Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Đồ án tính cấp thiết của chính sách tiền tệ ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.93 KB, 30 trang )

Tính cấp thiết của đề tài: Chính sách tiền tệ là một chính sách điều tiết kinh
tế vĩ mô cực kì quan trọng của nhà nớc trong nền kinh tế thị trờng vì nó có ảnh h-
ởng lớn đến các biến số vĩ mô nh: công ăn việc làm, tốc độ tăng trởng, lạm phát
Để đạt đợc các mục tiêu của chính sách tiền tệ thì việc sử dụng các công cụ của nó
có vai trò cơ bản, quyết định.
ở Việt Nam kể từ khi đổi mới đến nay, chính sách tiền tệ đặc biệt là các công
cụ của nó đang từng bớc hình thành, hoàn thiện và phát huy tác dụng đối với nền
kinh tế. Với đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam thì việc lựa chọn các công cụ nào,
sử dụng nó ra sao ở các giai đoạn cụ thể của nền kinh tế luôn là một vấn đề thờng
xuyên phải quan tâm theo dõi và giải quyết đối với các nhà hoạch định và điều
hành chính sách tiền tệ quốc gia, các nhà nghiên cứu kinh tế. Đặc biệt là trong bối
cảnh nền kinh tế trong nớc và quốc tế nh hiện nay thì việc nghiên cứu về chính
sách tiền tệ cụ thể là các công cụ của chính sách tiền tệ là một vấn đề có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn cao.
Với mục đích trau dồi kiến thức đã học và góp phần nghiên cứu, tìm hiểu về
chính sách tiền tệ ,em quyết định chọn đề tài: Các công cụ của chính sách tiền tệ
ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện.
Nội dung, đối tợng, phạm vi nghiên cứu: Đề tài sẽ hệ thống hoá những vấn
đề có tính lý luận về chính sách tiền tệ trong nền kinh tế thị trờng đồng thời qua
việc khảo sát quá trình sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt Nam (từ
năm 1989 đến nay) nhằm đánh giá thực trạng sử dụng, điều hành các công cụ đó,
trên cơ sở đó đề ra những giải pháp góp phần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả các
công cụ của ch`ính sách tiền tệ ở Việt Nam.
Phơng pháp nghiên cứu: Lấy phơng pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử
làm phơng pháp luận cơ bản kết hợp với quan điểm tiếp cận hệ thống và sử dụng
các phơng pháp thống kê, phơng pháp so sánh, phơng pháp phân tích tổng hợp cùng
các phơng pháp nghiên cứu kinh tế khác.
Kết cấu đề tài: Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài bao gồm 3 chơng đợc
bố cục nh sau:
Ch ơng 1: Chính sách tiền tệ trong nền kinh tế thị trờng
Ch ơng 2: Thực trạng việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt


Nam hiện nay.
Ch ơng 3: Định hớng và giải pháp hoàn thiện các công cụ của hính sách tiền tệ
ở Việt Nam.
Em xin chân thành cảm ơn sự hớng dẫn, chỉ bảo tận tình của cô giáo Phạm
Hồng Vân đã giúp em hoàn thành đề án này.
Nội dung
0o0
Ch ơng 1
chính sách tiền tệ trong nền kinh tế
thị trờng .
1.1. Khái niệm, vị trí của chính sách tiền tệ :
Khái niệm chính sách tiền tệ : Chính sách tiền tệ là một chính sách kinh tế
vĩ mô do Ngân hàng trung ơng khởi thảo và thực thi, thông qua các công cụ , biện
pháp của mình nhằm đạt các mục tiêu :ổn định giá trị đồng tiền, tạo công ăn việc
làm ,tăng trởng kinh tế .
Tuỳ điều kiện các nớc, chính sách tiền tệ có thể đợc xác lập theo hai hớng:
chính sách tiền tệ mở rộng (tăng cung tiền ,giảm lãi suất để thúc đẩy sản xuất kinh
doanh ,giảm thất nghiệp nhng lạm phát tăng -chính sách tiền tệ chống thất nghiệp)
hoặc chính sách tiền tệ thắt chặt(giảm cung tiền , tăng lãi suất làm giảm đầu t vào
sản xuất kinh doanh từ đó làm giảm lạm phát nhng thất nghiệp tăng-chính sách tiền
tệ ổn định giá trị đồng tiền)
Vị trí chính sách tiền tệ : Trong hệ thống các công cụ đIều tiết vĩ mô của Nhà
nớc thì chính sách tiền tệ là một trong những chính sách quan trọng nhất vì nó tác
động trực tiếp vào lĩnh vực lu thông tiền tệ .Song nó cũng có quan hệ chặt chẽ với
các chính sách kinh tế vĩ mô khác nh chính sách tài khoá,chính sách thu
nhập,chính sách kinh tế đối ngoại.
Đối với Ngân hàng trung ơng ,việc hoạch định và thực thi chính sách chính
sách tiền tệ là hoạt động cơ bản nhất ,mọi hoạt động của nó đều nhằm làm cho
chính sách tiền tệ quốc gia đợc thực hiện có hiệu quả hơn.
1.2 Mục tiêu của chính sách tiền tệ :

*ổn định giá trị đồng tiền: NHTW thông qua CSTT có thể tác động đến sự
tăng hay giảm giá trị đồng tiền của nớc mình.Giá trị đồng tiền ổn định đợc xem xét
trên 2 mặt: Sức mua đối nội của đồng tiền(chỉ số giá cả hàng hoá và dịch vụ trong
nớc)và sức mua đối ngoại(tỷ giá của đồng tiền nớc mình so với ngoại tệ).Tuy
vậy ,CSTT hớng tới ổn định giá trị đồng tiền không có nghĩa là tỷ lệ lạm phát =0 vì
nh vậy nền kinh tế không thể phát triển đợc,để có một tỷ lệ lạm phát giảm phảI
chấp nhận một tỷ lệ thất nghiệp tăng lên.
*Tăng công ăn việc làm: CSTT mở rộng hay thu hẹp có ảnh hởng trực tiếp
tới việc sử dụng có hiệu qủa các nguồn lực xã hội,quy mô sản xuất kinh doanh và
từ đó ảnh hởng tới tỷ lệ thất nghiệp của nền kinh tế .Để có một tỷ lệ thất nghịêp
giảm thì phải chấp nhận một tỷ lệ lạm phát tăng lên.
*Tăng trởng kinh tế :Tăng trởng kinh tế luôn là mục tiêu của mọi chính
phủ trong việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô của mình, để giữ cho nhịp
độ tăng trởng đó ổn định, đặc biệt việc ổn định giá trị đồng bản tệ là rất quan
trọng ,nó thể hiện lòng tin của dân chúng đối với Chính phủ .Mục tiêu này chỉ đạt
đợc khi kết quả hai mục tiêu trên đạt đợc một cách hài hoà.
Mối quan hệ giữa các mục tiêu :Có mối quan hệ chặt chẽ,hỗ trợ nhau, không
tách rời. Nhng xem xét trong thời gian ngắn hạn thì các mục tiêu này có thể mâu
thuẫn với nhau thậm chí triệt tiêu lẫn nhau.Vậyđể đạt đợc các mục tiêu trên một
cách hài hoà thì NHTW trong khi thực hiện CSTT cần phải có sự phối hợp với các
chính sách kinh tế vĩ mô khác.
1.3 Các công cụ của CSTT :
1.3.1.Nghiệp vụ thị trờng mở:
Khái niệm: Là những hoạt động mua bán chứng khoán do NHTW thực hiện
trên thị trờng mở nhằm tác động tới cơ số tiền tệ qua đó đIều tiết lợng tiền cung
ứng.
Cơ chế tác động:Khi NHTW mua (bán)chứng khoán thì sẽ làm cho cơ số tiền
tệ tăng lên (giảm đi) dẫn đến mức cung tiền tăng lên (giảm đi).
Nếu thị trờng mở chỉ gồm NHTW và các NHTM thì hoạt động này sẽ làm
thay đổi lợng tiền dự trữ của các NHTM (R ),nếu bao gồm cả công chúng thì nó sẽ

làm thay đổi ngay lợng tiền mặt trong lu thông(C)
Đặc điểm:Do vận dụng tính linh hoạt của thị trờng nên đây đợc coi là một
công cụ rất năng động ,hiệu quả,chính xác của CSTT vì khối lợng chứng khoán
mua( bán ) tỷ lệ với qui mô lợng tiền cung ứng cần đIều chỉnh,ít tốn kém về chi
phí ,dễ đảo ngợc tình thế.Tuy vậy, vì đợc thực hiện thông qua quan hệ trao đổi nên
nó còn phụ thuộc vào các chủ thể khác tham gia trên thị trờng và mặt khác để công
cụ này hiệu quả thì cần phảI có sự phát triển đồng bộ của thị trờng tiền tệ ,thị trờng
vốn.
1.3.2 Dự trữ bắt buộc:
Khái niệm :Số tiền dự trữ bắt buộc là số tiền mà các NH phảI giữ lại,do
NHTW qui định ,gửi tại NHTW,không hởng lãI,không đợc dùng để đầu t,cho vay
và thông thờng đợc tính theo một tỷ lệ nhất định trên tổng só tiền gửi của khách
hàng để đảm bảo khả năng thanh toán,sự ổn định của hệ thống ngân hàng
Cơ chế tác động:Việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc ảnh hởng trực tiếp đến số
nhân tiền tệ (m=1+s/s+ER+RR) trong cơ chế tạo tiền của các NHTM.Mặt khác khi
tăng (giảm ) tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì khả năng cho vay của các NHTM giảm (tăng),
làm cho lãI suất cho vay tăng (giảm),từ đó làm cho lợng cung ứng tiền giảm (tăng).
Đặc đIểm:Đây là công cụ mang nặng tính quản lý Nhà nớc nên giúp NHTW
chủ động trong việc đIều chỉnh lợng tiền cung ứng và tác động của nó cũng rất
mạnh (chỉ cần thay đổi một lợng nhỏ tỷ lệ dự trữ bắt buộc là ảnh hởng tới một lợng
rất lớn mức cung tiền). Song tính linh hoạt của nó không cao vì việc tổ chức thực
hiện nó rất chậm ,phức tạp, tốn kém và nó có thể ảnh hởng không tốt tới hoạt động
kinh doanh của các NHTM.
1.3.3 Chính sách tái chiết khấu:
Khái niệm : Đây là hoạt động mà NHTW thực hiện cho vay ngắn hạn đối với
các NHTM thông qua nghiệp vụ tái chiết khấu bằng việc đIều chỉnh lãI suất táI
chiết khấu (đối với thơng phiếu) và hạn mức cho vay táI chiết khấu(cửa sổ chiết
khấu)
Cơ chế tác động:Khi NHTW tăng (giảm ) lãi suất tái chiết khấu sẽ hạn chế
(khuyến khích) việc các NHTM vay tiền tại NHTW làm cho khả năng cho vay của

các NHTM giảm (tăng) từ đó làm cho mức cung tiền trong nền kinh tế giảm
(tăng).Mặt khác khi NHTW muốn hạn chế NHTM vay chiết khấu của mình thì thực
hiện việc khép cửa sổ chiết khấu lại.
Ngoài ra, ở các nớc có thị trờng cha phát triển (thơng phiếu cha phổ biến để
có thể làm công cụ táI chiết khấu) thì NHTW còn thực hiện nghiệp vụ này thông
qua việc cho vay táI cấp vốn ngắn hạn đối với các NHTM.
Đặc điểm:Chính sách tái chiết khấu giúp NHTW thực hiện vai trò là ngời cho
vay cuối cùng đối với các NHTM khi các NHTM gặp khó khăn trong thanh toán
,và có thế kiểm soát đựoc hoạt động tín dụng của các NHTM đồng thời có thể tác
động tới việc đIều chỉnh cơ cấu đầu t đối với nền kinh tế thông qua việc u đãi tín
dụng vào các lĩnh vực cụ thể.Tuy vậy ,hiệu qủa của cộng cụ này còn phụ thuộc vào
hoạt động cho vay của các NHTM, mặt khác mức lãi suất tái chiết khấu có thể làm
méo mó ,sai lệch thông tin về cung cầu vốn trên thị trờng.
Trên đây là 3 công cụ tác động gián tiếp tới qui mô lợng tiền cung ứng,trong
một nền kinh tế nếu NHTW sử dụng có hiệu quả cấc công cụ này thì sẽ không cần
đến bất cứ một công cụ nào khác .Tuy vậy trong những điều kiện cụ thể (các quốc
gia đang phát triển ;các giai đoạn kinh tế quá nóng ) thì để đạt đợc mục tiêu của
mình ,NHTW có thể sử dụng các công cụ điều tiết trực tiếp sau:
1.3.4. Quản lý hạn mức tín dụng của các NHTM
Khái niệm :là việc NHTW quy định tổng mức d nợ của các NHTM không đợc
vợt quá một lợng nào đó trong một thời gian nhất định(một năm) để thực hiện vai
trò kiểm soát mức cung tiền của mình.Việc định ra hạn mức tín dụng cho toàn nền
kinh tế dựa trên cơ sở là các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô(tốc độ tăng trởng ,lạm phátiêu
thụ )sau đó NHTW sẽ phân bổ cho các NHTM và NHTM không thể cho vay vợt
quá hạn mức do NHTW quy định .
Cơ chế tác động:Đây là một cộng cụ điều chỉnh một cách trực tiếp đối với l-
ợng tiền cung ứng,việc quy định pháp lý khối lợng hạn mức tín dụng cho nền kinh
tế có quan hệ thuận chiều với qui mô lợng tiền cung ứng theo mục tiêu của NHTM.
Đặc điểm:Giúp NHTW điều chỉnh ,kiểm soát đợc lợng tiền cung ứng khi các
công cụ gián tiếp kém hiệu quả ,đặc biệt tác dụng nhất thời của nó rất cao trong

những giai đoạn phát triển quá nóng,tỷ lệ lạm phát quá cao của nền kinh tế .Song
nhợc điểm của nó rất lớn : triệt tiêu động lực cạnh tranh giữa các NHTM,làm giảm
hiệu quả phân bổ vốn trong nến kinh tế ,dễ phát sinh nhiều hình thức tín dụng
ngoàI sự kiểm soát của NHTW và nó sẽ trở nên quá kìm hãm khi nhu cầu tín dụng
cho việc phát triển kinh tế tăng lên .
1.3.5 Quản lý lãi suất của các NHTM:
Khái niệm :NHTW đa ra một khung lãi suất hay ấn dịnh một trần lãi suất cho
vay để hớng các NHTM điều chỉnh lãi suất theo giới hạn đó,từ đó ảnh hởng tới qui
mô tín dụng của nền kinh tế và NHTW có thể đạt đợc quản lý mức cung tiền của
mình.
Cơ chế tác động:Việc điều chỉnh lãi suất theo xu hớng tăng hay giảm sẽ ảnh
hởng trực tiếp tới qui mô huy động và cho vay của các NHTM làm cho lợng tiền
cung ứng thay đổi theo.
Đặc điểm:Giúp cho NHTW thực hiện quản lý lợng tiền cung ứng theo mục
tiêu của từng thời kỳ,đIều này phù hợp với các quốc gia khi cha có điều kiện để
phát huy tác dụng của các công cụ gián tiếp.Song, nó dễ làm mất đi tính khách
quan của lãi suất trong nền kinh tế vì thực chất lãI suất là giá cả của vốn do vậy
nó phải đợc hình thành từ chính quan hệ cung cầu về vốn trong nến kinh tế .Mặt
khác việc thay đổi quy định đIều chỉnh lãI suất dễ làm cho các NHTM bị động,tốn
kém trong hoạt động kinh doanh của mình.
Ch ơng 2
Thực trạng việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt Nam
hiện nay.
2.1 Sự đổi mới trong việc thực hiện chính sách tiền tệ.
Kể khi đất nớc chuyển sang nền kinh tế thị trờng thì quá trình thực hiện chính
sách tiền tệ cũng đợc xây dựng, đổi mới theo đúng ý nghĩa kinh tế của nó và phù
hợp với thực tiễn Việt Nam, thể hiện ở một số mặt sau:
Cách xác định lợng tiền cung ứng: Nếu nh trong thời kỳ bao cấp chúng ta chỉ
quan niệm lợng tiền cung ứng cho nền kinh tế chỉ bao gồm tiền mặt và mức cung là
bao nhiêu, ở thời kỳ nào là do chính phủ phê duyệt thì ngày nay việc quan niệm về

lợng tiền cung ứng để thay đổi bên cạnh lợng tiền mặt (C) còn tính đến khả năng
tạo tiền của các NHTM, tổ chức tín dụng khác (D). Bên cạnh đó lợng tiền cung ứng
hàng năm phải dựa trên cơ sở: tỉ lệ lạm phát ớc tính, tốc độ tăng trởng kinh tế theo
kế hoạch, vòng quay tiền tệ
Việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ: Đợc sử dụng một cách linh
hoạt, phù hợp với điều kiện Việt Nam ở các thời điểm cụ thể chứ không đông cứng,
đóng băng nh thời kì bao cấp (lãi mất cố định nhiều năm )
Cơ chế điều hành: Năm 1988, Hệ thlống NH đã đợc phân thành 2 cấp NHNN
và các NHTM, trong đó NHNN là cơ quan quản lý Nhà nớc trên lĩnh vực tiền tệ-
tín dụng- ngân hàng; trực thuộc chính phủ. Thống đốc NHNN có quyền chủ động
hơn và chịu trách nhiệm trực tiếp trong việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
2.2 Việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ những năm qua.
2.2.1. Công cụ lãi suất:
ở Việt Nam, lãi suất đợc sử dụng nh công cụ chính của chính sách tiền tệ, nó
là yếu tố đánh dấu sự chuyển biến từ cơ chế kinh tế kế hoạch hoá stập trung sang
cơ chế thị trờng, nó còn là công cụ quan trọng để chuyển các Ngân hàng sang cơ
chế tự hạch toán kinh doanh.
Giai đoạn 1988- 1991: Chính sách lãi suất đợc thay đổi cơ bản: Lãi suất tiết
kiệm cao hơn tốc độ trợt giá (lạm phát ), nâng lãi suất tiền gửi và tiền vay của các
tổ chức kinh tế tiến gần với lãi suất huy động tiết kiệm.Lãi suất cho vay vốn lu
động và tốc độ lạm phát (%)
Biểu1: Lãi suất cho vay vốn lu động và tốc độ lạm phát(%).
Từ T3/81- T10/91
1. Lãi tiết kiệm
- Loại 3T
3/89 6/89 7/8
9
2/90 IV/9
0
7/91 10/91

12 9 7 7 4 3,5 3,5
- Loại không kì hạn 9 7 5 5 2,4 2,1 2,1
2. Lãi cho vay vốn lu
động
6,8-
6,5
5,1-
5,5
3-4 3-4 1,8 1,8 2,1-
3,7
3. Tốc độ ép + 5,4 - 2,9 -2,5 +0,2 +7,6 +2,5 +5,5
Nhờ việc tăng lãi suất huy động vốn đã thực hiện đợc chủ trơng của Nhà nớc
là đâỷ lùi lạm phát và có cơ sở để thực hiện việc tài trợ vốn cho các xí
nghiệp quốc doanh đang lâm vào tình trạng khủng hoảng lúc bấy giờ. Song xét trên
bình diện toàn nền kinh tế thì chúng ta đã thất bại trong lĩnh vực đầu t vì lãi suất
cho vay quá cao, vốn ngân hàng ứ đọng, nền kinh tế phát sinh các hoạt động kinh tế
thiếu tính cực : vay tiền chơi đề, hoặc để gửi lãi ăn chênh lệch. Tình trạng đó đã
dẫn đến sự đổ bể của các HTX tín dụng còn các NHTM thực chất là phá sản nếu
không có bàn tay cứu giúp của Nhà nớc.
Việc thi hành chính sách lãi suất thực dơng đã đợc thực hiện nhng lại cha triệt
để vì thực tế với các ngân hàng thì lãi suất cho vay lại nhỏ hơn lãi suất huy động:
Năm 1991 lãi suất huy động tiết kiệm 45% năm; chỉ số trợt giá bình quân 43,4%
năm ; lãi suất cho vay 40,2% năm.
Giai đoạn 1992-1995: Lãi suất đã bắt đầu đợc sử dụng nh công cụ chính của
CSTT, lãi suất thực dơng bắt đầu đợc duy trì từ cuối 1992, điều chỉnh linh hoạt cùng
với tỉ lệ lạm phát và bám sát thị trờng (trong thời gian 2 năm từ T8/1992-T8/1994
mức lãi suất đợc điều chỉnh tới 6 lần), NHNN khống chế sàn lãi suất tiền gửi,
trần lãi suất cho vay và có một bộ phận cho vay theo lãi suất thoả thuận (T8/1992:
Lãi tiết kiệm loại 3 tháng: 2,3%, lãi cho vay 2,5%, lạm phát +0,3%).
Để thực hiện nguyên tắc trên đồng thời tạo điều kiện giảm lãi suất cho vay để

khuyến khích đầu t phát triển trong nền kinh tế một số biện pháp sau đây đã đợc sử
dụng:
. Thay đổi cơ cấu nguồn vốn ngân hàng theo hớng tăng nhanh nguồn vốn có
lãi suất thấp ( tăng tiền gửi giao dịch, vốn tín dụng nớc ngoài, vốn ngân sách)
. Thu hẹp chênh lệch lãi suất huy động và cho vay giữa ngoại tệ và bản tệ theo
hớng tăng lãi suất đối với ngoại tệ: Lãi suất cho vay ngoại tệ năm 1993 là 7,5% lên
8,5% năm 1994 và 9,0% năm 1995 và điều chỉnh hàng tháng lãi suất ngoại tệ theo
biến động lãi mất thị trờng TCQT SINGAPORE.
. Qua việc quốc hội thông qua dự luật bỏ thuế doanh thu NH đã hỗ trợ cho
NHNN tiến thêm một bớc trong việc cải tiến lãi suất vào cuối T12/1995: Lãi suất
cho vay ngắn hạn tối đa giảm từ 2,1% tháng xuống 1,75% tháng ; lãi suất cho vay
trung - dài hạn đợc giữ nguyên không quá 1,7% tháng. Mặt khác có quy định để
các NHTM tuân thủ chênh lệch lãi suất bình quân giữa huy động và cho vay là
0,35% tháng.
Ngoài ra, từ T8/94: Chính sách lãi suất TD còn đợc cải cách theo hớng nâng
lãi suất tiền gửi có kì hạn lên gần với lãi suất tiền gửi tiết kiệm của dân c cùng kì
hạn để bảo đảm lợi ích kinh tế chính đáng của họ và khuyến khích họ gỉ tiền vào
ngân hàng. Đồng thời thực hiện lãi suất cho vay trung, dài hạn cao hơn lãi suất cho
vay ngắn hạn: Năm 1994 giữ nguyên mức lãi suất cho vay ngắn hạn; nâng lãi suất
cho vay trung hạn, dài hạn từ 1,2% lên 1,7% tháng.
Quá trình cải cách lãi suất trên đã nâng cao tính chủ động cho các NHTM
trong việc ấn định mức lãi suất cụ thể theo yêu cầu huy động vốn và nhu cầu tín
dụng thị trờng, tăng sự cạnh tranh trong hoạt động tín dụng và làm giảm chi phí NH
có lợi cho nền kinh tế, tạo điều kiện cho các NHTM thực hiện điều chỉnh cơ cấu
đầu t theo mục tiêu chính sách tín dụng.
Giai đoạn từ 1996- Nay: Đến cuối 1996, NHNN chỉ quy định các mức lãi suất
:trần theo thời hạn cho vay và khống chế tỷ lệ chênh lệch giữa lãi suất cho vay và
lãi suất huy động vốn bình quân chung là 0,35%(tháng) (4,2% năm). Trong phạm
vi trần lãi suất và tỷ lệ chênh lệch lãi suất đợc công bố, các NHTM đợc điều
chỉnh linh hoạt các mức lãi suất cho vay và huy động vốn phù hợp với quan hệ cung

cầu về vốn và đặc điểm kinh doanh riêng. Sau 4 lần điều chỉnh lãi suất kể từ cuối
1995: Lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa giảm từ 22% năm xuống 15% năm, lãi suất
cho vay trung- dài hạn giảm 21% năm xuống còn 16,2% năm.
Mặt khác nhằm điều chỉnh các luồng vốn d thừa từ thành thị về nông thôn thì
lãi suất cho vay ở nông thông đợc duy trì cao hơn một chút so với lãi suất cho vay ở
thành thị.
Trong năm 1997, với mục tiêu góp phần tăng trởng kinh tế và phù hợp xu h-
ớng giảm lãi suất, việc quy định trần lãi suất cho vay giảm mạnh, T7/1997 lãi suất
cho vay ngắn hạn giảm từ 1,2% tháng xuống 1% tháng, lãi suất cho vay trung dài
hạn giảm từ 1,35% tháng xuống 1,1% tháng ,chênh lệch lãi suất huy động và cho
vay bình quân quy định là 0,35% tháng(4,2% năm)
Tuy nhiên từ quý IV năm 1997, do chịu ảnh hởng của cuộc khủng hoảng tài
chính tiền tệ trong khu vực, đồng USD có xu hớng lên giá và lãi xuất tiền gửi
bằng USD ở mức cao trong khi lãi suất huy động của VND ở mức thấp nên đã có
hiện tợng ngời gửi tiền rút VND để chuyển sang USD. Nhiều tổ chức kinh tế và dân
c găm giữ USD gây khó khăn cho các NHTM và tăng sức ép đối với đồng nội tệ,
tiềm ẩn nguy cơ bất ổn cho thị trờng tiền tệ và việc huy động vốn của các NHTM,
đặc biệt là một số NHTM cổ phần.
. Trớc tình hình đó, ngày 20/1/1998, thống đốc NHNN ra QĐ số 39/1998 /
QĐ- NHNN1 với nội dung chủ yếu là:
- Đa ra mức trần lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng bằng VND:
lãi cho vay ngắn hạn từ 1%-1,2% tháng; lãi suất cho vay trung và dài hạn là 1,1-
1,25% tháng ; đồng thời xoá bỏ sự chênh lệch về lãi suất giữa 2 khu vực thành thị
và nông thôn. Đó là cơ sở tăng lãi suất huy động vốn VND. Hạn chế rút tiền VND
tích trữ USD ,tăng vốn cho sản xuất kinh doanh.
- Quy định trần lãi suất cho vay bằng USD vẫn giữ nguyên 8,5% năm nh trớc
đây đồng thời NHNN còn quy định lãi suất tiền gửi tối đa của các pháp nhân tại
TCTD nhằm hạn chế việc quản lí ngoại tệ trên tài khoản tiền gửi góp phần tăng c-
ờng cho việc quản lí ngoại hối.
- Đến cuối năm, trần lãi suất cho vay bằng USD đợc điều chỉnh giảm từ 8,5 %

xuống 7,5% năm để phù hợp với cân bằng lãi suất LiBOR, SiBOR hiện hành; đồng
thời góp phần mở rộng cho vay ngoại tệ đối với nền kinh tế.
Nhìn chung việc điều chỉnh lãi suất trong năm 1998 là phù hợp với diễn biến
kinh tế vĩ mô và tỷ giá, nó đã có tác động tích cực đối với việc huy động vốn và
cho vay trong nền kinh tế. Tổng số vốn huy động ở hầu hết các tổ chức tín dụng
đều tăng lên điều đó cho thấy mối tơng quan giữa lạm phát và lãi suất tiền gửi đợc
coi là tơng đối hợp lý. Từ đó, quy mô tín dụng cung ứng cho nền kinh tế tăng lên
đặc biệt tín dụng bằng VND có tốc độ tăng cao hơn. Thị trờng ngoại tệ ,tỉ giá
VND/USD lại trở về trạng thái tơng đối ổn định.
Bớc sang năm 1999, nền kinh tế có dấu hiệu tăng trởng chững lại, để phù hợp
với chỉ số lạm phát, quan hệ cung cầu về vốn trên thị trờng tiền tệ và thực hiện giải
pháp kích cầu về đầu t của chính phủ , NHNN đã 5 lần điều chỉnh trần lãi suất cho
vay bằng VND theo xu hớng giảm: Từ 1,2% tháng (ngắn hạn) và (1,25%tháng
-trung dài hạn) xuống mức thấp nhất là 0,85% tháng (thành thị); 1% tháng (nông
thôn); 1,15% tháng (NHTMCP nông thôn- Quỹ TDND cơ sở ); 0,7% (NH phục vụ
ngời nghèo). Trần lãi suất cho vay bằng USD là 7,5% năm.
Sự điều chỉnh lãi suất trên là quyết định hết sức kịp thời và phù hợp với diễn
biến của nền kinh tế, kích thích tăng trởng kinh tế trong bối cảnh nguy cơ giảm
phát đang là chậm lại tốc độ tăng trởng.
Năm 2000, lãi suất trong nớc có những diễn biến khá phức tạp .Thực hiện chủ
trơng kích cầu của chính phủ, lãi suất cho vay bằng VND vẫn tiếp tục đợc điều
chỉnh theo xu hớng giảm: lãi suất cho vay phổ biến gỉam từ 0,75% tháng xuống
0,70% tháng. Trong khi đó lãi suất ngoại tệ lại chịu tác động của thị trờng tài chính
quốc tế, trong năm 2000, lãi suất thị trờng quốc tế liên tục tăng buộc lãi suất ngoại
tệ trong nớc cũng phải tăng theo (từ 3,5% năm lên 4,5% năm ), nhiều khi lãi suất
VND thấp hơn lãi suất USD.
Ngày 2/8/2000, NHNN đã quyết định thay đổi cơ chế điều hành lãi suất:
chuyển từ cơ chế điều hành trần lãi suất sang cơ chế điều hành theo lãi suất cơ bản
đối với cho vay bằng VND và cơ chế lãi suất thị trờng có quản lý đối với cho vay
bằng ngoại tệ: Đối với cho vay VND, lãi suất cho vay không vợt quá lãi suất cơ bản

đợc công bố hàng tháng. Hiện nay, lãi suất cơ bản là 0,75% tháng, biên độ cho vay
ngắn hạn là 0,3% tháng, biên độ cho vay trung và dài hạn là 0,5% tháng. Đối với
lãi suất cho vay USD, lãi suất cho vay không vợt quá lãi suất USD trên thị trờng
liên NH Singapore (SiBOR) kì hạn 3 tháng đôí với cho vay ngắn hạn, kì hạn 6
tháng đối với cho vay trung dài hạn tại thời điểm cho vay cộng biên độ do thống
đốc NHNN quy định (Hiện nay biên độ cho vay ngắn hạn là 1% năm , biên độ cho
vay trung dài hạn là 2,5% năm ). Còn đối với các ngoại tệ khác do chiếm tỷ trọng
nhỏ trong hoạt động tiền gửi TD nên cho phép các TCTD tự xác định.
Với nội dụng điều hành lãi suất cơ bản nh trên cho thấy lãi suất cơ bản đợc
xác định trên cơ sở lãi suất thị trờng với mức độ rủi ro thấp, đảm bảo sự kiểm soát
lãi suất của NHNN, phù hợp thực tiễn Việt Nam, đây là một bớc tiến mới, bớc đi
tiếp theo trong tiến trình tự do hoá lãi suất.
Nh vậy, chính sách lãi suất linh hoạt và phù hợp cùng với việc ổn định tỷ giá
VND/USD trong những năm qua không những góp phần quan trọng trong quá trình
ổn định kinh tế vĩ mô mà còn làm tăng tính hấp dẫn của đồng tiền Việt Nam và
lòng tin của dẫn chúng vào hệ thống ngân hàng, giảm dần tình trạng sử dụng hay
cất trữ USD, từng bớc đẩy lùi tình trạng đô la hoá ở Việt Nam.
Điều đó chứng tỏ rằng: Trong điều kiện nền kinh tế thị trờng phát triển cha
cao, việc sử dụng lãi suất làm công cụ điều hành chính sách tiền tệ của NHNN Việt
Nam là hoàn toàn cần thiết và đúng đắn.
2.2.2 Công cụ Hạn mức tín dụng:
Đây là công cụ đợc coi là cần thiết ở Việt Nam trong những năm đầu của thời
kì đổi mới hiệu quả của nó đã thể hiện rõ rệt trong việc chống lạm phát: Những
năm 1990-1991do lạm phát còn ở tỉ lệ cao (67,6% tháng ). Để khống chế lạm phát,
NHNN chủ trơng thi hành CSTT thắt chặt ngay từ đầu năm để giảm bớt lợng tiền
cung ứng. Dựa trên một số chỉ tiêu vĩ mô dự kiến năm 1992 là: Tăng trởng kinh tế
(4,5%); chỉ số lạm phát (30%/ năm), NHNN đa ra hạn mức tín dụng đối với tất cả
hệ thống NHTM là 34,5% (mức tăng so với năm trớc) . Bằng nhiều biện pháp kết
hợp, năm đó chúng ta đã đạt đợc kết quả thực tế rất khả quan: mức tăng trởng kinh
tế tăng gấp 2 lần so với dự kiến (8,65%), mức lạm phát thấp hơn dự kiến rất nhiều

(17,6%), tiền tệ đi dần vào ổn định.
ở thời kỳ đầu, công cụ hạn mức TD chỉ áp dụng cho 4 NHTMQD( NH Ngoại
thơng, NH Công thơng, NH Nông nghiệp, NH đầu t phát triển) nhng sau vài năm
đổi mới, do quy mô mở rộng tín dụng của các NHTM quá nhanh, số lợng các
NHTM ngày càng nhiều nên NHNN quyết định áp dụng hạn mức tín dụng cho hầu
hết các NHTM. Tính đến cuối năm 1997 có 26 NHTM trong nớc phải áp dụng hạn
mức tín dụng còn các NH nớc ngoài và NH liên doanh tuy chiếm thị phần tín dụng
đáng kể (10-15% thị phần tín dụng trong nớc) nhng vẫn cha phải áp dụng hạn mức
tín dụng.
Những năm sau đó, đặc biệt là từ 1995 đến 1997, NHNN vẫn tiếp tục thực
hiện chính sách tiền tệ thắt chặt để kiểm soát lạm phát từ đó đa ra rỉ lệ hạn mức
tín dụng ở mức vừa phải cho các NHTM. Song kết quả thực tế cho thấy hiện tợng
phổ biến là hầu hết các NHTM đều có xu hớng vợt qúa chỉ tiêu hạn mức tín dụng
đợc giao, cụ thể .
Biểu 2: Tình hình thực hiện hạn mức tín dụng (1995-1998).

m
Danh mục
1995 1996 1997 Quỹ T D /
1998
KH giao Thực
hiện
KH
giao
Thực
hiện
KH
giao
Thực
hiện

KH
giao
Thực
hiện
Tăng so với
năm trớc
21% 37,8
%
25% 29% 21% 26,4
%
4% 4,8%
Hiện tợng trên xuất phát từ hai nguyên nhân cơ bản sau:
Thứ nhất, trong giai đoạn nay tốc độ huy động vốn nhàn rỗi bình quân hàng
năm của các NHTM tăng nhanh (khoảng 26% đến 37% năm) vì vậy các NHTM tất
yếu phải thực hiện đầu t tăng trởng tín dụng đối với nền kinh tế vì con đờng để đầu
t qua thị trờng tiền tệ, thị trờng vốn là khó khăn trong điều kiện nớc ta lúc bấy giờ.
Thứ hai, Do diễn biến lãi suất đang có xu hớng giảm trần lãi suất cho vay
trong khi đó để huy động nguồn vốn nhàn rỗi các NHTM phải tăng lãi suất huy
động (do tâm lý ngời dân không muốn gửi), điều đó làm cho chênh lệch giữa lãi
suất cho vay với lãi suất huy động giao động ở mức 0,15% - 0,25% tháng, thấp hơn
so với trớc đây 0,3%-0,45% tháng. Với chênh lệch nh vậy để đảm bảo hoạt động
kinh doanh đủ bù đắp chi phí hoạt động thì buộc các NHTM phải tăng d nợ đối với
nền kinh tế.
Hiện tợng trên cũng góp phần giải thích tại sao trong những năm 1995- 1997
mặc dù lạm phát đợc kiểm chế ở mức thấp (bình quân 6,9% năm) nhng nền kinh tế
vẫn đạt tốc độ tăng trởng cao 9,28% năm.
Tuy nhiên, từ năm 1998 đến nay, công cụ hạn mức tín dụng đã mất dần vai trò
của nó trong việc hạn chế sự gia tăng của tổng phơng tiện thanh toán vì lạm phát có
xu hớng giảm và thấp dần ; mặt khác nhu cầu vốn của nền kinh tế ngày càng tăng
và cần phải mở rộng tín dụng để thực hiện mục tiêu tăng trởng kinh tế. Do đó từ

quý II/1998, NHNN đã không áp dụng công cụ này nh một công cụ thờng xuyên để
điều hành chính sách tiền tệ (mặc dù có thể coi nó nh một giải phóng tình thế khi
cần thiết).
Công cụ này sẽ đợc xoá bỏ hoàn toàn khi thị trờng tiền tệ ổn định , thị trờng
vốn phát triển và thị trờng mở đi vào hoạt động có hiệu quả.
2.2.3 Công cụ Dự trữ bắt buộc
Đây là công cụ gián tiếp điều chỉnh mức cung tiễn đợc sử dụng sớm nhất ở
Việt Nam (từ 1991), theo pháp lệnh Ngân hàng (1990), tỷ lệ DTBB có thể ở mức từ
10% đến 30% tổng nguồn vốn huy động của các NHTM.
Song trong điều kiện thực tế lúc bấy giờ khi tiềm lực của các NHTM Việt
Nam còn nhỏ bé và lạm phát đã đợc kiềm chế ở mức đáng kể, nên NHNN đã quy
định tỉ lệ DTBB là 10%; đợc áp dụng cho các NHTMQD, NHTM cổ phần ,chi
nhánh NH nớc ngoài,NH liên doanh và các công ty tài chính.
Qua quá trình thực hiện ban đầu cho thấy rất ít NHTM dự trữ đủ 10% nhất là
các NHTM cổ phần, do vậy để nâng cao hiệu quả của công cụ này, trong năm 1994,
NHNN đã hai lần điều chỉnh tỉ lệ DTBB; quy định mức DTBB thống nhất đối với
tất cả các NHTM(có phân biệt với các loại tiền gửi khác nhau : tiền gửi, tiền tiết
kiệm không kì hạn: 13%;tiết kiện kì hạn 3,6 tháng, kì phiếu mục đích, trái phiếu:
8%) ; đồng thời đẩy mạnh việc áp dụng quy chế phạt đối với các TCTD không thực
hiện đúng quy chế DTBB.
Năm 1995, NHNN quy định (T10/1995) DTBB chỉ đợc tính đối với loại tiền
gửi có kì hạn từ 12 tháng trở xuống, thống nhất ở mức 10% đợc áp dụng cho tất cả
các NHTM( trừ NHTMCP nông thôn, HTX tín dụng, quỹ TDND tạm thời cha phải
thực hiện). Số lần tính DTBB hàng tháng tăng lên, lại bỏ dần tín phiếu kho bạc
trong cơ cấu tiền gửi DTBB; tiễn gửi DTBB đợc hợp nhất với tiền gửi thanh toán
của các NHTM vào một tài khoản chung là tài khoản tiền gửi không kì hạn tại
NHNN. Tiền gửi dự trữ vợt đợc trả lãi 0,1% tháng (Năm 1996). Điều này đã tạo sự
linh hoạt hơn cho việc điều chỉnh dự trữ của các NHTM tại NHNN, góp phần gián
tiếp khống chế lãi suất thị trờng và khối lợng tín dụng cung ứng để thực hiện tốt
mục tiêu kiềm chế lạm phát.

Đến T12/97, Quy chế DTBB có sự thay đổi để đảm bảo tính cụ thể, rõ ràng
hơn: Tiền gửi DTBB tại NHNN đợc tính bình quân trong cả kì duy trì, tỷ lệ DTBB
vẫn là 10%, tiền dự trữ vợt đợc hởng lãi suất 0,2% tháng (bằng VND) và 4,86%
năm (đối với USD). Đồng thời NHTM nào thiếu tiền gửi DTBB trong kì duy trì sẽ
bị phạt theo mức 200% lãi suất cho vay tái cấp vốn của NHNN (VND), từ đó
khuyến khích các NHTM thực hiện đúng quy chế DTBB.
Để luật NHNN có hiệu lực (từ 1/10/1998) ,từ cuối 1998 và trong năm 1999,
quy chế DTBB có những thay đổi đáng kể: Đối tợng áp dụng đợc mở rộng thêm
(quỹ TDND, NH hợp tác);số tiền DTBB phải gửi tại NHNN để thực hiện chính sách
tiền tệ quốc gia thay cho quy định về cơ cấu tiền DTBB trớc đây: 70% gửi tại
NHNN và 30% tiền mặt, ngân phiếu còn thời hạn thanh toán; việc trả lãi tiền DTBB
do chính phủ quy định.
Để tạo đà khôi phục, phát triển kinh tế trong năm 1999 tỉ lệ DTBB đợc điều
chỉnh nhiều lần theo xu hớng gỉam nhằm nới lỏng tiền tệ, kích thíh đầu t, tiêu dùng.
Biểu 3: Tỷ lệ DTBB đối với các TCTD năm 1999
TCTD
Tỉ lệ DTBB (%)
1/1/99 1/3/99 1/6/99 1/7/99 1/10/99
1. NHTMQD, NHTM của đô thị,
chi nhánh NH nớc ngoài, NH
liên doanh & Công ty TC
10 7 6 5 5
- NH nông nghiệp và PTNT 10 7 6 5 3
2. NHTMCP nông thôn, NH hợp
tác, Quỹ TDNDTW, khu vực.
0 5 4 1 1
3. TCTD có số d tiền gửi phải
tính DTBB dới 500
trđ
quỹ TDND

cơ sở, HTX tín dụng, NH phục
vụ ngời nghèo.
0 0 0 0 0
Việc giảm tỷ lệ DTBB trên đã đóng góp phần nhất định vào việc mở rộng tín
dụng, giảm chi phí hoạt động và góp phần làm dịu đi những khó khăn của các
NHTM do lãi suất giảm.
Trong năm 2000, NHNN tiếp tục áp dụng tỷ lệ DTBB bằng VND nh năm
1999. Riêng về tỷ lệ DTBB đối với tiền gửi bằng ngoại tệ để tạo tín hiệu hạn chế
việc các TCTD huy động tiền gửi USD ( qua việc nâng lãi suất huy động) để gửi ra
nớc ngoài hởng chênh lệch lãi suất, khuyến khích các TCTD cho vay trong nớc,
ngày 1/10/2000 NHNN đã điều chỉnh tỷ lệ DTBB đối với tiền gửi không kỳ hạn và
có kỳ hạn dới 12 tháng là 8% kể từ kỳ duy trì DTBB tháng 11/2000. Sau đó nhằm
tiếp tục thực hiện chủ trơng trên ,ngày 1/12/2000 NHNN tiếp tục nâng tỷ lệ DTBB
lên 12% áp dụng từ kỳ duy trì DTBB 12/2000.
Nh vậy, công cụ DTBB ngày càng đợc hoàn thiện và trở thành công cụ đắc lực
của NHNN Việt Nam trong điều hành chính sách tiền tệ.
2.2.4 Công cụ Cho vay tái chiết khấu
ở Việt Nam, cho vay tái chiết khấu đã đợc sử dụng nh là một công cụ của
CSTT ngay từ những năm đầu của thời kỳ đổi mới. Tuy vậy, vì cha hội đủ những
điều kiện nên việc áp dụng nó còn giản đơn làm cho hiệu quả của nó còn nhiều
hạn chế. Mặc dù vậy trong những năm gần đây nó đã trở thành công cụ đắc lực góp
phần thực hiện tốt các mục tiêu của CSTT quốc gia.
Thời kỳ đầu, cho vay chiết khấu đợc thực hiện qua việc NHNN cho NHTM
vay ngắn hạn căn cứ vào khế ớc tín dụng ( có chất lợng ) do NHTM đem thế chấp
tại NHNN, lãi suất tái cấp vốn đợc xác định dựa theo lãi suất cho vay (cao nhất )
của các NHTM và đợc điều chỉnh linh hoạt theo mục tiêu CSTT quốc gia ở mỗi
thời kỳ. Năm 1994 với mục tiêu kiềm chế lạm phát, NHNN hạn chế tới mức thấp
nhất mức tái cấp vốn cho các NHTM qua việc nâng lãi suất tái cấp vốn từ 85%
-100% lãi suất cho vay các NHTM, riêng NH nông nghiệp là 95%. Năm 1995 để
đẩy mạnh mục tiêu trên, NHNN đã ngng tái cấp vốn cho các NHTM nhằm đẩy

mạnh công tác thu hồi nợ và giảm cho vay tín dụng của các NHTM. Nhờ đó, đến
cuối 1995 d nợ cho vay chiết khấu của NHNN đã giảm xuống 13% so với 1994.
Năm 1996 ,để giải quyết tình trạng khó khăn trong thanh toán của các NHTM, NH
đã thực hiện việc cho vay ngắn hạn đối với các NHTM trong trờng hợp tạm thời
thiếu khả năng thanh toán (qua các phiên thanh toán bù trừ trên từng địa bàn). Nh-
ng áp dụng lãĩ suất tái chiết khấu ở mức tối đa. Điều này một mặt bảo đảm đợc sự
ổn định của hệ thống ngân hàng, mặt khác hạn chế đợc khả năng cung ứng vợt qúa
về tín dụng của các NHTM đồng thời khuyến khích việc huy động vốn của các
NHTM, cũng hạn chế bớt việc các NHTM vay tiền của NHNN, vì vậy cuối năm
1996, d nợ cho vay tái chiết khấu chỉ tăng 3,5% so với 1995.
Trong năm 1997 NHNN đã sử dụng phơng thức tái cấp vốn có thế chấp (bằng
chứng từ, tiền gửi ngoại tệ tại NHNN) nhằm bù đắp khó khăn tạm thời trong thanh
toán cho các NHTM. Lãi suất tái cấp vốn đợc điều chỉnh từ quy định 100% lãi suất
cho vay của các NHTM đối với nền kinh tế sang quy định mức lãi suất cụ thể (từ
tháng 3-tháng 7năm 1997). Mức lãi suất tái cấp vốn quy định là 1,1% tháng, từ
T8/1997là 0,9% ). Do trong năm 1997 các NHTM đã tích cực hơn trong việc trả nợ
NHNN và khả năng huy động vốn tăng nên đến cuối 1997, d nợ tái cấp vốn của
NHNN giảm 11,9% so với 1996.
Năm 1998, để thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm hạn chế sự gia
tăng lạm phát do ảnh hởng cuả cuộc khủng hoảng tài chính khu vực, NHNN đã
tăng lãi suất tái chiết khấu từ 1%

tháng 1,1% tháng (thấp hơn tiền lãi suất cho vay
ngắn hạn là 0,1% tháng.
Năm 1999, với mục tiêu khuyến khích tăng trởng kinh tế, khắc phục nguy cơ
giảm phát NHNN đã 4 lần điều chỉnh giảm lãi suất cho vay tái cấp vốn từ mức
1,1% tháng đầu năm xuất 0,5% tháng đồng thời quy chế về nghiệp vụ chất khấu, tái
chiết khấu đã đợc ban hành để phát triển một bớc hiệu quả công cụ này trong chính
sách tiền tệ và tạo khả năng cân đối nguồn vốn hoạt động cho các ngân hàng. Các
giấy tờ có giá ngắn hạnh đợc chiết khấu tại NHNN là tín phiếu kho Bạc, trái phiếu

NHNN và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác do NHNN quy định ở mỗi thời kỳ. Mức
lãi suất tái chiết khấu đợc công bố là 0,45% tháng.
Từ đầu năm đến cuối tháng 7/2000, nhằm khuyến khích mở rộng tín dụng của
các TCTD, NHNN đã 2 lần giảm lãi suất tái cấp vốn từ 0,5% tháng xuống 0,45%
tháng (31/3/2000) và xuống 0,4% tháng (31/7/2000). Đồng thời NHNN cũng giảm
lãi suất tái chiết khấu từ 0,45% tháng xuống còn 0,4% tháng (T3/2000) và xuống
0,35% tháng (T7/2000). Tuy vậy cho đến T9 /2000 để hạn chế các TCTD bù đắp
thiếu hụt thanh toán qua hình thức vay tái cấp vốn, tái chiết khấu từ NHNN và
khuyến khích thực hiện bù đắp qua thị trờng mở nhằm thúc đẩy sự phát triển của
thị trờng này, đồng thời tạo tín hiệu cho các TCTD tăng lãi suất huy động, ngày
2/11/2000 NHNN đã điều chỉnh tăng lãi suất tái cấp vốn lên 0,5% tháng và tăng lãi
suất tái chiết khấu lên 0,45% tháng.
Nh vậy công cụ cho vay chiết khấu đã dần đợc áp dụng theo đúng bản chất
của nó là tín hiệu cho các NHTM điều chỉnh lãi suất cùng với sự phát triển của thị
trờng ở Việt Nam , trở thành một công cụ đắc lực của chính sách tiền tệ quốc gia
2.2.5 Công cụ Nghiệp vụ thị trờng mở
Luật NHNN Việt Nam quy định NHNN thực hiện nghiệp vụ thị trờng mở
thông qua việc mua, bán tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi, tín phiếu NHNN các
loại giấy tờ có giá ngắn hạn khác trên thị trờng tiền tệ để thực hiện CSTT quốc gia
Trớc khi thị trờng mở chính thức đợc đa vào vận hành ở Việt Nam, NHNN đã
từng bớc tạo lập cơ sở cho nó qua việc tổ chức đấu thầu và phát hành các loại tín
phiêú, đó là:
Tín phiếu kho bạc Nhà nớc (KBNN): từ năm 1996 đến hết năm 1998 NHNN
đã phối hợp với KBNN tổ chức đấu thầu tín phiếu và trái phiếu kho bạc. Năm 1996,
KBNN đã phát hành gần 100 tỷ đồng tín phiếu qua NHNN, sau đó chủ yếu là phát
hành trái phiếu kho bạc (thời hạn một năm). Tổng mệnh giá trúng thầu năm 1997
là 2917,5 tỷ VND (37 đợt ); năm 1998 là 4020,7 tỷ VND (46 đợt),năm 1999 là
3011.6 tỉ VND(46 đợt) , năm 2000 là 4441.0 tỉ VND (43 đợt). Các đối tợng trúng
thầu chủ yếu là các NHTM Quốc doanh, các NHTM cổ phần và các Công ty Bảo
hiểm. Song nếu theo quy định của luật NHNN thì các trái phiếu này không thể sử

dụng làm công cho thị trờng mở đợc.
Tín phiếu NHNN: Do NHNN Việt Nam phát hành từ năm 1995, tính đến thời
điểm tháng 7/1999 NHNN đã tổ chức đợc 6 đợt phát hành tín phiếu NHNN. Các
đợt này đều đợc tổ chức vào các thời điểm khi mà tổng phơng tiện thanh toán và
lạm phát có xu hớng gia tăng nhằm rút bớt tiền trong lu thông. Tổng mệnh giá đã
phát hành của cả 6 đợt là 3.400 tỉ VND; phần lớn các tín phiếu này đều có thời hạn
3 tháng.
Cho đến ngày 12/7/2000, NHNN chính thức khai trơng đa nghiệp vụ thị trờng
mở vào hoạt động theo phơng hớng sử dụng nó nh là một công cụ điều tiết tiền tệ
linh hoạt và có hiệu quả của NHNN.
Trong năm 2000, NHNN đã thực hiện đợc 17 phiên giao dịch thị trờng mở,
trong đó có 14 phiên mua đợc 1353,50 tỷ đồng đạt 71,24% khối lợng chào mua với
lãi suất trong khoảng 4,20%- 5,58% năm và 3 phiên bán đợc 550 tỷ đồng đạt 100%
khối lợng chào bán với lãi suất trong khoảng 4,0%- 4,6% năm. Đến 31/12/2000 ;
NHNN đã bơm 405 tỷ đồng qua thị trờng mở sau khi loại trừ các khoản mua, bán
đã đến hạn thanh toán.
Từ 1/1/2001- 7/2/ 2001, NHNN đã thực hiện đợc 3 phiên giao dịch mua đợc
160 tỉ đồng chỉ đạt 50% khối lợng chào mua với mức lãi suất 3,5-4,6 %năm. Đã có
18 tổ chức tín dụng đăng kí là thành viên của thị trờng (tuy vậy mỗi phiên giao dịch
chỉ có thờng xuyên từ 1 đến 3 thành viên tham gia)Phơng thức giao dịch chủ yếu là
Mua- Bán có kì hạn (15 ngày -4tháng ) hoặc mua hẳn- bán hẳn.
Nh vậy,ở Việt Nam thị trờng mở đã tìm đợc con đờng đi riêng cho mình và
tính u việt của nó đã đợc phát huy tác dụng ở một mức độ nhất định (đã giúp cho
các NHTM đợc chủ động hơn trong việc điều chỉnh lợng vốn khả dụng của mình,
qua đó NHNN phần nào đã thực hiện đợc mục tiêu CSTT quốc gia).Tuy vậy ,đây
mới chỉ là giai đoạn khởi đầu và mang tính chất thử nghiệm nên đòi hỏi nó phải đ-
ợc tiếp tục đổi mới và hoàn thiện.
2.3 Đánh giá quá trình thực hiện các công cụ của chính sách tiền tệ những
năm qua.
2.3.1 Những thành tựu trong việc ổn định kinh tế vĩ mô.

*Góp phần ổn định giá trị đồng bản tệ: Có thể nói đây là thành tựu đáng đợc
ghi nhận ở Việt Nam, bằng các công cụ điều tiết, NHNN đã kiểm soát chặt chẽ
khối lợng tiền cung ứng hàng năm và đó đợc xem nh một bàn tay hữu hiệu đẩy lùi
và kiềm chế làm phát, ổn định sức mua của đồng tiền Việt Nam, làm cho giá cả ổn
định, đời sống ngời dân không ngừng đợc cải thiện.
Biểu 4: Mối quan hệ giữa tổng phơng tiện thanh toán với tỷ lệ lạm phát
N
ăm
Chỉ tiêu
199
1
199
2
199
3
199
4
1995 199
6
1997 1998 1999 200
0
Tốc độ tăng
của
M2(%)
78 34 19,
8
27,
8
22,3 22,
7

25,4 23,9 39,28 38
Tỷ lệ lạm
phát (%)
67,
6
17,
6
5,2 14,
4
12,7 4,5 3,6 9,2 0,9 6
Về sức mua đối ngoại của đồng tiền, cơ chế điều hành tỉ gía từng bớc đợc điều
chỉnh phối hợp cùng với các công cụ của CSTT đã dần phù hợp với thông lệ quốc
tế, góp phần đẩy mạnh các mối quan hệ kinh tế đối ngoại của Việt Nam, thúc đẩy
hoạt động xuất nhập khẩu.
Biểu 5: Tốc độ tăng trởng xuất nhập khẩu của Việt Nam
Năm
Chỉ tiêu
199
2
1993 199
4
199
5
1996 199
7
199
8
1999
- Xuất khẩu
(%)

24 12 39 28 38 24 4 23,3
=11.540 tr USD
- Nhập khẩu
(%)
9 53 48 24 54 -7 11 _
* Góp phần tăng trởng kinh tế:Việc ổn định giá trị VND đã tạo lòng tin của
nhân dân vào đồng bản tệ, tạo môi trờng đầu t lành mạnh, thu hút đợc nguồn vốn
đáng kể từ trong và ngoài nớc. Đặc biệt việc điều chỉnh các công cụ CSTT: lãi suất,
tỉ lệ dự trữ bắt buộc của NHNN ở các giai đoạn cụ thể đã có vai trò quan trọng
ảnh hởng tới việc huy động và phân bổ nguồn vốn có hiệu quả trong nền kinh tế
của các TCTD. Cũng từ đó mà góp phần thúc đẩy tăng trởng kinh tế liên tục qua
các năm.
Biểu 6:Tình hình tăng trởng kinh tế (GDP) của Việt Nam
N
ăm
Chỉ tiêu
9
1
92 93 94 95 96 97 98 99 2000
6 DP (tỉ VND)
giá so sánh
1981-1994
33.99
1
36.7
35
39.98
2
195.
567

213.83
3
231.
264
244.
676
256.26
9
273.43
9
Tăng trởng
6DP(%)
6 8,6 8,1 8,8 9,5 9,3 8,8 5,8 4,8 6,7
Từ các kết quả trên cho thấy, việc sử dụng các công cụ điều tiết của CSTT ở
Việt Nam đã góp phần đạt đợc hai mục đích thờng mâu thuẫn nhau đó là: Vừa đẩy
lùi lạm phát vừa tăng trởng kinh tế. Có đợc kết qủa này còn phải kể đến vai trò của
nhiều CSKT vĩ mô khác nữa và đặc thù của nền kinh tế Việt Nam đó là chúng ta
cha đạt đợc mức năng suất biên của sản lợng tiềm năng trong nền kinh tế.
* Ngoài ra, việc sử dụng các công cụ của CSTT cũng góp phần gián tiếp
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển các thành phần kinh tế, tạo thêm công ăn
việc làm. Năm 1999 cả nớc giải quyết đợc việc làm cho 1,2 triệu lao động và thực
hiÖn chÝnh s¸ch xo¸ ®ãi gi¶m nghÌo, ph¸t triÓn n«ng nghiÖp n«ng th«n (n¨m
2000,tØ lÖ hé nghÌo gi¶m cßn 11%).

2.3.2 Những vấn đề tồn tại trong qúa trình thực hiện các công cụ của CSTT
những năm qua.
Trong những năm qua, chúng ta cha quan tâm đúng mức đến việc kiểm soát
và điều hành toàn bộ quá trình cung ứng tiền (phơng pháp dự đoán không phù hợp,
phơng thức điều hành MS không linh hoạt cùng với các biến đổi kinh tế, mới chỉ
quan tâm đến khối lợng tiền phát hành hàng năm cho 2 mục tiêu (cung ứng phơng

tiện thanh toán cho nền kinh tế thông qua cho vay chiết khấu các NHTM và mua
ngoại tệ, cha đánh giá đúng khả năng tạo tiền của các NHTM).
Từ đó dẫn đến việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ nhằm điều tiết
sự tăng, giảm khối lợng tiền trong nền kinh tế của NHNN thời gian qua cũng bị hạn
chế ở nhiều mặt.
Nhóm các công cụ trực tiếp: Đợc sử dụng chủ yếu trong việc điều tiết cung
tiền thời gian qua, những công cụ này chỉ phù hợp với quá trình chuyển đổi kinh tế
trong giai đoạn đầu nhng trong tơng lai sẽ không còn phù hợp nữa (rõ nhất là công
cụ hạn mức tín dụng đã bị loại bỏ từ quý II/98).
Lãi suất là công cụ đợc sử dụng thờng xuyên nhất trong điều hành CSTT ở
Việt Nam vừa qua. Tuy nhiên, cũng nh tình trạng ở các nứơc đang phát triển khác,
ở Việt Nam lãi suất không nhạy cảm lắm với đầu t. Điều này đợc thể hiện rõ rệt
trong hai năm (1998, 1999) khi trần lãi suất cho vay giảm liên tục nhng đầu t vẫn
cha tăng mạnh, giá cả và sản lợng không những không tăng mà còn tiếp tục giảm
(tuy điều này còn liên quan đến các yếu tố thực của nền kinh tế chứ không hoàn
toàn xuất phát từ yếu tố tiền tệ danh nghĩa).
.Việc NHNN luôn tiếp điều chỉnh lãi suất trong một khoảng thời gian ngắn (từ
1/6/99-4/9/99) đã 3 lần giảm lãi suất cho vay )đã gây khó khăn cho các tổ chức tín
dụng.Vì lãi suất cho vay đợc điều chỉnh giảm (liên tục) trong khi đó lãi suất nhận
gửi ở thời kì trớc vẫn giữ nguyên từ đó xuất hiện khả năng tiềm tàng về rủi ro lãi
suất bất khả kháng.Việc điều chỉnh theo xu hớng giảm trong thời gian qua ít có tác
dụng tích cực đến việc tăng cờng huy động vốn trong và dài hạn. Việc các NHTM
tự quy định lãi suất tiền gửi thanh toán trong khung trần lãi suất cho vay tối đa đã
dẫn tới các NHTM tranh giành khách hàng bằng việc tăng lãi suất tiền gửi thanh
toán lên khá cao, khiến cho tổng số vốn huy động của toàn ngành NH không tăng
mà chỉ chuyển từ NH này sang NH khác, gây bất ổn định trong kinh doanh.
. Các NHTMQD đang còn phải bao cấp qua lãi suất cho vay theo chỉ đạo của
NHNN, nếu điều này kéo dài sẽ triệt tiêu tính kinh doanh của các NHTM.
. Việc điều chỉnh lãi suất của NHNN nhiều khi còn chậm so với thị trờng vì
thế nó có tác dụng khẳng định hơn là hớng dẫn diễn biến thực tế. Mặt khác cơ sở để

NHNN điều chỉnh lãi suất còn nặng về quan điểm trờng phái trọng tiền ( căn cứ vào
sự thay đổi của chỉ số giá cả thị trờng là chủ yếu, sự ảnh hởng của thị trờng vốn còn
hạn chế)
. Hơn nữa, trong nền KTTT về mặt nguyên tắc thì lãi suất phải đợc hình thành
trên cơ sở quan hệ cung cầu vốn trên thị trờng. Việc kiểm soát lãi suất của NHNN
hiện nay chính là một kiểu can thiệp giá của nhà nớc. Nếu cứ nh vậy sẽ là không
phù hợp trong tơng lai khi hệ thống thị trờng ở Việt Nam phát triển hoàn thiện hơn.
Công cụ dự trữ bắt buộc :Trong nhiều năm liền (kể từ khi có pháp lệnh NH
T5/1990 ) chúng ta duy trì một cách cứng nhắc tỉ lệ DTBB 10%, điều này chỉ phù
hợp trong thời kỳ đầu nhng sau đó khi đồng tiền Việt Nam đi vào ổn định thì đó là
tỉ lệ không hợp lý, thiếu linh hoạt song NHNN trong thời gian đó vẫn không có
quyền thay đổi vì để sửa đổi pháp lệnh phải có thời gian.
Kể từ khi luật NHNN đợc thực hiện, tỉ lệ DTBB tuy có đợc điều chỉnh giảm đi
(0-20%) và linh hoạt hơn nhng theo nhiều chuyên gia đánh giá thì nó vẫn ở mức
cao.
Việc thực hiện các quy định về DTBB của các TCTD cha nghiêm, tiềm ẩn các
nguy cơ khủng hoảng khả năng thanh toán. Mặt khác đối tợng phải áp dụng quy
chế DTBB còn cha đầy đủ, các đối tợng áp dụng thì mức độ tỉ lệ DTBB còn khác
nhau- có nhiều yếu tố khộng hợp lý. Nh vậy NHNN vẫn cha thực sự tạo ra đợc một
sân chơi bình đẳngđối với các TCTD.
Trong điều kiện thực tế Việt Nam, tác dụng của công cụ nay còn hạn chế, cha
biểu hiện rõ nét, thời gian gần đây cùng với lãi suất thị trờng, lãi suất tái cấp vốn,
chúng ta đã liên tục hạ thấp tỉ lệ DTBB tuy nhiên vẫn cha thúc đẩy nền kinh tế phát
triển rõ rệt, kết quả biểu hiện còn khá khiêm tốn. Thực tế đó chứng tỏ ở Việt Nam
hiện nay cha có một cơ chế đầy đủ để CSTTC (cụ thể là các công cụ của CSTT)
phát huy tác dụng, mối liên hệ - tác động của nó với các biến số kinh tế vĩ mô còn
rất hạn chế.
Công cụ cho vay tái chiết khấu: Chúng ta còn thiếu tiền đề quan trọng để
thực hiện nghiệp vụ này đó là việc sử dụng thơng phiếu cha phát triển phổ biến
trong các giao dịch thơng mại; công cụ mà NHNN thực hiện nghiệp vụ này là các

tín phiếu kho bạc, tín phiếu NHNN. Theo lý thuyết, lơng tiền phát hành vào lu
thông qua con đờng tái chiết khấu sẽ là phù hợp hơn nếu nó đợc dựa trên các thơng
phiếu(vì lợng tiền đó đợc bảo đảm bằng sự gia tăng khối lợng hàng hoá của nền
kinh tế) .
. Việc cho vay tái cấp vốn ngắn hạn để đáp ứng nhu cầu thanh toán của các
NHTM hiện nay phải chăng là quá dễ dãi theo nguyên lí phát hành tiền. Nó có thể
đáp ứng nhu cầu trớc mắt của các NHTM nhng nó cũng dễ phát sinh các tiêu cực
trong qúa trình thực hiện , cha kích thích sự năng động của các NHTM . Nh vậy sẽ
tiềm ẩn nguy cơ lạm phát, gây bất ổn đối với giá trị đồng tiền quốc gia.
.Trong việc điều chỉnh chính sách chiết khấu dờng nh chúng ta chỉ nặng về
điều chỉnh lãi suất chiết khấu mà cha chú ý đến cửa sổ chiết khấu của NHTW đối
với các NHTM (vì quy mô cung ứng cho vay chiết khấu của NHNN đối với các
NHTM cũng phải căn cứ vào thực lực của chính các NH đó).
Mặt khác việc áp dụng lãi suất chiết khấu nhiều khi còn mang nặng tính bao
cấp ( u tiên NHTMQD) do vậy vai trò ngời cho vay cuối cùng đối với mọi TCTD
của NHNN cha thực sự thể hiện rõ nét.
Công cụ nghiệp vụ thị trờng mở: Về cơ bản thì đây cha thực sự trở thành một
công cụ điều tiết linh hoạt, chủ yếu của NHNN ở Việt Nam mặc dù theo lý thuyết
vai trò của nó là rất to lớn.
- Vấn đề nêu trên có thể biểu hiện ở các khía cạnh sau:
. Quá trình tạo hàng hoá còn chậm chạp, việc tổ chức đấu thầu tín phiếu kho
bạc, phát hành tín phiếu NHNN của NHNN còn mang nặng tính hành chính, các
chủ thể tham gia không nhiều chủ yếu là các NHTM quốc doanh, Công ty Bảo
hiểm với mục đích đơn giản là giải quyết nguồn vốn khả dụng d thừa của họ.
. Việc mua bán lại tín phiếu còn cha phổ biến đối với công chúng khiến cho l-
ợng tín phiếu mà các TCTD sau khi mua đợc hầu nh lại nằm im trong két của họ
điều đó cũng làm giảm ý nghĩa và sự sôi động của thị trờng sơ cấp.
.Trên thị trờng mở ,khối lợng giao dịch còn thấp , số thành viên tham gia cha
nhiều nên tác độngcủa thị trờng mở đến lợng vốn khả dụng của các NHTM còn rất
hạn chế.

Nh vậy,từ các tồn tại trên đòi hỏi phải có những định hớng cơ bản và các giải
pháp cụ thể để có thể sử dụng các công cụ của CSTT một cách có hiệu quả ở Việt
Nam.
Ch ơng 3
định hớng và giảI pháp hoàn thiện
các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt Nam
3.1. Định hớng
3.1.1.Bối cảnh trong nớc và quốc tế
Bớc sang thế kỷ 21,đất nớc chúng ta có những điều kiện thuận lợi để phát triển
đó là : sự ổn định về chính trị-xã hội,sự phát huy các lợi thế so sánh của đất nớc
phục vụ cho sự phát triển .Tuy vậy nền kinh tế của chúng ta từ khi đổi mới đến nay
sau những năm phát triển liên tục,cao thì lại đang có xu hớng chững lại, tình hình
giảm phát đã thể hiện rõ điều này.Lý do đợc giải thích có thể là do hậu quả thiên tai
,lũ lụt đã liên tiếp xảy ra hoặc xuất phát từ chính các yếu tố,lĩnh vực của sản xuất
đang bộc lộ rõ sự yếu kém tụt hậu tơng đối so với khu vực và thế giới .
Quá trình hội nhập và hợp tác quốc tế của chúng ta đã tiến triển rất tốt đẹp tạo
cơ hội để phát triển đất nớc ;chúng ta đã có quan hệ với rất nhiều các quốc gia
trong khu vực và thế giới ,tham gia nhiều hiệp ớc kinh tế nh AFTA,WTO đặc biệt
có nhiều quan hệ tốt đẹp với các tổ chức,định chế tài chính lớn nh IMF,WB,ADB
Mặt khác ,nền kinh tế thế giới và khu vực Đông á,Đông Nam á đang có dấu
hiệu phục hồi sau thời kỳ khủng hoảng tài chính tiền tệ những năm qua.Đây là một
trong những nhân tố quan trọng góp phần ổn định thị trờng tàI chính tiền tệ ở nớc ta
.
Trong xu hớng tiếp tục hoàn thiện chính sách tiền tệ thì việc nâng cao hiệu
quả các công cụ của CSTT cho phù hợp điều kiện thực tiễn VN là vấn đề còn phải l-
u tâm rất nhiều .

×