Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Ý nghĩa thực tiễn về tuần hoàn và chu chuyển tư bản khi nền kinh tế thị trường định hướng XHCN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.24 KB, 36 trang )

A. Phần mở đầu
Phát triển và hội nhập là một trong những xu thế lớn của thời đại. Đối với
Việt Nam, nhất là trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc, đa
nền kinh tế đi lên theo định hớng xã hội chủ nghĩa, hội nhập cùng nền kinh tế
thị trờng thế giới là nhiệm vụ rất quan trọng. Đó không chỉ là thời cơ, điều
kiện cần thiết để sản phẩm hàng hoá của Việt Nam đợc có mặt nhiều hơn trên
thị trờng quốc tế mà còn là thử thách lớn về nhiều mặt đối với các doanh
nghiệp và doanh nhân Việt Nam.
Tại Đại hội VI ban chấp hành trung ơng Đảng đã quyết định một bớc
ngoặt vĩ đại đối với đất nớc đặc biệt là việc quyết định đa nền kinh tế chuyển
sang nền kinh tế thị trờng có sự quản lý của nhà nớc theo định hớng XHCN.
Để khẳng định vai trò quan trọng của các doanh nghiệp trong phát triển kinh
tế, Nhà nớc ta đã và đang khuyến khích thành lập các doanh nghiệp theo hiến
pháp và pháp luật Việt Nam quy định. Nhng khi chuyển sang nền kinh tế thị
trờng các doanh nghiệp Việt Nam đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc sản
xuất, lu thông, tìm kiếm đối tác và thị trờng, đòi hỏi nhà nớc phải có sự hỗ trợ,
tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển. Sản xuất đóng vai trò quan trọng
trong hoạt động của doanh nghiệp, trong đó ba vấn đề: sản xuất cái gì? sản
xuất nh thế nào? sản xuất cho ai? đặt ra các doanh nghiệp trong suốt quá trình
hoạt động sản xuất, vốn, hàng hoá hoạt động hiệu quả hay không là do quá
trình sản xuất, lu thông có tuần hoàn không. Vai trò sản xuất kinh doanh của
các doanh nghiệp rất quan trọng, nó tạo ra một cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã
hội cho nên đòi hỏi nhà nớc phải có sự quản lý hợp lý tạo điều kiện tốt nhất để
doanh nghiệp cạnh tranh đợc trên thị trờng quốc tế. Khó khăn rất nhiều và đòi
hỏi phải có một cơ sở lý luận để dẫn đờng có tác động tích cực thúc đẩy sản
xuất phát triển, mở rộng. Đó cũng là lý do em chọn đề tài: Trình bày lý
thuyết về tuần hoàn và chu chuyển t bản. ý nghĩa thực tiễn rút ra khi
nghiên cứu lý thuyết này đối với việc quản lý các doanh nghiệp của nớc ta
khi chuyển sang nền kinh tế thị trờng định hớng XHCN cho đề án Kinh tế
chính trị.
1


1
Bài viết đợc chia làm ba phần chính:
A. Phần mở đầu
B. Phần nội dung
C. Phần kết bài.
Với kiến thức bản thân còn hạn chế, em tự thấy mình còn nhiều thiếu xót
em rất mong đợc sự đóng góp ý kiến của thầy giáo cho bài viết của em đợc
hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
2
2
B. Phần nội dung
Phần I: lý thuyết chung về tuần hoàn và chu chuyển t bản
I. Cơ sở lý luận về vấn đề tuần hoàn và chu chuyển của t bản.
1. Quan điểm của Mác - Lênin về tuần hoàn của t bản.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, t bản luôn luôn vận động và trong
quá trình vận động, nó lớn lên không ngừng. Để đạt đợc hiệu quả sản xuất
kinh doanh nhà t bản không đợc để t bản nhàn rỗi, mà phải sử dụng triệt để d-
ới nhiều hình thức, chức năng khác nhau. T bản phải đợc tuần hoàn và chu
chuyển liên tục, hợp lý để kết quả sản xuất kinh doanh thu đợc lợng t bản lớn
hơn lợng đầu t ban đầu. Theo Mác - Lênin thì: Tuần hoàn của t bản là sự biến
chuyển liên tiếp của t bản qua ba giai đoạn, trải qua ba hình thức, thực hiện ba
chức năng tơng ứng, để trở về hình thái ban đầu với lợng giá trị lớn hơn
(1)
.
2. Ba hình thức tuần hoàn của t bản.
2.1. Tuần hoàn của t bản tiền tệ.
Công thức chung của tuần hoàn của t bản tiền tệ:
T - H SX H - T
Giai đoạn đầu T - H tức là nhà t bản dùng t bản tiền tệ ứng ra ban đầu để

mua hàng hoá ở trên hai thị trờng đó là thị trờng sức lao động và thị trờng t
liệu sản xuất (đó là những nhân tố của sản xuất).
Slđ (sức lao động)
T - H
TLSX(t liệu sản xuất)
Nh vậy tiền của nhà t bản phải chia làm hai phần theo tỷ lệ thích hợp:
Một phần mua sức lao động, một phần mua t liệu sản xuất. Sau khi mua đợc
hàng hoá (Slđ - TLSX) thì t bản đã trút bỏ hình thái tiền tệ mà mang hình thức
hiện vật. Với hình thức hiện vật đó nó không thể tiếp tục lu thông đợc. Nhà t
bản phải đa hàng hoá vào trong quá trình sản xuất, để tạo ra hàng hoá cung
(
1)
Kinh tế chính trị: NXB giáo dục - 1998, trang 102
3
3
cấp cho thị trờng thì toàn bộ công nhân phải tham gia vào quá trình sản xuất
để tạo ra sản phẩm. Kết quả là nhà t bản có đợc một số hàng hoá mới mà giá
trị của chúng lớn hơn giá trị của những nhân tố đã dùng để sản xuất ra số hàng
hoá đó. Hàng hoá này (H) có thể cạnh tranh đợc ở trên thị trờng, đáp ứng đợc
nhu cầu của ngời tiêu dùng tức là có giá trị sử dụng cao. Nhà sản xuất mang
hàng hoá (H) đó ra thị trờng để bán nhằm thu về đợc vốn và lợi nhuận tức là
T - T là hình thái chuyển hoá của H, sự chuyển hoá này đợc thực hiện là do
một hành vi đơn giản của lu thông hàng hoá, do sự đổi chỗ giữa hình thức
hàng hoá và tiền, hình thái lặp lại ở điểm kết thúc là hình thái bị gây nên, nh-
ng xét về mặt lợng phải lớn hơn hình thái ban đầu. Sau một chu kỳ sản xuất
nhà t bản thu về cả vốn lẫn lãi từ T một phần trả lơng cho công nhân, một
phần dự trữ để tiếp tục đầu t sản xuất. Quá trình đó cứ lặp đi lặp lại, tuần hoàn
một cách liên tục và hiệu quả sản xuất kinh doanh chính là lợi nhuận thu về
ngày càng tăng nó đợc quy định bởi một loạt những sự biến hoá hình thái của
bản thân tuần hoàn.

2.2. Tuần hoàn của t bản sản xuất.
Công thức chung của tuần hoàn của t bản sản xuất là:
SX H - T - H SX
Tuần hoàn này nói lên sự hoạt động lắp đi lắp lại một cách chu kỳ của t
bản sản xuất, hay quá trình sản xuất của t bản, coi là quá trình sản xuất gắn
liền với việc tăng thêm giá trị, nó không những nói lên việc sản xuất mà còn
nói lên việc tái sản xuất một cách chu kỳ giá trị thặng d nữa, nó nói lên hoạt
động của t bản công nghiệp đang nằm dới hình thái sản xuất của nó, hoạt
động không phải chỉ có một lần, mà là lắp đi lắp lại một cách chu kỳ, thành
thử sự lắp đi lắp lại đã do chính điểm xuất phát quy định rồi có thể là một bộ
phận của H lại trực tiếp gia nhập làm t liệu sản xuất trong quá trình lao động
đã sản xuất ra nó làm hàng hoá; do đó việc chuyển hoá giá trị của bộ phận jđó
thành tiền hiện thực, hay thành ký hiệu tiền tệ trở thành thừa. Bộ phận giá trị
ấy không đi vào lu thông. Vậy là có những giá trị gia nhập quá trình sản xuất
mà không gia nhập quá trình lu thông.
4
4
Trong hình thái T - T quá trình sản xuất, tức là chức năng sản xuất, sản
xuất làm gián đoạn lu thông của t bản tiền tệ và chỉ xuất hiện thành kẻ môi
giới giữa hai giai đoạn của lu thông là T - H và H - T và là khâu trung gian
giữa t bản sản xuất mở đầu cuộc tuần hoàn với t cách là cực thứ nhất, và t bản
sản xuất kết thúc tuần hoàn đó với t cách là cực cuối dới một hình thái mà
tuần hoàn đó mở đầu trở lại sự vận động. Mặt khác toàn bộ lu thông biểu hiện
ra dới hình thái ngợc lại với hình thái mà nó mang tròn tuần hoàn của t bản
tiền tệ.Nến không nói đến đại lợng giá trị thì hình thái của nó trong tuần hoàn
của t bản tiền tệ là: T - H - T (T - H . H - T); nếu nói đến đại dợng giá trị thì
hình thái của nó là: H - T - H tức là hình thái lu thông giản đơn của hàng hoá.
Tái sản xuất giản đơn.
Điểm xuất phát của lu thông giữa hai cực Sx Sx là t bản - hàng hoá: H
= H + h = Sx + h. Trớc kia chức năng của t bản hàng hoá H - T là giai đoạn

thứ hai của lu thông bị gián đoạn và là giai đoạn kết thúc của tổng tuần hoàn.
Bây giờ nó là giai đoạn thứ hai của tuần hoàn nhng lại là giai đoạn thứ nhất
của lu thông. Tuần hoàn thứ nhất kết thúc bằng T và cũng có thể trở lại mở
đầu tuần hoàn thứ hai với t cách là t bản - tiền tệ. Tính chất của tuần hoàn thay
đổi các cách giải quyết để biết đợc công thức mà ta đang xét đại biểu cho tái
sản xuất giản đơn hay mở rộng. Nếu xét tái giản đơn của t bản sản xuất, nếu
mọi tình hình khác không thay đổi và hàng hoá đợc mua vào và bán ra theo
đúng giá trị của chúng thì toàn bộ giá trị thặng d sẽ đi vào tiêu dùng cá nhân
của nhà t bản. Sau khi t bản - hàng hoá H đã chuyển hoá thành tiền, thì bộ
phận của tổng số tiền đại biểu cho giá trị - t bản vẫn tiếp lu thông trong tuần
hoàn của t bản công nghiệp; còn bộ phận kia, tức giá trị thặng d đã chuyển
hoá thành tiền, thì đi vào lu thông chung của hàng hoá.
Trong hành vi H- T giá trị t bản và giá trị thặng d nằm trong H, cả hai
đều có thể tồn tại tách riêng ra đợc, tức là tồn tại thành những số tiền riêng
biệt; trong cả hai trờng hợp T và t đều là hình thái chuyển hoá của cái giá trị
mà lúc đầu, ở H với t cách là giá cả hàng hoá, có một biểu hiện riêng của nó,
một biểu hiện trên ý niệm mà thôi. Lu thông h - t - h là một lu thông giản đơn
của hàng hoá; giai đoạn thứ nhất của lu thông này tức là h - t thì nằm trong lu
thông của t bản - hàng hoá H - T, do đó nằm trong trong tuần hoàn của t bản;
5
5
ngợc lại đoạn bổ sung của nó t - h thì lại nằm ngoài tuần hoàn ấy, đợc thực
hiện với t cách là một hành vi lu thông chung của hàng hoá tách rời khỏi tuần
hoàn âý. Lu thông H và h tức là của giá tri t bản và của giá trị thặng d, sẽ tách
đôi ra sau khi H chuyển hoá thành T. Do đó:
Một là: sau khi t bản - hàng hoá đợc thực hiện bằng hành vi H - T = H
(T +t) thì vận động của giá trị - t bản và vận động giá trị thặng d trớc đó vẫn là
một trong H - T và đều nằm trong cùng một lợng hàng hoá, sẽ có thể tách rời
nhau ra, vì từ nay trở đi cả hai giá trị đó, với t cách là hai món tiền, đều có
hình thái độc lập.

Hai là: Nếu sự tách rời ấy diễn ra, hơn nữa nếu t bị tiêu đi với t cách là
thu nhập của nhà t bản, còn T với t cách là hình thái chức năng của giá trị t
bản, vẫn tiếp tục đi theo con đờng của nó do tuần hoàn quy định, thì hành vi
thứ nhất H - T xét trong mối liên hệ của nó với các hành vi kế tiếp là T - H
và t - h, có thể biểu hiện thành hai lu thông riêng biệt: H - T - H và h - t - h, và
cả hai xét về mặt hình thái chung đều phụ thuộc về lu thông thông thờng của
hàng hoá.
Ba là: Nếu vận động của giá trị t bản và vận động của giá trị thặng d, lúc
đầu còn là một trong H và T, chỉ tách rời nhau có một phần thôi (thành thử có
một phần giá trị thặng d bị tiêu đi không phải với t cách là thu nhập), hoặc
hoàn toàn không bị tách rời nhau thì trong bản thân giá trị - t bản có một sự
thay đổi diễn ra trong nội bộ tuần hoàn của nó, trớc khi tuần hoàn đó hoàn
thành.
H - T, giai đoạn thứ hai của lu thông và giai đoạn cuối cùng của tuần
hoàn I ( T T), lại là giai đoạn thứ hai của tuần hoàn của chúng ta, và là giai
đoạn thứ nhất của lu thông hàng hoá. Do đó về mặt lu thông mà nói thì H - T
cần đợc bổ sung bằng T - H. Nhng H - T không những đã xảy ra sau quá
trình làm tăng thêm giá trị mà còn là kết quả của nó, nhờ hành vi ấy sản phẩm
- hàng hoá H đã đợc thực hiện rồi. Nh vậy là quá trình làm cho t bản tăng
thêm giá trị, cũng nh việc thực hiện sản phẩm - hàng hoá đại biểu chio giá trị
t bản đã tăng thêm giá trị đều kết thúc bằng H - T.
6
6
Trong lu thông của thu nhập của nhà t bản, hàng hoá đã đợc sản xuất ra,
tức là h trên thực tế chỉ đợc dùng để đợc chuyển hoá thu nhập ấy trớc hết
thành tiền, rồi lại từ tiền thành một hàng hoá khác phục vụ cho tiêu dùng cá
nhân. Nhng ở đây chúng ta không nên bỏ qua một việc nhỏ này: h là một giá
trị hàng hoá không tốt gì cho nhà t bản cả, nó là hiện thân của lao động thặng
d, chính vì thế mà nó xuất hiện lúc ban đầu với t cách là một thành phần của
t bản - hàng hoá H. Bởi vậy chỉ có một sự tồn tại của thân nó, h này cũng đã

gắn liền với tuần hoàn của giá trị - t bản đang tiến hành quá trình của mình;
nếu tuần hoàn ấy bì đình chỉ hoặc xảy ra một sự rối loạn nào đó nói chung, thì
không phải chỉ việc tiêu dùng h, mà đồng thời cả việc tiêu thụ cái loạt hàng
hoá đem trao đổi với h, cũng đều bị thu hẹp lại hoặc đình chỉ hẳn, h - t - h chỉ
gia nhập lu thông của t bản chừng nào mà h còn là một phần giá trị của H.
Mối quan hệ giữa tuần hoàn của t bản với t cách là một bộ phận của lu
thông chung, và tuần hoàn của t bản với t cách là một trong những khâu của
một lu thông độc lập, cũng biểu lộ ra khi chúng ta tiếp tục xem xét lu thông
của T = T + t. Là t bản tiền tệ, T tiếp tục tuần hoàn của t bản; t bị tiêu dùng đi
với t cách là thu nhập (t - h) thì đi vào lu thông chung, nhng lại tách khỏi tuần
hoàn của t bản. Chỉ có bộ phận t hoạt động làm t bản - tiền tệ phụ thêm mới
gia nhập tuần hoàn này mà thôi. Trong h - t - h tiền chỉ làm chức năng tiền
đúc, mục đích của lu thông này là sự tiêu dùng cá nhân của nhà t bản. Khoa
kinh tế chính trị tầm thờng cho rằng lu thông ấy không gia nhập tuần hoàn của
t bản - tức là lu thông của bộ phận sản phẩm - giá trị bị tiêu dùng đi với t cách
là thu nhập - là tuần hoàn đặc trng của t bản.
Trong giai đoạn thứ hai, T - H thì giá trị t bản T = SX lại tái hiện nhng đã
bị tớc mất giá trị thặng d chỉ, tức là có cùng một lợng giá trị nh khi nó ở trong
giai đoạn thứ nhất của tuần hoàn của t bản - tiền tệ T - H. Mặc dù t bản tiền tệ
ở vào một vị trí khác trớc, nhng chức năng của số t bản - tiền tệ mà giờ đây t
bản hàng hoá đã chuyển hoá thành thì cũng vẫn nh cũ: chuyển hoá thành
TLSX và SLĐ.
Nh vậy chức năng của t bản - hàng hoá H - T, giá trị t bản, cùng một
lúc với h - t, đã tiến hành xong giai đoạn H - T và sau đó nó đi vào giai đoạn
bổ sung:
7
7
Slđ
Tlsx;
Slđ

Tlsx;
Thứ nhất, trong hình thái tuần hoàn T T t bản tiền tệ T là hình thái
ban đầu nó xuất hiện thành một bộ phận trong giai đoạn lu thông thứ nhất, do
đó ngay từ đầu, nó xuất hiện thành sự chuyển hoá của t bản sản xuất sản xuất
thành tiền thực hiện đợc nhờ việc bán sản phẩm hàng hoá. T biểu hiện thành
hình thái chuyển hoá của H, bản thân H này là sản phẩm hoạt động trớc đây
của Sx, vì thế toán bộ số tiền T thể hiện thành biểu hiện tiền tệ của một lao
động đã qua. Slđ
Thứ hai, trong lu thông H - T - H cũng những đồng tiền ấy
thay đổi vị trí hai lần:
Thoạt tiên nhà t bản thu chúng với t cách là ngời bán, rồi lại bỏ chúng ra
với t cách là ngời mua, việc chuyển hoá hàng hoá thành hình thái tiền chỉ là
dùng để chuyển hoá hàng hoá đó từ hình thái tiền trở lại hình thái hàng hoá.
Thứ ba, vô luận là t bản tiền tệ đợc dùng đơn thuần làm phơng tiện lu
thông, hay làm phơng tiện thanh toán thì hoạt động của nó cũng chỉ là thay
thế H bằng Slđ và Tlsx.
Muốn cho tuần hoàn đợc tiến hành bình thờng, thì H phải bán đúng theo
giá trị của nó và bán toàn bộ. Hơn nữa, H - T - H không những bao hàm việc
thay thế một hàng hoá này bằng một hàng hoá khác, mà còn bao hàm việc
thay thế hàng hoá ấy theo những tỷ lệ giá trị giống nhau. Chúng ta đã giả định
rằng ở đây tình hình diễn ra đúng nh vậy. Nhng trên thực tế, giá trị của t liệu
sản xuất thờng thay đổi; điểm cố hữu của nền sản xuất t bản chủ nghĩa là ở
chỗ có sự biến đổi không ngừng của các tỷ lệ giá trị, do những thay đổi không
ngừng trong năng xuất lao động gây nên, những thay đổi này là nét đặc trng
của nền sản xuất t bản chủ nghĩa. Sự chuyển hoá của các yếu tố sản xuất thành
sản phẩm hàng hoá, tức là việc chuyển hoá từ Sx thành H, đợc tiến hành trong
lĩnh vực sản xuất, việc chuyển hoá ngợc lại từ H thành Sx đợc tiến hành trong
8
8
T - H

H- T - H
Tlsx
Do đó tổng lu thông của nó là
lu thông. Việc chuyển hoá trở lại này đợc chuyển hoá nhờ sự biến hoá hình
thái giản đơn của hàng hoá. Nhng xét về mặt nội dung của nó thì việc chuyển
hoá trở lại này là một yếu tố của quá trình tái sản xuất.
Trong T T, T là hình thái ban đầu của giá trị t bản; giá trị t bản trút bỏ
hình thái này đi để rồi sau đó lại mang lấy nó. Trong Sx H - H Sx, T là một
hình thái chỉ hiện ra trong quá trình tuần hoàn, rồi sau đó lại trút bỏ đi ngay
trong giới hạn của chính quá trình ấy. Nếu sự biến hoá hình thái thứ hai T - H
gặp trở ngại thì tuần hoàn tức là tiến hành của quá trình tái sản xuất, bị đứt
quãng, hoàn toàn giống nh trong trờng hợp t bản bị đọng lại dới hình thái t bản
- hàng hoá. Khi t bản không còn làm chức năng t bản tiền tệ thì nó vẫn luôn
luôn là tiền; nhng nếu nó bị giữ quá lâu trong chức năng t bản - hàng hoá, thì
nó sẽ không còn là hàng hoá nữa và nói chung không còn là giá trị sử dụng
nữa. Slđ
Trong hình thái I, hành vi T - H Tlsx chỉ chuẩn bị cho sự chuyển
hoá đầu tiên của t bản tiền tệ thành t bản sản xuất, trong hình thái II, hành vi
ấy chuẩn bị cho sự chuyển hoá trở lại của t bản hàng hoá thành t bản sản xuất.
Bởi vậy, ở đây cũng nh trong hình thái I, hành vi này xuất hiện thành giai đoạn
chuẩn bị cho quá trình sản xuất nhng nó lại thể hiện nh là bớc quay trở về quá
trình ấy, nh là việc lặp lại quá trình ấy, do đó nh là bớc mở màn cho quá trình
tái sản xuất, và vì vậy mở màn cho việc lặp lại quá trình làm tăng thêm giá trị.
Một lần nữa T - Slđ là việc mua bán hàng hoá sức lao động dùng để sản
xuấta ra giá trị thặng d, còn T - Tlsx là một công việc không thể thiếu đợc về
mặt vật chất để đạt đợc mục đích đó. Sau khi T - H Slđ
hoàn thành,thì T đợc chuyển hoá thành t bản sản xuất thành Sx và tuần hoàn
lại bắt đầu trở lại.
Do đó, hình thái đầy đủ của Sx H - T - H Sx là:
Việc chuyển hoá t bản - tiền tệ thành t bản sản xuất là việc mua hàng hoá

nhằm sản xuất ra hàng hoá. Chỉ khi nào sự tiêu dùng là tiêu dùng sản xuất nh
9
9
H
+
h
T
+
t
-
-
- H
- h
Slđ
TLSx Sx
TLSX
SX H
thế nào thì nó mới gia nhập vào tuần hoàn của bản thân t bản; điều kiện của sự
tiêu dùng đó bao hàm ở chỗ nhờ các hàng hoá đợc tiêu dùng một cách sản
xuất mà giá trị thặng d đợc tạo ra. Nhng đó là một cái gì rất khác với việc sản
xuất, và thậm chí với việc sản xuất hàng hoá mà mục đích là đảm bảo sự tồn
tại của ngời sản xuất; nh vậy, việc thay thế một hàng hoá này bằng một
hàng hoá khác, do việc sản xuất ra giá trị thặng d quyết định, là một việc hoàn
toàn khác hẳn với bản thân việc trao đổi sản phẩm chỉ do tiền làm môi giới.
Ngoài sự tiêu dùng T một cách sản xuất thì tuần hoàn của t bản còn bao
gồm khâu thứ nhất T - Slđ, khâu này đối với ngời công nhân là Slđ = H - T. Về
phơng diện giá trị - t bản tiếp tục tuần hoàn của nó, và về phơng diện nhà t bản
tiếp tục tiêu dùng giá trị thặng d, thì hành vi H - T chỉ giả định có một điều.
H đợc chuyển hoá thành tiền, đợc bán đi. Việc tiêu dùng hàng hoá không
nằm trong tuần hoàn của t bản đã sản sinh ra hàng hoá ấy. Tuần hoàn của giá

trị - t bản mà nhà sản xuất t bản chủ nghĩa đó là đại biểu vẫn không bị gián
đoạn. Còn nếu quá trình ấy mở rộng - điều này bao hàm việc mở rộng tiêu
dùng sản xuất các t liệu sản xuất - thì sự tái sản xuất đó của t bản có thể kèm
theo việc mở rộng tiêu dùng cá nhân của công nhân, vì quá trình đó sở dĩ bắt
đầu đợc và có thể tiến hành đợc, là do tiêu dùng sản xuất. Nếu nh những hàng
hoá Tlsx và Slđ - mà T chuyển hoá thành để hoàn thành chức năng t bản - tiền
tệ của nó, tức là chức năng của số giá trị - t bản phải chuyển hoá ngợc trở lại t
bản sản xuất, nếu nh những hàng hoá ấy cần đợc mua vào hoặc đợc trả tiền
theo những kỳ hạn khác nhau. Trong tuần hoàn của t bản công nghiệp t bản -
tiền tệ không thực hiện một chức năng nào khác ngoài chức năng tiền, và
những chức năng tiền này đồng thời có ý nghĩa là những chức năng của t bản,
chỉ là do mối liên hệ chung của chúng với các giai đoạn khác của tuần hoàn ấy
mà thôi.
Tích luỹ và tái sản xuất trên quy mô mở rộng.
Vì các tỷ lệ theo đó quá trình sản xuất cos thể mở rộng ra không phải đợc
định đoạt một cách tuỳ tiện mà là do một nền kỹ thuật nhất định quy định, cho
nên giá trị thặng d đã thực hiện, tuy đợc dành để t bản hoá, nhng lắm lúc chỉ
nhờ sự lắp đi lắp lại của một số tuần hoàn, mới có thể đạt tới quy mô có thể
10
10
thực tế làm chức năng t bản phụ thêm, hay gia nhập vào tuần hoàn của giá trị
t bản đang hoàn thành quá trình của mình.
Nếu trong các giao dịch của nhà t bản nói trên, tiền làm chức năng ph-
ơng tiện thanh toán (thành thử ngời mua chỉ phải trả tiền cho hàng hoá sau
một kỳ hạn hoặc dài hoặc ngắn), thì sản phẩm thặng d dùng để biến thành t
bản không chuyển hoá thành tiền mà chuyển hoá thành trái vụ, thành chứng từ
về quyền sở hữu đối với một vật ngang giá mà có thể là ngời mua đã có trong
tay, hoặc hy vọng đã có. Cũng hệt nh tiền đem gửi thành các chứng khoán có
lãi sản phẩm thặng d đó không gia nhập vào quá trình tái sản xuất của t bản
thực hiện tuần hoàn ấy, mặc dù nó có thể gia nhập tuần hoàn của những t bản

công nghiệp cá biệt khác. Toàn bộ tính chất của sản xuất t bản chủ nghĩa đợc
quy định bởi việc làm tăng thêm giá trị của giá trị ứng trớc do đó trớc hết đợc
quyết định bởi việc sản xuất ra giá trị thặng d càng nhiều càng tốt.
Trớc hết, khi xem xét tái sản xuất giản đơn, chúng ta đã giả định rằng
toàn bộ giá trị thặng d bị chi tiêu đi với t cách là thu nhập. Trên thực tế, trong
những điều kiện bình thờng, một bộ phận giá trị thặng d bao giờ cũng phải bị
tiêu với t cách là thu nhập, còn một bộ phận khác phải đợc t bản hoá, hơn nữa
số giá trị thặng d đợc sản xuất ra trong từng thời kỳ nhất định, khi thì bị chi
tiêu toàn bộ, khi thì đợc t bản hoá toàn bộ, điều đó không hoàn toàn quan
trọng. Xét trung bình và công thức chung có thể biểu hiện đợc sự vận động
trung bình mà thôi:
Sld Sx biểu thị một t bản sản xuất đợc tái sản
Sx H - T- H Tlsx xuất trên quy mô mở rộng, với t cách là t bản
có một giá trị lớn hơn, và sau đó nó bắt đầu tuần hoàn thứ hai của nó, hoặc -
điều này cũng vậy - nó lặp lại tuần hoàn thứ nhất của nó, nhng với t cách là
một t bản sản xuất đã tăng thêm. Khi tuần hoàn thứ hay này bắt đầu, chúng ta
lại thâys Sx xuất hiện ở điểm xuất phát, nhng chỉ khác có một điều là Sx này
là một t bản sản xuất có quy mô lớn hơn Sx thứ nhất. Cũng giống nh là khi
trong công thức T T, tuần hoàn thứ hai bắt đầu vơis T, thì T này cũng làm
chức năng giống chức năng của T, tức là làm chức năng của một t bản - tiền
11
11
tệ ứng trớc có một đại lợng nhất định; đó là một t bản - tiền tệ có quy mô lớn
hơn t bản - tiền tệ mở đầu tuần hoàn thứ nhất, nhng một khi t bản - tiền tệ lớn
hơn đó bắt đầu làm chức năng t bản - tiền tệ ứng trớc, thì tất cả mọi sự liên t-
ởng đến việc nó đã tăng thêm nhờ t bản hoá giá trị thặng d đến biến mất. Tình
hình nh vậy cũng diễn ra đối với Sx khi nó làm điểm xuất phát của một tuần
hoàn mới.
Nếu so sánh Sx Sx với T T hay với tuần hoàn thứ nhất, thì thấy rằng
hai tuần hoàn đó hoàn toàn không có ý nghĩa giống nhau. Bản thân T T với

t cách là một tuần hoàn cô lập, chỉ nói lên rằng T tức là tiền tệ (hay t bản công
nghiệp đang thực hiện tuần hoàn của nó dới hình thái t bản - tiền tệ). Trái lại
trong tuần hoàn của Sx khi gian đoạn thứ nhất, tức là giai đoạn quá trình sản
xuất chấm dứt, thì quá trình làm tăng giá trị đã hoàn thành rồi, còn khi giai
đoạn thứ hai. H - T kết thúc, thì giá trị - t bản + giá trị thặng d đã tồn tại
thành t bản - tiền tệ đã đợc thực hiện, thành T, là các xuất hiện thành cái cực
cuối cùng trong tuần hoàn thứ nhất. Điều này nói nên rằng giá trị thặng d đã
đợc sản xuất ra.
Trong Sx Sx, Sx không nói nên đợc việc giá trị thặng d đã đợc sản
xuất ra, mà nói nên việct bản hoá giá trị thặng d đã sản xuất ra, do đó nói nên
rằng tích luỹ t bản đã xảy ra, khác với Sx, Sx gồm có giá trị - t bản ban đầu
cộng thêm giá trị của một t bản cho sự vận động của giá trị - t bản ban đầu
tích luỹ lại. T và H, dới hình thức mà nó xuất hiện trong tất cả các tuần hoàn
ấy, tự bản thân chúng không biểu thị sự vận động, mà biểu hiện kết quả của
cuộc vận động: việc làm tăng giá trị - t bản đợc thực hiện dới hình thái hàng
hoá hay dới hình thái tiền; vì vậy chúng biểu hiện giá trị - t bản thành T + t,
hoặc thành H +h.
Một khi T hoặc H cố định thành T +t hoặc H + h, tức là cố định lại dới
dạng quan hệ giữa giá trị - t bản với giá trị thặng d, con đẻ của giá trị - t bản,
thì mối quan hệ ấy biểu thị một lần dới hình thái tiền, lần kia dới hình thái
hàng hoá. Trong cả hai trờng hợp ấy, thuộc tính đặc trng của t bản, tức là
thuộc tính làm một giá trị đẻ ra giá trị. H bao giờ cũng chỉ là sản vật của
chức năng sản xuất, và T bao giờ cũng chỉ là sản vật của chức năng sản xuất,
và T bao giờ cũng chỉ là hình thái của H đã trải qua một sự chuyển hoá trong
12
12
tuần hoàn của t bản công nghiệp. Vì thế, khi t bản - tiền tệ đã thực hiện làm
trở lại chức năng đặc thù của nó là t bản - tiền tệ, thì nó không còn biểu hiện
mối quan hệ t bản chứa đựng trong T = T+t nữa. Một khi T T đã tiến hành
xong rồi, và một khi bắt đầu trở lại tuần hoàn, thì T không còn biểu hiện ra

thành T nữa, mà biểu hiện ra thành T, ngay cả trong trờng hợp ngời ta t bản
hoá toàn bộ giá trị thặng d chứa đựng trong T cũng vậy. Đối với tuần hoàn
của t bản sản xuất, số Sx đã lớn lên, khi bắt đầu trở lại tuần hoàn của nó,
cũng chỉ xuất hiện với t cách là Sx, giống nh Sx trong tái sản xuất giản đơn
Sx Sx nh vậy.
Slđ
Trong giai đoạn T - H Tlsx , sự tăng thêm đại lợng giá trị chỉ
là do H biểu hiện ra, chứ không phải do Slđ và Tlsx biểu thị ra. Vì H là tổng
số của Slđ cộng với Tlsx, cho nên H cũng đã nói lên rằng tổng số của Slđ
cộng với Tlsx bao gồm ở trong nó lớn hơn Sx ban đầu.
Việc tích luỹ tiền
Việc t tức giá trị thặng d đã biến thành tiền, có thể lập tức đợc bỏ thêm
vào giá trị - t bản đang ở trong quá trình vận động của nó hay không, và do đó
có thể gia nhập quá trình tuần hoàn bằng cách nhập làm một với t bản T thành
đại lợng T hay không - việc đó phụ thuộc vào những tình hình không có quan
hệ gì với sự tồn tại đơnthuần của t. Chức năng riêng của t là nằm dới hình thái
tiền, cho đến khi nó nhận thức của những tuần hoàn lắp đi lắp lại, - tuần hoàn
làm tăng thêm giá trị - tức là nhận thức đợc từ bên ngoài, những khoản tăng
thêm đủ để đạt tới đại lợng tối thiểu cần thiết cho sự hoạt động tích cực của
nó, chỉ với đại lợng ấy thì nó mới có thể tham gia vào việc hoạt động của t bản
- tiền tệ T, tham gia với t cách là t bản tiền tệ. Vậy ở đây việc tích luỹ tiền,
tích luỹ tiền là một quá trình tạm thời kèm theo việc tích luỹ hiện thực, tức là
việc mở rộng quy mô hoạt động của t bản công nghiệp.
Hình thái tiền tích trữ chỉ là hình thái tiền không nằm trong lu thông, là
hình thái của số tiền mà lu thông của nó bị gián đoạn và vì lẽ đó mà đợc giữ
lại dới hình thái tiền. Còn nh bản thân quá trình hình thành tiền tích trữ, thì nó
là chung cho bất cứ nền sản xuất hàng hoá nào, và chỉ trong các hình thái cha
13
13
phát triển của sản xuất hàng hoá trớc chủ nghĩa t bản thì quá trình tích luỹ tiền

ấy mới đóng một vai trò nào đó với t cách là mục đích tự thân.
Quỹ dự trữ.
Bản thân tiền tích trữ là điều kiện tích luỹ. Nhng quỹ tích luỹ cũng có thể
đảm nhiệm những công việc đặc thù, có tính chất phụ, tức là có thể gia nhập
quá trình tuần hoàn của t bản mà không cần phải mang hình thái Sx Sx và
do đó không cần mở rộng quy mô tái sản xuất t bản chủ nghĩa. Quỹ tích luỹ đ-
ợc dùng làm quỹ dự trữ khác với quỹ dùng làm phơng tiện mua và phơng tiện
thanh toán đã đợc nghiên cứu trong tuần hoàn Sx Sx. Quỹ dự trữ là một bộ
phận cấu thành của t bản nằm trong giai đoạn chuẩn bị của sự tích luỹ của nó,
tức là một bộ phận cấu thành của giá trị thặng d cha chuyển hoá thành t bản
tích cực.
Quỹ tích luỹ bằng tiền vốn đã là sự tồn tại của t bản - tiền tệ tiềm năng,
do đó nó đã là sự chuyển hoá của tiền thành t bản - tiền tệ. Công thức chung
của tuần hoàn của t bản sản xuất. Slđ
Sx H - T. T - H Sx (Sx)
Tlsx
2.3. Tuần hoàn của t bản - hàng hoá.
Công thức chung của tuần hoàn của t bản hàng hoá là:
H - T - H Sx H
H không những là sản phẩm mà còn là tiền đề của hai tuần hoàn đã nói
ở trên, bởi vì cái là T - H của một t bản thì đã bao hàm H - T của một t bản
khác, ít ra là trong chừng mực bản thân một bộ phận t liệu sản xuất là sản
phẩm hàng hoá của những t bản cá biệt khác đang thực hiện tuần hoàn của
chúng.
Tuần hoàn của t bản - hàng hoá không phải bắt đầu đơn thuần bằng một
giá trị - t bản, mà bằng một giá trị - t bản đã đợc tăng lên và nằm dới hình thái
hàng hoá, do đó ngay từ đầu nó đã bao hàm tuần hoàn không những của giá trị
- t bản dới hình thái hàng hoá mà còn bao hàm cả tuần hoàn của cả giá trị
14
14

thặng d nữa. Trong mọi trờng hợp H thờng xuyên mở đầu tuần hoàn với t
cách là một t bản hàng hoá ngang với giá trị - t bản cộng với giá trị thặng d.
H với t cách là H xuất hiện trong tuần hoàn của một t bản công nghiệp cá
biệt, dới hình thái một t bản công nghiệp khác, chừng nào t liệu sản xuất là
sản phẩm của t bản công nghiệp này.
H không bao giờ có thể mở đầu tuần hoàn với t cách là H đơn thuần,
với t cách là hình thái hàng hoá đơn thuần của giá trị - t bản. Là t bản - hàng
hoá, nó bao giờ cũng có hai mặt. Đứng trên quan điểm giá trị sử dụng mà nói
nó là sản phẩm hoạt động của Sx, mà những yếu tố Slđ và Tlsx xuất hiện với t
cách là hàng hoá từ lĩnh vực lu thông, chỉ hoạt động với t cách là nhân tố hình
thành sản phẩm đó. Hai là, đứng trên quan điểm giá trị mà nói; H là giá trị -
t bản Sx + giá trị thặng d m, sản sinh ra trong thời gian hoạt động của sản
xuất. Chỉ có ở trong tuần hoàn của bản thân H thì bộ phận H của nó = Sx =
giá trị - t bản, mới có thể và phải phân tách ra khỏi bộ phận của H chứa đựng
giá trị thặng d, khỏi sản phẩm thặng d chứa đựng giá trị thặng d, không kể là
hai bộ phận này có thực sự tách rời nhau hay không tách rời nhau. Một khi H
đã chuyển hoá thành T, thì hai bộ phận đó trở thành có thể tách rời nhau.
Trong hình thái I: T T tiền đợc ứng ra làm t bản trớc hết cho những
yếu tố sản xuất, nhng yếu tố này trở thành sản phẩm - hàng hoá và sản phẩm -
hàng hoá này lại chuyển hoá thành tiền. Đó là một tuần hoàn kinh doanh hoàn
chỉnh mà kết quả là tiền có thể dùng vào tất cả mọi việc và cho tất cả mọi ng-
ời.
Trong hình thái II tức là Sx H - T - H Sx (Sx) toàn bộ quá trình lu
thông nằm sau Sx thứ nhất và trớc Sx thứ hai, Sx là t bản sản xuất, Sx cuối
không phải là quá trình sản xuất, nó chỉ là sự trở lại của t bản công nghiệp dới
hình thái t bản sản xuất.
Trong hình thái III, tức là H - T - H Sx H tuần hoàn bắt đầu bằng
hai giai đoạn của quá trình lu thông, tuần hoàn kết thúc với H, kết quả của
quá trình sản xuất. Chỉ trong tuần hoàn này thì điểm xuất phát của quá trình
làm tăng thêm giá trị là giá trị - t bản đã tăng thêm giá trị. Điểm xuất phát ở

đây là H, biểu hiện mối quan hệ t bản chủ nghĩa, nó có tác dụng quyết định
15
15
đối với toàn bộ tuần hoàn. Sự phân phối tổng sản phẩm xã hội cũng nh phân
phối đặc thù về sản phẩm của một t bản - hàng hoá cá biệt, sự phân phối, một
mặt thành quỹ tiêu dùng cá nhân, và mặt khác thành quỹ tái sản xuất - đều
nằm trong tuần hoàn của t bản.
Trong T T có khả năng mở rộng tuần hoàn theo đại lợng của các phần t
sẽ gia nhập tuần hoàn mới. Trong Sx Sx, Sx có thể mở đầu tuần hoàn mới với
một giá trị nh cũ. Trong H H, t bản dới hình thái hàng hoá là tiền đề của
sản xuất, và với t cách là tiền đề, hình thái đó lại quay trở lại cũng trong tuần
hoàn ấy. Cả ba tuần hoàn đều có điểm chung: t bản kết thúc quá trình tuần
hoàn của nó dới đúng cái hình thái mà nó mở đầu quá trình tuần hoàn đó, nhờ
thế nó lại mang hình thái ban đầu trong đó nó lại mở đầu một tuần hoàn giống
nh vậy. Hình thái của điểm xuất phát T, Sx, H đều đợc cho trớc đối với mỗi
tuần hoàn; hình thái lặp lại ở điểm kết thúc là hình thái bị gây nên, và do đó bị
quy định bởi một loạt những sự biến hoá hình thái cảu bản thân tuần hoàn. H
với t cách là điểm kết thúc một tuần hoàn của t bản công nghiệp cá biệt, chỉ
giả định là có hình thái Sx ở bên ngoài lu thông của t bản công nghiệp đã sản
sinh ra nó, T là điểm kết thúc của hình thái I, là hình thái chuyển hoá của H
(H - T) giả định là T nằm trong tay ngời mua, tồn tại ở ngoài tuần hoàn
T T và chỉ do việc bán H mới bị cuốn vào trong tuần hoàn đó, trở thành
hình thái kết thúc của bản thân tuần hoàn ấy.
3. Quan điểm của Mác - Lênin về vấn đề chu chuyển của t bản.
Nếu nh nghiên cứu tuần hoàn của t bản, chúng ta nghiên cứu các hình
thức mà t bản trút ra và khoác vào qua ba giai đoạn vận động của nó, thì khi
nghiên cứu chu chuyển của t bản, chúng ta nghiên cứu tốc độ vận động của t
bản nhanh hay chậm. Theo Mác - Lênin thì: Sự tuần hoàn của t bản, nếu xét
nó là một quá trình định kỳ đổi mới và lắp đi lắp lại chứ không phải là quá
trình cô lập, riêng lẻ, thì gọi là chu chuyển của t bản

(2)
. Trong quá trình chu
chuyển của t bản tức là để sản xuất ra hàng hoá nhà sản xuất phải mất một
(
2)
Kinh tế chính trị - NXB giáo dục - 1998 - trang 103
16
16
khoảng thời gian mà theo Mác - Lênin nêu lên là: Thời gian chu chuyển của
t bản là khoảng thời gian kể từ khi t bản ứng ra dới một hình thức nhất định
(tiền tệ, sản xuất hàng hoá) cho đến khi nó trở về tay nhà t bản cũng dới hình
thức nh thế, nhng có thêm giá trị thặng d
(3)
.Nh vậy tổng thời gian chu chuyển
của một t bản nhất định bằng thời gian lu thông và thời gian sản xuất của nó
cộng lại. Mục đích của nền sản xuất t bản chủ nghĩa bao giờ cũng là làm tăng
giá trị ứng trớc. Trong hai hình thái T T và hình thái Sx Sx nói lên rằng: 1.
Giá trị ứng trớc đã làm chức năng giá trị - t bản và đã tự tăng thêm; 2. Khi kết
thúc tuần hoàn của nó, giá trị ứng trớc lại quay về dới hình thái mà nó mang
khi mở đầu tuần hoàn. Nếu sản xuất mang hình thái t bản chủ nghĩa, thì tái
sản xuất cũng mang hình thái đó. Quá trình lao động trong phơng thức sản
xuất t bản chủ nghĩa là chỉ là một phơng tiện cho quá trình làm tăng thêm giá
trị, thì tái sản xuất cũng vậy, nó cũng chỉ là một phơng tiên để tái sản xuất ra
giá trị ứng trớc với t cách là t bản, tức là với t cách là giá trị tự tăng thêm giá
trị.
Trong hình thái là sự lắp lại của quá trình biểu hiện ra là có tính chất khả
năng thôi còn sự lắp lại của quá trình trong hình thái II tức là quá trình tái sản
xuất, biểu hiện thành sự lắp lại hiện thực. Trong hình thái III giá tự - t bản mở
đầu quá trình với t cách là giá trị đã tăng thêm, là tất cả những của cải nằm dới
hình thái hàng hoá. Hình thái này là hình thái trọng yếu đối với sự vận động

của các t bản cá biệt nếu xem xét trong mối quan hệ với sự vận động của t bản
xã hội. Nhng hình thái này không thích hợp cho việc nghiên cứu sự chu
chuyển của một t bản bao giờ cũng đợc bắt đầu bằng việc ứng trớc giá trị t bản
dới hình thái tiền tệ hay dới hình thái hàng hoá, và bao giờ cũng đòi hỏi giá trị
- t bản đang lu thông phải quay trở lại hình thái mà nó đã đợc ứng ra.
Những nhà kinh tế học không phân biệt các hình thái tuần hoàn khác
nhau, đã không xét chúng riêng ra trong mối quan hệ của chúng đối với chu
chuyển của t bản. Có những nhà kinh tế học khác lại xuất phát từ những chi
phí dới hình thái yếu tố sản xuất, và xem xét sự vận động cho đến lúc quay trở
về, nhng họ tuyệt nhiên không hề nói đến hình thái quay trở về đó, không hề
tự hỏi xem chúng sẽ quay trở về dới hình thái hàng hoá hay hình thái tiền. Sau
(
3)
Kinh tế chính - NXB giáo dục - 1998, trang 104
17
17
khi toàn bộ giá trị t bản mà một nhà t bản cá biệt bỏ vào một ngành sản xuấta
nào đó hoàn thành tuần hoàn trong sự vận động của nó, thì nó lại trở lại hình
thái ban đầu của nó và lại có thể diễn lại cùng một quá trình nh thế. Muốn
cho giá trị đợc bảo tồn mãi mãi và tiếp tục tăng thêm giá trị với t cách là giá trị
t bản, thì nó phải lắp lại tuần hoàn ấy. Trong đời sống của t bản, mỗi tuần
hoàn cá biệt chỉ là một giai đoạn không ngừng đợc lắp đi lắp lại, nghĩa là một
giai đoạn cấu thành một định kỳ. Hình thái T T t bản tiền tệ sẽ đi qua cái
chuỗi những chuyển hoá bao gồm quá trình tái sản xuất ra nó, hay quá trình
tăng thêm giá trị. Khi định kỳ Sx Sx kết thúc, t bản mang hình thái những
yếu tố sản xuất nó là tiền đề của việc lặp lại tuần hoàn. Tuần hoàn của t bản
khi đợc coi là một quá trình định kỳ, chứ không phải một hành vi cá biệt thì đ-
ợc gọi là vòng chu chuyển của t bản. Thời gian của vòng chu chuyển ấy đợc
quyết định bởi tổng số thời gian sản xuất và thời gian lu thông cộng lại. Tổng
số thời gian ấy là thời gian chu chuyển của t bản. Do đó, thời gian chu chuyển

của t bản bao quát khoảng thời gian từ một định kỳ tuần hoàn tiếp theo; nó nói
lên tính chu kỳ trong quá trình sinh sống của t bản, hay có thể nói, nó là thớc
đo thời hạn đổi mới, thời hạn lặp lại của quá trình làm tăng thêm giá trị hay
quá trình sản xuất ra cùng một giá trị t bản.
Nếu không nói đến những sự ngẫu nhiên riêng rẽ có thể đẩy nhanh hay
rút ngắn thời hạn chu chuyển đối với cùng một t bản cá biệt, thì thời gian chu
chuyển ấy nói chung sẽ khác nhau tùy theo những sự khác nhau của các lĩnh
vực đầu t cá biệt của t bản. Cũng giống nh ngày lao động là đơn vị đo lờng tự
nhiên để đo hoạt động của sức lao động, thì năm cũng là đơn vị đo lờng tự
nhiên để đo những vòng chu chuyển của t bản hoạt động. Cơ sở tự nhiên của
đơn vị đo lờng ấy là tình hình: ở vùng ôn đới, quê hơng của nền sản xuất t bản
chủ nghĩa, các nông sản quan trọng nhất đều đợc sản xuất ra mỗi năm một
lần.
Nếu ta lấy CH để chỉ năm là đơn vị đo lờng của thời gian chu chuyển, lấy
ch để chỉ thời gian chu chuyển của một t bản nhất định, lấy n để chỉ số lần chu
chuyển của t bản, thì chúng ta sẽ có: n = . Do đó nếu thời gian chu chuyển của
t bản là vài năm, thì nó sẽ đợc tính bằng cách nhân với số năm đó. Đối với nhà
t bản, thời gian chu chuyển của t bản là thời gian trong đó nhà t bản phải ứng
18
18
trớc t bản ra để nó tăng thêm giá trị, và quay trở về dới hình thái ban đầu của
nó.
Giá trị các bộ phận t bản sản xuất chuyển vào sản phẩm theo phơng thức
khác nhau. Căn cứ vào phơng thức chu chuyển giá trị của t bản thì chia t bản
ra thành t bản cố định và t bản lu động. Trong đó t bản cố định là bộ phận t
bản sản xuất mà bản thân nó tham gia hoàn toàn vào quá trình sản xuất, nhng
giá trị lại không chuyển hết một lần, mà chuyển dần từng phần vào sản
phẩm
(4)
.

Còn t bản lu động là một bộ phận t bản sản xuất mà giá trị của nó sau
một thời kỳ sản xuất, có thể hoàn lại hoàn toàn cho nhà t bản dới hình thức
tiền tệ, sau khi hàng hoá đã bán xong (5). Đó là bộ phận giá trị t bản dới hình
thức sức lao động và những t liệu sản xuất khác. Nguyên liệu, vật liệu phụ bị
tiêu dùng toàn bộ vào sản xuất và cũng chuyển toàn bộ gia trị vào sản phẩm
mới. Chia t bản ra thành t bản cố định và t bản lu động cũng là một sự phân
chia khoa học, cần thiết về mặt quản lý kinh tế.
T bản cố định chu chuyển chậm hơn t bản lu động. Trong khi t bản cố
định chu chuyển đợc vòng thì t bản lu động đã chu chuyển đợc nhiều vòng.
Ngay trong t bản cố định, thời gian chu chuyển của các yếu tố khác nhau cũng
không giống nhau, có thời gian hoạt động dài, ngắn khác nhau, nghĩa là hao
mòn khác nhau. Hao mòn hữu hình là do sử dụng và do tác động của thiên
nhiên làm cho những bộ phận t bản đó dần dần hao mòn đi đến chỗ hỏng,
không dùng đợc nữa. Còn hao mòn vô hình là nói về những trờng hợp máy
móc mới tốt hơn tối tân hơn xuất hiện (6). Để tránh hao mòn vô hình, nhà t
bản còn tìm cách nâng cao tỷ suất khấu hao t bản cố định.
Dựa trên hai hình thức hao mòn mà C.Mác phân chia chu chuyển của t
bản thành Chu chuyển chung của t bản ứng trớc là con số chu chuyển trung
bình của những thành phần khác nhau của t bản. Chu chuyển thực tế là thời
gian để tất cả các bộ phận của t bản ứng trớc đợc khôi phục toàn bộ về mặt giá
trị, cũng nh về mặt hiện vật
(7)
. Chu chuyển thực tế do thời gian tồn tại của t
(
4)
, (5), (6): NXB Giáo dục: Kinh tế chính trị - 1998, trang 105, 106
(
7)
Kinh tế chính trị - NXB giáo dục - 1998 trang 109
19

19
bản cố định đầu t quyết định và nó không ăn khớp với chu chuyển chung của
nó.
Để nâng cao tỷ suất giá trị thặng d hàng năm, tức là nâng cao tỷ số giữa
khối lợng giá trị thặng d tạo ra trong một năm với t bản khả biến ứng ra trớc
ngời ta phải tăng tốc độ chu chuyển của t bản. Tỷ suất giá trị thặng d thực tế
không đổi, nhng t bản chu chuyển càng nhanh số vòng chu chuyển t bản khả
biến trong năm càng nhiều thì giá trị thặng d càng lớn, tỷ suất giá trị thặng d
hàng năm càng cao. Nó che giấu mối quan hệ thực sự giữa t bản và lao động,
gây cho ngời ta có ấn tợng rằng tỷ suất giá trị thặng d không phải chỉ phụ
thuộc vào khối lợng và trình độ bóc lột sức lao động do nhà t bản khả biến làm
cho hoạt động mà còn phụ thuộc vào những ảnh hởng không thể giải thích đợc
do quá trình lu thông đẻ ra. Do đó nhà t bản ra sức rút ngắn thời gian sản xuất
và thời gian lu thông để tăng tốc độ chu chuyển của t bản. Sự tiến bộ của kỹ
thuật và sự phát triển của lực lợng sản xuất giúp cho nhà t bản làm việc đó.
20
20
II. Sự vận dụng lý thuyết tuần hoàn và chu chuyển của t bản trongn việc quản lý
các doanh nghiệp của nớc ta khi chuyển sang nền kinh tế thị trờng định hớng XHCN.
1. Sự vận dụng ở Việt Nam từ trớc đại hội VI ban chấp hành trung -
ơng Đảng - 1986.
Cả nớc cùng tiền lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến vẫn
còn là sản xuất nhỏ: cơ sở vật chất kỹ thuật còn nhỏ yếu, đại bộ phận lao động
kỹ thuật vẫn còn thủ công, phân công lao động xã hội còn kém phát triển,năng
suất lao động xã hội rất thấp, tình trạng tổ chức và quản lý kinh tế còn thiếu
chặt chẽ, việc kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân còn yếu, nền kinh tế bị mất
cân đối nghiêm trọng. Công cuộc xây dựng nền kinh tế đòi hỏi đất nớc ta phải
có chính sách phát triển và khôi phục nền kinh tế, đa đất nớc đi lên thoát khỏi
sự lạc hậu của nền kinh tế sau những năm chiến tranh xâm lợc. Doanh nghiệp
Việt Nam lúc này còn quá nhỏ bé chủ yếu là các xí nghiệp dới sự che chở của

nhà nớc, nhà nớc bao cấp và chịu gần nh toàn bộ hậu quả mà doanh nghiệp
nhà nớc và xí nghiệp gặp phải. Hàng Việt Nam đợc sản xuất ra có khi không
đúng thời vụ, hàng cha về đến nông thôn thì đã hết. Nhà nớc lại không có
chính sách, biện pháp mở rộng sản xuất, không thu hút vốn đầu t nớc ngoài.
Vốn của các doanh nghiệp chủ yếu là do nhà nớc cấp, doanh nghiệp không tồn
tại loại hình doanh nghiệp t nhân t bản, doanh nghiệp nhà nớc hoạt động rất
kém hiệu quả, năng suất cha cao, chất lợng thấp, cơ sở vật chất kỹ thuật rất
hạn chế.
Đất nớc hoàn toàn giải phóng, cả nớc đi vào khôi phục xây dựng đất nớc.
Đảng và Nhà nớc ta xác định nhiệm vụ đầu tiên là phải phát triển kinh tế, đa
đất nớc đi lên. Tại Đại hội IV Đảng ta đã đề ra đờng lối xây dựng nền kinh tế
xã hội chủ nghĩa: Đẩy mạnh công nghiệp hoá XHCN, xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đa nền kinh tế nớc ta từ sản xuất nhỏ lên
sản xuất lớn XHCN, u tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, trên
cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công
nghiệp và nông nghiệp cả nớc thành một cơ cấu công - nông nghiệp, vừa xây
dựng kinh tế trung ơng, vừa phát triển kinh tế địa phơng trong một cơ cấu kinh
tế quốc dân thống nhất; kết hợp phát triển lực lợng sản xuất với xác lập và
21
21
hoàn thiện quan hệ sản xuất mới, kết hợp kinh tế với quốc phòng
(8)
. Đến đại
hội lần thứ V (tháng 3 - 1982) của Đảng lại khẳng định đờng lối chung và đ-
ờng lối kinh tế do Đại hội IV của Đảng đã đề ra là hoàn toàn đúng đắn và đợc
tiếp tục thực hiện.
Thời kỳ này các doanh nghiệp tồn tại chủ yếu dới hình thái các xí nghiệp.
Đảng ta chủ trơng đối với xí nghiệp con đờng công ty hợp doanh. Thực hiện
chủ trơng đó, công cuộc cải tạo công nghiệp t bản t doanh ở miền Nam đã đợc
thực hiện nh sau: các xí nghiệp của t sản mại bản và t sản bỏ chạy ra nớc

ngoài đều bị quốc hữu hoá và trở thành quốc doanh. Năm 1978 là năm tuyên
bố hoàn thành cải tạo t sản trong công nghiệp loại vừa và nhỏ ở miền Nam.
Củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất trong các xí nghiệp quốc doanh, ngày
21 - 1- 1981 Hội đồng chính phủ đã ban hành quyết định 25 - CP về: Một số
chủ trơng và biện pháp nhằm phát huy quyền chủ động sản xuất kinh doanh và
quyền tự chủ về tài chính cho các xí nghiệp quốc doanh. Trên cơ sở đó các xí
nghiệp phải biết chu chuyển vốn sao cho hợp lý, sản xuất phải phù hợp với
yêu cầu đòi hỏi, nâng cao cơ sở vật chất kỹ thuật, trang bị và ngày càng củng
cố cơ sở vật chất kỹ thuật.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần IV đã chủ trơng xoá bỏ ngay
thơng nghiệp t bản t doanh. Đối với tiểu thơng, Đảng chủ trơng Tổ chức lại
thơng nghiệp nhỏ, chuyển phần lớn tiểu thơng sang sản xuất. Đối với số còn
lại đợc phép kinh doanh, phải tăng cờng quản lý bằng những chính sách và
biện pháp thích hợp. Nền kinh tế bên cạnh những thành tựu đạt đợc vẫn còn
những hạn chế về mặt quản lý còn thiếu hiêủ biết, ít kinh nghiệm quản lý, cha
tổng kết kinh nghiệm thực tiễn tạo điều kiện cho một số xí nghiệp lợi dụng sự
sơ hở để mu lợi ích cục bộ.
Nhìn chung trong giai đoạn này các xí nghiệp rất còn yếu kém trong việc
tuần hoàn sản xuất và chu chuyển vốn, có nhiều xí nghiệp hoàn toàn phụ
thuộc vào nhà nớc đến khi bị thua lỗ thì nhà nớc phải chịu hoàn toàn cho nên
các xí nghiệp cha có đợc tinh thần trách nhiệm đối với hoạt động sản xuất của
mình.
(
8)
Báo cáo chính trị của ban chấp hành trung ơng Đảng tại Đại hội Đảng lần thứ IV. NXB Sự thật, Hà Nội,
1997, trang 67.
22
22
2. Sự vận dụng ở Việt Nam từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI
(tháng 12 - 1986) đến nay.

Đại hội VI của Đảng là một mốc lịch sử quan trọng trên con đờng đổi
mới toàn diện và sâu sắc ở nớc ta; trong đó có sự đổi mới về các quan điểm
kinh tế. Đảng chỉ ra mục tiêu quan trọng là phát triển kinh tế trong đó khẳng
định vai trò của các doanh nghiệp trong nền kinh tế mới với cơ chế quản lý
mới đó là cơ chế thị trờng có sự quản lý của nhà nớc. Cơ chế mới gắn sản xuất
với thị trờng thông qua tín hiệu giá cả đợc hình thành theo quan hệ cung cầu,
đi đôi với thực hiện chế độ tự chủ kinh doanh của các doanh nghiệp và mọi
đơn vị kinh tế trong môi trờng hợp tác và cạnh tranh bình đẳng. Nhà nớc quản
lý nền kinh tế thông qua hệ thống, thể chế rõ ràng, nghiêm chỉnh kết hợp đúng
đắn tính kế hoạch với việc sử dụng quan hệ hàng hoá tiền tệ, sử dụng hợp lý
các đòn bẩy kinh tế nh giá cả, chính sách tài chính, tín dụng công tác kế
hoạch hoá đợc đổi mới theo hớng chuyển từ tính pháp lệnh sang tính hớng dẫn
là chính, từng bớc phân biệt quản lý Nhà nớc với quản lý sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp. Có thể nói cơ chế mới nhằm chuyển hoá nền kinh tế
Việt Nam còn mang nặng tính bao cấp, hiện vật, tự cấp tự túc, sang nền kinh
tế thị trờng, theo định hớng XHCN. Đây cũng là con đờng chủ yếu để nâng
cao hiệu quả của mỗi đơn vị sản xuất - kinh doanh, cũng nh của toàn bộ nền
kinh tế.
Việc chuyển sang kinh tế thị trờng đòi hỏi phải có sự đổi mới một cách
căn bản chức năng quản lý kinh tế của Nhà nớc. Từ chỗ trực tiếp làm kinh tế
can thiệp rất sâu vào quá trình sản xuất kinh doanh, Nhà nớc chuyển sang điều
tiết vĩ mô nền kinh tế chủ yếu bằng công cụ pháp luật, kế hoạch hoá định h-
ớng và các công cụ quản lý vĩ mô khác. Chính sách phát triển nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần của Đảng đã đợc thể chế hoá trong hiến pháp và đ-
ợc cụ thể hoá bằng hệ thống các luật: luật doanh nghiệp nhà nớc, luật khuyến
khích đầu t trong nớc, Luật đầu t nớc ngoài, Luật hợp tác xã, Luật công ty,
Luật doanh nghiệp t nhân, các luật thuế và luật ngân sách, Luật đất đai, Luật
dân sự, Luật phá sản, Pháp lệnh ngân hàng Đó chính là cơ sở pháp lý để
các chủ thể kinh tế và mọi ngời dân đầu t phát triển sản xuất, kinh doanh,
trong cơ chế thị trờng. Trên cơ sở đó từng bớc phân biệt quản lý Nhà nớc với

23
23
quản lý sản xuất kinh doanh, hình thành cơ chế quản lý của nhà nớc với t cách
chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nớc thay thế choi cơ chế Bộ hoặc cơ
quan hành chính chủ quản doanh nghiệp.
Nếu nh trên thế giới, việc phân loại hình doanh nghiệp thờng dựa trên các
tiêu chí chính phủ nh lĩnh vực ngành nghề kinh doanh; hình thức sở hữu; quy
mô vốn, lao động và sản lợng; mức độ lợi nhuận Thì ở Việt Nam việc xác
định loại hình doanh nghiệp cũng dựa trên những tiêu chí đó đã đợc thể chế
thành pháp luật. Trong luật doanh nghiệp do Quốc hội thông qua có nêu
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định,
đợc đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện
các hoạt động kinh doanh . Hiện nay ở nớc ta tồn tại các loại hình doanh
nghiệp chủ yếu sau: doanh nghiệp t nhân; hợp tác xã; doanh nghiệp có vốn
đầu t nớc ngoài; doanh nghiệp nhà nớc và kinh tế hộ. Hiện nay, phần lớn các
doanh nghiệp Việt Nam hoạt động tại các đô thị và các khu công nghiệp, các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh tập trung chủ yếu vào hai lĩnh vực là thơng
mại, dịch vụ và công nghiệp chế biến; quy mô của doanh nghiệp vừa và nhỏ,
trình độ trang bị công nghệ và quản lý thấp, đội ngũ công nhân cha đợc đào
tạo chiếm tỷ lệ khá cao. Một đặc điểm nổi bật của doanh nghiệp Việt Nam là
chất lợng sản phẩm không cao, thiếu thị trờng tiêu thụ sản phẩm. Các doanh
nghiệp nhà nớc có vốn đầu t nớc ngoài chiếm khoảng 43 - 45% GDP, sản
phẩm của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm khoảng 25 - 28% GDP.
Chuyển đổi từ một nền kinh tế tự cung tự cấp, một nền kinh tế nghèo nàn
lạc hậu sang một nền kinh tế hoàn toàn mới đó là kinh tế thị trờng, trong đó
nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trờng với ba vấn đề: Sản xuất cái gì? sản
xuất bao nhiêu? và sản xuất cho ai? đều do thị trờng quyết định thông qua sự
chỉ dẫn của quan hệ cung cầu và giá cả? Một mặt do nớc ta không trải qua giai
đoạn chủ nghĩa t bản đi thẳng lên chủ nghĩa xã hội cha có một cơ sở vật chất
kỹ thuật ổn định cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.

Mặt khác, tỏo chức lại nền kinh tế đa các thành phần kinh tế vào hoạt động có
hệ thống để mục đích đạt đợc hiệu quả sản xuất cao hơn, tăng thu nhập và đời
sống dân c. Song nền kinh tế thị trờng không phải là một hệ thống đợc tổ chức
một cách hoàn hảo, không có những khuyết tật. Vì vậy, để cho nền kinh tế này
24
24
hoạt động có hiệu quả ở nớc ta và để khắc phục, hạn chế những tiêu cực của
cơ chế thị trờng cần có sự can thiệp của nhà nớc vào nền kinh tế thị trờng.
Trên cơ sở bảo đảm quyền tự chủ kinh doanh, nhà nớc định hớng ngày
càng rõ ràng những chức năng quản lý nhà nớc, quản lý hành chính đối với
doanh nghiệp và đòi hỏi các doanh nghiệp phải thực hiện đầy đủ, chính xác
quyền lực của nhà nớc. Đó là con đờng để xoá bỏ những quy định không rõ
ràng, chồng chéo trong trách nhiệm, quyền hạn giữa các cơ quan nhà nớc với
các tổ chức, đoàn thể quần chúng, và sự lãnh đạo tổ chức của Đảng, nhằm hạn
chế tối đa sự sơ hở, dẫn đến tham nhũng lãng phí, vi phạm lợi ích chính đáng
của nhà nớc và bản thân doanh nghiệp. Sự vận động của nền kinh tế thị trờng
có sự quản lý của nhà nớc là tuân theo sự điều khiển song hành, tức là sự tác
động cùng một lúc của hai yếu tố, hai bàn tay: vô hình và hữu hình cơ
chế thị trờng và nhà nớc. Trong đó nhà nớc thực hiện chức năng quản lý của
các doanh nghiệp trên hai mặt tổ chức sản xuất và tổ chức bộ máy quản lý.
Tổ chức sản xuất
Một là: tổ chức sản xuất, lấy các hoạt động sản xuất kinh doanh làm đối
tợng, dựa trên cơ sở phân tích kinh tế - kỹ thuật và lấy hiệu quả kinh doanh
phù hợp với chính sách và pháp luật nhà nớc làm tiêu chuẩn cơ bản. Nhà nớc
hớng các doanh nghiệp nên sản xuất một loại sản phẩm có chất lợng cao đáp
ứng nhu cầu trong nớc và có thể đợc đem ra thị trờng nớc ngoài. Trong quá
trình sản xuất không đợc ngừng trệ, các dây chuyền sản xuất phải nối tiếp
nhau, tuần hoàn và liên tục dựa trên cơ sở trang thiết bị vốn có và đầu t mới.
Hai là: tổ chức sản xuất là cơ sở để sử dụng hợp lý mọi tài nguyên, xây
dựng và thực hiện kế hoạch sản xuất- kinh doanh theo phơng hớng, mục tiêu

kế hoạch nhà nớc, theo nhiệm vụ thiết kế của xí nghiệp, kết hợp chuyên môn
hoá với kinh doanh tổng hợp, có hiệu quả và để tổ chức bộ máy quản lý có
hiệu lực.
Đối với doanh nghiệp nhà nớc hoạt động sản xuất kinh doanh đợc phân
làm ba nhóm:
Nhóm 1: Những doanh nghiệp quan trọng cần đợc nhà nớc duy trì, tổ
chức lại và đầu t nâng cao hiệu quả, mở rộng quy mô hoạt động. Các doanh
25
25

×