Tải bản đầy đủ (.pdf) (49 trang)

Ước lượng mức truyền dẫn tỷ giá hối đoái vào lạm phát ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.5 MB, 49 trang )

1


Ước lượng mức truyền dẫn tỷ giá hối đoái vào lạm phát ở
Việt Nam

TÓM TẮT
Bài nghiên cứu đo lường mức truyền dẫn tỷ giá hối đoái vào trong chỉ số giá
nhập khẩu và chỉ số giá tiêu dùng, đồng thời ước lượng mức tác động của cú sốc
các biến trong nền kinh tế trong việc giải thích sự biến động của lạm phát tại
Việt Nam trong giai đoạn từ quý 1 năm 1999 đến quý 2 năm 2011. Bài nghiên
cứu sử dụng mô hình tự hồi quy vecto (VAR) qua các kiểm định thực nghiệm
như kiểm định nghiệm đơn vị Augmented Dickey-Fuller, hàm phản ứng xung và
phân rã phương sai. Kết quả nghiên cứu cho thấy hệ số truyền dẫn tỷ giá vào chỉ
số giá nhập khẩu là 0,53 sau 5 quý, và vào chỉ số giá tiêu dùng là 0,29 sau 6 quý
kể từ tác động của cú sốc tỷ giá đầu tiên. So sánh với kết quả các bài nghiên cứu
tương tự ở Việt Nam cũng như các nước châu Á nhưng giai đoạn trước đó, có
thể thấy mức truyền dẫn tỷ giá ở mức trung bình và có tăng lên so với giai đoạn
trước. Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu còn cho thấy ngoài biến cú sốc giá dầu
thế giới và chỉ số giá nhập khẩu thì cung tiền M2 là một yếu tố chính giải thích
biên động lạm phát. Tỷ giá danh nghĩa giải thích khoảng 10% những biến động
của lạm phát. Các con số ước lượng này, hy vọng sẽ mang lại đóng góp nhỏ
trong công tác hoạch định chính sách vĩ mô khi công cụ tỷ giá hối đoái được sử
dụng hiệu quả.


2

1. GIỚI THIỆU
Tỷ giá là một biến kinh tế quan trọng trong nền kinh tế mở. Tỷ giá có thể ảnh
hưởng đến nền kinh tế thông qua các kênh khác nhau như thương mại, giá cả và


ngân sách. Chính vì vậy đây là một trong những kênh truyền tải của chính sách
tiền tệ, truyền dẫn tác động từ các công cụ đến mục tiêu cuối cùng của chính
sách, trong đó, quan trọng nhất là mục tiêu ổn định giá cả. Đối với Việt Nam,
mục tiêu này hiện càng trở nên cấp thiết khi chỉ số giá tiêu dùng tăng cao trong
vài năm trở lại đây.
Những sự kiện kinh tế nổi bật như Việt Nam trở thành thành viên chính thức Tổ
chức Thương mại thế giới WTO, nguồn vốn đầu tư nước ngoài ồ ạt vào Việt
Nam trong hai năm 2007-2008, các vấn đề của thị trường ngoại hối Việt Nam
trong hai năm 2009 - 2010 và cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới cũng như nguy
cơ lạm phát tăng mạnh trở lại đã đặt ra nhiều thách thức mới cho việc quản lý
kinh tế vĩ mô và đặc biệt trong việc kiểm soát lạm phát ở nước ta.
Có khá nhiều bài nghiên cứu lý thuyết cũng như thực tiễn về vấn đề lạm phát và
các nhân tố tác động. Theo Nguyễn Thị Thu Hằng và Nguyễn Đức Thành (2010)
bên cạnh hai cách tiếp cận quen thuộc của kinh tế học tiền tệ như Keynes, Milton
Freidman và kinh tế học cơ cấu như Akinboade, Greene, các nghiên cứu trong
quá khứ về lạm phát còn đưa ra một cách tiếp cận thứ ba và có lẽ đơn giản nhất
trong việc nghiên cứu các nhân tố quyết định lạm phát: cách tiếp cận ngang bằng
sức mua - purchasing power parity (PPP). Cách tiếp cận này xuất phát từ Luật
Một Giá với nội dung là khi không tính đến chi phí vận chuyển và các chi phí
giao dịch khác, mối quan hệ giữa giá trong nước và giá thế giới trở thành  


trong đó E là tỷ giá giữa đồng ngoại tệ và đồng nội tệ.
Cách tiếp cận này gợi ý rằng lạm phát chịu ảnh hưởng hoặc gián tiếp từ giá nhập
khẩu cao hơn hoặc trực tiếp từ sự gia tăng của cầu trong nước. Phương trình này
ngầm ý rằng tỷ giá đóng vai trò nhất định trong việc quyết định mức giá và mức
chuyển tỷ giá vào lạm phát cần phải được xem xét. Sự phá giá đồng nội tệ có thể
trực tiếp tác động lên giá trong nước của hàng hóa thương mại nhưng cũng có
3


thể gián tiếp tác động vào mức giá chung nếu các quyết định về giá chịu ảnh
hưởng của chi phí nhập khẩu. Điều này đặc biệt đúng đối với những nước dựa
vào việc nhập khẩu hàng hóa trung gian phục vụ sản xuất và có hiện tượng đô la
hóa cao như Việt Nam.
Vậy sự tăng hay giảm tỷ giá hối đoái sẽ ảnh hưởng như thế nào đến lạm phát về
thời gian lẫn độ lớn; tỷ giá hối đoái có thể giải thích bao nhiêu phần trăm những
thay đổi của lạm phát; và liệu tỷ giá hối đoái có phải là một kênh phù hợp để đạt
được kiềm chế lạm phát ở Việt Nam? Trả lời những câu hỏi này, bài viết tập
trung vấn đề nghiên cứu Mức chuyển tỷ giá vào lạm phát – Exchange rate pass
through – một trong những khái niệm khá quen thuộc trong nghiên cứu kinh tế vĩ
mô trên thế giới từ những năm 1980, và gần đây được lưu tâm bởi các nhà
nghiên cứu ở Việt Nam.
Mục tiêu nghiên cứu
Bài viết làm rõ khái niệm về truyền dẫn tỷ giá hối đoái, cơ chế truyền dẫn tỷ giá
đến lạm phát và các nhân tố vi mô và vĩ mô tác động đến mức truyền dẫn tỷ giá
đến lạm phát dựa trên cơ sở lý luận từ tổng hợp kết quả các bài nghiên cứu trước
đây.
Nội dung nghiên cứu chính nhằm giải quyết hai vấn đề: (1) Đánh giá tác động sự
truyền dẫn tỷ giá hối đoái vào trong lạm phát ở Việt Nam, bằng cách ước lượng
mức truyền dẫn tỷ giá hối đoái vào chỉ số giá nhập khẩu và chỉ số giá tiêu dùng
tại Việt Nam trong hơn một thập kỷ qua giai đoạn từ năm 1999 đến hai quý đầu
năm 2011. (2) Xác định tầm quan trọng của cú sốc các biến vĩ mô trong việc giải
thích những biến động của lạm phát.
Bài viết mong muốn đem đến một đóng góp nhỏ trong việc hoạch định chính
sách kinh tế vĩ mô, bởi lẽ ước lượng được thời gian và độ lớn của mức truyền
dẫn tỷ giá vào trong lạm phát sẽ giúp đưa ra những quyết định đúng đắn khi sử
dụng công cụ tỷ giá của chính sách tiền tệ nhằm đảm bảo mục tiêu chung hướng
4

đến kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô như chủ trương của Chính phủ ta

những năm gần đây và trong thời gian tới.
Phương pháp nghiên cứu
Bài viết sử dụng các phương pháp phân tích định tính, đồng thời so sánh, tổng
hợp, đối chiếu các kết quả nghiên cứu về mức truyền dẫn tỷ giá đến lạm phát, kết
hợp phân tích định lượng nhằm đo lường hệ số truyền dẫn qua mô hình Tự hồi
quy vecto - Vector autoregression model (VAR) với chức năng phân rã Cholesky
và phân rã phương sai của mô hình này. Các bước kiểm định, thực hiện ước
lượng trong mô hình này sử dụng phần mềm Eview.
Kết cấu chuyên đề: bài viết gồm năm phần, với bố cục như sau:
 Phần đầu tiên giới thiệu về vấn đề nghiên cứu.
 Phần hai cái nhìn tổng quan về cơ chế truyền dẫn tỷ giá, các nhân tố tác động
đến hệ số truyền dẫn, kết quả nghiên cứu trước đây về vấn đề mức truyền dẫn
này trên thế giới của các tác giả ở các nước phát triển, nền kinh tế mới nổi và
tại Việt Nam, câu hỏi nghiên cứu đặt ra.
 Phần ba trình bày phương pháp nghiên cứu, lựa chọn mô hình, trình bày về
mô hình VAR cùng những ưu và nhược điểm, giải thích các biến và nguồn
dữ liệu dùng trong mô hình.
 Phần bốn trình bày kết quả đo lường được từ mô hình thực nghiệm qua hệ số
truyền dẫn tỷ giá đến chỉ số giá nhập khẩu và chỉ số giá tiêu dùng. Ước lượng
tầm quan trọng của cú sốc các biến vĩ mô trong việc giải thích những biến
động của lạm phát.
 Phần cuối là kết luận của bài nghiên cứu về các kết quả đạt được, hạn chế của
bài viết cũng như đề xuất hướng nghiên cứu tiếp theo.

5

2. TỔNG QUAN CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY

Theo Bhagawati (1991) cụm từ “pass - through” – truyền dẫn tỷ giá hối đoái -
lần đầu tiên được sử dụng trong ngôn ngữ kinh tế bởi Steve Magee (1973) trong

bài báo của mình khi giải thích sự tác động của giảm giá tiền tệ. Kể từ đó thuật
ngữ này được sử dụng rộng rãi trong kinh tế. Khi nhắc đến thuật ngữ này, người
ta muốn đề cập đến mức độ tác động đến giá cả liên quan như: giá xuất khẩu,
nhập khẩu, giá tiêu dùng trong nước và mức độ mở cửa nền kinh tế. Hai thập kỷ
qua, một lượng lớn tài liệu kinh tế về truyền dẫn tỷ giá hối đoái đã được nghiên
cứu. Bắt đầu từ những quan điểm khác nhau, đã có nghiên cứu thực
nghiệm kiểm tra vai trò của truyền dẫn tỷ giá hối đoái ở các nền kinh tế nhỏ và
lớn.

Khái niệm truyền dẫn tỷ giá hối đoái
Trước tiên cùng tìm hiểu về mức truyền dẫn tỷ giá hối đoái là gì. Khái niệm này
được hiểu có đôi chút khác biệt bởi các nhà kinh tế, do góc độ nghiên cứu khác
nhau.
Trong bài nghiên cứu của Goldberg và Knetter (1996) hay Olivei (2002) mức
truyền dẫn tỷ giá hối đoái được định nghĩa là phần trăm thay đổi trong giá nhập
khẩu do 1% thay đổi tỷ giá hối đoái danh nghĩa gây ra. Còn nghiên cứu của tác
giả Mc.Carthy, J. (2000) thì xem xét dưới góc độ là mức chuyển của tỷ giá và
giá nhập khẩu đến giá cả sản xuất nội địa PPI và giá tiêu dùng CPI. Trong một số
bài nghiên cứu khác như Lian (2006) và Nkunde Mwase (2006), khái niệm về
truyền dẫn tỷ giá hối đoái thường được hiểu rộng hơn, đó là mức chuyển của cú
sốc tỷ giá vào trong các chỉ số giá, bao gồm chỉ số giá nhập khẩu, chỉ số giá sản
xuất và chỉ số giá tiêu dùng, được sử dụng rộng rãi trong bài nghiên cứu của các
tác giả ở nhóm nước đang phát triển; theo đó “truyền dẫn tỷ giá hối đoái là phần
trăm thay đổi của các chỉ số giá trong nước khi tỷ giá hối đoái danh nghĩa thay
đổi 1%”. Khái niệm này cũng chính là góc độ xem xét và hệ số ước lượng trong
bài nghiên cứu này.
6

Cơ chế truyền dẫn tỷ giá đến lạm phát
Những thay đổi trong tỷ giá hối đoái có thể ảnh hưởng đến tỷ lệ lạm phát qua các

chỉ số giá theo hai kênh là trực tiếp và gián tiếp.
Kênh truyền dẫn trực tiếp theo Nicoleta (2007), có thể nhìn thấy khi một cú
sốc trong tỷ giá làm giảm giá đồng nội tệ. Điều này khiến giá cả hàng hóa nhập
khẩu trở nên mắc hơn, tức ảnh hưởng đến chỉ số giá nhập khẩu. Nếu hàng hóa đó
được dùng cho mục đích tiêu dùng cuối cùng, giá nhập khẩu sẽ ảnh hưởng lên
chỉ số giá tiêu dùng; hoặc nếu hàng hóa nhập khẩu là nguyên nhiên vật liệu dùng
cho quá trình sản xuất, sẽ khiến chi phí sản xuất tăng cao, và như một hệ quả đẩy
giá tiêu dùng tăng, gây ra áp lực lạm phát.
Hình 1. Kênh truyền dẫn trực tiếp của tỷ giá hối đoái












Nguồn: Nicoleta (2007)

Kênh truyền dẫn gián tiếp hàm ý khi có sự mất giá của đồng nội tệ, sẽ khiến
hàng hóa trong nước rẻ hơn, dẫn đến cầu xuất khẩu của quốc gia tăng. Điều này
sẽ gây ra một gia tăng trong cầu lao động, tiền lương và sau đó là tổng cầu, như
một hệ quả, có thể khiến lạm phát tăng. Tuy nhiên, ảnh hưởng này chỉ có thể
diễn ra trong dài hạn, vì tính chất cứng nhắc của giá cả trong ngắn hạn. Bên cạnh
Nguyên vật
liệu sản xuất

(chỉ số giá
sản xuất PPI)
Hàng hóa tiêu
dùng cuối cùng
(chỉ số giá tiêu
dùng CPI)
Hàng hóa
nhập khẩu (chỉ
số giá nước
ngoài– P*)
Hàng hóa
nhập khẩu
(chỉ số giá
nhập khẩu
IMP)
Hàng hóa nhập
khẩu tiêu dùng
cuối cùng (chỉ
số giá tiêu dùng
CPI)
7

đó, tình trạng đô la hóa ngày càng tăng trong nền kinh tế có thể là một nhân tố
làm khuếch đại hiệu ứng truyền dẫn gián tiếp này. Một khi tỷ giá biến động tăng,
đồng nội tệ mất giá sẽ khiến cho giá cả các tài sản được định giá bằng đồng
ngoại tệ (như bất động sản, hàng hóa xa xỉ như ô tô…) sẽ tăng lên. Và đây là
nguyên nhân khiến giá cả tiêu dùng tăng.
Cơ chế truyền dẫn tỷ giá có thể diễn ra một cách hoàn hảo, không hoàn hảo hoặc
không xảy ra tùy vào đặc điểm kinh tế của từng quốc gia. Khi cơ chế này xảy ra
hoàn hảo, 1% phá giá nội tệ sẽ làm tăng 1% giá cả nội địa và ngược lại. Nếu

đồng nội tệ phá giá nhưng không làm thay đổi giá cả tính bằng nội tệ, ta nói rằng
cơ chế truyền dẫn tỷ giá đã không xảy ra. Trường hợp 1% phá giá làm tăng giá
cả ít hơn 1% khi cơ chế truyền dẫn tỷ giá diễn ra không hoàn hảo.

Những nhân tố ảnh hưởng đến mức truyền dẫn tỷ giá vào lạm phát
Có nhiều nhân tố quan trọng khác nhau – cả vĩ mô và vi mô – quyết định mức
truyền dẫn tỷ giá hối đoái. Theo bài nghiên cứu của Lian, An (2006):
Các nhân tố vi mô bao gồm:
 Việc định giá theo thị trường và điều chỉnh tăng giá (phần thêm vào giá vốn
gồm chi phí và lãi)
 Những đặc tính phân khúc thị trường như vận tải và chi phí phân phối, rào
cản phi thuế quan và vai trò của các công ty đa quốc gia
 Mức độ lợi tức theo quy mô (Là tỷ lệ mà theo đó sản lượng thay đổi khi số
lượng của tất cả các đầu vào thay đổi.)
 Tính co giãn cầu của hàng hóa nhập khẩu.

Các nhân tố vĩ mô bao gồm:
 Mức độ lạm phát và tính kéo dài của những biến động tỷ giá
 Môi trường chính sách tiền tệ
 Quy mô và độ mở của nền kinh tế.
8

Các nhân tố ảnh hưởng mức truyền dẫn tỷ giá này được nhận định bởi các nhà
nghiên cứu, trình bày sau đây:
Nhân tố vi mô:
1. Krugman (1987) phân tích hiện tượng định giá theo thị trường, theo đó
các nhà cung cấp nước ngoài, muốn giữ những thị phần không đổi, chấp
nhận mức lợi nhuận biên thấp hơn khi đồng tiền của quốc gia nhập khẩu
mất giá, như vậy định giá theo thị trường hàm ý một mức truyền dẫn tỷ
giá thấp hơn.

2. Burstein et al (2001) chỉ ra rằng chi phí của các nhà phân phối trong nước
(như bán sỉ và bán lẻ) chiếm đến 40% trong giá bán lẻ sau cùng của bất
kỳ hàng hóa nào. Do những chi phí này ít phụ thuộc vào sự thay đổi của
tỷ giá, nên có thể dẫn đến mức truyền dẫn tỷ giá thấp hơn, ngay với hàng
hóa qua giao thương quốc tế.
3. Yang (1997) và Olivei (2002) nghiên cứu về mức độ lợi tức theo quy mô
(Returns to scale), kết luận rằng mức truyền dẫn tỷ giá tương quan nghịch
với với độ co giãn của chi phí biên với đầu ra. Nếu chi phí biên với đầu ra
giảm, mức cầu cao hơn do giá giảm hậu quả từ việc tăng tỷ giá, có thể dẫn
đến chi phí tăng thêm giảm, hàm ý mức mức truyền dẫn tỷ giá cao hơn.
4. Các nhà cung cấp nước ngoài thường điều chỉnh mức giá của họ theo độ
co giãn của cầu ở nước nhập khẩu. Mức độ co giãn của cầu theo sự thay
đổi của giá càng cao, càng ít khả năng truyền dẫn cú sốc tỷ giá (Yang
1997)
Nhân tố vĩ mô:
1. Taylor (2000) cho rằng môi trường lạm phát và nhận thức về sự kéo dài
của các cú sốc là những nhân tố quyết định mức truyền dẫn. Chính xác
hơn, các công ty thường ít điều chỉnh mức giá nếu những thay đổi trong tỷ
giá và mức lạm phát được kỳ vọng là tạm thời, điểm này cũng được nhấn
mạnh bởi Mann (1986) và được ủng hộ bởi Mc Carthy (2000)
2. Mối liên hệ giữa lạm phát và mức truyền dẫn tỷ giá hàm ý rằng chính sách
tiền tệ cũng có ảnh hưởng sự truyền dẫn những thay đổi của tỷ giá vào
trong giá cả nội địa. Gagnon và Ihrig (2004) cho rằng những quốc gia với
9

chính sách tiền tệ chống lạm phát đáng tin cậy nhìn chung có mức truyền
dẫn tỷ giá thấp hơn.
3. Độ mở của quốc gia, được tính bằng % nhập khẩu trên tổng sản lượng,
cũng ảnh hưởng mức truyền dẫn tỷ giá. Một cách trực quan, độ mở giao
thương quốc tế của quốc gia càng lớn, thì mức truyền dẫn tỷ giá đến chỉ số

giá tiêu dùng càng lớn. Hơn nữa, theo Mc Carthy (2000), một quốc gia
nhỏ thường có mức truyền dẫn tỷ giá cao hơn một quốc gia lớn. Điều này
là do ở các quốc gia lớn, cầu sẽ giảm phản ứng lại với mức giá nội địa
tăng, nguyên nhân từ tỷ giá giảm khiến cầu thế giới và giá thế giới giảm.
Nguồn: Heidi Cigan (2008)

Kết quả nghiên cứu trước đây ở các nước phát triển
Mc.Carthy, J. (2000) là một trong các nhà nghiên cứu đầu tiên dùng nền tảng
VAR để đo lường mức truyền dẫn tỷ giá hối đoái. Trong bài nghiên cứu tác giả
đã sử dụng mô hình VAR đệ quy để đo lường sự ảnh hưởng của tỷ giá và giá
nhập khẩu đến giá cả nội địa PPI và chỉ số giá tiêu dùng CPI ở các nền kinh tế
công nghiệp hóa được lựa chọn từ 1976 - 1998. Kết quả nghiên cứu cho thấy
rằng: những thay đổi của tỷ giá có ảnh hưởng khiêm tốn lên lạm phát giá cả nội
địa trong khi giá nhập khẩu có ảnh hưởng lớn hơn; ở các nước có thị phần nhập
khẩu lớn hơn và có tỷ giá, giá nhập khẩu ổn định hơn thì mức truyền dẫn lớn hơn
và có vai trò quan trọng trong tiến trình lạm phát.
Hahn, E. (2003) nghiên cứu tác động cua chuyển dịch cú sốc bên ngoài đến
chuỗi chỉ số giá và đến lạm phát khu vực đồng tiền chung châu Âu. Bài nghiên
cứu cũng sử dụng mô hình VAR như nghiên cứu của Mc.Carthy, J. (2000) để đo
lường mức truyền dẫn và thu được kết quả: mức truyền dẫn là lớn nhất và nhanh
nhất do cú sốc bên ngoài đó là cú sốc giá nhập khẩu trừ giá dầu mỏ, tiếp đến là
cú sốc tỷ giá, và cuối cùng là cú sốc giá dầu. Mức ảnh hưởng giảm dần theo
chuỗi chỉ số giá, nói cách khác là mức truyền dẫn đến chỉ số giá nhập khẩu là lớn
nhất, tiếp đến là chỉ số giá sản xuất và sau cùng là chỉ số giá tiêu dùng. Cú sốc
10

bên ngoài đóng góp phần lớn cho lạm phát ở khu vực đồng Euro kể từ khi Liên
minh tiền tệ châu Âu được thành lập.
Ihrig, J., Marazzi, M. and Rothenberg, A. (2006) Nghiên cứu mức truyền dẫn
tỷ giá hối đoái đến giá nhập khẩu và giá tiêu dùng ở nhóm quốc gia G7 từ cuối

những năm 1970, 1980. Kết quả nhận được: 1) Có sự sụt giảm giá nhập khẩu và
biến động giá tiêu dùng gần như tất cả các nước G7. Khoảng một nửa các quốc
gia này có sự biến động sụt giảm đáng kể giữa 1975-1989 và 1990-2004 có ý
nghĩa thống kê. 2) Kết quả ước lượng khi đồng nội tệ giảm giá 10% khiến giá
nhập khẩu tăng trung bình 7% ở các quốc gia này những năm 1970, 1980, và chỉ
tăng khoảng 4% trong 15 năm trở lại. 3) Tương tự, đồng nội tệ giảm giá 10%
khiến giá tiêu dùng tăng trung bình gần 2% những năm 1970, 1980, và ảnh
hưởng trung lập đến giá tiêu dùng trong 15 năm trở lại.

Kết quả nghiên cứu trước đây ở các nền kinh tế mới nổi

Michele Ca’ Zorzi, Elke Hahn and Marcelo Sánchez (2007) đã xem xét hiệu
ứng truyền dẫn từ tỷ giá đến giá cả trong 12 thị trường mới nổi ở châu Á, Mỹ
Latinh, Trung và Đông Âu. Từ đó, dựa trên mô hình VAR, một phần nào thay
đổi cách nghĩ thông thường rằng mức tryền dẫn tác động lên cả giá nhập khẩu và
giá tiêu dùng ở các nền kinh tế mới nổi luôn cao so với các quốc gia phát triển. Ở
các thị trường mới nổi với tỷ lệ lạm phát một con số (nhất là các nước châu Á),
người ta nhận thấy rằng mức tác động của tỷ giá lên giá nhập khẩu và giá tiêu
dùng thấp và không khác nhau là mấy so với các nền kinh tế phát triển. Nghiên
cứu này cũng cho thấy mức truyền dẫn tỷ giá và lạm phát có mối quan hệ cùng
chiều, phù hợp với giả thuyết của Taylor khi hai nước (Argentina và Thổ Nhĩ
Kỳ) được loại trừ khỏi phân tích. Cuối cùng, về mặt lí thuyết có sự tồn tại mối
liên hệ cùng chiều giữa chính sách mở cửa nhập khẩu và mức truyền dẫn tỷ giá
nhưng trên thực tế tác giả chưa tìm được bằng chứng thực nghiệm vững chắc về
vấn đề này.

11

Mihaljek, D. and Klau, M. (2000) Bài nghiên cứu này trình bày các ước tính
của truyền dẫn khi tỷ giá hối đoái thay đổi và giá nhập khẩu thay đổi (được đo

bằng ngoại tệ) đến lạm phát trong nước. Mẫu là một nhóm gồm 13 nền kinh tế
mới nổi (Nam Phi, Brazil, Chile, Mexico, Peru, Cộng hòa Czech, Hungary, Phần
Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Hàn Quốc, Malaysia, Philippines và Thaí Lan), trong giai đoạn
từ thập niên 1980 đến năm 1990. Nghiên cứu cho thấy mức truyền dẫn từ thay
đổi tỷ giá vào lạm phát thì thông thường là mạnh hơn truyền dẫn từ giá nhập
khẩu. Nhưng có một sự suy giảm đáng kể từ giữa những năm 1990, có lẽ là do
kết quả của những điều kiện kinh tế vĩ mô ổn định và cải cách cơ cấu được thực
hiện ở các nền kinh tế mới nổi.

Leigh, D. and M. Rossi (2002) sử dụng mô hình VAR với dữ liệu thống kê
hàng tháng từ tháng 1 năm 1994 đến tháng 4 năm 2002 để nghiên cứu sự truyền
dẫn của tỷ giá hối đoái đến chỉ số giá tiêu dùng tại Thổ Nhĩ Kỳ. Kết quả nghiên
cứu cho thấy tác động của cú sốc tỷ giá hối đoái đến các chỉ số giá tại Thổ Nhĩ
Kỳ kéo dài trên 1 năm và có mức tác động mạnh nhất sau 4 tháng, sự truyền dẫn
tỷ giá hối đoái đến giá bán sỉ có mức độ mạnh hơn giá tiêu dùng và sự truyền dẫn
tỷ giá hối đoái là hoàn toàn trong một thời gian ngắn và với mức độ lớn hơn so
với các ước lượng được thực hiện tại các nước đang phát triển khác trong nghiên
cứu.

Jeffrey Frankel, David Parsley, and Shang-Jin Wei (2005) Sử dụng dữ liệu là
giá tám mặt hàng có thương hiệu, của 76 quốc gia. Những yếu tố quyết định quan
trọng của hệ số truyền dẫn bao gồm thu nhập bình quân đầu người, khoảng cách
giữa hai nước, thuế, quy mô quốc gia, tiền lương, lạm phát dài hạn, và biến đổi tỷ
giá trong dài hạn. Qua nghiên cứu mẫu này rút ra được: 1)Truyền dẫn của thay
đổi tỷ giá là lớn nhất trong việc xác định giá hàng hoá nhập khẩu tại bến tàu, mà
giá này thì nhỏ hơn giá của hàng hoá cùng loại ở cấp độ bán lẻ, thấp hơn giá các
sản phẩm thay thế của nội địa, và vẫn thấp hơn chỉ số CPI. 2) Chi phí vận chuyển
là một rào cản quan trọng làm cho truyền dẫn chậm ở tất cả bốn giai đoạn - cầu
cảng nhập khẩu, bán lẻ, giá của đối thủ cạnh tranh, và CPI. 3) Hệ số truyền dẫn
12


cao hơn đáng kể trong một môi trường lạm phát cao và cũng bị ảnh hưởng bởi
môi trường có tỷ giá thay đổi tạm thời.

Các nghiên cứu ở Việt Nam
Những năm gần đây đã có những nghiên cứu thực nghiệm cho thấy tồn tại mối
quan hệ giữa tỷ giá và lạm phát ở Việt Nam.

Camen, U. (2006) nghiên cứu về các yếu tố tác động lên lạm phát CPI của Việt
Nam với chuỗi số liệu tháng từ 2/1996 - 4/2005 đã kết luận rằng tỷ giá danh
nghĩa USD/VND đóng góp khá quan trọng vào tốc độ tăng CPI của Việt Nam,
giải thích khoảng 19% trong tổng mức tăng CPI sau 12 tháng.
Võ Văn Minh (2009) dùng mô hình VAR để ước lượng mức tác động của mức
truyền dẫn tỷ giá hối đoái tại Việt Nam với chuỗi số liệu tháng từ 1/2001 -
2/2007 cũng chứng minh được việc phá giá đồng Việt Nam tạo ra tác động
không hoàn hảo lên giá nhập khẩu và lạm phát CPI. Kết quả định lượng cho thấy
mức truyền dẫn tỷ giá hối đoái đến chỉ số giá nhập khẩu sau 6 tháng là 1,04, sau
1 năm là 0,21; tuy nhiên mức truyền dẫn đến chỉ số giá tiêu dùng trong 4 tháng
đầu là âm và mức tác động tích lũy sau 1 năm chỉ là 0,13 – ở mức thấp so với
các nước trong khu vực. Do độ lớn mức truyền dẫn tỷ giá hối đoái đến chỉ số giá
tiêu dùng là khá thấp, tác giả khuyến nghị một sự linh hoạt hơn của cơ chế điều
hành tỷ giá hối đoái ví dụ như cho phép sự biến động biên độ tỷ giá hối đoái lớn
hơn .
Nguyễn Thị Thu Hằng và Nguyễn Đức Thành (2010) trong một nghiên cứu về
các yếu tố tác động lên lạm phát CPI của Việt Nam giai đoạn 2000 - 2010, cho
kết luận khi Ngân hàng Nhà nước tăng 1% tỷ giá chính thức USD/VND sẽ tạo áp
lực làm tăng lạm phát, và tỷ giá giải thích khoảng 19% mức lạm phát CPI sau 12
tháng và khoảng 30% sau 17 tháng. Nghiên cứu cho thấy tỷ giá là một yếu tố
khá quan trọng giải thích biến động của lạm phát, nhưng hạn chế chính của
13


nghiên cứu này là việc sử dụng tỷ giá chính thức giữa VND và USD thay vì tỷ
giá hữu hiệu giữa VND và các đồng tiền của nhiều nước bạn hàng.
Nguyễn Phi Lân (2010) Tại trang thông tin của Ngân hàng Nhà nước, bài
nghiên cứu của tác giả với chuỗi số liệu từ 1998 - 2009 về cơ chế truyền tải
chính sách tiền tệ cũng cho thấy tương quan tỷ lệ thuận giữa tỷ giá và lạm phát
mặc dù khả năng giải thích của tỷ giá đối với lạm phát là khá khiêm tốn, 5% sau
12 tháng và 8% sau 24 tháng. Kết quả phân tích cũng cho thấy sự biến động của
tỷ giá phụ thuộc rất lớn vào công tác điều hành chính sách tiền tệ thông qua các
công cụ lãi suất và lượng tiền cung ứng ra lưu thông, các nhân tố bên ngoài nền
kinh tế cũng tác động tới sự biến động của tỷ giá nhưng không quá lớn.

Có thể thấy các nghiên cứu về mối quan hệ biến động của tỷ giá hối đoái đến
lạm phát mới dừng lại ở phân tích mức độ ảnh hưởng của thay đổi tỷ giá đến chỉ
số giá tiêu dùng, chưa có nghiên cứu hoàn chỉnh về mức ảnh hưởng đến bộ ba
chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá sản xuất và chỉ số giá tiêu dùng để có thể đánh giá
đầy đủ về quy mô và thời gian của mức truyền dẫn nhằm đưa ra định hướng
chính sách phù hợp, có thể do hạn chế về mặt dữ liệu Việt Nam chỉ mới thống kê
đầy đủ các chỉ số cụ thể theo quý từ 2009. Hơn nữa, bên cạnh những mặt đóng
góp tích cực, các bài nghiên cứu còn những hạn chế nhất định như Nguyễn Thị
Thu Hằng và Nguyễn Đức Thành (2010) chưa đo lường được độ lớn và thời gian
của thay đổi tỷ giá vào lạm phát. Võ Văn Minh (2009) đã chỉ ra dùng Mô hình
VAR có thể đạt được việc đo lường cú sốc tỷ giá vào lạm phát, mức truyền dẫn ở
Việt Nam vào mức độ trung bình so với các nền kinh tế khác. Tuy nhiên chưa
đưa ra lời giải thích logic về thứ tự các biến trong phương pháp phân rã
Cholesky. Hơn nữa có mối nghi ngờ về kết luận của bài nghiên cứu cho rằng
những thay đổi trong tổng cầu không ảnh hưởng đến lạm phát. Mục tiêu của bài
nghiên cứu này cũng về vấn đề truyền dẫn tỷ giá hối đoái ở Việt Nam, cố gắng
vượt qua những mặt hạn chế của các nghiên cứu trước kia.



14


Câu hỏi nghiên cứu
Mục tiêu của nghiên cứu là xác định mức truyền dẫn của tỷ giá vào lạm phát ở
Việt Nam từ quý 1 năm 1999 đến quý 2 năm 2011. Do vậy, câu hỏi nghiên cứu
trọng tâm đặt ra là: Cú sốc tỷ giá ảnh hưởng như thế nào đến tỷ lệ lạm phát.
Để trả lời câu hỏi trọng tâm này, nghiên cứu đặt ra một số vấn đề liên quan sau:
 Giả định các yếu tố khác không đổi, tỷ giá thay đổi (mất giá) 1% thì lạm
phát thay đổi bao nhiêu phần trăm?
 Tỷ giá hối đoái có thể giải thích bao nhiêu phần trăm những thay đổi của lạm
phát?
 Liệu tỷ giá hối đoái có phải là một kênh phù hợp để đạt được kiềm chế lạm
phát ở Việt Nam?

15

3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong bài viết này, một số phương pháp nghiên cứu được sử dụng như:
 Phương pháp so sánh, tổng hợp
 Phương pháp mô hình hoá
 Phương pháp phân tích định lượng: mô hình VAR – (Vector autoregression
model) được sử dụng và ứng dụng chức năng hàm phản ứng xung IRF
(Impulse Response Function), phân rã phương sai (Variance decomposition)
để đo lường và phân tích sự truyền dẫn tỷ giá hối đoái đến các chỉ số giá;
đồng thời thông qua chức năng phân rã phương sai, tác giả phân tích vai trò
của các yếu tố vĩ mô ảnh hưởng đến lạm phát tại Việt Nam. Phương pháp
này, cùng các bước thực hiện, thu thập và xữ lý dự liệu sẽ được trình bày cụ
thể sau đây.

Trong việc đo lường mức truyền dẫn tỷ giá hối đoái vào lạm phát, hai phương
pháp thường được dùng ở một số bài nghiên cứu. Phương pháp đầu tiên là
phương trình hồi quy tiêu chuẩn đơn trong các bài nghiên cứu của Olivei (2002),
Campa và Goldberg (2005), Campa, Goldberg và Gonzalez – Minguez (2005) ;
Otani, Shiratsuka và Shirota (2005). Họ áp dụng phương pháp bình phương nhỏ
nhất OLS để đo lường mức truyền dẫn, với đa thức phân phối có độ trễ để nắm
bắt những phản ứng của giá cả hàng hóa giao thương với những thay đổi trong tỷ
giá. Nhưng hạn chế của phương pháp này là bỏ qua tính chất chuỗi thời gian của
dữ liệu, như hầu hết chuỗi vĩ mô và giá cả tài sản khác như tỷ giá, tăng trưởng
kinh tế hay lạm phát là không dừng. Cho nên những giả thiết trong đo lường
OLS bị vi phạm, dẫn đến những vấn đề của hồi quy giả. Hơn nữa, đo lường có
thể bị thất bại từ những vấn đề không nhất quán do việc xác định biến nội sinh
của tỷ giá và các chỉ số giá.
Phương pháp thứ hai có tên là VAR, véc tơ tự hồi quy (Vector Auto-regressive)
được giới thiệu lần đầu tiên vào năm 1980 bởi Chrishtopher H. Sims, người vừa
đạt được giải Nobel kinh tế 2011.

16

Mô hình VAR
Trong mô hình VAR, một biến không những chịu ảnh hưởng từ tác động hiện tại
của các biến khác mà còn chịu ảnh hưởng bởi độ trễ của chính nó và độ trễ của
các biến khác trong quá khứ. Mô hình VAR về cấu trúc gồm nhiều phương trình
(mô hình hệ phương trình) và có các trễ của các biến số. VAR là mô hình động
của một số biến thời gian. Mô hình VAR tổng quát đối với hai biến số Y1, Y2
và trễ  bước có dạng sau đây:


























 




















Với Y
1t
, Y
2t
là các chuỗi dừng và là biến nội sinh, U
1t
và U
2t
là các nhiễu trắng.
Vai trò các biến số Y
1t
, Y
2t
hoàn toàn tương đương nhau trong mô hình.

Các dạng mô hình VAR
 Mô hình VAR dạng cấu trúc
Trong mô hình này mỗi biến được biểu diễn dưới dạng hàm tuyến tính của biến
khác hiện tại, biến trễ của chính nó và biến trễ của biến khác trong mô hình. Mô

hình VAR cấu trúc đơn giản với hai biến và trễ một bước có dạng:
y
1t
= a
10
+ a
11
y
2t
+ a
12
y
1(1-t)
+ a
13
y
2(t-1)
+ 
1t
y
2t
= a
20
+ a
21
y
1t
+ a
22
y

1(t-1)
+ a
23
y
2(t-1)
+ 
2t

Mô hình Var dạng cấu trúc tổng quát với m biến và độ trễ p bước được viết dưới
dạng ma trận:

17

Y
t
= A + A
0
Y
t
+ + A
p
Y
t-p
+ ε
t


Trong đó Y
t
= (Y

1t
, ,Y
mt
)’; A
i
là các ma trận cấp m×m, A là ma trận cấp m×1, ε
t

là ma trận cấp m×1.

 Mô hình VAR dạng rút rọn hay dạng tiêu chuẩn (Standar VAR –
SVAR)
Trong mô hình này một biến chỉ chịu tác động của độ trễ của chính nó và độ trễ
của biến khác trong quá khứ. Các nhiễu trắng trong phương trình bao hàm trong
đó tính chất các biến. Nếu các biến khác nhau có tương quan với nhau thì nhiễu
trắng của chúng cũng tương quan với nhau. Mô hình VAR dạng rút gọn với hai
biến và trễ một bước có dạng:
y
1t
= b
10
+ b
11
y
1(1-t)
+ b
12
y
2(t-1)
+ e

1t
y
2t
= b
20
+ b
21
y
1(t-1)
+ b
22
y
2(t-1)
+ e
2t

Mô hình Var dạng rút gọn tổng quát với m biến và độ trễ p bước được viết dưới
dạng ma trận:
Y
t
= B + B
1
Y
t-1
+ + B
p
Y
t-p
+ v
t


Trong đó Y
t
= (Y
1t
, ,Y
mt
)’ , B
i
là các ma trận cấp m×m, B là ma trận cấp m×1, v
t

là ma trận cấp m×1 yếu tố ngẫu nhiên.

 Mô hình VAR đệ quy (recursive VAR)
Trong mô hình này, các nhiễu trắng trong mỗi phương trình được xây dựng sao
cho không tương quan với các nhiễu trắng trong phương trình hồi quy trước đó.
Phương pháp phân rã Cholesky được ứng dụng trong mô hình dạng này, ta sẽ
phân tích kỹ hơn sau đây. Mô hình VAR dạng đệ quy được sử dụng rất nhiều
trong các nghiên cứu kinh tế, bao gồm trong đó có những nghiên cứu về truyền
dẫn tỷ giá hối đoái, như Mc.Carthy, J. (2000), Hahn, E. (2003), Michele Ca’
Zorzi, Elke Hahn and Marcelo Sánchez (2007). Trong bài viết này, chúng ta
cũng đo lường mức truyền dẫn tỷ giá theo mô hình VAR đệ quy này.
18


Phân rã Cholesky
Mô hình VAR dạng cấu trúc được xếp là mô hình không định dạng được. Để xử
lý vấn đề này chúng ta đưa ra thêm ràng buộc lên các tham số của mô hình. Một
trong những cách tiếp cận dạng này là phân rã Cholesky. Để minh họa phân rã

Cholesky cho mô hình đơn giản hai biến và một trễ, phân rã này giả sử, chẳng
hạn rằng a
11
=0, nghĩa là y
2
không có tác động tức thời lên y
1
(tuy nhiên nó vẫn
có tác động trong các thời kì sau, thông qua cơ chế trễ của mô hình).
Sắp xếp thứ tự (Cholesky ordering)
- Các biến sắp xếp theo một thứ tự giả định, khi đó biến đứng trước được giả
định sẽ gây ra tác động cho những biến ở sau nó, trong khi các biến sau không
gây ra tác động tới biến đứng trước nó.
- Với thứ tự sắp xếp khác nhau sẽ cho ra kết quả khác nhau. Do đó thông
thường người ta thường vận dụng đến lý thuyết kinh tế để đưa ra các cách sắp
xếp lý thuyết phù hợp.

Ứng dụng của mô hình VAR
Về bản chất VAR là sự kết hợp của 2 phương pháp: tự hồi quy đơn chiều
(univariate autoregression - AR) và hệ phương trình ngẫu nhiên (simultanous
equations - SEs). VAR hay ở chỗ có được ưu điểm của AR là dễ ước lượng bằng
phương pháp tối thiểu hóa phần dư (OLS) và ưu điểm của SEs là ước lượng
nhiều biến trong cùng một hệ thống. Đồng thời khắc phục nhược điểm của SEs
là không cần lưu tâm đến tính nội sinh của các biến kinh tế. Tức là các biến kinh
tế vĩ mô thường mang tính nội sinh khi chúng tác động qua lại lẫn nhau. Thuộc
tính này làm cho phương pháp cổ điển hồi quy bội dùng một phương trình hồi
quy nhiều khi bị sai lệch khi ước lượng. Đây là những lý do cơ bản khiến VAR
trở nên phổ biến trong nghiên cứu kinh tế vĩ mô.
19


Mô hình Var thường được dùng trong các bài toán liên quan đến các biến kinh tế
vĩ mô như:
 Dự báo, đặc biệt là dự báo trung hạn và dài hạn.
 Phân tích cơ chế truyền tải sốc, nghĩa là xem xét tác động của một cú sốc trên
một biến phụ thuộc lên các biến phụ thuộc khác trong hệ thống qua hàm phản
ứng xung (Impulse response)
 Phân tích mức tác động của cú sốc mỗi biến trong việc giải thích biến động
của một biến trong mô hình qua chức năng phân rã phương sai (Variance
decomposition)

Hạn chế của mô hình VAR
Bên cạnh những ưu điểm nổi trội của mô hình Var : 1) không cần xác định biến
nào là biến nội sinh và biến nào là biến ngoại sinh 2) có thể sử dụng phương
pháp OLS cho từng phương trình riêng rẽ 3) với một số ít biến trong mô hình
nhưng tính tin cậy của dự báo thu được tốt hơn so với một mô hình hệ phương
trình đồng thời gồm nhiều biến và nhiều phương trình, thì mô hình Var còn
vướng phải một số hạn chế:

 Do trọng tâm mô hình được đặt vào dự báo nên VAR ít phù hợp cho phân
tích chính sách.
 Khi xét đến mô hình VAR phải xét đến tính dừng của các biến trong mô
hình. Yêu cầu đặt ra khi ta ước lượng mô hình VAR là tất cả các biến phải dừng,
nếu trong trường hợp các biến này chưa dừng thì ta phải lấy sai phân để đảm bảo
chuỗi dừng. Càng khó khăn hơn nữa nếu một hỗn hợp chứa các biến có tính
dừng và các biến không có tính dừng thì việc biến đổi dữ liệu không phải là việc
dễ dàng.
 Khó khăn trong việc lựa chọn khoảng trễ thích hợp. Giả sử mô hình Var
bạn đang xét có ba biến và mỗi biến sẽ có 8 trễ đưa vào từng phương trình. Như
xem xét ở trên thì số hệ số mà bạn phải ước lượng là 3
2

.8+3=75. Và nếu ta tăng
20

số biến và số trễ đưa vào mỗi phương trình thì số hệ số mà ta phải ước lượng sẽ
khá lớn. Ngoài ra, khó khăn trong việc lựa chọn khoảng trễ còn được thể hiện ở
chỗ nếu ta tăng độ dài của trễ sẽ làm cho bậc tự do giảm, do vậy mà ảnh hưởng
đến chất lượng các ước lượng.

McCarthy (2000) là một trong các nhà nghiên cứu đầu tiên dùng nền tảng VAR
để đo lường mức truyền dẫn tỷ giá hối đoái. Mô hình VAR có một số lợi thế so
với phương pháp dựa trên một phương trình. Một là mô hình có thể giải quyết
vấn đề nội sinh vốn có trong phương pháp trên. Hơn nữa, hàm phản ứng xung
được đo lường chỉ ra những ảnh hưởng của một cú shock biến nội sinh những
biến khác qua cấu trúc của VAR, cho phép không chỉ đo lường mức truyền dẫn
tỷ giá trong một thời gian cụ thể, mà còn trong giai đoạn biến động của nó.
Có thể thấy tiếp cận VAR là một phương pháp đo lường hiệu quả mức độ và thời
gian của các thông số. Một số nghiên cứu điển hình dùng mô hình VAR như
Hahn (2003) và Faruqee (2006) cho trường hợp các nước phát triển, đặc biệt ở
châu Âu, Ito và Sato (2006) cho các nước Đông Nam Á, Belaisch (2003) cho
Brazil, Leigh và Rossi (2002) cho Thổ Nhĩ Kì. Trong bài viết này mô hình VAR
cũng được sử dụng để đo lường mức truyền dẫn tỷ giá hối đoái ở Việt Nam.

Mô hình nghiên cứu
Đầu những năm 90, khi tỷ lệ lạm phát tăng cao đột biến (tới 35% năm 1992),
Việt Nam đã có những nổ lực kiềm chế lạm phát bằng những chính sách khác
nhau, bao gồm cả áp dụng một chế độ tỳ giá tương đối cứng nhắc. Lựa chọn này
dựa trên nền tảng lý thuyết là giữ tỷ giá ổn định có thể cải thiện niềm tin vào
đồng nội tệ, thúc đẩy chính phủ kiểm soát thâm hụt ngân sách và tăng trưởng tín
dụng, nhờ đó giảm lạm phát và ổn định tình hình kinh tế vĩ mô. Trên thực tế, lạm
phát giai đoạn 92-96 được quản lý khá hiệu quả. Tuy nhiên, điều này không

được thể hiện giai đoạn sau đó. Giai đoạn 97 -2003 Việt Nam phải trãi qua cuộc
khủng hoảng kinh tế châu Á và giai đoạn phục hồi, VND liên tục mất giá so với
21

USD. Tuy nhiên, lạm phát cao vẫn ko xuất hiện, thậm chí nền kinh tế còn rơi vào
giai đoạn giảm phát 2000-2001. Hơn nữa, việc áp dụng chính sách tỷ giá tương
đối cứng nhắc từ 2004 -2008 đã không giúp nền kinh tế kiểm soát lạm phát. Tỷ
lệ lạm phát tăng qua các năm và cao đột biến vào khoảng 23% năm 2008. Một
cái nhìn lại tỷ giá và lạm phát ở Việt Nam chỉ ra rằng mối quan hệ này khá phức
tạp và ảnh hưởng của những thay đổi tỷ giá lên lạm phát còn chịu phụ thuộc vào
nhiều nhân tố vĩ mô khác. Các kênh truyền tải đến lạm phát được trình bày dưới
đây, là căn cứ giúp ta đưa các biến vào mô hình.
Hình 2. Các kênh truyền tải đến lạm phát
















Nguồn: Nguyễn Thị Thu Hằng, Nguyễn Đức Thành (2010)


Để đo lường mức truyền dẫn tỷ giá hối đoái vào chỉ số giá nhập khẩu và chỉ số
giá tiêu dùng ta đưa vào mô hình VAR các nhân tố như cú sốc cung, cú sốc cầu
nhằm nhận diện những tác động lên nền kinh tế, cú sốc tiền tệ, cú sốc tỷ giá hối
Mức giá
Giá hàng hóa thương
mại
Giá hàng hóa phi thương
mại
Giá thế giới
(giá dầu, gạo
và các đầu
vào nhập
khẩu khác)


Tỷ giá

Tổng cầu
Tổng cung
Tiền tệ và tín
dụng, lãi suất, thu
nhập, tài sản, chi
tiêu và thuế của
Chính phủ.
Chi phí đầu vào
trong nước và
nhập khẩu, đôn
giá phía cung,
tỷ giá

22

đoái và tác động lẫn nhau giữa các chỉ số giá. Bài viết này cũng như những mô
hình nghiên cứu trước đây giới thiệu bởi McCarthy (2006) và Michele Ca’ Zorzi,
Elke Hahn and Marcelo Sánchez (2007) tiến hành nghiên cứu và đưa 7 biến vào
trong mô hình:

 Giá dầu thế giới: OIL
 Biến sản lượng: GDP
 Cung tiền M2: M2
 Tỷ giá hối đoái danh nghĩa hữu hiệu đa phương: NEER
 Chỉ số giá nhập khẩu: IMP
 Chỉ số giá tiêu dùng: CPI
 Tỷ lệ lãi suất ngắn hạn: RATE

Trong đó tỷ giá hối đoái và hai biến chỉ số giá sẽ là những biến chính trong phân
tích này. Biến giá dầu thế giới (oil) đại diện cho cú sốc cung và biến GDP thực
(gdp) tượng trưng cho cú sốc cầu được đề cập để nắm bắt những ảnh hưởng thực
sự đến nền kinh tế. Biến cung tiền M2 (m2) và biến lãi suất (rate) mô tả sự tác
động của thị trường tiền tệ (trong đó có chính sách tiền tệ) tới mối liên hệ đang
nghiên cứu.

Các biến được đưa vào mô hình với thứ tự sắp xếp như bên trên. Việc sử dụng
một tiến trình được lặp đi lặp lại để nhận diện ra những cú sốc tác động đồng
thời đến những biến tương ứng và những biến xếp sau đó, nhưng lại không gây
tác động đến những biến đứng trước. Điều nay đồng nghĩa với ta đưa ra những
giả định như sau:

Với chuỗi giá cả, chỉ số giá nhập khẩu đặt trước chỉ số giá tiêu giả định một sự
tác động cùng lúc của cú sốc chỉ số giá nhập khẩu đến chỉ số giá tiêu dùng nhưng

không có chiều ngược lại, tức biến động của chỉ số giá tiêu dùng không ảnh
hưởng đến giá nhập khẩu, mặc dù trên thực tế có cho thấy điều đó. Chỉ số giá
23

chịu ảnh hưởng lần lượt các cú sốc từ nền kinh tế. Theo đó phương trình các chỉ
số giá tại thời gian t có thể viết như sau:









 









 





 




 


(1)








 









 





 




 




 


(2)

Với các nhân tố tác động từ nền kinh tế, ta giả định: 1) những biến động của giá
dầu có thể ảnh hưởng đến tất cả các biến số khác cùng lúc trong chuỗi nhưng giá
dầu không bị ảnh hưởng cùng lúc bởi bất kỳ biến động nào khác, và chỉ chịu ảnh
hưởng bởi cú sốc của chính nó trong quá khứ. 2) GDP thực tượng trưng cho cú
sốc cầu, chịu tác động của cú sốc cung. 3) cung tiền M2 đại diện cho những tác
động của chính sách tiền tệ, chịu ảnh hưởng từ cú sốc cung và cầu. 4) biến tỷ giá
được đạt sau với giả định có sự tác động đồng thời của cú sốc cung, cú sốc cầu
lên tỷ giá, trong khi tác động của cú sốc tỷ giá lên biến đầu ra cần một độ trễ.










 


(3)








 




 


(4)









 




 




 


(5)








 





 




 




 


(6)

Biến lãi suất được đặt sau cùng, với giả định những biến động trong tỷ giá đại
diện cho thị trường tiền tệ, sẽ phản ánh đồng thời tất cả các cú sốc của nền kinh
tế đại diện bởi các biến trong mô hình.








 





 




 




 




 










 



(7)

Với:


: là độ trễ các biến



, 


,


,


,


: lần lượt là cú sốc giá dầu, cú sốc GDP, cú sốc cung
tiền, cú sốc tỷ giá hối đoái, cú sốc lãi suất
24




,



: lần lượt là cú sốc chỉ số giá nhập khẩu IMP, và cú sốc chỉ số giá tiêu
dùng CPI.

Mô hình VAR đệ quy đáp ứng những giả thiết đề ra trong mô hình, với hàm
phản ứng xung và phân rã phương sai sẽ được ứng dụng để ước lượng nhằm giải
quyết những vấn đề đặt ra.


Dữ liệu nghiên cứu

Bài nghiên cứu sử dụng dữ liệu thứ cấp theo quý từ Quý 1 năm 1999 đến quý 2
năm 2011, gồm 50 quan sát. Được thu thập từ các nguồn Tổng cục thống kê Việt
Nam (GSO), Bộ Tài chính Việt Nam (MoF), Ngân Hàng Thế giới (WB) và
Thống kê tài chính thế giới (IFS)

 Giá dầu thế giới (oil) lấy theo giá dầu U.K Brent đơn vị USD/thùng.
Nguồn: IFS
 GDP thực (gdp): GDP quý không được GSO công bố, được tính toán
bằng đồng nội tệ theo nguồn từ GSO
 Cung tiền M2: được tính bằng đồng nội tệ, là tổng của 3 thành phần: tiền
hẹp M1, tương đương tiền và trái phiếu, và các công cụ thị trường tiền tệ.
Nguồn từ WB
 Chỉ số giá nhập khẩu (imp), chỉ số giá tiêu dùng (cpi) được quy về kỳ gốc
quý 1 năm 1999 (1999Q1= 100). Nguồn: WB và GSO.
 Tỷ lệ lãi suất (rate) ta chọn lãi suất tiền gửi 3 tháng, đơn vị % trên năm từ
nguồn IFS.
 Tỷ giá hối đoái danh nghĩa đa phương NEER, được tính với rổ tiền tệ từ
10 đối tác xuất nhập khẩu chính của Việt Nam, được quy về kỳ gốc quý 1
năm 1999 (1999Q1= 100) Nguồn: GSO, MoF và IMF.


Chuỗi dữ liệu tất cả được đưa về cơ số mũ tự nhiên logarit.
25

Tỷ giá danh nghĩa hữu hiệu đa phương NEER
Trong các bài nghiên cứu về truyền dẫn tỷ giá hối đoái, biến tỷ giá có thể được
lựa chọn nhiều cách khác nhau, nhưng thiết thấy so với tỷ giá chính thức giữa
VND và USD, tỷ giá danh nghĩa hữu hiệu đa phương NEER sẽ phản ánh tốt hơn
những biến động của tỷ giá đến các biến khác trong nền kinh tế, phù hợp để đưa
vào mô hình. Tỷ giá danh nghĩa hữu hiệu đa phương NEER cũng được sử dụng
trong bài nghiên cứu của Mc.Carthy, J. (2000), Michele Ca’ Zorzi, Elke Hahn
and Marcelo Sánchez (2007).
NEER Tỷ giá danh nghĩa hữu hiệu đa phương (Norminal Effective Exchange
Rate) phản ánh sự thay đổi giá trị của đồng nội tệ VND với tất cả các đồng tiền
trong rổ tiền tệ được chọn (chưa tính đến tương quan sức mua, điều chỉnh theo
lạm phát)
Công thức tính NEER như sau:











Với:
 n: số lượng đối tác thương mại chính của Việt Nam

 

: tỷ trong của đồng tiền nước j tại thời điểm t, tương ứng tỷ trọng thương
mại của nước j trong tổng kim ngạch thương mại của Việt Nam với các nước
được lựa chọn.
 

: tỷ giá danh nghĩa của đồng tiền nước j so với VND tại thời điểm t (số
VND cần để đổi lấy 1 đơn vị tiền tệ nước j). Do con số này không có sẵn, ta
áp dụng công thức tính sau:








Trong đó 

là tỷ giá của đồng tiền đại diện so với USD.
Trong bài nghiên cứu này, ta chọn rổ tiền tệ gồm đồng tiền của 10 đối tác thương
mại chính của Việt Nam, với tổng tỷ trọng xuất nhập khẩu trung bình hơn 75%,
đó là Mỹ, Nhật, Trung Quốc, Úc, Đức, Hồng Kong, Hàn Quốc , Thái lan,
Singapor, Malaysia. (Kết quả được trình bày ở Phụ lục 5)

×