Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

Một số Giải pháp đẩy nhanh tiến độ CPH Doanh nghiệpNN ở VN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (463.54 KB, 63 trang )



lời nói đầu
Trong đời sống hàng ngày, lạm phát là một trong những vấn đề kinh tế vĩ mô,
đã trở thành mối quan tâm lớn của các nhà chính trị và công chúng. Nó là một
hiện tợng mất cân bằng kinh tế khá phổ biến trong nền kinh tế thị trờng. Khi lạm
phát đã trở thành con bệnh, đến mức hai con số trở lên, xuất hiện siêu lạm phát thì
nó trở thành sức cản, gây tác động phá hoại rất nghiêm trọng. ở Việt nam lạm
phát hai con số đã diễn ra liên tục nhiều năm trong thời kỳ kinh tế theo cơ chế kế
hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp. Sau hai cuộc điều chỉnh giá - lơng và giá -
lơng - tiền 1981-1985, lạm phát đã trở thành siêu lạm phát 3 con số trong các năm
1986-1988. Song chỉ sau Đại hội Đảng Cộng sản Việt nam lần thứ VI mới đánh
giá đúng mức phá hoại to lớn của con bệnh lạm phát và những giải pháp đợc áp
dụng đã mang lại những kết quả đầy triển vọng.
Sau một thời gian thực tập ở Ban nghiên cứu chính sách kinh tế vĩ mô - Viện
nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ơng, đợc xem xét, nghiên cứu nhiều tài liệu về
những vấn đề kinh tế cơ bản, em đã nhận thức đợc ý nghĩa của vấn đề lạm phát đối
với nền kinh tế nói chung và của nền kinh tế Việt nam nói riêng. Vì vậy em chọn
đề tài:
Nguyên nhân và giải pháp khắc phục hiện t ợng lạm phát ở Việt nam
làm đề tài cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
Thông qua việc tìm hiểu bản chất của lạm phát, ảnh hởng của nó tới nền kinh
tế, em đã hiểu sâu sắc hơn về lạm phát và ảnh hởng của nó đến nền kinh tế của
từng quốc gia theo các mức độ khác nhau. Trong đề tài em đã đa ra những khái
niệm cơ bản, phân loại các loại lạm phát, những nguyên nhân chính đợc xem xét
trên góc độ lý thuyết, các giải pháp chung để khắc phục hiện tợng lạm phát. Từ
những cơ sở lý thuyết này kết hợp với những kiến thức kinh tế đã đợc học em đã
xây dựng nên một số mô hình lạm phát thông qua ý tởng của một vài trờng phái
kinh tế nh trờng phái tiền tệ, trờng phái cấu trúc. Tiếp theo đó là việc đánh giá
hiện tợng lạm phát ở Việt nam từ sau ngày đổi mới, tìm ra những nguyên nhân, đa
ra những giải pháp khắc phục hiện tợng này. Và cuối cùng, dựa vào số liệu thực tế


1


thu thập đợc tại Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ơng, em đa ra một vài mô
hình thực nghiệm về lạm phát của Việt nam ta trong thời kỳ từ 1986-2003.
Cấu trúc của bài viết gồm có:
- Phần I: Khái niệm về lạm phát.
- Phần II: Mô hình về lạm phát.
- Phần III: Đánh giá tình hình lạm phát ở Việt nam trong suốt thời gian
sau thời kỳ đổi mới.
- Phần IV: Mô hình lạm phát ở Việt nam.
Trong quá trình thực hiện bài viết này, em đã đợc sự giúp đỡ nhiệt tình của
các thầy: thầy Ngô Văn Mỹ - Giáo viên khoa Toán kinh tế, Đại học Kinh tế Quốc
dân; thầy Hoàng Văn Thành - Cán bộ thuộc Ban nghiên cứu chính sách kinh tế vĩ
mô, Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ơng. Em xin bày tỏ lòng biết ơn của
mình tới các thầy!
Hà nội, ngày 15-4-2005
Sinh viên: Trơng Sĩ Quý
2


Phần I: Lý thuyết về lạm phát
1. Khái niệm về lạm phát:
Nói về lạm phát là nói về một vấn đề lớn của một nền kinh tế, nó là một biến
vĩ mô quan trọng mà bất kỳ một Chính phủ của một quốc gia nào đó cũng không
thể bỏ qua nó khi tiến hành hoạch định một chính sách kinh tế. Hiểu và vận dụng
đúng đắn phạm trù về lạm phát không phải là một vấn đề đơn giản với bất kỳ một
quốc gia nào nhất là đối với những nớc đang phát triển nh nớc ta. Vì vậy trong
cùng một quốc gia có thể có nhiều số liệu khác nhau về con số lạm phát trong năm
của quốc gia đó. Dới góc độ của bài viết này, chúng ta có thể quan niệm về lạm

phát qua một số khái niệm dới đây:
Lạm phát là sự tăng lên của mức giá trung bình theo thời gian.
Một định nghĩa khác: lạm phát là tỷ lệ phần trăm nói lên sự mất giá của đồng
tiền trong tháng này so với tháng trớc, kỳ này so với kỳ trớc, năm này so với năm
trớc,...
Lạm phát là biểu hiện việc tiêu dùng quá với khả năng hiện có về lực lợng
hàng hoá. Song cũng có đôi lúc, lạm phát không phản ánh đúng thực chất nói ở
trên.
Lạm phát là hiện tợng chung của tất cả các nớc trên thế giới, không phải
riêng của nớc ta. Đối với nớc có nền kinh tế phát triển, đời sống chính trị ổn định,
Nhà nớc điều hành tài giỏi sẽ có tỷ lệ lạm phát hợp lý. Nớc kém phát triển hoặc có
sự biến động về kinh tế, chính trị sẽ dẫn đến tỷ lệ lạm phát không hợp lý.
Lạm phát đợc đặc trng bởi chỉ số giá chung của giá cả và loại chỉ số biểu hiện
lạm phát hay chỉ số giá chung của toàn bộ hàng hoá cấu thành tổng sản phẩm
quốc dân.
Chỉ số giá là tỷ lệ phần trăm phản ánh sự biến động giá cả khi so sánh hai
mặt hàng với nhau trong một thời gian nhất định (tháng, quý, năm) trong một
không gian nhất định.
Chỉ số giá có ý nghĩa rất lớn trong việc xem xét tình hình biến động giá cả
trong một thời gian nhất định. Thông qua tỷ giá và chỉ số giá, ngời sản xuất, kinh
3


doanh sẽ thấy đợc mặt hàng nào đang đợc lợi về giá, mặt hàng nào đang thua thiệt
về giá. Từ đó có những quyết định thích hợp trong sản xuất kinh doanh. Thông
qua chỉ số giá, Nhà nớc đa ra những chính sách phù hợp với chiến lợc phát triển
kinh tế của đất nớc.
Việc xây dựng chỉ số giá đợc tiến hành nh sau:
Đầu tiên, lựa chọn một giỏ hàng hoá để tính chỉ số giá cả. Tổng các mức
giá cho mỗi năm. Sau đó, lựa chọn năm gốc. Chia mức giá năm hiện tại cho năm

gốc và nhân với 100.
100
0
x
P
P
PI
t
=
Trong đó: PI là chỉ số giá
P
t
là tổng các mức giá hiện tại
P
0
là tổng các mức giá năm gốc.
Khi năm hiện thời cũng là năm gốc thì chỉ số này bằng 100. Đối với một
năm bất kỳ, các mức giá năm hiện thời và các mức giá năm gốc sẽ không giống có
thể xảy ra nhất. Nếu mức giá hiện thời lớn hơn mức giá gốc, chỉ số này sẽ lớn hơn
100. Ngợc lại, nếu mức giá hiện thời nhỏ hơn mức giá năm gốc thì chỉ số này sẽ
nhỏ hơn 100.
Mức giá ổn định đợc đo bởi phần trăm thay đổi hàng năm của chỉ số giá:
001
/)(% PPPPp ==
Lạm phát là sự tăng lên của mức giá chung, nó đợc đo bằng chỉ số giá. Lu ý
rằng đây không phải sự tăng lên của tất cả các mức giá trong suốt quá trình lạm
phát. Một vài mức giá vẫn giảm xuống, nhng các mức giá này đang có khuynh h-
ớng tăng kéo giá cả chung tăng lên.
Giảm phát là sự giảm xuống của mức giá cả chung, nó cũng đợc đo bằng chỉ
số giá. Lu ý rằng nó không bao gồm sự giảm xuống tất cả các mức giá trong quá

trình giảm phát. Một vài mức giá thực tế vẫn tăng nhng nó đang có khuynh hớng
giảm xuống kéo mức giá chung giảm xuống.
Lạm phát đợc đo bằng chỉ số giá cả: chỉ số giá cả đợc dùng rộng rãi nhất là
chỉ số giá cả hàng tiêu dùng CPI.
4


Giá tiêu dùng là giá cả mà ngời tiêu dùng mua hàng hoá và chi trả các dịch
vụ nhằm phục vụ trực tiếp cho đời sống hàng ngày của ngời dân. Giá tiêu dùng đ-
ợc thể hiện bằng giá bán lẻ hàng hoá trên thị trờng và giá các loại dịch vụ, nhằm
phục vụ sinh hoạt đời sống của các tầng lớp dân c.
Muốn tính chỉ số giá tiêu dùng phải có các điều kiện:
Thứ nhất, phải có danh mục mặt hàng tiêu dùng và dịch vụ đại diện thống
nhất trong cả nớc để thống kê giá tiêu dùng.
Thứ hai, tổ chức mạng lới điều tra và phơng pháp điều tra giá bán lẻ hàng hoá
và dịch vụ tiêu dùng.
Thứ ba, phải có bảng giá kỳ gốc cố định và quyền số cố định dùng để tính chỉ
số giá tiêu dùng.
Bảng danh mục hàng hoá và dịch vụ đại diện thống kê giá tiêu dùng hiện nay
đợc chia thành 3 phân nhóm nh sau:
10 nhóm cấp I bao gồm:
+ Lơng thực,
+ Uống và hút,
+ May mặc, mũ nón giày dép,
+ ở,
+ Thiết bị và đồ dùng gia đình,
+ Y tế, chăm sóc sức khoẻ,
+ Đi lại và bu điện,
+ Giáo dục,
+ Văn hoá, thể thao, giải trí,

+ Đồ dùng và dịch vụ khác.
10 nhóm trên đợc gọi 10 nhóm cấp I đợc chia thành hai bộ phận hàng hoá
tiêu dùng và dịch vụ tiêu dùng.
Nhóm cấp II có 34 nhóm
Nhóm cấp III có 86 nhóm
5


Nh vậy, CPI tính chi phí của một giỏ hàng tiêu dùng và dịch vụ trên thị tr-
ờng. Để tính CPI ngời ta dựa vào tỷ trọng của phần chi cho từng mặt hàng trong
tổng chi tiêu cho tiêu dùng của thời kỳ có lạm phát.
CPI
t
=
[ ]

0,,,
/
ititi
PPw

=
0,0,
0,0,
ii
ii
i
QP
QP
w

Nh vậy:
CPI
t
=


0,0,
0,,
ii
iti
QP
QP
Q
i,0
: khối lợng hàng hoá tiêu dùng ở thời kì i từ thời gian gốc
P
i,0
: mức giá hàng hoá ở thời kì i từ thời gian gốc
P
i,t
: mức giá sản phẩm thời kì t.
Tỷ lệ lạm phát đợc xác định bởi:
INF
t
= 100(P
t
P
t 1
)/P
t 1

Trong đó: INF
t
là tỷ lệ lạm phát năm t
P
t
, P
t 1
là mức giá năm t và t-1
Một vài chỉ số liên quan đến lạm phát khác là:
- CCPI đo mức giá tiêu dùng chung nhng loại trừ các nhân tố cấu thành các mức
giá không ổn định và biến đổi nên không thể dự báo các lý do từ thời kỳ này đến
thời kỳ kia, ví dụ nh mức giá của lơng thực và năng lợng.
- Chỉ số giá sản xuất (PPI) đo mức giá chung phải trả cho tài sản hữu hình, bán
thành phẩm và thiết bị sản xuất. Nó đợc tính toán hàng tháng. Sự biến động của
PPI co thể dự đoán sự biến động tơng lai của CPI.
- CPPI đo mức giá sản xuất chung nhng loại trừ các nhân tố cấu thành các mức giá
không ổn định và biến đổi nên không thể dự báo đợc. Sự biến động trong chỉ số
CPPI có khuynh hớng dự báo sự biến động trong tơng lai của chỉ số CCPI.
2. Phân loại lạm phát:
Có nhiều cách phân biệt lạm phát dựa trên các tiêu thức khác nhau:
6


+ Về mặt định lợng:
Dựa trên độ lớn nhỏ của tỉ lệ % lạm phát tính theo năm, ngời ta chia lạm phát
ra thành:
- Lạm phát một con số mỗi năm: Samuelson gọi là lạm phát vừa phải. Loại
lạm phát này xảy ra khi giá cả tăng chậm và tỷ lệ lạm phát dới 10% một năm. Đây
là mức lạm phát mà nền kinh tế chấp nhận đợc, với mức lạm phát này những tác
động kém hiệu qủa của nó là không đáng kể.

- Lạm phát 2 con số: khi tỷ lệ tăng, giá đã bắt đầu tăng đến hai con số mỗi
năm. ở mức thấp (11, 12, 13%/năm) thì tác động của nó đến nền kinh tế là không
đáng kể, nền kinh tế có thể vẫn chấp nhận đợc. Nhng khi tỷ lệ tăng giá ở mức 2
chữ số cao, lạm phát sẽ trở thành kẻ thù của sản xuất và thu nhập vì những tác
động tiêu cực của nó là không nhỏ. Lạm phát hai chữ số trở thành mối đe doạ đến
sự ổn định của nền kinh tế.
- Siêu lạm phát: tuỳ theo quan niệm của các nhà kinh tế, ngoài các loại lạm
phát trên đây còn có lạm phát ba chữ số. Nhiều ngời coi các loại lạm phát này là
siêu lạm phát vì nó có tỷ lệ lạm phát rất cao và tốc độ tăng rất nhanh. Với siêu lạm
phát tác động tiêu cực của nó đến đời sống và nền kinh tế là hết sức nghiêm trọng:
kinh tế suy sụp một cách nhanh chóng, thu nhập thực tế của ngời lao động giảm
mạnh. Chúng ta có thể thấy một hình ảnh của siêu lạm phát là ở nớc Đức năm
1922-1923. Đây có thể nói nó là hình ảnh điển hình về siêu lạm phát trong lịch sử
lạm phát thế giới, giá cả tăng từ 1 đến 10 triệu lần.
+ Về mặt định tính:
- Lạm phát cân bằng và lạm phát không cân bằng:
Lạm phát cân bằng: khi nó tăng tơng ứng với thu nhập, do vật lạm phát không
ảnh hởng đến đời sống của ngời lao động.
Lạm phát không cân bằng: tỷ lệ lạm phát tăng không tơng ứng với thu nhập.
Thực tế thì lạm phát không cân bằng thờng hay xảy ra nhất.
- Lạm phát dự đoán trớc và lạm phát bất thờng:
7


Lạm phát dự đoán trớc: lạm phát xảy ra trong một thời gian tơng đối dài với
tỷ lệ lạm phát hàng năm khá đều đặn, ổn định. Do vậy, ngời ta có thể dự đoán trớc
đợc tỷ lệ lạm phát cho những năm tiếp sau. Về mặt tâm lý, ngời dân đã quen với
tình hình lạm phát đó và ngời ta đã có những chuẩn bị để thích nghi với tình hình
lạm phát này.
Lạm phát bất thờng: lạm phát xảy ra có đột biến mà trớc đó cha hề xuất hiện.

Do vậy, về tâm lý, cuộc sống và thói quen của mọi ngời đều cha thích nghi đợc.
Lạm phát bất thờng gây ra những cú sốc cho nền kinh tế và sự thiếu tin tởng của
ngời dân vào chính quyền đơng đại.
Lịch sử lạm phát cũng chỉ ra rằng, lạm phát ở các nớc đang phát triển thờng
diễn ra trong thời gian khá dài, và vì thế, hậu quả của nó phức tạp và trầm trọng
hơn. Cũng vì vậy dựa vào các loại lạm phát đã phân chia ở trên kết hợp với độ dài
thời gian lạm phát để chia lạm phát ở các nớc này thành 3 loại:
- Lạm phát kinh niên thờng kéo dài trên 3 năm với tỷ lệ lạm phát đến 50%
một năm.
- Lạm phát nghiêm trọng thờng kéo dài trên 3 năm với tỷ lệ lạm phát trên
50% một năm.
- Siêu lạm phát kéo dài trên 1 năm với tỷ lệ lạm phát trên 200% một năm.
3. Nguyên nhân của lạm phát:
3.1. Lạm phát do tiền tệ:
Ta xét lý thuyết về lợng của tiền tệ:
Hình thức hoá thông thờng nhất của lý thuyết đó là công tức Irving Fisher:
M x V = P x T
Trong đó: M là khối lợng tiền tệ lu thông;
V là tốc độ lu thông của tiền tệ (cùng một đơn vị tiền tệ có thể
qua nhiều chu trình chi trả trong một thời gian nhất định);
P là mặt bằng chung của giá cả;
T là khối lợng giao dịch phải bảo đảm.
8


Một định nghĩa rộng hơn của khối lợng tiền tệ dẫn đến biểu thức:
M x V + M x V = P x T
Trong đó phân biệt lợng tiền tệ lu thông M với tiền gửi (M), mỗi thành phần
của khối lợng tiền tệ chung lại có một tốc độ lu thông (tơng ứng với V và V).
ý nghĩa đơn giản nhất là mọi sự tăng tiền tệ cao hơn tăng sản xuất thực tế đều

đợc thể hiện (đối với một tốc độ lu thông không đổi của tiền tệ) ra bằng sự hiệu
chỉnh giá cả chung sao cho giá trị tổng thể của trao đổi bằng giá trị của khối lợng
tiền tệ mới đang lu thông. Trong thời hạn ngắn hoặc trong trờng hợp bộ máy sản
xuất không đáp ứng đợc nhu cầu tăng lên, biến động của giá cả sẽ tỉ lệ thuận với
biến động của khối lợng tiền tệ.
Nhà kinh tế học A. Marshall cho rằng sự phát hành tiền với t cách là nhu cầu
tiền tệ phụ thuộc vào thu nhập thực tế của quốc gia (Y), mặt bằng chung của giá
cả (P) và một hệ số (k), hệ số này tuỳ theo các tác giả biểu thị tỉ số giữa khối lợng
tiền tệ và thu nhập phụ thuộc vào nhiều yếu tố không đơn thuần là một hệ số kỹ
thuật. Công thức M = k x P x Y có ý nghĩa khối lợng tiền tệ quyết định giá trị giao
dịch, lợng tiền tệ mong muốn tác động lên lợng tiền tệ lu thông. Nh vậy, độ lớn
của khối lợng tiền tệ quyết định giá trị của thu nhập quốc gia (P x Y); nhng nếu nó
tìm cách đa tiền tệ vào nền kinh tế thật thì nó lại bỏ qua các quan hệ giữa cung và
cầu của tiền tệ.
Sau đó nhà kinh tế M. Friedman đã định rõ nhu cầu của tiền tệ nhờ hàm số:
);,,,;,( uGRERBRMwyf
P
M
p
d
=
Trong đó: M
d
biểu thị nhu cầu tiền tệ;
P là mặt bằng giá cả;
y là thu nhập thờng xuyên;
w là tỉ lệ giữa thu nhập từ thiết bị và con ngời;
RM, RB, RE là hiệu suất danh nghĩa dự kiến của tiền tệ, trái phiếu
và cổ phần.
G

p
là tỉ lệ lạm phát dự kiến;
u là biến biểu thị các yếu tố khác.
9


Ông khẳng định rằng lạm phát lúc nào và ở đâu cũng là một hiện tợng tiền
tệ mà trách nhiệm thuộc về chính sách của Nhà nớc. Đối với Friedman, việc phát
hành tiền tệ thuộc về các quyết định hoặc một sự kiểm soát của chính phủ. Bị sức
ép thờng xuyên của các yếu tố khác nhau hoặc của hệ thống ngân hàng, Nhà nớc
phải tiêu nhiều mà không tăng thuế kịp, hoặc hợp thức hoá các khoản nợ của t
nhân để duy trì hoạt động kinh tế hoặc giúp đỡ một tầng lớp xã hội nào đó. Nh
vậy, việc phát hành tiền tệ cho phép dẫn đến thuế lạm phát, các khoản thu của
Nhà nớc tăng chừng nào các khoản thuế lợi tức không khớp một cách máy móc
với lạm phát và chừng nào các bản tổng kết tài sản của các doanh nghiệp không
tính lại giá. Cùng trong thời gian đó, nợ của Nhà nớc cũng nhẹ bớt đi. Nh vậy,
Chính phủ ở khắp mọi nơi phải chịu trách nhiệm về lạm phát.
Muốn kìm hãm lạm phát, theo Friedman nên kìm hãm sự tăng thêm tiền ở
một tỉ lệ cố định và vừa phải, nó có hiệu qủa là ổn định đợc các dự đoán về lạm
phát và hớng cơ chế đến một sự cân bằng bền trên tất cả các thị trờng. Nhịp điệu
tăng trởng của tiền tệ phải cùng nhịp điệu tăng trởng của nền sản xuất đích thực
duy trì trong thời gian dài và bảo đảm đợc một sự phát triển kinh tế không lạm
phát.
Lịch sử về lạm phát chỉ ra rằng không có cuộc lạm phát nào cao mà không có
sự tăng trởng mạnh mẽ về tiền tệ. Lợng tiền tăng càng nhanh thì lạm phát càng cao
và bất kỳ một chính sách vĩ mô nào giảm đợc tốc độ tăng tiền cũng dẫn đến giảm
tỉ lệ lạm phát và điều này đặc biệt phù hợp với thời kì ngắn hạn.
Khi ngân sách thâm hụt lớn các chinh phủ có thể in thêm tiền để trang trải, l-
ợng tiền danh nghĩa tăng lên là một nguyên nhân gây ra lạm phát. Và một khi giá
cả tăng lên thì sự thâm hụt mới lại nảy sinh đòi hỏi phải in thêm một lợng tiền mới

và lạm phát tiếp tục tăng vọt. Kiểu lạm phát xoáy ốc này thờng xảy ra trong thời
kỳ siêu lạm phát. Tuy nhiên các chính phủ có thể tài trợ thâm hụt bằng cách vay
dân qua bán tín phiếu. Lợng tiền danh nghĩa không tăng lên thêm nên không có
nguy cơ lạm phát. Nhng nếu thâm hụt kéo dài, số tiền phải trả cho dân cả gốc lẫn
10


lãi sẽ lớn đến mức cần phải in tiền để trang trải thì khả năng có lạm phát mạnh là
điều chắc chắn.
3.2. Lạm phát do nhu cầu:
Quan hệ tiền tệ - nhu cầu, sự cung cấp sản phẩm tạo ra nhu cầu chính nó,
điều đó có nghĩa là nhu cầu tổng thể đợc tạo nên bởi toàn bộ thu nhập đợc phân
phối vào dịp sản xuất, cũng tức là nó nhất thiết phải bằng sự cung ứng tổng thể,
không có sự tích trữ tiền của. Vậy nhu cầu quá mức chỉ có thể có do sự tăng trởng
không kiểm soát đợc các phơng tiện chi trả trong tay những ngời có nhu cầu. Học
thuyết tiền tệ cho rằng nhu cầu có thể xuất phát từ sự tăng độc lập tốc độ lu thông
tiền tệ, từ sự du nhập các ngoại tệ, hoặc lợi nhuận và lãi cổ phần từ nớc ngoài
chuyển về nớc, hoặc từ chỗ giảm tích trữ hoặc giảm để dành. Việc tăng xu hớng
tiêu dùng này có thể giải thích bằng sự xuất hiện của những sản phẩm mới, của sự
sửa đổi hệ thống giá tơng đối, của việc một số tầng lớp xã hội giầu lên cho phép
họ mua đợc những của cải mới, hoặc của một sự thay đổi trong dự đoán giá cả, thu
nhập hoặc thù lao tiết kiệm.
Việc phát hành tiền tệ mặc dầu nhiều hay ít cũng chỉ dẫn đến lạm phát trong
trờng hợp bộ máy sản xuất không thể đáp ứng đợc mức tăng của nhu cầu. Sự hiệu
chỉnh cung - cầu đợc thực hiện bằng giá cả thay cho số lợng, và trờng hợp với mọi
tình trạng phát hành tiền tệ.
Do đó, việc tăng giá chỉ xuất hiện khi năng lực sản xuất ở ngời, công cụ và
nguyên liệu đều đã đợc huy động tối đa, khi các khối hàng dự trữ đều không đủ và
khi nhập khẩu không thoả mãn đợc nhu cầu trong nớc. Nhng nó chỉ trở thành lạm
phát nếu nhu cầu quá mức lại nảy sinh và không có yếu tố nào can thiệp vào để

làm tăng mức cung ứng tổng thể đủ thoả mãn nhu cầu.
Biện pháp duy nhất để lập lại cân bằng cung cầu sẽ là một sự hiệu chỉnh bằng
giá cả. Hơn nữa, việc tạo nên thu nhập phụ do việc tăng giá tất yếu nảy sinh một
động lực lạm phát toàn diện.
11


3.3. Lạm phát do chi phí:
Lạm phát do chi phí sản xuất là lạm phát phát sinh từ chỗ tăng tiền chi cho
các yếu tố sản xuất cao hơn khả năng sản xuất của chúng. Sự tăng đó đã kích động
các chủ doanh nghiệp tăng giá sản phẩm của họ bán cho các doanh nghiệp hoặc
gia đình. Những ngời này lại có xu hớng tăng giá của họ hoặc lại yêu cầu tăng tiền
lơng. Cứ nh thế quá trình lạm phát đợc hình thành và duy trì.
Theo quan điểm này, nguồn gốc của lạm phát là ở trong quá trình hình thành
chi phí và cung cấp. Nếu tiền lơng tăng lên trong một hay nhiều ngành thì nó cũng
đợc áp dụng cho tất cả các doanh nghiệp của các ngành đó dù điều kiện sản xuất
có nh thế nào chăng nữa, rồi nó có xu hớng lan đến phần còn lại của nền kinh tế,
mặc dầu với mức độ thấp hơn và gây khó khăn cho những doanh nghiệp sản xuất
kém hơn.
Ngay cả khi sản lợng cha đạt tiềm năng nhng vẫn có khả năng và trên thực tế
đã xảy ra lạm phát ở nhiều nớc, kể cả các nớc phát triển cao. Đó là đặc điểm của
lạm phát hiện đại. Kiểu lạm phát này gọi là lạm phát chi phí đẩy, vừa lạm phát vừa
suy giảm sản lợng, tăng thêm thất nghiệp nên cũng còn gọi là lạm phát đình trệ.
Các cơn sốt giá cả của thị trờng đầu vào đặc biệt là các vật t cơ bản nh xăng
dầu, điện... là nguyên nhân chủ yếu đẩy chi phí lên cao. Tuy tổng cầu không thay
đổi nhng giá cả đã tăng lên và sản lợng lại giảm xuống.
Giá cả sản phẩm trung gian tăng đột biến thờng do các nguyên nhân: thiên
tai, chiến tranh, sự biến động kinh tế, chính trị... Đặc biệt sự biến động giá dầu lửa
do OPEC tạo ra trong những năm 1970 đã gây ra các cuộc lạm phát đình trệ trầm
trọng trên quy mô thế giới.




12




Việc tăng các loại chi phí, việc tìm cách tăng khả năng sản xuất hoặc hiệu
suất, cũng nh mong muốn tiêu dùng dẫn đến phơng cách cuối cùng là các doanh
nghiệp và các gia đình phải vay thêm nợ. Nếu gia tăng làm nhẹ đi một phần gánh
nặng nợ nần của những ngời đi vay thì số nợ đó vẫn tăng không kém và đẻ ra
những chi phí phụ, điều đó làm việc tăng giá thiết bị đợc trả bằng tiền đi vay.
Có thể nói lạm phát và tăng lơng luôn đi liền với nhau. Tiền lơng là một bộ
phận cấu thành quan trọng nhất của tổng chi phí sản xuất của doanh nghiệp. Mặt
khác ngời ta thấy một sự đồng bộ chung của tăng trởng tiền lơng và giá sản phẩm
trong các nớc công nghiệp lớn, giá cả càng tăng vọt thì lơng tăng càng nhiều.
3.4. Lạm phát, hiện tợng cấu trúc:
Những cách giải thích lạm phát do tiền tệ, do nhu cầu và do chi phí, nếu xét
riêng từng cách thì cách nào cũng có một phần sự thật. Hơn nữa chúng có thể bổ
sung cho nhau để cho một cách phân tích chặt chẽ quá trình lạm phát. Nhng chúng
đều có thiếu sót là không đặt lạm phát trong bối cảnh của sự tiến triển của hệ
thống kinh tế đã xảy ra lạm phát. Vì vậy, lạm phát rõ ràng không phải là hiện tợng
thoáng qua của một nền kinh tế bất kỳ và trừu tợng, cũng không phải là hậu quả
của một sự quản lý tồi của các nhà chức trách tiền tệ mà là một hiện tợng gắn liền
với cấu trúc của chủ nghĩa t bản thế giới và của các thành phần quốc gia của nó.
13
Lạm phát chi phí đẩy
Y
Y

1
Y
0
AD
AS
o
ASP
P
1
P
0
E
1
E
0


Điều này không có nghĩa là trong nền kinh tế kế hoạch hoá không có tăng giá.
Việc tăng giá có thể đợc quyết định để phản ánh trọng lợng đầu t đã thực hiện, sự
khan kiệt của một số nguyên liệu hoặc sự thiếu hụt của một số sản phẩm nhằm
mục đích hạn chế tiêu dùng.
Lạm phát không phải là hậu quả của một sự hoạt động tồi của một nền kinh
tế, làm rối loạn tình trạng bình thờng của mức trung bình của giá cả ổn định,
những sự rối loạn đó là do phát hành tiền tệ hoặc do trả tiền thù lao quá cao hoặc
do nhu cầu quá nhiều, hoặc do những cú sốc ngoại sinh. Nếu tất cả những yếu tố
đó đều đợc tính đến, chúng không độc lập với nhau mà tạo thành một tổng thể
chặt chẽ. Điều đó làm cho chi tiêu tăng lên kéo giá cả lên nhanh hơn việc nhà kinh
doanh có thể làm tăng đầu ra. Ngời ta gọi đó là lạm phát cầu - kéo.
14
AS

AD
1
AD
0
P
P
1
P
0
Q
Q
0
Q
1
Lạm phát cầu - kéo


Trên hình vẽ, một sự tăng lên trong toàn bộ cầu từ AD
0
đến AD
1
kéo giá tăng
từ P
0
lên P
1
. Nếu nền kinh tế không có đủ việc làm, lạm phát cầu kéo làm tăng sản
lợng đầu ra và giảm bớt thất nghiệp.
Nạn thất nghiệp và nạn lạm phát dai dẳng có thể xảy ra đồng thời. Có sự mất
liên hệ giữa các thủ tục quy định tiền lơng và tình hình thị trờng việc làm. Có thể

nói thất nghiệp là một trong những hậu quả nặng nề nhất của tình trạng lạm phát.
Để điều tiết mối quan hệ này Nhà nớc có một vai trò hết sức quan trọng, nổi bật là
những vai trò sau:
Thứ nhất, pháp luật liên quan đến giới lao động, tính chất tập thể và bắt buộc
đối với mọi ngời, của những điều quy định về luật xã hội, về những điều kiện thải
hồi và về định mức lơng. Ví dụ nh việc tạo ra mức lơng tối thiểu cho các nghề,
việc định thời gian làm việc trong tuần...
Thứ hai, Nhà nớc và các cơ quan Nhà nớc giữ quyền điều tiết rất lớn đối với
nhu cầu tổng thể qua số tiền của các khoản chi công cộng, tiền lơng gián tiếp,
và sự tạo lập các phơng tiện chi trả theo khả năng của nền kinh tế.
Về các khoản chi công cộng, việc tăng tỉ lệ phần trăm các khoản nộp bắt
buộc nh thuế trực tiếp và thuế gián tiếp... thi hành trong toàn thể các nớc phát triển
là một yếu tố quan trọng ổn định nhu cầu tổng thể. Vì vậy số d ngân sách trở
thành một hiện tợng ngoại lệ và nếu nó xảy ra nó có thể đơn giản đợc dùng để trả
trớc nợ của Nhà nớc.
Sau cùng, chính sách tiền tệ theo nghĩa rộng do các nhà cầm quyền điều hành
đã đảo lộn các điều kiện cấp vốn của nền kinh tế. Sự huỷ bỏ vĩnh viễn việc đối
chiếu với một khối lợng dự trữ kim loại và giá trị bằng vàng của tiền tệ đã cho
phép thả lỏng việc tạo lập ra các phơng tiện chi trả. Vì thế, một hệ thống tiền tệ
mới trong nớc và quốc tế đã đợc thành lập. Nó có chức năng tạo ra các phơng tiện
chi trả cho phép bảo đảm sự thơng phẩm hoá các sản phẩm và dịch vụ làm ra, ở
một mức giá thích hợp để sự tăng trởng tiếp tục và tơng hợp với các mục tiêu của
thu nhập thực tế.
15


3.5. Các nguyên nhân khác:
Trong một nền kinh tế thị trờng mở có rất nhiều yếu tố tác động đến cung
tiền tệ, làm tăng chi phí sản xuất... mà chúng trực tiếp hay gián tiếp tác động làm
tăng tỷ lệ lạm phát. Cũng vậy, các chính sách kinh tế vĩ mô của các nhà hoạch

định chính sách cũng có thể gây ra lạm phát.
Một trong những nguyên nhân khác nữa gây ra tình trạng lạm phát là lạm
phát theo tỷ giá hối đoái. Tỷ giá hối đoái giữa đồng nội tệ so với đơn vị tiền tệ nớc
ngoài tăng cũng là nguyên nhân gây ra lạm phát. Khi tỷ giá tăng, đồng nội tệ mất
giá, trớc hết nó tác động lên tâm lý của những ngời sản xuất trong nớc, muốn kéo
giá hàng lên theo mức tăng của tỷ giá hối đoái. Thứ hai, khi tỷ giá tăng, giá
nguyên liệu, hàng hoá nhập khẩu cũng tăng cao, đẩy chi phí về nguyên liệu tăng
lên, lại quay trở về lạm phát phí - đẩy nh đã nói ở trên. Việc tăng giá của nguyên
liệu và hàng hoá nhập khẩu thờng gây ra phản ứng dây chuyền, làm tăng giá cả ở
rất nhiều các hàng hoá khác, đặc biệt là các hàng hoá của những ngành có sử dụng
nguyên liệu nhập khẩu và những ngành có mối liên hệ chặt chẽ với nhau (nguyên
liệu của ngành này là sản phẩm của ngành khác...).
Một nguyên nhân nữa dẫn đến lạm phát là lãi suất tiền gửi. Lãi suất thực tế
thờng ít thay đổi và ở mức mà cả ngời cho vay và ngời đi vay đều có thể chấp nhận
đợc. Nếu khác đi có thể tạo mức d cầu hoặc d cung và sẽ đẩy lãi suất này về mức
ổn định. Nhng lãi suất danh nghĩa lại biến động theo lạm phát. Khi lạm phát thay
đổi lãi suất danh nghĩa sẽ thay đổi để duy trì lãi suất thực tế ở mức ổn định. Vậy
lãi suất thực tế = lãi suất danh nghĩa - tỷ lệ lạm phát. Khi tỷ lệ lạm phát tăng lên,
lãi suất danh nghĩa tăng theo, tăng chi phí cơ hội của việc giữ tiền, càng giữ nhiều
tiền càng thiệt. Điều này đặc biệt đúng trong các cuộc siêu lạm phát, tiền mất giá
càng mạnh, tăng mức độ gửi tiền vào ngân hàng, vào quỹ tiết kiệm hoặc đẩy ra thị
trờng để mua về mọi loại hàng hoá có thể dự trữ gây thêm mất cân bằng cung cầu
trên thị trờng hàng hoá và tiếp tục đẩy giá lên cao.
16


4. Tác động của lạm phát:
Từ thực tế diễn biến lạm phát của các nớc trên thế giới, các nhà kinh tế cho
rằng: lạm phát cao và triền miên có ảnh hởng xấu đến mọi mặt của đời sống kinh
tế, chính trị và xã hội của một quốc gia.

Tác động gây ấn tợng mạnh của lạm phát là trong quan hệ giữa chủ nợ và con
nợ, gây nên sự chuyển dịch của cải giữa các tác nhân; nhng những tác động đó
thay đổi gia sản của họ một cách không đồng đều, tuỳ theo tính chất của nó (tiền
mặt, tài sản sinh lợi, bất động sản...).
Mặt khác, nếu nhịp điệu lạm phát ảnh hởng trực tiếp đến khả năng sinh lợi
của các doanh nghiệp, thì nó cũng trở nên sáng rõ qua cách ứng xử của những
doanh nghiệp đó vì ở trong lòng nó hình thành giá cả hàng hoá và tiền lơng đợc
thoả thuận.
Nhng những ứng xử nh vậy trong lạm phát gặp phải một trở lực lớn khi sự
cạnh tranh quốc tế xảy ra nhanh hơn; những khoảng cách lớn của các biến động
giá cả các nớc thay đổi các điều kiện của cạnh tranh quốc tế và tác động trở lại
hoạt động trong nớc. Một tỷ lệ lạm phát trong nớc cao hơn ở những nớc nó cạnh
tranh kìm hãm xuất khẩu, nâng cao nhập khẩu và sự thâm hụt đối ngoại tiếp theo
có nguy cơ gây ra sự mất giá của đồng tiền quốc gia dẫn đến sự lạm phát du nhập
mới.
Nhng sự giảm lạm phát không phải chỉ có những hiệu quả tích cực. Ngợc lại
với lạm phát, nó trừng phạt những tác nhân mắc nợ, kìm hãm sự kích thích đầu t
và sự phục hồi hoạt động và việc làm chừng nào lãi suất danh nghĩa cha hạ bằng
mức hạ của lạm phát. Tuy nhiên sự giảm lạm phát có thể làm cho nhu cầu phục
hồi khi giá không tăng nhiều bằng lơng. Nhng việc tăng mức mua đó nhất thiết bị
hạn chế bởi vì sự giảm lạm phát đúng là dựa trên sự tăng vừa phải đồng lơng danh
nghĩa.
17


4.1. Lạm phát và lãi suất:
Để duy trì và ổn định sự hoạt động của mình, các ngân hàng phải luôn cố
gắng duy trì tính hiệu quả của cả tài sản nợ và tài sản có của mình, tức là luôn luôn
phải giữ cho lãi suất thực ở mức ổn định. Khi tỷ lệ lạm phát tăng cao, nếu muốn
cho lãi suất thực ổn định, lãi suất danh nghĩa phải tăng lên cùng với tỷ lệ lạm phát.

Việc tăng lãi suất danh nghĩa sẽ dẫn đến hậu quả mà nền kinh tế phải gánh chịu là
suy thoái kinh tế và thất nghiệp tăng cao.
4.2. Lạm phát và thu nhập thực tế:
Trong trờng hợp thu nhập danh nghĩa không đổi, lạm phát xảy ra sẽ làm giảm
thu nhập thực tế của ngời lao động. Lạm phát không chỉ làm giảm giá trị thực của
những tài sản không có lãi mà nó còn làm hao mòn giá trị cuả những tài sản có lãi,
tức là làm giảm thu nhập thực từ các khoản lãi, các khoản lợi tức. Điều đó xảy ra
là do chính sách thuế của Nhà nớc đợc tính trên cơ sở của thu nhập danh nghĩa.
Khi lạm phát tăng cao, những ngời đi vay tăng lãi suất danh nghĩa để bù vào tỷ lệ
lạm phát tăng cao, điều đó làm cho số tiền thuế thu nhập mà ngời có tiền cho vay
phải nộp tăng cao. Kết qủa cuối cùng là thu nhập ròng (thu nhập sau thuế), thực
(sau khi đã loại trừ tác động của lạm phát ) mà ngời cho vay nhận đợc bị giảm đi.
Suy thoái kinh tế, thất nghiệp gia tăng, đời sống của con ngời lao động trở
nên khó khăn hơn sẽ làm giảm lòng tin của dân chúng đối với Chính phủ và những
hậu quả về chính trị, xã hội có thể xảy ra.
Trong thời gian dài, việc tăng giá thờng kết hợp với các pha phát triển, vì nó
tạo nên một tình trạng ổn định, thậm chí cả sự tăng nhanh khả năng sinh lời của
vốn đầu t, thoả mãn những ngời nắm giữ vốn. Tuy nhiên những biến động trên thị
trờng thế giới nh cú sốc dầu mỏ đã làm doanh lợi kinh tế của các doanh nghiệp
giảm, và ngợc lại sự giảm lạm phát đã làm cho nó tăng lên.
4.3. Lạm phát và phân phối thu nhập không bình đẳng:
18


Trong quan hệ kinh tế giữa ngời cho vay và ngời đi vay, khi lạm phát tăng
cao ngời cho vay sẽ là ngời chịu thiệt và ngời đi vay sẽ là ngời đợc lợi. Điều này
đã tạo nên sự phân phối thu nhập không bình đẳng giữa ngời cho vay và ngời đi
vay. Hơn thế nữa, nó còn thúc đẩy những ngời kinh doanh tăng cờng thu hút tiền
vay để đầu cơ kiếm lợi. Do vậy càng tăng thêm nhu cầu tiền vay trong nền kinh tế,
đẩy lãi suất lên cao.

Lạm phát tăng cao còn khiến những ngời thừa tiền và giàu có, dùng tiền của
mình vơ vét và thu gom hàng hoá, tài sản, nạn đầu cơ xuất hiện, tình trạng này
càng làm mất cân đối nghiêm trọng quan hệ cung - cầu hàng hoá tiêu dùng thiết
yếu, trong khi đó, những kẻ đầu cơ đã vơ vét sạch hàng hoá và trở nên càng giàu
có hơn. Tình trạng lạm phát nh vậy sẽ có thể gây ra những rối loạn trong nền kinh
tế và tạo ra khoảng cách lớn về thu nhập, về mức sống giữa ngời giàu và ngời
nghèo.
4.4. Lạm phát và nợ quốc gia:
Lạm phát cao làm cho Chính phủ đợc lợi do thuế thu nhập đánh vào ngời dân,
nhng những khoản nợ nớc ngoài sẽ trở nên trầm trọng hơn. Chính phủ đợc lợi
trong nớc nhng sẽ bị thiệt với nợ nớc ngoài do lạm phát đã làm tỷ giá tăng cao và
đồng tiền trong nớc trở nên mất giá nhanh hơn so với đồng tiền nớc ngoài tính trên
các khoản nợ.
4.5. Lạm phát và thất nghiệp:
Lạm phát và thất nghiệp là hai căn bệnh nặng của kinh tế thị trờng. Nhà kinh
tế học A.W.Phillips đã nghiên cứu mối quan hệ giữa hai hiện tợng này và ra đời
một đờng gọi là đờng cong Phillips biểu hiện mối quan hệ này.
Ban đầu đờng cong Phillips có dạng: (hình 1)
gp = -

(u-u
*
)
Trong đó: gp là tỷ lệ lạm phát.
u là tỷ lệ thất nghiệp thực tế.
19


u
*

là tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên.


là độ dốc của đờng cong Phillips.
Đờng này cho thấy mối quan hệ nghịch giữa thất nghiệp và lạm phát, điều
này nói lên một điều rằng có thể đánh đổi lạm phát để lấy thất nghiệp thấp.
Có thể thấy lạm phát bằng không khi tỷ lệ thất nghiệp bằng tỷ lệ tự nhiên.
Khi thất nghiệp thực tế thấp hơn tỷ lệ tự nhiên thì lạm phát xảy ra. Độ dốc

càng
lớn thì một sự tăng, giảm nhỏ của thất nghiệp sẽ xảy ra sự tăng giảm đáng kể về
lạm phát. Độ lớn của

phản ánh sự phản ứng của tiền lơng. Nếu tiền lơng có độ
phản ứng mạnh thì

lớn, nếu có tính ì cao thì

nhỏ. Nếu đờng Phillips nằm
ngang thì lạm phát phản ứng rất kém với thất nghiệp.
Thực tế ngày nay giá cả đã không hạ xuống theo thời gian do có lạm phát dự
kiến, vì thế đờng cong Phillips đã đợc mở rộng thêm bằng việc bao gồm cả tỉ lệ
lạm phát dự kiến.
gp = gp
e
-

(u-u
*
)

Trong đó: gp
e
là tỉ lệ lạm phát dự kiến. (hình 2)
Đờng này cho thấy khi thất nghiệp bằng tỉ lệ tự nhiên thì lạm phát bằng tỉ lệ
dự kiến. Nếu thất nghiệp thực tế cao hơn tỉ lệ tự nhiên thì lạm phát thấp hơn tỉ lệ
dự kiến. Đờng này gọi là đờng Phillips ngắn hạn ứng với thời kỳ mà tỉ lệ lạm phát
20
Hình 1
Đường Phillips ban đầu
Lạm phát
Tiền lương
Tỷ lệ thất nghiệp
PC
PC
B
u
u
*
0
gp


dự kiến cha thay đổi. Trong thời kỳ này nếu có những cú sốc cầu, giả sử cầu tăng
lên nhanh, nền kinh tế sẽ đi dọc đờng Phillips lên phía trên, lạm phát tăng, thất
nghiệp giảm. Nếu không có sự tác động của các chính sách thì vì giá tăng lên mức
cung tiền thực tế giảm xuống, lãi suất tăng lên và tổng cầu dần dần đợc điều chỉnh
trở lại mức cũ, nền kinh tế với lạm phát và thất nghiệp sẽ quay trở về trạng thái
ban đầu. Nhng khi lạm phát đã đợc dự kiến, tiền lơng và các chi phí khác cũng đợc
điều chỉnh theo tỉ lệ lạm phát nên giá cả dừng ở tỉ lệ dự kiến và thất nghiệp trở lại
tỉ lệ tự nhiên, đờng Phillips ngắn hạn nói trên dịch chuyển lên trên.

Riêng và các cơn sốt cung đẩy chi phí sản xuất và giá cả lên, sản lợng việc
làm giảm xuống. Nh vậy tất cả thất nghiệp và lạm phát tăng lên không có sự
đánh đổi giữa thất nghiệp và lạm phát trong ngắn hạn - đó là thời kỳ đình trệ thất
nghiệp. Cho tới khi Chính phủ tăng mức cung tiền liên tục để giữ cho tổng cầu
không suy giảm và thất nghiệp không thể tăng, nền kinh tế vẫn đạt sản lợng nh cũ
nhng giá cả đã tăng lên theo tỉ lệ tăng tiền.
Trong ngắn hạn tỉ lệ thất nghiệp thực tế có thể không bằng tỉ lệ thất nghiệp dự
kiến nhng trong dài hạn chúng sẽ bằng nhau bởi sự tác động của các chính sách tài
khoá và tiền tệ. Đó là cơ sở để xây dựng đờng Phillips dài hạn.

Trong dài hạn tỉ lệ lạm phát thực tế bằng tỉ lệ lạm phát dự kiến, nghĩa là gp =
gp
e
. Điều đó có nghĩa là :
0 = -

(u-u
*
) hay u = u
*
21
0
u
gp
u
*
E
Đường Phillips mở rộng
Hình 2



Nh vậy, trong dài hạn tỉ lệ thất nghiệp thực tế luôn bằng tỉ lệ tự nhiên cho dù
tỉ lệ lạm phát thay đổi nh thế nào. Vậy trong dài hạn lạm phát và thất nghiệp
không có mối quan hệ với nhau.
Có thể nói lạm phát là một trong những biến kinh tế vĩ mô quan trọng giúp Chính
phủ các nớc nhận biết thực trạng nền kinh tế cũng nh hoạch định chính sách kinh
tế. Vậy tại sao Nhà nớc lại phải quan tâm đến chỉ số lạm phát?
Nh trên đã trình bày, lạm phát tác động rất lớn đến nền kinh tế quốc dân mà
những hậu quả nặng nề của những cuộc siêu lạm phát đến nền kinh tế là không thể
kể siết. Tất nhiên Chính phủ các nớc luôn tìm cách để duy trì lạm phát ở mức thấp.
Hàng năm các quốc gia thờng công khai các chỉ số về cân đối ngân sách và thu
chi ngân sách. Cân đối ngân sách và thu chi ngân sách, công việc hàng đầu của
Chính phủ các quốc gia trên thế giới. Bởi vì, quy luật chung về hoạt động của
Chính phủ ở bất cứ một nớc nào cũng xuất phát từ một công việc chung đó là duy
trì bộ máy hành chính để đảm bảo mọi hoạt động của xã hội về các lĩnh vực kinh
tế, chính trị, văn hoá, giáo dục, y tế, xã hội, môi trờng... Muốn duy trì đợc các hoạt
động trên phải có nguồn thu.
Nguồn thu chính của Chính phủ các quốc gia đó là thuế. Ngoài thuế ra còn có
một số khoản phụ thu khác nh viện trợ ODA, các tổ chức quốc tế liên Chính phủ,
phi Chính phủ.
Về chi ngân sách của Chính phủ các nớc phổ biến nhất với các mục: chi cho
bộ máy hành chính, chi cho bộ máy quốc phòng, chi cho dịch vụ công cộng, chi
cho bảo hiểm và phúc lợi xã hội, chi cho hoạt động kinh tế, chi trả nợ và một số
khoản khác.
Muốn thu đợc thuế phải dựa vào các ngành sản xuất, kinh doanh, dịch vụ của
toàn xã hội. Bất cứ một quốc gia nào khi nhìn vào tốc độ phát triển của thu nhập
quốc dân trên đầu ngời ngày càng tăng là biểu hiện đáng mừng cho quốc gia đó.
Thu nhập quốc dân tăng chứng tỏ mức tiêu dùng của xã hội cũng tăng lên. Nhng
của cải vật chất của xã hội sản xuất ra trong năm đợc tiêu dùng phải thông qua lu
thông của tiền tệ. Tiền và của cải vật chất của xã hội lu thông nếu ở trạng thái cân

22


đối sẽ có tỷ lệ lạm phát hợp lý. Bởi vì trong thực tế không bao giờ có cân đối một
cách tuyệt đối. Vì vậy, cân đối chỉ là tạm thời, mất cân đối là thờng xuyên. Do mất
cân đối lại là tác nhân thúc đẩy sản xuất để thoả mãn tiêu dùng. Lạm phát tăng
báo hiệu xấu của đời sống xã hội. Ngợc lại, lạm phát giảm đến mức số âm cũng
báo hiệu sự trì trệ của nền kinh tế, sức tiêu dùng giảm, kinh tế không phát triển đi
đến suy thoái. Với hiện trạng trên, Chính phủ phải tìm nguyên nhân và bằng luật
pháp, thuế khoá, các chính sách cụ thể để đa nền kinh tế của đất nớc đi vào ổn
định, phát triển vững chắc, Chính phủ sẽ có nguồn thu ổn định để chi dùng vào
việc điều hành đất nớc.
5. Biện pháp khắc phục lạm phát:
Do lạm phát tăng cao và kéo dài đã gây ra những hậu quả lớn trong đời sống
của nhân dân lao động và cho tăng trởng kinh tế, Chính phủ các quốc gia cần phải
có những biện pháp hữu hiệu để phòng ngừa và khắc phục lạm phát.
5.1. Những biện pháp tình thế:
Những biện pháp này đợc áp dụng với mục tiêu giảm tức thời cơn sốt lạm
phát, trên cơ sở đó sẽ áp dụng các biện pháp ổn định tiền tệ lâu dài. Các biện
pháp này thờng đợc áp dụng khi nền kinh tế lâm vào tình trạng siêu lạm phát.
Thứ nhất: các biện pháp tình thế thờng đợc Chính phủ các nớc áp dụng, trớc hết là
phải giảm bớt lợng tiền giấy trong nền kinh tế nh ngừng phát hành tiền vào lu
thông. Biện pháp này còn gọi là chính sách đóng băng tiền tệ. Tỷ lệ lạm phát tăng
cao, ngay lập tức ngân hàng trung ơng phải dùng các biện pháp có thể đa đến tăng
cung ứng tiền tệ nh ngừng thực hiện các nghiệp vụ chiết khấu và tái chiết khấu đối
với các tổ chức tín dụng, dừng việc mua vào các chứng khoán ngắn hạn trên thị tr-
ờng tiền tệ, không phát hành tiền bù đắp bội chi ngân sách Nhà nớc dụng các biện
pháp làm giảm lợng tiền cung ứng trong nền kinh tế nh: ngân hàng trung ơng bán
ra các chứng khoán ngắn hạn trên thị trờng tiền tệ, bán ngoại tệ và vay, phát hành
các công cụ nợ của Chính phủ để vay tiền trong nền kinh tế bù đắp cho bội chi

23


ngân sách Nhà nớc, tăng lãi suất tiền gửi đặc biệt là lãi suất tiền gửi tiết kiệm dân
c. Các biện pháp này rất có hiệu lực vì trong một thời gian ngắn nó có thể làm
giảm bớt đợc một khối lợng khá lớn tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế quốc dân, do
đó giảm bớt đợc sức ép lên giá cả hàng hoá và dịch vụ trên thị trờng.
Thứ hai: thi hành chính sách tài chính thắt chặt nh tạm hoãn những khoản chi cha
cần thiết trong nền kinh tế, cân đối lại ngân sách và cắt giảm chi tiêu đến mức có
thể đợc.
Thứ ba: tăng quỹ hàng hoá tiêu dùng để cân đối với số lợng tiền có trong lu thông
bằng cách khuyến khích tự do mậu dịch, giảm nhẹ thuế quan và các biện pháp cần
thiết khác để thu hút hàng hoá từ ngoài vào.
Thứ t: đi vay và xin viện trợ nớc ngoài.
Thứ năm: cải cách tiền tệ. Đây là biện pháp cuối cùng phải xử lý khi tỷ lệ lạm
phát lên quá cao mà các biện pháp trên đây cha mang lại hiệu qủa mong muốn.
5.2. Những biện pháp chiến lợc:
Đây là các biện pháp có tác dụng lâu dài đến sự phát triển của nền kinh tế
quốc dân. Tổng hợp các biện phá này sẽ tạo ra sức mạnh kinh tế lâu dài của đất n-
ớc, làm cơ sở cho sự ổn định tiền tệ một cách bền vững. Các biện pháp chiến lợc
thờng đợc áp dụng là:
- Thúc đẩy phát triển sản xuất hàng hoá và mở rộng lu thông hàng hoá.
Có thể nói đây là biện pháp chiến lợc hàng đầu để hạn chế lạm phát, duy trì
sự ổn định tiền tệ trong nền kinh tế quốc dân. Sản xuất trong nớc ngày càng phát
triển, quỹ hàng hoá đợc tạo ra ngày càng tăng về số lợng và đa dạng về chủng loại,
tạo tiền đề vững chắc nhất cho sự ổn định tiền tệ. Bên cạnh việc thúc đẩy phát triển
sản xuất hàng hoá cho tiêu dùng trong nớc, Chính phủ cần phải chú trọng phát
triển các ngành các hoạt động làm tăng thu ngoại tệ nh xuất khẩu hàng hoá, phát
triển ngành du lịch...
24



- Kiện toàn bộ máy hành chính, cắt giảm biên chế quản lý hành chính. Thực
hiện tốt biện pháp này sẽ góp phần to lớn vào việc giảm chi tiêu thờng xuyên của
ngân sách Nhà nớc trên cơ sở đó giảm bội chi ngân sách Nhà nớc.
- Tăng cờng công tác quản lý điều hành ngân sách Nhà nớc trên cơ sở tăng
các khoản thu cho ngân sách Nhà nớc một cách hợp lý, chống thất thu, đặc biệt là
thu về thuế, nâng cao hiệu quả của các khoản chi ngân sách Nhà nớc.
Phần II: Mô hình về lạm phát
Cho đến nay, các mô hình về lạm phát là rất nhiều. Các biến giải thích đối với
các mô hình là khác nhau, nó phụ thuộc vào quan niệm của từng trờng phái, tình
hình phát triển của mỗi quốc gia, ở những thời kỳ khác nhau thì có những mô hình
khác nhau. Lý do là vì ở mỗi thời kỳ có những sự biến động nhất định trong nền
kinh tế đặc biệt là ở những quốc gia đang phát triển thì sự biến động ấy là hết sức
mạnh mẽ. Những sự biến động ấy xuất phát từ sự thay đổi cơ cấu kinh tế, cơ chế
quản lý, những tác động từ bên ngoài... Do đó những yếu tố ảnh hởng đến lạm
phát ở thời kỳ này thì sang kỳ sau có thể sự ảnh hởng không còn lớn hoặc không
còn ảnh hởng. Sau đây ta đi tìm hiểu một số mô hình lạm phát của một số trờng
phái.
Trớc tiên ta thấy 3 trong số những nhân tố ảnh hởng đến tỷ lệ lạm phát đó là:
tăng cung tiền, tăng thu nhập và tỷ lệ biến động của thị trờng. Mức giá P là mức
giá trung bình của giá hàng hoá thơng mại P
T
và hàng hoá phi thơng mại P
N
. Hàng
hoá thơng mại là những loại hàng hoá mà chúng đợc trao đổi, mua bán trên thị tr-
ờng, dùng làm hàng hoá xuất nhập khẩu... Hàng hoá phi thơng mại là những loại
hàng hoá mà chúng không đợc trao đổi, buôn bán trên thị trờng.
Có thể miêu tả dới dạng hàm log - tuyến tính nh sau:

log P = (log P
N
) + (1- )(log P
T
) (1)
Trong đó: biểu hiện tỷ lệ của hàng hoá phi thơng mại trong tổng số hàng tiêu
dùng. Mức giá của hàng hoá thơng mại (P
T
) đã đợc xác định trên thị trờng quốc tế
25

×