Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Báo cáo " Bầu cử tổng thống ở Pháp " potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.72 KB, 5 trang )



Th«ng tin
t¹p chÝ luËt häc sè 2/2008 65





TrÇn Ngäc d−¬ng *
rước năm 1958, tổng thống Pháp do
Nghị viện (parlement) bầu ra. Với cách
thức bầu cử này, thực tế tổng thống được
các đảng phái chính trị bầu ra vì đảng nào
nắm được nhiều ghế trong Nghị viện sẽ bầu
được người của mình làm tổng thống. Cách
thức bầu cử như vậy không mang lại uy tín
lớn cho tổng thống. Hiến pháp năm 1958 đã
mở ra nền Cộng hoà thứ năm và đã thay đổi
một phần nào cách thức bầu cử này.
1. Chế độ bầu cử năm 1958
Mặc dù quy định tổng thống không do
Nghị viện bầu ra nhưng Hiến pháp năm 1958
vẫn chưa thể quy định tổng thống được dân
chúng trực tiếp bầu ra bởi vào thời điểm này
nước Pháp vẫn còn nhiều thuộc địa. Nếu
tổng thống do dân chúng trực tiếp bầu lên thì
sẽ gặp phải một vấn đề tế nhị do cử tri ở hải
ngoại đông hơn cử tri ở chính quốc. Vì thế,
tổng thống vẫn được bầu trên cơ sở phổ
thông gián tiếp (au suffrage universel indirect).


Theo quy định của Hiến pháp năm 1958,
tổng thống do một bầu cử đoàn (collège
électoral) bầu ra. Bầu cử đoàn này bao gồm
tất cả các nghị sĩ, các đại biểu hội đồng cấp
vùng, những người đại diện do hội đồng cấp
thành phố hay cấp xã bầu ra (số lượng
người đại diện này thay đổi tuỳ theo số
lượng dân cư và theo truyền thống ở Pháp
thì những vùng nông thôn được ưu tiên rộng
rãi hơn) và cuối cùng là những người đại
diện cho các vùng lãnh thổ hải ngoại của Pháp.
Có nghĩa là một đại cử tri (grand électeur)
đại diện cho khoảng 700 người dân.
Bầu cử đoàn này bầu ra tổng thống với
nhiệm kì 7 năm và có khả năng được bầu lại
nhiều lần vô hạn định (indéfiniment rééligible).
Trong thực tế, việc bầu cử tổng thống
trên cơ sở phổ thông gián tiếp là công việc
của một bầu cử đoàn gồm khoảng 80 000
người, trong đó gần 95% là những người
đại diện cho các hội đồng thành phố và hội
đồng xã. Trong bầu cử đoàn này các nghị sĩ
là hạt nhân. Chế độ bầu cử này chỉ được
thực hiện một lần duy nhất và đã bầu ra
tổng thống De Gaulle với nhiệm kì đầu vào
ngày 21/12/1958.
2. Chế độ bầu cử năm 1962
Luật sửa đổi Hiến pháp được ban hành
ngày 6/11/1962 đã bổ sung cho các thiết
chế của nền Cộng hoà thứ năm. Bầu cử tổng

thống Pháp là cuộc sinh hoạt chính trị lớn vì
thế tất cả các đảng phái cần được tham gia.
Các đảng phái chính trị nhỏ dù không kì
vọng người của mình được trúng cử nhưng
vẫn phải được tham gia với hi vọng kết quả
của cuộc bầu cử phản ánh trực tiếp sự ủng
T

* Bộ môn ngoại ngữ
Trường Đại học Luật Hà Nội


Th«ng tin
66 t¹p chÝ luËt häc sè 2/2
008
hộ của dân chúng đối với đảng của mình.
Qua cuộc bầu cử tổng thống, uy tín của các
đảng phái được cân đo bằng lá phiếu trực
tiếp của các cử tri. Chính vì thế, Luật sửa
đổi Hiến pháp kể trên đã thiết lập chế độ
bầu cử tổng thống trên cơ sở phổ thông trực
tiếp gồm hai vòng (au suffrage universel
direct à deux tours) và chế độ bầu cử này
tồn tại cho đến hiện nay. Ở vòng một, nếu
ứng cử viên nào đạt được trên 50% số phiếu
hợp lệ (suffrages exprimés) thì sẽ trúng cử
ngay (chưa ứng cử viên nào đạt được điều
này kể từ năm 1962 đến nay) và không cần
phải tổ chức vòng hai. Nếu không có ứng
cử viên nào đạt được số phiếu kể trên thì

phải tổ chức vòng hai và về nguyên tắc chỉ
có hai ứng cử viên có số phiếu cao nhất ở
vòng một mới được có mặt tại vòng này.
a. Thời điểm bầu cử
Khi nào người ta có thể tiến hành bầu
cử? Cần phải phân biệt hai trường hợp:
- Trường hợp thông thường: Đây là trường
hợp tổng thống đảm nhiệm hết thời gian
nhiệm kì của mình (7 năm và từ năm 2002
là 5 năm). Các trường hợp này xảy ra vào các
năm 1965, 1981, 1988, 1995, 2002, 2007.
Cuộc bầu cử mới diễn ra sớm nhất là 20
ngày và muộn nhất là 35 ngày trước thời
điểm chấm dứt nhiệm kì tổng thống đương
nhiệm. Cần phải tránh việc khuyết chức vụ
tổng thống (vacance de la présidence) nên
phải tiến hành bầu cử trước khi tổng thống
đương nhiệm chấm dứt quyền hạn nhưng
cũng cần phải hạn chế tối đa thời gian cùng
tồn tại giữa tổng thống sắp mãn nhiệm và
tổng thống mới được bầu.
- Trường hợp bất thường: Trường hợp
này xảy ra khi tổng thống bị chết (Pompidou
vào năm 1974), tổng thống phải từ chức (De
Gaulle vào năm 1969), tổng thống bị phế
truất hoặc tổng thống bị rơi vào tình cảnh trở
ngại nhất định (empêchement définitif) do bị
ốm đau, bị cầm tù Tình trạng này phải do
Hội đồng hiến pháp xác nhận theo yêu cầu
của Chính phủ. Khi đó thời hạn bầu cử vẫn

là từ 20 đến 35 ngày nhưng kể từ khi có
công bố khuyết chức vụ tổng thống.
b. Việc ứng cử
- Ứng cử ở vòng một
+ Giới thiệu ứng cử viên: Bất kì công
dân nào cũng có thể ra ứng cử tổng thống
với điều kiện phải nhận được sự bảo trợ
(patronage) của 500 người được bầu (élus)
ở cấp quốc gia và cấp địa phương (trước
năm 1976 là 100 người). Họ bao gồm: Các
nghị sĩ, các đại biểu hội đồng cấp vùng, đại
diện của người dân Pháp ở nước ngoài, đại
biểu hội đồng thành phố Paris, các thị
trưởng, các thành viên của các hội đồng ở
lãnh thổ hải ngoại (nhưng không chỉ đơn
thuần là đại biểu cấp xã hoặc thành phố),
tức là khoảng một phần tám mươi những
“người có thể bảo trợ” (49519 người vào
năm 1988). Những người giới thiệu này
phải thuộc về 30 tỉnh hoặc vùng lãnh thổ
hải ngoại khác nhau và mỗi tỉnh không
được quá 10%. Ứng cử viên không thể chỉ
đại diện cho một địa phương mà cần phải
có tầm ảnh hưởng quốc gia.
Tên của những người giới thiệu (tức


Th«ng tin
t¹p chÝ luËt häc sè 2/2008 67


người bảo trợ) được đăng trên công báo
trước cuộc bầu cử tám ngày và mỗi người
chỉ có thể giới thiệu một ứng cử viên thông
qua một tờ mẫu đặc biệt. Việc đăng tải này
là kết quả của việc sửa đổi hiến pháp vào
năm 1976. Nó phù hợp với lợi ích của công
dân: Công dân có quyền được biết những
người giới thiệu này đã đứng về ai để đảm
đương trách nhiệm của họ.
+ Tiến hành ứng cử: Theo đúng nghĩa
thì không có đơn ứng cử (acte de
candidature). Các ứng cử viên được những
người bảo trợ của mình giới thiệu và sự giới
thiệu này phải gửi tới Hội đồng hiến pháp
muộn nhất là 18 ngày trước khi vòng một
bắt đầu. Tin chắc đã có sự đồng ý của ứng
cử viên, Hội đồng hiến pháp kiểm tra các
điều kiện đặt ra đối với việc giới thiệu có
được đáp ứng đầy đủ hay không. Đặc biệt
qua việc thăm dò, Hội đồng hiến pháp kiểm
tra tính chân thực của các chữ kí người giới
thiệu, sau đó chốt lại danh sánh ứng cử viên
muộn nhất là 15 ngày trước khi vòng một
bắt đầu. Chính phủ công bố danh sách này.
Ứng cử viên phải trình bản kê khai tài
sản. Nếu được bầu thì họ sẽ phải kê khai tài
sản một lần nữa sau khi kết thúc nhiệm kì.
Các bản kê khai này được đăng trên công
báo. Thủ tục này cho phép kiểm tra liệu
tổng thống có lợi dụng chức vụ để làm giàu

hay không.
Cuộc bầu cử có thể bị sai sót nếu một
ứng cử viên bị chết hoặc gặp phải tình trạng
trở ngại (bị ốm đau, bị cầm tù…) trước khi
vòng một bắt đầu. Nếu không dự đoán trước
thì một bộ phận dân chúng có thể sẽ rơi vào
tình trạng không có ứng cử viên theo
nguyện vọng của họ để bầu do thời hạn còn
lại quá ngắn và danh sách ứng cử viên đã bị
chốt, vì thế cần phải lấp lỗ hổng lại. Luật
sửa đổi Hiến pháp năm 1976 quy định: Nếu
một người đã bày tỏ ý định ứng cử ít nhất
30 ngày trước khi chốt lại việc giới thiệu và
người này bị chết trong vòng 7 ngày trước
ngày chốt lại kể trên thì Hội đồng hiến pháp
có thể quyết định hoãn cuộc bầu cử (peut
décider le report de l’élection). Hội đồng
này có quyền đánh giá ảnh hưởng của việc
hoãn lại này đối với kết quả cuộc bầu cử và
đối với khả năng tìm một ứng cử viên khác
trong thời gian còn lại. Nếu tình trạng trở
ngại xảy ra sau thời điểm chốt lại việc giới
thiệu thì Hội đồng hiến pháp mất hoàn toàn
quyền tự do đánh giá và buộc phải hoãn
cuộc bầu cử (doit reporter l’élection).
- Ứng cử ở vòng hai
Vòng hai được tiến hành vào ngày thứ
mười bốn sau vòng một và chỉ còn hai ứng
cử viên tham gia. Về nguyên tắc, hai ứng cử
viên giành được số phiếu cao nhất ở vòng

một thì được vào vòng hai. Tuy nhiên, việc
rút đơn ứng cử có thể xảy ra (des désistements
sont possibles). Sự liên minh giữa các đảng
phái trong cuộc đấu ở vòng hai có thể dẫn
đến việc tạo điều kiện cho một ứng cử viên
đạt số phiếu thấp hơn ở vòng một nhưng lại
có nhiều khả năng ở vòng hai. Giả sử như
có hai ứng cử viên cánh tả, trong đó ứng cử
viên Đảng cộng sản về nhất nhưng ứng cử
viên này lại rút lui để đảm bảo thắng lợi cho


Th«ng tin
68 t¹p chÝ luËt häc sè 2/2
008
ứng cử viên Đảng xã hội có nhiều khả năng
được cộng đồng cử tri chấp nhận ở vòng
hai. Vì thế Hiến pháp quy định: Kể cả khi
có thể xảy ra việc rút lui không tiếp tục ứng
cử thì hai ứng cử viên đã thu được số phiếu
cao nhất ở vòng một được chấp nhận tham
gia vòng hai.
Ở đây lại phải tính đến khả năng một
ứng cử viên bị chết hoặc gặp phải tình trạng
trở ngại trong khoảng thời gian giữa vòng
một và vòng hai. Trong trường hợp này,
Hội đồng hiến pháp công bố toàn bộ tiến
trình bầu cử phải được bắt đầu lại từ đầu.
c. Chiến dịch bầu cử
Chiến dịch chính thức diễn ra rất ngắn

bởi vì nó chỉ kéo dài 15 ngày đối với vòng
một và 8 ngày đối với vòng hai. Trong thực
tế nó bắt đầu hàng tháng trời trước đó. Các
ứng cử viên tự củng cố vị trí để quảng bá
cho mình, đảm bảo sự ủng hộ của đảng
mình và loại bỏ đối thủ
Chiến dịch chính thức được quy định chặt
chẽ. Chiến dịch này được đặt dưới sự giám sát
của Hội đồng kiểm tra quốc gia (Commission
nationale de contrôle) với nhiệm vụ chính là
đảm bảo sự bình đẳng giữa các ứng cử viên
trong các lĩnh vực. Có ba khía cạch cần giám
sát trong chiến dịch bầu cử:
- Việc cung cấp tài chính cho chiến dịch
bầu cử: Luật ngày 11/3/1988, Luật ngày
15/1/1990 và Luật ngày 15/5/1990 đã cố
gắng thiết lập sự “minh bạch” đối với
nguồn thu và chi của các ứng cử viên đồng
thời thiết lập sự bình đẳng giữa họ qua việc
cung cấp tài chính của Nhà nước.
- Việc tuyên truyền trên đài và trên vô
tuyến: Việc này được Hội đồng tối cao về
các phương tiện nghe nhìn kiểm tra. Hội
đồng này giám sát sự bình đẳng giữa các
ứng cử viên, có nghĩa là bình đẳng về thời
gian phát sóng. Chẳng hạn vào năm 1988,
mỗi ứng cử viên được hưởng 1 giờ 45 phút
phát sóng trên vô tuyến và 1giờ 10 phút
phát sóng trên đài. Các quy định rất tỉ mỉ
cũng được đặt ra đối với thể thức phát sóng.

- Việc thăm dò cử tri được Luật ngày
19/7/1977 quy định chung cho tất cả các
cuộc bầu cử trong phạm vi quốc gia. Một
uỷ ban được thành lập để giám sát việc tôn
trọng quy chế tiến hành các cuộc thăm dò.
Mặt khác, việc đăng tải kết quả các cuộc
thăm dò cử tri phải chấm dứt một tuần trước
khi mỗi vòng bầu cử bắt đầu. Người ta
muốn tránh các kết quả thăm dò này có ảnh
hưởng đến quyết định của các cử tri. Tuy
nhiên, hiệu quả của việc đăng tải này còn bị
tranh luận rất nhiều.
d. Công bố kết quả
Kết quả bầu cử do Hội đồng hiến pháp
tiếp nhận và công bố. Ứng cử viên nào đạt
được quá nửa số phiếu hợp lệ thì trúng cử.
Hội đồng cũng được giao nhiệm vụ phân xử
tranh chấp liên quan đến bầu cử. Có nghĩa
là giải quyết các khiếu nại, tố cáo và chúng
phải do một ứng cử viên, một cử tri hay một
tỉnh trưởng gửi tới Hội đồng trong vòng 48
tiếng kể từ khi kết thúc bầu cử.
3. Các cuộc bầu cử tổng thống dưới
nền Cộng hoà thứ năm
Nếu không tính cuộc bầu cử trên cơ sở
phổ thông gián tiếp vào năm 1958 và cuộc
bầu cử năm 2007 thì cho đến hiện nay đã có


Th«ng tin

t¹p chÝ luËt häc sè 2/2008 69

7 cuộc bầu cử tổng thống trên cơ sở phổ
thông trực tiếp.
- Cuộc bầu cử năm 1965 mang lại sự
ngạc nhiên chung với việc tướng De Gaulle
phải cạnh tranh ở vòng hai với Mitterand,
ứng cử viên duy nhất của cánh tả. Tướng
De Gaulle do tin tưởng vào tính cách chân
chính và uy tín lịch sử của mình nên trong
thực tế đã không tiến hành chiến dịch vận
động nhưng cuối cùng ứng cử viên này
cũng phải bước vào vũ đài để tranh đua
trước khi được bầu ở vòng hai (50,20% số
phiếu hợp lệ). Cuộc bầu cử này lần đầu tiên
cho phép hình thành liên minh cánh tả và sự
thiết lập hai cực chính trị đối lập nhau.
- Cuộc bầu cử năm 1969 được tiến hành
sau khi tướng De Gaulle từ chức. Georges
Pompidou đã chiến thắng Alain Poher với
số phiếu hợp lệ là 58,21% và Alain Poher
lúc đó đang đảm đương chức vụ quyền tổng
thống (l’intérim de la présidence). Điều đặc
biệt của cuộc bầu cử này là sự vắng mặt của
cánh tả ở vòng hai do bất đồng với việc chỉ
có một ứng cử viên duy nhất ở vòng một.
- Cuộc bầu cử năm 1974 được tiến hành
sau khi Georges Pompidou bị chết.
F.Mitterand, ứng cử viên của liên minh
cánh tả đã suýt giành được thắng lợi trước

Giscard d’Estaing khi ứng cử viên này chỉ
đạt được 50,80 % số phiếu hợp lệ, tức là
hơn 480 000 phiếu. Cuộc bầu cử lần này ghi
nhận một người không thuộc phái De
Gaulle được bầu làm tổng thống.
- Vòng hai của cuộc bầu cử năm 1981
lại chứng kiến cuộc đối đầu giữa F.
Mitterand và Giscard d’Estaing nhưng lần
này chiến thắng đã thuộc về F.Mitterand với
51,57% số phiếu hợp lệ.
- Tại cuộc bầu cử năm 1988, F. Mitterand
đã dễ dàng được bầu lại với 54% số phiếu
hợp lệ so với 46% số phiếu hợp lệ của
Jacques Chirac. Tại cuộc bầu cử lần này,
đảng cực hữu Mặt trận quốc gia của Le Pen
bắt đầu cho thấy vị thế của mình với
14,39% số phiếu thu được ở vòng một.
- Tại cuộc bầu cử năm 1995, F. Mitterand
đã không tham gia ứng cử sau hai nhiệm kì
liên tục nắm quyền. Do bị chịu sức ép của
thời gian dài Đảng xã hội cầm quyền nên ứng
cử viên của đảng này L.Jospin phải chịu thua
sát nút ứng cử viên của Đảng tập hợp vì nền
cộng hoà Jacques Chirac (49,25% so với 50,75%).
- Tại cuộc bầu cử năm 2002 có điều
ngạc nhiên đã xảy ra: lần đầu tiên ứng cử
viên Đảng mặt trận quốc gia Le Pen được
lọt vào vòng hai. Nguy cơ một đảng cực
hữu với chính sách bài ngoại mang tính
phát xít lên nắm quyền đã khiến cử tri các

đảng phái dồn phiếu bầu ở vòng hai cho
ứng cử viên - đương kim tổng thống J.
Chirac và ứng cử viên này đã dễ dàng giành
chiến thắng với 82,25% số phiếu hợp lệ./.
(Nguồn:
- Institutions politiques et droit constitutionnel
- Philippe Ardant – LGDJ - Paris - 1994;
- Droit 1
re
G C. Le Fiblec; P. Le Boolloch;
J. Vaudrey et B. Vanboutte - - Bertrand-
Lacoste - Paris - 1989;
- Droit 1
re
G - X. Cadoret; C. Knopp et C.
Stirn - Dunod - Paris - 1989
- La Constitution française du 4 octobre 1958;
- ).

×