực văn minh lúa nước từ thû xa xưa.
Khu vực này bao gồm toàn bộ Đông Nam Á, miền Nam sông Trường Giang (Trung Quốc), Nam
Nhật Bản, Đông Ấn Độ.


Bùi Văn Hùng Khoa Lòch sử

Lịch sử Đông Nam Á - 6 -
báo, tê giác, voi, bò rừng Như vậy, Đông Nam Á đã làm thành một khu vực thực
vật dân tộc học và động vật dân tộc học tương đối riêng biệt.
II. ĐỊA LIÙ KINH TẾ CỦA ĐÔNG NAM Á
Xuất phát từ những điều kiện tự nhiên phong phú và đa dạng như thế, Đông
Nam Á từ lâu đã trở thành một khu vực kinh tế phát triển. Đông Nam Á là một
trong những cái nôi trồng trọt của loài người. Qua những kết quả khai quật khảo cổ
học thuộc văn hóa Hòa Bình, chứng tỏ cư dân Đông Nam Á cổ đã thuần hóa nhiều
giống lúa, các loại thực vật như cây cỏ, củ, bầu bí, họ đậu ven núi. Chủ nhân văn
hóa Hòa Bình là người đã biết trồng trọt đầu tiên trên thế giới, niên đại có thể lên
đến 10.000 năm trước Công nguyên: “Đông Nam Á đã có một cuộc cách mạng
nông nghiệp sớm nhất thế giới”
1
. Bước sang thời đại đồ đồng, cư dân Đông Nam Á
đã biết trồng lúa khô ở nương rẫy và lúa nước ở thung lũng hẹp ven chân núi và
dần dần chuyển xuống vùng châu thổ thích nghi với vùng ngập nước. Cũng trong
quá trình đó, con người thuần dưỡng trâu bò để kéo và chăn nuôi gia súc, gia cầm.
Từ đó, nông nghiệp trồng lúa nước đã trở thành cội nguồn và mẫu số chung của
nền văn minh khu vực.
Sự phát triển mạnh mẽ của nông nghiệp đã thôi thúc cư dân Đông Nam Á
trong việc chế tác công cụ, làm nảy sinh và phát triển thủ công nghiệp từ gia đình
đến cộng đồng. Các loại đồ dùng bằng đá đến kim khí, đồ gốm với kỹ thuật ngày
càng tinh vi, thể hiện trình độ kỹ thuật ngày càng cao. Một trong những sản phẩm

mang tính đặc trưng của khu vực là trống đồng Đông Sơn phân bố rải rác khắp khu
vực.
Do điều kiện đòa lí, Đông Nam Á qua các giai đoạn lòch sử của loài người
vẫn giữ vai trò quan trọng về giao lưu kinh tế tạo ra các quốc gia hưng thònh về
kinh tế và phát triển văn hóa.
Trong thời kỳ gần đây, Đông Nam Á là một trong những khu vực có nền
kinh tế năng động nhất thế giới.
III. ĐỊA LÍ VĂN HÓA CỦA ĐÔNG NAM Á
Đông Nam Á là khu vực tiêu điểm của “Châu Á gió mùa”, nếu nói theo
nghóa đó, vùng văn hóa chung của Đông Nam Á còn bao gồm cả Nam Trường
Giang, Nam Nhật Bản và Đông Ấn Độ. Trước khi tiếp xúc với văn hóa Trung Hoa
và Ấn Độ, nền văn hóa truyền thống của khu vực mang đậm dấu ấn nông nghiệp
trồng lúa nước, rau củ. Trên cơ sở mẫu số chung của nền nông nghiệp lúa nước và

1
W.G Solheim: An earlier agricaltural Revolution. Scientific American, 1972, 226 P . 34-41.

Bùi Văn Hùng Khoa Lòch sử

Lịch sử Đông Nam Á - 7 -
văn hóa xóm làng, cư dân Đông Nam Á đã sáng tạo ra những sản phẩm văn hóa
độc đáo.
Trong lónh vực văn hóa vật chất, chiếc nhà sàn với qui mô khác nhau là một
biểu tượng văn hóa thích hợp với điều kiện khí hậu nóng ẩm ở các đòa hình khác
nhau. Về trang phục, của đàn ông thường chỉ là đóng khố cởi trần, đàn bà có váy
quấn, áo chui đầu. Chiếc khố hình chữ T là hình thức cổ xưa, duy nhất có ở Đông
Nam Á mà chất liệu thường thấy là vỏ cây, da thú hoặc vải thô. Áo ngắn tay với
nam giới và áo cánh đối với nữ giới cũng là một nét rất riêng của cư dân Đông
Nam Á. Chiếc mũ thường được làm từ lông chim hoặc trang trí bằng lông chim là
hình ảnh thường thấy trên các hoa văn của trống đồng Đông Sơn. Cư dân Đông

Nam Á có tục ăn trầu, nhuộm răng, xăm mặt, xăm mình,
Cư dân nông nghiệp Đông Nam Á thường tắm mình trong nền văn hóa dân
gian tín ngưỡng, lễ hội, thờ cúng tổ tiên kết hợp với văn hóa văn nghệ dân gian
diễn ra theo chu kỳ nông nghiệp quanh năm. Trống đồng Đông Sơn có mặt ở hầu
khắp các nước Đông Nam Á là biểu tượng điển hình của nền văn hóa khu vực.
Ngoài ý nghóa nghệ thuật và kỹ thuật cao, trống đồng còn phản ánh sinh động cuộc
sống muôn màu, muôn vẻ của cư dân Đông Nam Á lúc bấy giờ.
Các truyền thuyết, truyện cổ về quả bầu khởi thủy các dân tộc, nạn hồng
thủy, tục thờ rồng, truyện trạng, xét về góc độ mô típ hình thức, kết cấu và thủ
pháp xây dựng, đều có mối quan hệ tương đồng và ảnh hưởng qua lại lẫn nhau.
Văn hóa nông nhiệp đã tạo ra một kết cấu xã hội từ gia đình đến làng xóm,
tạo ra một lối ứng xử “tình làng nghóa xóm” riêng có mang tính truyền thống của
khu vực. Đòa vò của người phụ nữ được coi trọng, nhất là trong gia đình đến cộng
đồng.
Vào những thế kỷ tiếp giáp Công nguyên, ảnh hưởng lan tỏa của nền văn
minh Trung Hoa và Ấn Độ đã tạo ra những thay đổi dễ nhận thấy trong nền văn
hóa bản đòa của khu vực. Trong những điều kiện lòch sử cụ thể, với cách ứng xử
không giống nhau qua quá trình giao tiếp với văn hóa Trung Hoa và Ấn Độ mà sau
này là văn hóa Âu, Mỹ, các dân tộc trong vùng đã xây dựng nên nền văn hóa quốc
gia, dân tộc độc đáo, đa dạng, phong phú nhưng vẫn có nét tương đồng khu vực.
Sau một quá trình tiếp thu và chọn lọc, các dân tộc Đông Nam Á đã xây dựng một
nền văn hóa riêng của mình và đóng góp vào kho tàng văn hóa chung của nhân
loại những giá trò tinh thần độc đáo. Trên cơ sở chữ Phạn, từ thế kỷ thứ IV, thứ V,
người Chăm, người Khmer và người Môn đã xây dựng nên chữ viết riêng của mình.
Các công trình kiến trúc như BôrôBua (Borobudur) ở Inđônêxia, Ăngco Vat,
Ăngco Thom ở Campuchia, Thạt Luổng ở Lào, Tháp Chàm ở Việt Nam, Chùa
Vàng ở Mianma, vừa mang dáng vấp của kiến trúc Ấn Độ, vừa có những nét độc
Bùi Văn Hùng Khoa Lòch sử

Lịch sử Đông Nam Á - 8 -

đáo riêng của từng dân tộc là những di tích lòch sử, công trình văn hóa nổi tiếng
không chỉ của Đông Nam Á mà còn của cả loài người.
IV. DÂN CƯ ĐÔNG NAM Á
Những phát hiện về khảo cổ học đã chứng minh Đông Nam Á là một trong
những cái nôi của loài người. Mặc dù chưa phát hiện được di cốt của người vượn
Hominid Ramapitec niên đại 10 triệu năm như ở Ấn Độ hoặc người vượn Trung
Quốc niên đại 8 triệu năm ở Lộc Phong (Vân Nam), nhưng ở Đông Nam Á, người
ta đã phát hiện được dấu vết hóa thạch của người vượn bậc cao ở Băng Đung
(Pondaung - Inđônêxia) niên đại 40 triệu năm và vượn khổng lồ Meganthropus
Paleojavanicus ở Java (Inđônêxia) niên đại 5 triệu năm. Quá trình Sapiens hóa đã
diễn ra đặc biệt phong phú ở Đông Nam Á.
Từ sau phát hiện của E. ĐuyBoa (Eugéne Dubois) ở Java trong những năm
1891 đến năm 1986, người ta đã tìm thấy khoảng 21 mảnh sọ, 5 hàm dưới và 3 hàm
trên hóa thạch của dạng người Pithecanthropus erectus. Xưa nhất trong số đó là
người Pitecantrop IV (Homo Modjokertensis) có niên đại 2 triệu năm đến
Pithecanthropus muộn hơn, niên đại 500.000 - 900.000 năm trước.
Người ta còn tìm thấy di cốt, mảnh di cốt và những công cụ đồ đá của người
tối cổ của nhiều nước khác trong khu vực như ở hang Thẩm Khuyên, Thẩm Hai,
Núi Đọ, Quan Yên, Xuân Lộc (Việt Nam), Anyath (Mianma), Pingnoi (Thái Lan),
Tampan (Malaixia), Cabaloan (Philippin), Patgitan (Inđônêxia),
Vào thời đại trung kỳ đá cũ, xuất hiện răng người ở hang Thẩm Ồm (Nghệ
Tónh, Việt Nam), hang Hùm (Lào Cai – Việt Nam), người Homo Sapiens trên bờ
sông Sôlô (Inđônêxia), thuộc giai đoạn tiền Sapiens. Sự xuất hiện người Homo
Sapiens gắn liền với sự hình thành các chủng tộc. Người ta cũng đã phát hiện
xương sọ của một thiếu niên 15-17 tuổi ở Nia (Borneo), niên đại 396.000 năm và
một chỏm sọ ở Tabon (Philippin) cùng niên đại, chứng tỏ quá trình chuyển biến từ
vượn thành người ở Đông Nam Á diễn ra liên tục và trực tiếp. Bên cạnh đó, dấu
vết hóa thạch của người Homo Sapiens còn được tìm thấy ở nhiều nơi như Sơn Vi
(Việt Nam), Sungmas (Sumatra), Maros và Puso (Xulavexi),
Về đại thể, Đông Nam Á là khu vực tiếp giáp giữa hai đại chủng là

Mongoloid và Australoid mà các nhà khoa học gọi là Tiểu chủng Đông Nam Á.
Tiểu chủng Đông Nam Á bao gồm hai nhóm chính là Indonediens và Austro -
Asiaticque. Nhóm Indonediens có yếu tố đen đậm hơn vàng, hiện cư trú ở vùng
Tây Nguyên (Việt Nam) và vùng rừng núi các nước hải đảo. Nhóm Austro -
Asiaticque có yếu tố vàng đậm hơn đen là phần còn lại của cư dân Đông Nam Á.
Bùi Văn Hùng Khoa Lòch sử

Lịch sử Đông Nam Á - 9 -
Trong quá trình hình thành tộc người, mỗi nhóm lại chia thành những tộc
người khác nhau, có ngôn ngữ và phong tục riêng. Nhìn chung, phần lớn các nhà
khoa học đều thừa nhận, trong khu vực Đông Nam Á hiện nay gồm có các nhóm
ngữ hệ là Nam Á (Môn - Khmer), Việt - Mường, Thái - Kai, Tạng - Mianma và
Nam Đảo. Trong mỗi ngữ hệ lại chia ra các nhóm ngôn ngữ của từng tộc người.
Hiện nay ở mỗi nước Đông Nam Á đều có mặt hầu như đầy đủ thành phần những
nhóm tộc người chủ yếu nói những ngôn ngữ khác nhau, nhưng họ đều quần tụ, gắn
bó với nhau trong đời sống xã hội, trong công cuộc xây dựng cuộc sống phồn vinh.
Không những thế, người Hoa, người Ấn, Âu, cũng là một bộ phận không nhỏ
trong thành phần cư dân Đông Nam Á hiện nay.
V. KHÁI LƯC CÁC GIAI ĐOẠN LỊCH SỬ CỦA ĐÔNG NAM Á
1. TỪ THỜI NGUYÊN THỦY ĐẾN XÃ HỘI CÓ GIAI CẤP VÀ
NHÀ NƯỚC
Thời kỳ đồ đá cũ, kỹ thuật chế tác công cụ Đông Nam Á vừa mang trình độ
chung của kỹ thuật đá cũ thế giới, vừa có những đặc trưng khu vực, thể hiện tính
trội của văn hóa đá cuội (Pebble culture) và những công cụ chặt có dáng thô
(Chopper và Chopping-tool).
Sau phát hiện công cụ đá giữa ở Sumatra, người ta phát hiện hàng loạt công
cụ đá cuội ghè đẽo hai mặt ở Hòa Bình. Kỹ thuật Hòa Bình có mặt trên nhiều đòa
điểm ở Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan, Inđônêxia, Trong một số hang ở
Hòa Bình, người ta đã tìm thấy dấu vết của bào tử phấn hoa họ rau, đậu. Ở Thái
Lan, người ta còn tìm thấy cả hạt của một số loài đậu và bầu bí. Niên đại của các

di chỉ này khoảng 12.000 năm. Vì vậy, thuật ngữ “Văn hóa Hoà Bình” được dùng
phổ biến để chỉ nền văn hóa sau đá cũ của khu vực Đông Nam Á hay còn gọi là đá
giữa hay đá mới trước gốm hoặc đá mới sơ kỳ. Chủ nhân của nền văn hóa này vẫn
kết hợp săn bắn với hái lượm để tận dụng nguồn thức ăn phong phú từ thiên nhiên.
Tuy nhiên, nông nghiệp trồng vườn xuất hiện, được coi là sớm nhất của nhân loại.
Ở lớp trên của di chỉ văn hóa Hòa Bình đã xuất hiện những công cụ đá có
mài lưỡi. Loại công cụ này đã được tìm thấy ở trong các hang động Bắc Sơn (Lạng
Sơn - Việt Nam). Ngay sau đó, người ta đã phát hiện được các loại công cụ tương
tự như ở Nia (Sarawak), Guakechin (Malaixia), Bukittalang (Sumatra),
Kemđenglembu (Giava) và thuật ngữ “Văn hóa Bắc Sơn” cũng có thể tiêu biểu
cho giai đoạn đá mới trung kỳ ở Việt Nam và Đông Nam Á, với niên đại khoảng
10.000 năm đến 6000 năm, thuộc loại sớm nhất thế giới. Ở giai đoạn này, gốm và
nông nghiệp trồng rau củ có dấu vết rõ rệt hơn.
Bùi Văn Hùng Khoa Lòch sử

Lịch sử Đông Nam Á - 10 -
Đông Nam Á bước vào giai đoạn đá mới hậu kỳ từ khoảng 6000 năm trước
đây với những công cụ đá có diện mài rộng hơn, đồ gốm và đồ trang sức phong
phú, đẹp đẽ hơn, nhất là việc chuyển từ nông nghiệp trồng vườn sang trồng lúa.
Thể hiện rõ nét ở dấu vết hạt lúa in trên gốm hay trấu trộn trong gốm ở Đông Bắc
Thái Lan có niên đại 6000 năm. Hay bào tử phấn hoa lúa Oryza ở một hay thuộc
văn hóa Bắc Sơn. Hay dao đá cắt lúa ở Thái Lan và liềm đá ở Campuchia.
Rõ ràng, cũng như các khu vực tiên tiến khác trên thế giới, Đông Nam Á đã
có sự chuyển biến mạnh mẽ từ nông nghiệp trồng rau củ sang nông nghiệp trồng
lúa, từ thuần dưỡng sang chăn nuôi gia súc, kết hợp với sự phát triển nghề làm đồ
gốm và dệt vải. Tuy nhiên, việc hái lượm và săn bắn vẫn có vò trí quan trọng. Điều
đó cho thấy Đông Nam Á là một trong những trung tâm nông nghiệp phát triển và
là một trong những mô hình nông nghiệp chủ yếu trên thế giới.
Do tính chất phân tán của đòa bàn tự nhiên và sự hạn chế dân số đã làm cho
kỹ thuật và nền kinh tế nông nghiệp ở Đông Nam Á chựng lại và mất vò trí dẫn

đầu. Sang đến thiên niên kỷ II TCN, thậm chí đến nửa sau thiên niên kỷ này, cư
dân Đông Nam Á mới tiến dần đến các chân ruộng thấp, đến đồng bằng rộng lớn
hơn, tức là chậm hơn ít nhiều so với đồng bằng sông Hoàng Hà, Sông Ấn, Sông
Hằng, Lưỡng Hà, Ai Cập.
Sự phát triển không đồng đều thể hiện rõ rệt ở các vùng châu thổ sông
Hồng, cao nguyên Còrạt, đồng bằng Irrawaddy, Mênam, Tônlêsap, chính vì vậy,
thời đại đồ đồng xuất hiện sớm ở Việt Nam, Thái Lan hơn các vùng khác. Trong
khoảng hai thiên niên kỷ cuối TCN, xã hội có giai cấp và nhà nước của người Việt
đã có những biểu hiện khá rõ ràng. Trong khi đó, một số vùng ở Đông Nam Á mới
bắt đầu vào giai đoạn đồ đồng và nhìn chung tốc độ tiến bộ đã chậm lại đáng kể so
vơí các khu vực tiên tiến trên thế giới.
Vào những thế kỷ tiếp giáp Công nguyên, trên cơ sở phát triển của đồ đồng,
đồ sắt bắt đầu được sử dụng phổ biến ở Đông Nam Á, các tộc người ở Đông Nam
Á nói chung, bắt đầu đứng trước ngưỡng cửa của sự hình thành xã hội có giai cấp
và nhà nước. Từ đầu Công nguyên đến thế kỷ II là giai đoạn lòch sử sơ kỳ của các
nước trong khu vực Đông Nam Á. Hàng loạt các quốc gia sơ kỳ ở miền Nam của
khu vực như các tiểu quốc của cư dân nói tiếng Nam Đảo hình thành ven biển từ
Nam Hải Vân (Việt Nam) đến bán đảo Malaya và trên một số hải đảo. Còn các
tiểu quốc của cư dân nói tiếng Môn - Khmer hình thành trên lưu vực sông
Irrawaddy, Mênam, Sêmun, Mêcông. Đáng chú ý nhất là vai trò của nước Phùnam
và Champa.
Sự hình thành các quốc gia sơ kỳ Đông Nam Á dựa trên sự sáng tạo của các
nhóm tộc người khi đồ sắt và văn hóa bản đòa phát triển với sự tiếp thu một cách
Bùi Văn Hùng Khoa Lòch sử

Lịch sử Đông Nam Á - 11 -
tự nhiên ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ và Trung Quốc. Sự trao đổi và liên hệ giữa
các quốc gia sơ kỳ trong khu vực cũng đồng thời tạo nên bản sắc văn hóa riêng của
mỗi tiểu quốc, mỗi tộc người trên bình diện chung của khu vực.
2. GIAI ĐOẠN XÁC LẬP VÀ PHÁT TRIỂN THỊNH ĐẠT CỦA

CÁC VƯƠNG QUỐC ĐÔNG NAM Á
Sau khi vương quốc Phùnam tan rã (thế kỷ VII), một số quốc gia sơ kỳ mới
được thành lập như Srivijaya, Kalinga ở Inđônêxia, quốc gia của người Khmer,
người Môn, người Mianma, người Thái, Những quốc gia Đông Nam Á trong giai
đoạn này thường được xây dựng trên nòng cốt của một bộ tộc đông đảo. Và mặc dù
là bước đầu, song đã xuất hiện những kỳ tích văn hóa, điển hình như tổng thể kiến
trúc Bôrôbua (Borobudur) ở Java.
Giai đoạn này, mỗi tộc người đều cố gắng khẳng đònh chỗ đứng của mình
bằng việc xác lập những vương quốc trên cơ sở một nền kinh tế vững chắc và một
nền văn hóa dân tộc ổn đònh. Các quốc gia phong kiến Đông Nam Á bước vào giai
đoạn phát triển thònh đạt trên nhiều mặt. Nhiều vùng kinh tế quan trọng có khả
năng cung cấp một khối lượng lớn sản phẩm lớn, không những đủ chi dùng cho cư
dân khu vực mà còn xuất ra các khu vực khác trên thế giới. Nhiều công trình văn
hóa, nghệ thuật, nhiều nhà tư tưởng, chiến lược gia kiệt xuất của loài người xuất
hiện, đóng góp vào kho tàng văn hóa của loài người. Đây cũng là giai đoạn Đông
Nam Á vừa tiếp thu, vừa lan tỏa ra bên ngoài khu vực những giá trò lớn về văn hóa.
Các nhóm ngữ tộc trên con đường xác lập vương quốc riêng của mình cũng
khác nhau. Người Môn, rút cục đã không thể đứng vững để duy trì vương quốc của
họ trong cơn bão táp thiên di của người Thái, Mianma từ phương Bắc xuống. Nhóm
cư dân nói tiếng Mã Lai. Đa đảo đã lập nên vương quốc cổ Champa khá sớm,
nhưng đến thế kỷ XV-XVII đã bò chuyển hóa thành một bộ phận của nước Việt
Nam. Một bộ phận khác ở bán đảo Malaya đã lập ra các tiểu quốc nhưng mãi đến
thế kỷ XV, dưới ảnh hưởng của văn minh hồi giáo, hồi quốc Malacca mới tương đối
hùng mạnh ảnh hưởng ra cả bán đảo và một phần Sumatra. Một bộ phận khác của
nhóm này đã trở thành nòng cốt xây dựng một số quốc gia sơ kỳ trên các đảo ở
Inđônêxia.
Mặc dầu phát triển không đồng đều: Campuchia lớn mạnh từ thế kỷ IX và
suy thoái vào thế kỷ XIV; các quốc gia Thái, Lào hình thành muộn hơn (từ thế kỷ
XIII đến thế kỷ XIV), nhưng nhìn chung, thế kỷ XVI là bước ngoặt suy thoái của
các vương quốc Đông Nam Á.

Trong giai đoạn này khi các quốc gia Đông Nam Á vươn lên mạnh mẽ, thì ở
các khu vực khác trên thế giới bò chững lại. Ấn Độ thường xuyên có những biến
Bùi Văn Hùng Khoa Lòch sử

Lịch sử Đông Nam Á - 12 -
động bên trong và sự lan tỏa văn hóa ra bên ngoài giảm hẳn xuống. Trung Quốc bò
khủng hoảng và suy thoái liên miên. Châu Âu bò chìm đắm trong “đêm trường
trung cổ”. Vó ngựa Mông Cổ tràn khắp lục đòa Á, Âu nhưng bò chặn lại ở Đại Việt
và Đông Nam Á. Chính vì vậy, Đông Nam Á đã đạt tới đỉnh cao phát triển của
mình và có lẽ của cả loài người.
3. GIAI ĐOẠN SUY THOÁI CỦA CÁC QUỐC GIA PHONG KIẾN
ĐÔNG NAM Á VÀ PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CHỐNG ÁCH
THỐNG TRỊ CỦA CHỦ NGHĨA THỰC DÂN PHƯƠNG TÂY
Sau giai đoạn phát triển thònh đatï, Đông Nam Á bước vào giai đoạn suy
thoái. Sự suy thoái không diễn ra đồng đều ở các nước trong khu vực mà tùy theo
điều kiện cụ thể mỗi nước. Điểm chung nhất là các quốc gia Đông Nam Á từ thế
kỷ XVI trở đi đã không còn đủ sức thực hiện những đòi hỏi của nền kinh tế xã hội
và những cuộc chiến tranh liên miên để xác đònh lãnh thổ và quyền lực, những
tiềm năng của đất nước đã được tận dụng hết. Chiùnh vì vậy, khi chủ nghóa thực dân
phương Tây xâm nhập, các quốc gia Đông Nam Á không còn đủ sức để tự bảo vệ
mình nữa.
Chế độ phong kiến ở Đông Nam Á ngày càng khủng hoảng toàn diện về
chính trò, kinh tế, xã hội. Những cuộc xung đột giữa các tập đoàn phong kiến, giữa
các bộ tộc làm cho tình trạng chia cắt xảy ra phổ biến, sức sản xuất giảm sút, nhân
dân đói khổ, mâu thuẫn giữa nông dân và đòa chủ phong kiến ngày càng gay gắt
dẫn đến các cuộc khởi nghóa nông dân lớn càng thúc đẩy mạnh hơn sự suy yếu của
chế độ phong kiến các nước.
Trong tình hình như vậy, các công ty thương mại châu Âu đã từng bước xác
lập quyền lực của mình ở khu vực này. Bồ Đào Nha là cường quốc châu Âu đầu
tiên xác lập đòa vò của mình ở các cứ điểm quan trọng thuộc Malacca, Inđônêxia,

Philippin. Sau cuộc cách mạng tư sản ở châu Âu, Bắc Mỹ và Nhật Bản, các cường
quốc tư bản dần dần thay thế đòa vò của Bồ Đào Nha và đặt Đông Nam Á dưới chế
độ thuộc đòa của nó. Tây Ban Nha cai trò Philippin gần 3 thế kỷ và phải nhường cho
Mỹ vào đến thế kỷ XX. Hà Lan thay thế đòa vò của Bồ Đào Nha ở Inđônêxia từ thế
kỷ XVII. Anh xác lập quyền đô hộ của mình ở bán đảo Malaya, Mianma. Pháp ở
Đông Dương và phân chia quyền lực với Anh ở Thái Lan.
Nhân dân các nước Đông Nam Á cũng không ngừng nổi dậy đấu tranh
chống chủ nghóa thực dân phương Tây. Trong giai đoạn từ đầu đến giữa thế kỷ
XIX, phong trào dân tộc các nước Đông Nam Á diễn ra dưới ngọn cờ của giai cấp
đòa chủ phong kiến. Từ giữa thế kỷ XIX đến hết chiến tranh thế giới thứ hai, phong
trào đấu tranh giải phóng dân tộc các nước Đông Nam Á diễn ra dưới ngọn cờ lãnh
đạo của giai cấp tư sản và công nhân thuộc đòa.
Bùi Văn Hùng Khoa Lòch sử

Lịch sử Đông Nam Á - 13 -
4. ĐÔNG NAM Á TỪ NĂM 1945 ĐẾN NAY
Vào những năm cuối của cuộc chiến tranh thế giới thứ hai, chủ nghóa phát
xít thất bại liên tiếp trên khắp các chiến trường. Ở Đông Nam Á, phong trào đấu
tranh chống phát xít Nhật diễn ra sôi nổi dưới nhiều hình thức phong phú, đều thu
được những thắng lợi quan trọng. Ở nhiều nước, cách mạng giải phóng dân tộc
thắng lợi, dẫn đến sự ra đời của các nhà nước độc lập. Nhưng ngay sau đó, các thế
lực đế quốc lấy danh nghóa giải giáp vũ khí của quân Nhật đã nhảy vào Đông Nam
Á, đàn áp các lực lượng yêu nước và lập lại ách thống trò trước đây.
Ở Đông Dương, thực dân Pháp quay lại tiến hành cuộc chiến tranh tàn khốc,
ròng rã 9 năm trời. Ở Inđônêxia, thực dân Hà Lan tái xâm lược kéo dài đến năm
1949 mới chấm dứt. Ở Malaixia, thực dân Anh quay lại chiếm đóng đến năm 1957
mới kết thúc. Ở Mianma, thực dân Anh cũng âm mưu lập lại ách thống trò đến năm
1947 mới rút quân. Ở Philippin, đế quốc Mỹ thông qua các hiệp đònh “viện trợ”
quân sự và kinh tế để đặt lại các căn cứ quân sự.
Sau thất bại của Pháp tại chiến trường Đông Dương (1954), Mỹ nhảy vào

thay thế Pháp, lôi kéo cả Đông Nam Á vào cuộc chiến tranh chống 3 nước Đông
Dương. Nhân dân Việt Nam cùng nhân dân Lào, Campuchia đã kiên cường chiến
thắng cuộc xâm lược của đế quốc Mỹ và chư hầu, lập nên kỳ tích năm 1975. Các
nước Đông Nam Á bước vào một giai đoạn mới xây dựng và phát triển kinh tế. Tuy
nhiên, nhiều vấn đề mới nảy sinh ở khu vực như: vấn đề Campuchia, vấn đề biển
Đông, sự gia nhập tổ chức ASEAN của các nước Việt Nam, Lào, Campuchia và
Mianma, quyền tự chủ của nhân dân đông Timo, thu hút sự chú ý của nhiều nước
trên thế giới. Tổ chức ASEAN đã đóng vai trò tích cực trong việc giải quyết các
vấn đề tồn đọng. Hiện nay, các quốc gia trong khu vực đều có mặt trong tổ chức
ASEAN, cùng nhau ngồi vào bàn hội nghò để nỗ lực giải quyết các vướng mắc
nhằm “xây dựng Đông Nam Á thành một khu vực tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã
hội và phát triển văn hóa, hợp tác bình đẳng và giúp đỡ lẫn nhau trong nhiều lónh
vực, nhằm tăng cường cơ sở cho một cộng đồng thònh vượng, hòa bình và ổn đònh
của các quốc gia Đông Nam Á “(tuyên bố Băngkok 8/8/1967)
1
.






1
Vũ Dương Ninh: hành trình hội nhập Việt Nam-ASEAN - Tạp chí Cộng sản số 15; 8/1997 trang 53
Bùi Văn Hùng Khoa Lòch sử

Lch s oõng Nam A - 14 -










Buứi Vaờn Huứng Khoa Lũch sửỷ

Lịch sử Đông Nam Á - 15 -
CHƯƠNG II. CAMPUCHIA

I. ĐẤT NƯỚC VÀ DÂN CƯ
1. ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN
Campuchia là một nước thuộc bán đảo Đông Dương, Bắc giáp Lào, Đông
giáp Việt Nam, Tây và Tây Bắc giáp Thái Lan, phía Nam là vònh Thái Lan, diện
tích Campuchia là 181.035km
2
, dân số năm 1996 là 10,25 triệu người. Về hình thể
Campuchia, nhìn trên bản đồ, có người ví như một tấm lưới đang tung ra, ở giữa là
biển hồ Tônlêsap trông giống như một con cá. Các nhà đòa lí Campuchia ví đất
nước mình như một cái chảo, mà Tônlêsap và vùng quanh vùng bờ hồ là lòng chảo,
còn dãy núi Đăngrếch ở phía Bắc, dãy Đậukhấu ở phía Nam và cao nguyên Basan
ở phía Đông thì tạo nên vành chảo.
Biển hồ Tônlêsáp là một trong những nơi có mật độ cá dày đặc nhất thế
giới. Đồng bằng Campuchia không nhiều, chỉ có Bátđomboong ở phía Tây là tương
đối bằng phẳng và phì nhiêu. Vùng trung lưu sông Mêcông và sườn dốc quanh Biển
hồ là có thể trồng lúa nhưng hẹp và không màu mỡ. Cư dân Khmer cổ canh tác chủ
yếu ở cao nguyên Còrạt (nay thuộc Thái Lan) là một đòa bàn hẹp và thiếu nước, bù
lại, đất trồng cây ăn quả khá nhiều.
Rừng núi ở Campuchia bao quanh đất nước, chứa đựng nhiều gỗ quý, các

loại lâm sản và khoáng sản. Sông Mêcông chảy qua Campuchia là nguồn nước tưới
tiêu, cung cấp thực phẩm và trục giao thông quan trọng của đất nước.
Campuchia cũng là một nước có khí hậu nóng và hơi ẩm của khu vực nhiệt
đới gió mùa. Mỗi năm có hai mùa: mùa mưa bắt đầu từ tháng 3 đến hết tháng 10,
thời gian còn lại là mùa khô.
2. DÂN CƯ
Điều kiện tự nhiên ở Campuchia nhìn chung rất thuận lợi cho đời sống của
con người. Theo những kết quả nghiên cứu gần đây nhất, người ta cho rằng, cư dân
cổ xưa nhất Đông Nam Á sinh sống trên đất nước Campuchia ngày nay chính là
người Pnong. Đòa bàn sinh tụ đầu tiên của họ là cao nguyên Còrạt và trung lưu
sông Mêcông (Đông Bắc Thái Lan). Trong quá trình sinh sống họ đã di cư dần về
vùng biển hồ Tônlêsáp cho thích hợp với kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước. Cho
tới tận thời đại đồng thau, ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ chưa thấy có dấu vết gì.
Bùi Văn Hùng Khoa Lòch sử

Lịch sử Đông Nam Á - 16 -
Và quá trình hình thành người Khmer là một quá trình bản đòa
1
. Hiện nay người
Khmer chiếm số đông tuyệt đối ở Campuchia và họ rất gần gũi với người Pnong ở
miền núi Campuchia về mặt nhân học. Bên cạnh đó còn có một bộ phận cư dân
không lớn di cư từ các vương quốc láng giềng đến lập nghiệp.
II. CÁC GIAI ĐOẠN LỊCH SỬ CAMPUCHIA
1. SỰ RA ĐỜI CỦA QUỐC GIA SƠ KỲ CAMPUCHIA
Mặc dù văn hóa khảo cổ Campuchia còn tương đối nghèo nàn nhưng cũng
giúp cho chúng ta nhận biết về quá trình chuyển biến từ thời đá cũ đến khi xuất
hiện nhà nước ở Campuchia.
Vào những năm 60 của thế kỷ XX, E.xôrin (E.Saurin) đã công bố những hòn
đá cuội được ghè đẽo thô sơ dọc theo thềm sông Mêcông (150km trung lưu) niên
đại khoảng 60 vạn năm. Sau đó, các nhà khảo cổ cũng tìm thấy lẻ tẻ vài dấu vết

văn hóa đá mới ở miền Nam Campuchia, R.Murê (R.Mourer) khai quật khu di chỉ
Laangspean (Batđomboong) phát hiện nhiều công cụ đá, gốm thô sơ dạng văn hóa
Hòa Bình, niên đại khoảng trên 4000 năm TCN. Ở hai di chỉ Samrôngxen và
Andlongpdau thuộc Tây Nam Biển hồ có niên đại 1000 năm TCN, người ta cũng
tìm thấy nhiều rìu mài, đồ gốm và hiện vật đồng thau có liên hệ với Laangspean và
Còrạt. Ở Mluprây người ta cũng phát hiện ra một cụm di chỉ đồng thau và sơ kỳ đồ
sắt. Như vậy, ở Campuchia đã diễn ra một quá trình phát triển liên tục từ thời đá cũ
đến thời đại kim khí ở đòa bàn chủ yếu ven trung lưu sông Mêcông và lưu vực sông
Sêmun.
Dưới tác động của văn hóa Ấn Độ, từ thế kỷ V đến thế kỷ VI, ở ngã ba
sông Mêcông và Sêmun đã hình thành quốc gia sơ kỳ Campuchia
2
. Theo các tài
liệu sau này, người ta biết rằng vương quốc này có tên là Bhavapura, người Trung
quốc gọi là Chânlạp. Người sáng lập ra vương quốc này có tên là Bhavavarman.
Ông đã chấm dứt sự lệ thuộc vào Phùnam. Em trai ông là Mahendravarman
(khoảng 600-620) bắt đầu tấn công Phùnam. Tổ chức nhà nước Campuchia thời kỳ
này còn đang ở trạng thái sơ khai. Từ 620 đến 650, vua Isanavarman tiếp tục chinh
phục xuống phía Nam, tiến đánh Phùnam ở tận Naravara (An Giang-Việt Nam).
Sự thắng lợi của vương quốc Campuchia đã mở đường cho cuộc Nam tiến
lần thứ nhất của tộc Khmer, hình thành bộ phận Khmer phía Nam trên lãnh thổ
Phùnam cũ
3
. Kinh đô của vương quốc do Isanavarman lập ra ở bên bờ sông

1
Lương Ninh: Lòch sử trung đại thế giới Q2. NXB Đại học và THCN, Hà Nội, 4-1984, Trang 68-69

2
Dựa vào một số di tích cổ và bia chữ Phạn tìm thấy được ở khu vực này

3
Phùnam là một tập hợp các tiểu quốc thuộc các tộc người khác nhau ở Đông Nam lục đòa.
Bùi Văn Hùng Khoa Lòch sử

Lịch sử Đông Nam Á - 17 -
Stingsen gần Kompôngthom có tên là Isanapura. Cư dân Khmer của vương quốc
phân bố ở những thềm cao ở Takeo, Prâyveng, trung lưu sông Mêcông và Đông
Bắc Biển hồ. Cảng thò Naravara bò bỏ rơi và lụi tàn.
Về tổ chức của vương quốc, Tuỳ thư chép: “Ông hoàng lập cung điện ở
thành Ysơna (Isanapura), nơi có đến hai vạn gia đình sinh sống, vương quốc còn
có 30 thành thò nữa, mỗi nơi cũng có hàng vạn gia đình sinh sống và do một tổng
đốc cai quản. Quan tước đặt ra cũng giống như ở làng ấp, Các quan thượng thư
này có 5 người cả thảy, trong đó có một người là quan tể tướng. Hàng nghìn quân
cấm vệ mặc áo giáp, cầm giáo đứng thành hàng ở chân bậc ngai vàng, , nhà ở
cũng giống như xích thổ (hạ lưu sông Mênam)”
1
.
Vương quốc Campuchia cũng đặt quan hệ ngoại giao với Trung Quốc,
Champa.
Kinh tế - xã hội Campuchia biến đổi mạnh mẽ. Tấm bia ngko Bôrây có
niên điểm 611 cho biết, ngôi đền này có tới 22 nhạc công và vũ nữ, 58 nô lệ làm
ruộng, 100 bò và 20 trâu.
Đời sống văn hóa của người Khmer được nâng cao. Nhiều đền thờ Ấn Độ
giáo được xây dựng vừa mang phong cách kiến trúc Ấn Độ vừa bắt đầu thể hiện
những đặc trưng Khmer. Pho tượng Harihara gồm hai nửa Vishnu và Siva là hình
thức độc đáo ít thấy ở các nước láng giềng và Ấn Độ. Văn học chữ Phạn ngày càng
lưu loát và chính xác, thể hiện qua số lượng văn bia, thơ, văn vần. Điều đặc biệt
nhất là sự ra đời của chữ Khmer cổ, chữ Khmer cổ được người Khmer sáng tạo ra
trên cơ sở chữ Phạn kết hợp với ngôn ngữ của họ. Bia chữ Khmer cổ sớm nhất có
niên điểm 611 được tìm thấy ở Takeo (bia ngko Bôrây).

Campuchia sơ kỳ bước vào giai đoạn khủng hoảng từ sau khi vua
Jayavarman chết (650-680). Hoàng hậu Jayadevi nắm quyền từ năm 681 đến năm
713 đã gây ra tình trạng bất bình trong giới quý tộc và quan lại. Năm 713,
Puskaraksa đã truất quyền nữ hoàng tự lập làm vua và dời kinh đô tới Sambaur,
trên bờ sông Mêkông và đặt tên là Sambhupura. Cùng thời gian đó, một bộ phận
Khmer gốc đã lập vương quốc riêng trên lưu vực sông Sêmun. Hai vương quốc này
lấy dãy núi Đăngrếch và thác Khổng làm đòa giới tự nhiên. Vương quốc
Campuchia bò phân liệt gần một thế kỷ, năm 774 bò vương triều Núi ở Java tấn
công và chiếm đóng phần lãnh thổ phía Nam.
Sự hình thành và bước đầu phát triển của vương quốc Campuchia sơ kỳ
phản ánh những cố gắng đầu tiên trong việc quy tụ và mở rộng đòa bàn cư trú của
người Khmer. Mặc dù có sự chia cắt, song sự thành lập vương quốc lại là một yếu

1
Trích theo Lương Ninh, Sđd, trang 83,84.
Bùi Văn Hùng Khoa Lòch sử

Lịch sử Đông Nam Á - 18 -
tố xúc tác quan trọng nhất cho sự trao đổi và liên kết giữa các vùng, là tiền đề cho
sự phát triển vững chắc của giai đoạn sau.
2. SỰ KHÔI PHỤC VÀ PHÁT TRIỂN CỦA VƯƠNG QUỐC
CAMPUCHIA (802 - 1181)
Sau khi đánh dẹp được các thủ lónh cát cứ và quân đồn trú Java, vào năm
802, một hoàng thân Khmer đã lên ngôi vua với vương hiệu là Jayavarman II. Chỉ
trong một năm, Jayavarman II đã khôi phục được vương quốc trên lãnh thổ miền
Nam, tức là vùng xung quanh Tônlêsáp và thềm cao của hạ lưu sông Mêcông.
Vương triều Jayavarman kéo dài từ năm 802 đến năm 944, có tất cả 8 đời
vua. Nhà vua vừa là người đứng đầu giáo hội được thần thánh hóa, vừa là người có
quyền hành cao nhất của nhà nước. Các tăng lữ Bàlamôn giữ những chức vụ cao
quý. Sau nhiều lần chọn đòa điểm xây dựng kinh đô, cuối cùng Jayavarman II đã

lập kinh đô mới ở núi Kulên, phía Bắc Xiêmriệp, đặt tên là Mahendrapura (nghóa
là thành phố của thần vó đại). Kinh đô này cách ngco 50 km về phía Đông Bắc.
Đến đời vua thứ IV, Yasovarman (889-900) đã dời đô về núi Bakheng và
đặt tên mới là Yasodharapura hay còn gọi là Ăngco (ngco I, Phạn ngữ là quốc
đô). Từ đó, ngco là kinh đô của Campuchia cho tới thế kỷ XV. Lòch sử gọi thời kỳ
này là thời kỳ ngco. Về mặt vò thế, Ăngco có những điều kiện thuận lợi lớn, là
trung tâm của đòa bàn cư trú của người Khmer, xung quanh Ăngco chủ yếu là rừng,
nguồn nước tự nhiên phong phú (sông Xiêmriệp và Biển hồ), Tây là đồng bằng
Bátđomboong, Đông Bắc là ruộng ở thềm cao của sông. Vò thế này phù hợp với
điều kiện kỹ thuật thấp, dân số ít và quan hệ với bên ngoài còn hạn chế. Vì vậy,
trong một thời gian khá dài, vương quốc Campuchia phát triển thònh đạt.
Năm 944, Rajendravarman II lên ngôi vua ở cả hai miền Nam, Bắc
Campuchia. Ông là con của Mahendravarman (thuộc hoàng tộc Bhavapura ở miền
Bắc) và Mahendradevi (dì ruột của Hasavarman II (942 - 944) vua của dòng Nam).
Sự kiện này mở đầu một giai đoạn thống nhất của vương quốc dưới thời trò vì của
vương triều III. Tuy nhiên, cuộc đấu tranh thống nhất vương quyền vẫn diễn ra gay
gắt và ưu thế thuộc tộc hệ mặt trời Kambuja
1
. Vì vậy, người ta còn gọi vương quốc
Campuchia là Kambujadesa trong thời kỳ từ năm 944 đến năm 1177 gồm 14 đời
vua, hay là tên gọi Campuchia bắt nguồn từ Kambujadesa.
Về quân sự, quân đội Campuchia được xây dựng vào loại lớn mạnh nhất
khu vực thời bấy giờ. Trên cơ sở đó, các triều vua thuộc vương triều này đã mở
rộng các cuộc chiến tranh xâm lược bên ngoài. Ở phía Đông, vương quốc

1
Văn bia của vương triều miền Nam từ thế kỷ IX đã gọi tộc hệ của mình là Kambuja (mặt trời) và
tộc hệ phía Bắc là Somavamsa (mặt trăng)
Bùi Văn Hùng Khoa Lòch sử


Lịch sử Đông Nam Á - 19 -
Campuchia tấn công Champa nhiều lần trong những năm 1145 đến 1149 và cử
hoàng thân Campuchia cai trò trực tiếp; 5 lần tấn công Đại Việt vào các năm 1128,
1129, 1132, 1138 và 1150. Ở phía Tây, Suryavarman I (1002-1050) hoàn thành việc
chinh phục vùng Trung và Hạ lưu sông Chaophya (Mênam) và củng cố quyền lực
của vương quốc trên cao nguyên Còrạt.
Về kinh tế, hệ thống thủy lợi được xây dựng hoàn chỉnh, sản xuất nông
nghiệp ổn đònh, việc buôn bán trong nước và nước ngoài phát triển, nhất là quan hệ
với Trung Quốc (nhà Tống) và Việt Nam (Lý). Dân cư gia tăng không ngừng.
Về văn hóa, Ấn Độ giáo tiếp tục được tôn sùng, trong khi Phật giáo Tiểu
thừa bắt đầu xâm nhập. Suryavarman (1130 - 1150) đã xây dựng lại kinh đô ngco
gọi là ngco Vat (ngco II). Nhiều đền tháp bằng đá vào loại kỳ vó nhất thế giới
được xây dựng.
Năm 1165, Tribhuvanadi cướp ngôi vua, làm cho tình trạng Campuchia rối
ren. Vua Champa là Jaya Indravarman IV mang quân tấn công và chiếm đóng
Campuchia. Mãi đến năm 1181, Jayavarman VII mới giành lại được độc lập, mở
đầu thời kỳ hưng thònh mới của vương quốc Campuchia.
3. SỰ THỊNH ĐẠT VÀ BƯỚC ĐẦU SUY THOÁI CỦA VƯƠNG
QUỐC CAMPUCHIA (1181-1434)
Sau khi khôi phục quyền độc lập, Jayavarman VII đã tích cực tổ chức lại bộ
máy hành chính, xây dựng lại cung điện, đền thờ đã bò phá hủy trong chiến tranh,
củng cố lực lượng quân sự chuẩn bò mở những cuộc chiến tranh bành trướng ra bên
ngoài.
Năm 1190, Jayavarman VII tấn công Champa, biến Champa thành một tỉnh
của Campuchia. Ông tiến hành chinh phục toàn bộ vùng lưu vực sông Mênam. Ông
cũng đã mở rộng biên giới tới tận Luôngphabăng (Lào). Như vậy, lãnh thổ
Campuchia thời Jayavarman VII, phía Đông tới biển, phía Bắc giáp giới Trung
Quốc và Đại Việt, phía Tây tới Mianma.
Cả vương quốc chia làm 90 tỉnh
1

, đứng đầu là các quý tộc và các công thần,
hệ thống giao thông liên lạc khá hoàn chỉnh với 121 trạm nghỉ. Hệ thống chính
quyền từ trung ương đến đòa phương được tổ chức hoàn chỉnh theo mô hình nhà
nước quân chủ chuyên chế.
Các mặt kinh tế, chính trò của vương quốc đều phát triển cực thònh.
Jayavarman VII đã cho thống kê số đến chùa, tượng thần, tăng lữ, làng mạc và
nông dân. Quy đònh chế độ thuế khóa, lập bệnh viện (120 cái). Ông còn cho xây

1
Văn bia Campuchia lại nói là có 23 tỉnh
Bùi Văn Hùng Khoa Lòch sử

Lịch sử Đông Nam Á - 20 -
dựng kinh đô ngco Thom cách ngco Vát hơn một km về phía Bắc. ngco Thom
(Ăngco III) là một tổng thể kiến trúc đồ sộ gấp ngco Vát 4 lần. Điểm khác biệt
lớn nhất là dấu ấn Phật giáo Đại thừa trội hơn Ấn Độ giáo.
Sau thời Jayavarman VII, vương quốc Campuchia vẫn tiếp tục hùng mạnh,
liên tục tấn công các nước láng giềng nhưng đã yếu đi rất nhiều và chấm dứt hẳn
từ sau năm 1218. Trước đó Campuchia 3 lần tấn công Đại Việt vào các năm 1207,
1216 và 1218, nhưng đều thất bại. Năm 1220, Campuchia phải trao trả độc lập cho
Champa và làm ngơ trước sự lập quốc của người Lào, Thái, thậm chí còn bò người
Thái tấn công, xâm lấn và cai trò (1352-1357, 1394), vương quốc Campuchia bò
chiến tranh tàn phá, kinh đô bò mất đi bộ mặt đông đúc và thònh vượng và đến năm
1432, vua Pơnhiayết dời đô về Basan. Cuối cùng, năm 1434, ông dời đô về thành
phố 4 mặt sông (Chakdomuk) là Phnômpênh ngày nay. Lý do của sự dời đô này
chủ yếu vì Ăngco đã tàn lụi, người Thái liên tục tấn công kinh đô cũ. Lòch sử
Campuchia bước sang thời kỳ mới, thời kỳ suy thoái của chế độ phong kiến
Campuchia.
 Tình hình kinh tế, xã hội và văn hóa Campuchia thời kỳ Ăngko
Về kinh tế: cơ sở của nền kinh tế là nông nghiệp trồng lúa. Cư dân nông

nghiệp Khmer trồng lúa theo thời vụ và thu hoạch một phần là “lúa trời” như ở
Nam bộ Việt Nam. Gạo còn làm vật trung gian trao đổi và nộp thuế. Tuy nhiên, kỹ
thuật khá lạc hậu, ruộng chủ yếu là độc canh, chưa dùng bò kéo, chưa bón phân.
Thủ công nghiệp của cư dân Khmer cũng khá phát triển về các nghề làm
gốm, dụng cụ gia đình, dệt vải bằng sợi bông, đóng xe bò kéo, thuyền gỗ, đồ dùng
và đồ trang sức quý, nhất là kỹ thuật xây dựng đền tháp tuyệt vời. Tuy nhiên, kỹ
thuật thủ công còn ở trình độ thấp.
Mặc dù có các loại sản phẩm của nước ngoài như là đồ sứ, lụa, sơn mài, vải
gai, vàng bạc, dụng cụ bằng đồng của Trung Quốc, song rất ít tài liệu ghi chép về
thương mại Campuchia giai đoạn này. Tường Bayon có bức phù điêu miêu tả cảnh
chợ búa: người bán rượu, bán cá, chọi gà, đánh cờ.
Sản vật tự nhiên phong phú như cá ở Biển hồ, muông thú phong phú ở rừng,
“lúa trời” và các loại cây rau cỏ, bầu bí, gỗ quý, sáp ong, ngà voi, sừng tê, đậu
khấu, cánh kiến, hồ tiêu, chính là điều kiện tốt nhất để giúp cho cư dân Campuchia
có cuộc sống ổn đònh và phát triển.
Đáng chú ý nhất là, bằng sức lao động và khả năng sáng tạo của mình,
người Khmer đã tạo nên những công trình thủy lợi to lớn bên cạnh những ngọn tháp
hùng vó. Tiêu biểu nhất là hai hồ Baray Đông thời Yasovarman I (7000mx12000m)
và Baray Tây thời Udayadityavarman II (8000m x 2200m) để trữ nước, khắc phục
Bùi Văn Hùng Khoa Lòch sử

Lịch sử Đông Nam Á - 21 -
hạn hán và lũ lụt. Ngoài ra còn có khá nhiều hồ lớn, nhỏ và hệ thống kênh mương
dẫn nước để bảo vệ đất khỏi bò sói mòn, giao thông vận tải hữu hiệu.
Về xã hội: nông dân là bộ phận chủ yếu trong xã hội Campuchia. Họ là lực
lượng sản xuất chính, vừa tạo ra sản phẩm nông nghiệp, thủ công nghiệp thậm chí
cả trao đổi sản phẩm và đồng thời cũng là lực lượng chính tạo nên những công trình
thủy lợi, kiến trúc vó đại. Hầu hết nông dân Campuchia thời kỳ này đều là người tự
do, sống theo từng làng, dưới dạng công xã nông thôn, sự phân hóa giàu nghèo,
quyền chiếm hữu tư nhân về ruộng đất đã xuất hiện thể hiện qua “Chânlạp phong

thổ ký” của Chu Đạt Quan và văn bia về một số vụ tranh chấp và kiện cáo gay gắt
về ruộng đất.
Nô lệ có số lượng đáng kể và đóng vai trò quan trọng trong đền miếu, hầu
hạ trong gia đình quý tộc. Họ cũng có một phần ruộng đất, sống thành làng và tự
cày cấy để nuôi sống mình. Họ là tài sản của chủ hay đền miếu có giá cả, có
chuyển nhượng, cho tặng. Đến cuối thế kỷ XVIII, Phật giáo Tiểu thừa thònh hành,
đền Ấn Độ giáo bò bỏ hoang, ruộng đất, nô lệ chuyển sang nhà nước. Lúc đó các
ghi chép của Chu Đạt Quan chỉ nói về nô tì của quý tộc quan lại và cả nhà giàu.
Đứng đầu tầng lớp quý tộc, quan lại là nhà vua, tiếp đến là tể tướng và các
quan thượng thư, các quan cố vấn và tư pháp. Bên dưới là hệ thống quan lại từ cấp
tỉnh đến làng xã. Một số tăng lữ có học vấn cao cũng tham gia nhiều công việc
quan trọng của Nhà nước. Quý tộc và quan lại do nhà vua bổ nhiệm và trả “lương”
dưới hình thức bổng lộc thường xuyên. Họ không có lãnh đòa riêng mà thu nhập từ
nguồn thuế sản phẩm và tô lao dòch bổ dòch theo làng và số lao động. Hệ thống
quan chức ở vương quốc Campuchia thời kỳ này nhìn chung đã hoạt động có vai
trò thực tế, hữu hiệu trong công cuộc xây dựng và phát triển vương quốc. Một bộ
phận đòa chủ cũng đã tồn tại ở vương quốc nhưng rất ít tài liệu nhắc đến.
Về văn hóa: tiếng Khmer có nhiều yếu tố mang đặc trưng cơ tầng Nam Á.
Nhưng điểm khác biệt quan trọng là hệ thống số đếm dựa trên số 5 chứ không phải
hàng chục. Dựa trên chữ cổ Ấn Độ Sanskrit, người Khmer đã sáng tạo ra hệ thống
chữ cổ Khmer từ thế kỷ thứ VI và có thể là thế kỷ thứ VII (văn bia Ăngco Bôrây
có niên điểm 611).
Thời kỳ thònh đạt Ăngco, văn chữ Phạn được coi là văn chương bác học, chữ
Khmer hầu như chỉ được viết với tính cách là những thông báo đơn giản cho quần
chúng. Đến thế kỷ thứ XIII, chữ Khmer dần dần được cải tiến và hầu như thay thế
hẳn chữ Phạn.
Tôn giáo là một trong những yếu tố quan trọng khác của đời sống văn hóa.
Tín ngưỡng cổ truyền (đa thần giáo) và thờ cúng tổ tiên vẫn là một bộ phận quan
Bùi Văn Hùng Khoa Lòch sử


Lịch sử Đông Nam Á - 22 -
trọng và là nền tảng của đời sống tinh thần của nhân dân Khmer. Các tôn giáo lớn
ảnh hưởng mạnh mẽ ở vương quốc Campuchia. Ấn Độ giáo thònh hành ở
Campuchia. Đến thế kỷ XI, Phật giáo Đại thừa gia tăng ảnh hưởng và đến
thờiJayavarman VII được coi là quốc giáo. Đến thế kỷ XIII, Phật giáo Tiểu thừa
bắt đầu gia nhập và thay thế dần đòa vò các tôn giáo khác. Tuy nhiên các giáo phái
khác nhau vẫn tồn tại và hoạt động yên ổn bên cạnh nhau như đặc tính của phương
Đông vậy.
Nghệ thuật kiến trúc Campuchia với hàng trăm đền tháp lớn nhỏ là minh
chứng rõ ràng cho tài năng đặc biệt của người Khmer. Trong đó nổi bật lên hai
công trình là Ăngco Vát và Ăngco Thom là niềm tự hào và kiêu hãnh của nhân dân
Campuchia.
Ăngco Vát (Ăngco II) là một tổng thể kiến trúc bằng đá gồm 5 ngôi tháp
chạm khắc công phu đặt trên một bệ cao hình chữ nhật 187m x 215m, đỉnh cao nhất
là 63m. Xung quanh là hào nước chiều rộng 200m, chu vi 5,5km, đều lát đá 18 bậc
cao. Bao bọc khu vực là bức tường cao bằng đá ong và sa thạch có các tháp đặt tại
4 góc. Hoa văn và tượng thần đều nhằm mục đích thờ thần Vishnu và Siva.
Ăngco Thom (Ăngco III) là một tổng thể kiến trúc nổi bật lên bằng 49 ngọn
tháp 4 mặt đặt trong một khuôn viên đồ sộ gấp 4 lần Ăngco Vát, có 2 lần tường
thành bao bọc hình vuông, mỗi cạnh 4 km. Năm con đường đất nổi đi qua 5 cổng đồ
sộ, mỗi cổng đều có tháp, hai bên đường là lan can dưới hình thức những người
khổng lồ dùng đầu gối đỡ một con rắn có bảy chiếc đầu xòe ra như cánh quạt, ở
mỗi đầu của con đường đắp nổi. Ở trung tâm Ăngco Thom là ngôi đền Bayon hình
kim tự tháp, đỉnh bằng vàng, bốn mặt người khổng lồ. Các phiến đá chồng lên nhau
không hề có xi măng. Vách tường là chân dung của Jayavarman VII dưới hình thức
Bồ tát Đại thừa Avalokitesvara.
Phong tục tập quán xa xưa của người Khmer được Chu Đạt Quan kể lại như
lễ sơ sinh, lễ trưởng thành cho con gái tuổi 14 gồm nhiều bước như vào phòng the
(chol - molup), cắt búi tóc, học cư sử (chap - srey), học nữ công, phong tục cưới xin,
ma chay, lễ cúng tổ tiên (pchum - ben), các nghi thức ngày tết (cholchram - thmây).

Đầu năm mới, mỗi gia đình đều đắp núi công tích trên đòa điểm xây dựng công
trình công ích trong làng.
Người Khmer thích nhạc và ca múa. Họ hòa vào điệu múa thật cởi mở, vui
tươi, dễ gần gũi. Dàn nhạc gồm những bộ trống, chiêng độc đáo.
Những công trình thủy lợi cũng chính là nền tảng của kiến trúc Ăngco mà
công sức và tài năng lớn lao của cư dân Khmer đã tạo ra trong việc thích ứng với
Bùi Văn Hùng Khoa Lòch sử

Lịch sử Đông Nam Á - 23 -
hoàn cảnh môi trường. Điều đó cũng nói lên cơ sở liên kết với tộc người và đònh
hình của văn hóa Khmer.
4. GIAI ĐOẠN KHỦNG HOẢNG, SUY VONG CỦA VƯƠNG QUỐC
CAMPUCHIA VÀ PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CHỐNG THỰC
DÂN PHÁP XÂM LƯC CỦA NHÂN DÂN CAMPUCHIA (1434 -
1945)


Sự khủng hoảng, suy vong của vương quốc Campuchia (1434-1863)
Từ năm 1434 kinh đô mới của Campuchia là Catunmuka (thành phố bốn
mặt sông Phnômpênh)
1
, trọng tâm của vương quốc chuyển về vùng Đông Nam của
Biển hồ. Vùng này bao gồm chủ yếu những tỉnh Konđan, Prâyveng, Xoàiriêng,
Takeo hiện nay, với những cánh đồng bằng phẳng và đất đai phì nhiêu.
Năm 1450, vương quốc Ayutthaya (Ayut’ia) cho quân tấn công Campuchia,
mở đầu giai đoạn II của cuộc chiến tranh xâm lược của người Thái (1450-1595).
Nhân dân Campuchia dưới sự lãnh đạo của vua Srey (têân khác là Tieraraja) đã
đánh bại cuộc xâm lược này. Nhưng trong nội bộ vương triều Campuchia xảy ra âm
mưu cướp ngôi của Soryotei (con trai vua Preah Noreay, cháu ruột của Srey). Đất
nước bò chia xẻ làm ba (1460-1475), gây nên chiến tranh, làng mạc tiêu điều, xơ

xác. Em trai của Srey là Thommo Reachea đã bí mật liên hệ với người Thái. Năm
1475, Thommo được quân Thái đưa lên ngôi nên đã chấp nhận sự bảøo hộ của người
Thái. Vua Srey và Soryotei bò bắt đưa về Ayutthaya. Đầu thế kỷ XVI, vương quốc
Campuchia bò chia làm ba phe lại tranh chấp nhau dữ dội. Năm 1529, Angchan
thắng thế dẹp yên các đối thủ lên ngôi vua và dời đô về Lôvếch. Cuộc chiến tranh
chống Ayutthaya xâm lược vẫn diễn ra vào các năm 1525, 1540, 1588, 1590,
1593,1595. Kết quả, vương triều Campuchia giữ quan hệ thần phục người Thái.
Năm 1618, vua Cheychetta II lên ngôi (1618-1628). Năm 1620, ông đònh đô ở
ông và kết hôn với công chúa Ngọc Vạn, con chúa Nguyễn Phúc Nguyên (Việt
Nam), nhằm tìm chỗ dựa mới để khôi phục nền tự chủ. Từ đây, Campuchia đặt
dưới sự tranh giành ảnh hưởng của Xiêm và Việt. Khủng hoảng triều chính diễn ra
thường xuyên và sâu sắc: thế kỷ XVI có 13 đời vua, thế kỷ XVIII có 17 đời vua thì
có 7 người bò giết, 3 người bò lật đổ, 4 cuộc bạo động lớn của quý tộc. Cuối thế kỷ
XVIII, Xiêm giành được quyền bảo hộ ở Campuchia. Năm 1792, Xiêm đưa Angeng
về làm vua ở Campuchia. Hai năm sau ông chết, Campuchia không có vua. Đến
năm 1806, Xiêm mới đưa con ông là Angchan lên ngôi và sắp đặt quan chức cho

1
Theo D.G.E Hall : “Lòch sử Đông Nam Á”- Nhà xuất bản chính trò Quốc gia Hà Nội 1997 thì kinh đô Ăêngko bò bỏ rơi vào
năm 1444. Trang 204 - 212.

Bùi Văn Hùng Khoa Lòch sử

Lịch sử Đông Nam Á - 24 -
Campuchia. Angchan mượn quân Nguyễn để loại bỏ ảnh hưởng của Xiêm thành
công. Năm 1834, Angchan chết, triều đình Huế đưa con gái ông là Angmay lên
ngôi. Chiến tranh Xiêm - Việt nổ ra đến 1874, hai bên thỏa thuận đưa Angđuông
(thân Xiêm) lên ngôi. Năm 1860, Angđuông chết, con ông là Angvôtây được Xiêm
đưa về làm vua, hiệu là Nôrôđôm. Xung đột lớn giữa Angphim (Sivôtha) và
Nôrôđôm diễn ra gay gắt. Tháng 7- 1863, chiến hạm Gia Đònh do quan ba

Doudartde Lagrée chỉ huy, nổ súng thò uy, Nôrôđôm chấp nhận ngay lập tức sự bảo
hộ của Pháp. Lòch sử Campuchia bước sang trang mới.

Tình hình kinh tế, chính trò, xã hội Campuchia từ 1434 đến 1863
Về kinh tế: khi trọng tâm chính trò chuyển về Đông Nam Biển hồ, điều kiện
đồng ruộng bằng phẳng, đất đai phì nhiêu tỏ ra rất thuận lợi cho cư dân Khmer phát
triển kinh tế nông nghiệp truyền thống. Họ trồng lúa trên những thềm cao con
sông, tận dụng nguồn nước tự nhiên bằng những công trình thủy lợi. Nhiều ao, hồ
được đào trong làng để phục vụ đời sống con người. Tuy nhiên, trình độ kỹ thuật
canh tác còn rất lạc hậu, không bón phân mà chỉ đốt cỏ trước khi làm đất, ruộng
đất chủ yếu trồng một vụ. Những chân ruộng thấp và đầm lầy hầu như không được
nhân dân chú ý trồng cấy.
Trong điều kiện ruộng đất rộng rãi chưa được khai phá, nông dân Campuchia
khai phá ruộng hoang và được chia một khẩu phần vónh viễn. Quyền sử dụng ruộng
đất tối cao thuộc nhà vua. Mặc dù ruộng tư tồn tại phổ biến song vẫn không phát
triển được do kỹ thuật canh tác lạc hậu, phương thức canh tác còn dựa chủ yếu vào
tự nhiên, ruộng đất rộng rãi không trở thành một vấn đề sống còn với cư dân nên
công xã đã giữ được tính bảo lưu lâu dài của nó. Các mặt kinh tế khác nhìn chung
kém phát triển.
Về chính trò, xã hội: ở Campuchia tồn tại một chính quyền phong kiến không
tập trung. Đứng đầu đất nước là nhà vua - đại biểu cao nhất về vương quyền và
thần quyền. Đạo Phật là quốc giáo cũng thừa nhận nhà vua là kẻ có quyền uy lớn
nhất và có nghóa vụ phải thực hiện quyền lực đó. Bộ máy chính quyền ở trung ương
còn đơn giản và phân quyền mạnh mẽ, gồm ba vương phủ có quyền lợi kinh tế lớn
:
- Vương phủ của phó vương có quyền thu thuế và cai quản 7 tỉnh.
- Vương phủ của thái tử có quyền thu thuế và cai quản 5 tỉnh.
- Vương phủ của hoàng thái hậu có quyền thu thuế và cai quản 3 tỉnh.
Bùi Văn Hùng Khoa Lòch sử


Lịch sử Đông Nam Á - 25 -
Đơn vò hành chính xã hội chủ yếu là khum, phum (ấp, làng), đứng đầu là lý
trưởng do dân bầu. Pháp luật nhà vua chỉ đến huyện, tỉnh (xrốc, khét) mà không
thể tới làng xã.
Giai cấp đòa chủ phong kiến chủ yếu sống bằng bóc lột lao động thặng dư của
nông dân, dựa trên đòa vò là thân tộc và được nhà vua ban cấp bổng lộc. Lực lượng
này lệ thuộc ngôi vua chặt chẽ hơn nhiều so với thời kỳ Ăngko. Cũng vì thế giai
cấp đòa chủ phong kiến Campuchia hầu như tách rời khỏi sản xuất, rời bỏ trách
nhiệm đối với việc điều hành sản xuất và chăm lo đời sống nhân dân. Đó cũng là
lý do mà các cuộc tranh giành đòa vò, quyền lợi trong giai cấp phong kiến diễn ra
thường xuyên.
Giai cấp nông dân chủ yếu là nông dân công xã nhưng không có sự quản lý
và phân phối ruộng đất của công xã, không cần có sự điều hành sản xuất và hoạt
động thủy lợi của nhà nước. Ngoài việc phải nộp thuế và lao dòch, nông dân
(neakchea) không có mối liên hệ gì với bên ngoài. Thời kỳ này ít khi có hiện tượng
kiêm tính ruộng đất, tranh chấp nhỏ cũng không xảy ra do đặc điểm dân cư thưa
thớt, ruộng đất dư thừa.
Một bộ phận dân cư là những người không có quyền tự do gồm nô lệ (pol,
teaskar và một số nông dân lệ thuộc neakngea) mà phần lớn là người phạm tội.
Tầng lớp công, thương hầu như không chuyên nghiệp do đặc điểm nền kinh tế
Campuchia thời kỳ này đóng kín, tự cấp, tự túc.
Về văn hóa: nhìn chung, dân cư Khmer vẫn tiếp tục duy trì và phát triển ở
mức độ chậm chạp những giá trò văn hóa, vật chất, tinh thần thời kỳ trước. Nhưng ở
giai đoạn này, nét nổi bật của văn hóa Campuchia là văn hóa xóm làng.

Sự xâm lược của thực dân pháp và phong trào đấu tranh nhân dân
Campuchia (1863-1945)
Trước khi thực dân Pháp xâm lược Campuchia, các giáo só Pháp đi đầu là
Luisơvơrơi (Louis Chevereuil) lập ra Hội “truyền bá niềm tin”, hoạt động ở ông
trong 3 năm (1662-1665). Mặc dù không có kết quả, song các giáo só Pháp vẫn duy

trì xâm nhập, chăm chú theo dõi tình hình chính trò Campuchia. Năm 1855, các
giáo só Pháp đã lôi kéo được Angđuông viết thư và gửi lễ vật cầu thân với
Napoleon III. Trên cơ sở đó, chính phủ Pháp đã cử Đơ Môngtinhi (De Montini) đến
Campuchia ký Hiệp ước “liên minh và thương mại”. Âm mưu của Pháp bò chặn lại
do triều đình Xiêm gây áp lực với Angđuông.
Tháng 1/1860, Angđuông chết, con là Nôrôđôm lên thay đã tỏ ra bế tắc trước
hai kẻ thù Xiêm, Pháp. Tháng 6/1863, với danh nghóa tìm đòa điểm xây dựng căn
Bùi Văn Hùng Khoa Lòch sử

×