Tải bản đầy đủ (.doc) (129 trang)

Tổng quan về vốn oda đối với các nước đang phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (590.18 KB, 129 trang )

DANH MỤC KÝ HIỆU VÀ CÁC CHỮ VIẾT TẮT
AFTA : Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
ASEAN : Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
AIA : Khu vực đầu tư ASEAN
APEC : Diễn đàn hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương
ASEM : Diễn đàn hợp tác kinh tế Á - Âu
BTA : Hiệp định thương mại song phương
CNH : Công nghiệp hoá
EU : Liên minh châu Âu
FDI : Đầu tư trực tiếp nước ngoài
HĐH : Hiện đại hoá
HNKTQT : Hội nhập kinh tế quốc tế
IMF : Quỹ tiền tệ Quốc tế
M&A : Thôn tính và sáp nhập
MIGA : Cơ quan đảm bảo đầu tư đa biên
NAFTA : Hiệp định thương mại tự do Bắc Mỹ
NDT : Nhân dân tệ
NIEs : Các nền kinh tế công nghiệp mới
JETRO : Tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản
OECD : Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế
R&D : Nghiên cứu và Phát triển
SARS : Bệnh dịch viêm đường hô hấp cấp
TNCs : Công ty xuyên quốc gia
UNIDO : Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên Hiệp Quốc
UNCTAC : Tổ chức Liên Hợp Quốc về Thương mại và Phát triển
USD : Đô la Mỹ
WB : Ngân hàng thế giới
WIR : Báo cáo đầu tư thế giới
WTO : Tổ chức thương mại thế giới
MPDF : Chương trình phát triển kinh tế tư nhân
FIAS : Bộ phận tư vấn dịch vụ đầu tư nước ngoài


GSP : Thuế quan ưu đãi phổ cập
NT : quy chế đối xử quốc gia
MFN : Quy chế đãi ngộ tối huệ quốc
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
- Trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nguồn lực
trong nước đóng vai trò quyết định, nguồn lực bên ngoài có ý nghĩa quan
trọng. Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) là một trong những
nguồn lực bên ngoài đóng vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh
tế - xã hội của Lào.
- Là một quốc gia chậm phát triển trong khu vực Đông nam Á, Lào cần
tăng cường thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài trong đó tăng cường thu hút
nguồn vốn ODA vào đầu tư phát triển trong nước đóng vai trò quan trọng.
- Việc thu hút nguồn vốn ODA vào đầu tư phát triển tại Lào đang là vần
đề nóng bỏng được đảng và nhà nước Lào hết sức quan tâm trong tiến trình
toàn cầu hoá hiện nay.
2. Mục đích nghiên cứu của luận văn
- Nâng cao tính lý luận về vốn nói chung, nguồn vốn ODA nói riêng làm
cơ sở lý luận cho quá trình công tác sau này.
- Đánh giá thực trạng việc tăng cường thu hút nguồn vốn ODA vào đầu
tư phát triển tại Lào giai đoạn 2000-2006.
- Kiến nghị và đưa ra các giải pháp hiệu quả nhằm tăng cường thu hút
nguồn vốn ODA vào đầu tư phát triển tại Lào.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA,
và các vấn đề tăng cường thu hút nguồn vốn ODA vào đầu tư phát triển tại Lào.
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu việc tăng cường thu hút nguồn vốn
ODA vào đầu tư phát triển tại Lào giai đoạn 2000-2006, những bất cập, tồn tại
và các giải pháp nhằm nâng cao việc tăng cường thu hút nguồn vốn ODA vào

đầu tư phát triển tại Lào giai đoạn 2000-2006.
2
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, trong đó chủ
yếu là các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, thống kê, tổng
hợp và lối tư duy phân tích logic.
5. Những đóng góp của luận văn
- Luận văn đã góp phần làm rõ thêm tính lý luận thực tiễn về nguồn
vốn ODA và tình hình thu hút vốn ODA vào đầu tư phát triển tại Lào.
- Đánh giá được thực trạng thu hút nguồn vốn ODA vào đầu tư phát
triển tại Lào giai đoạn 2000-2006.
- Đưa ra được các giải pháp có tính thực tiễn đối với việc tăng cường
thu hút nguồn vốn ODA vào đầu tư phát triển tại Lào.
6. Kết cấu luận văn
Luận văn được chia làm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về vốn ODA
Chương 2: Thực trạng thu hút vốn ODA tại Cộng hoà dân chủ nhân
dân Lào giai đoạn 2000-2006
Chương 3: Giải pháp tăng cường thu hút vốn ODA tại Cộng hoà dân
chủ nhân dân Lào
3
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ VỐN ODA ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC ĐANG
PHÁT TRIỂN
1.1. TỔNG QUAN VỀ ODA
1.1.1. Quá trình hình thành và xu hướng phát triển ODA trên thế giới
1.1.1.1 Nguồn gốc ODA
Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) được hình thành từ
những năm sau của Chiến tranh thế giới II, khi nền kinh tế của các nước đều
lâm vào tình trạng khủng hoảng trên toàn thế giới và tại các khu vực dần hình

thành nên các ngân hàng, các quỹ tiền tệ nhằm mục đích trợ giúp nhau khôi
phục, phát triển và liên kết kinh tế, phát huy được mọi tiềm năng trong cũng
như ngoài nước. Tháng 7-1944, Ngân hàng Thế giới về Tái thiết và Phát triển
(IBRD- International Bank for Reconstruction and Development) và cũng
được biết tới dưới tên gọi Ngân hàng thế giới, là cơ quan chuyên môn của
Liên Hợp Quốc được thành lập tại Hội nghị Bretton Woods về tài chính và
tiền tệ. Mục tiêu chính của Ngân hàng là tham gia vào quá trình tái thiết và
phát triển của các quốc gia thành viên, thông qua việc giúp đỡ những khoản
vốn đầu tư dành cho các mục tiêu sản xuất và thúc đẩy đầu tư tư nhân nước
ngoài bằng cách bảo lãnh các khoản vay theo các điều kiện thương mại hay
tham gia vào các khoản vay.
Trong thời gian đầu khi Ngân hàng mới ra đời, những khoản vay chủ
yếu được cấp cho các nước Châu Âu. Tuy nhiên, kể từ cuối những năm 60,
phần lớn số tiền cho vay lại được cấp cho những nước có nền kinh tế đang
phát triển ở Châu Phi, Châu Á và Mỹ La Tinh. Trong những năm 80, Ngân
hàng đặc biệt chú ý tới những dự án giúp đỡ trực tiếp những người nghèo tại
các quốc gia đang phát triển.
Cũng tại Hội nghị tài chính và tiền tệ của Liên Hợp Quốc này, 44 nước
đã thống nhất thành lập Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF). Ngày 27-12-1945, điều lệ
4
của Quỹ tiền tệ Quốc tế đã được 29 nước ký kết và ngày 1-3-1947, Quỹ bắt
đầu hoạt động và tiến hành những khoản cho vay đầu tiên. Quỹ hoạt động như
một loại ngân hàng quốc tế cho vay trợ giúp các nước có khó khăn về cán cân
thanh toán, trợ giúp các nước có thu nhập trung bình, thấp và giám sát khủng
hoảng nợ quốc tế.
Ngay từ nửa cuối những năm 40, ODA đã được hình thành và tồn tại
như một hình thức di chuyển vốn phát triển hay GDP từ những nước giàu
sang nước nghèo, một phần ngân sách của các nước giàu đã được trích ra để
bổ sung vào nguồn ngân sách rất ít ỏi của các nước kém và chậm phát triển.
Một sự kiện rất quan trong là ngày 14-12-1960, theo kế hoạch Marshall

tại Pari, các nước Châu Âu đệ xuất một chương trình hợp tác hồi phục kinh tế
tài trợ, và Tổ chức Hợp tác Kinh tế Châu Âu (OEEC), ngày nay được biết đến
như là Tổ chức hợp tác Kinh tế và Phát triển (OECD), được thành lập để thực
hiện kế hoạch Marshall. Mục tiêu của kế hoạch là trợ giúp những nước Châu
Âu khôi phục lại nền kinh tế đã bị tàn phá trong chiến tranh, cụ thể là:
- Đạt được một sự phát triển kinh tế cao bền vững, lao động và mức
sống tăng trưởng cao nhất tại các nước thành viên, đồng thời duy trì được ổn
định tài chính, góp phần hơn nữa vào phát triển kinh tế thế giới.
- Hỗ trợ phát triển kinh tế các nước thành viên cũng như các nước
không phải là thành viên trong quá trình phát triển kinh tế chung.
- Tăng cường phát triển thương mại thế giới trên cơ sở đa phương phù
hợp với những nghĩa vụ quốc tế
OECD bao gồm 20 nước thành viên, ban đầu đã đóng góp phần quan
trọng nhất trong việc cung cấp ODA song phương và đa phương. Trong
khuôn khổ hợp tác phát triển , các nước OECD đã lập ra những uỷ ban
chuyên môn, trong đó có Uỷ ban Hỗ trợ Phát triển (DAC) nhằm giúp các
nước đang phát triển phát triển kinh tế và nâng cao hiệu quả đầu tư. Thành
viên ban đầu của DAC gồm 18 nước hiện nay gồm : Áo, Bỉ, Canada, Đan
Mạch, Pháp, Đức, Ailen, Ý, Bồ Đào Nha, Thuỵ Sĩ, Thuỵ Điển, Anh, Mỹ, Úc,
5
Niu Dilan, Nhật Bản, Phần Lan, Luxămbua, Tây Ban Nha và Uỷ ban của
Cộng đồng Châu Âu. IBRD, IMF, và UNDP tham dự các cuộc họp của DAC
với tư cách là các quan sát viên thường trực. Ba nước OECD là Hy lạp,
Aixơlen và Thổ Nhĩ Kỳ không phải là thành viên của DAC nhưng vẫn tham
dự trong các cuộc họp quan trọng. Thường kỳ các nước thành viên DAC
thông báo cho uỷ ban các khoản đóng góp của họ cho các chương trình viện
trợ phát triển và trao đổi với nhau các vấn đề liên quan tới chính sách viện trợ
phát triển và trao đổi với nhau các vấn đề liên quan tới chính sách viện trợ
phát triển. Năm 1996, DAC đã cho ra đời bản báo cáo “Kiến tạo thế kỷ XXI-
Vai trò của hợp tác phát triển”. Báo cáo này đã nói tới một vai trò khác của

viện trợ nước ngoài vai trò cung cấp vốn mà đã được thực hiện sau này. Đó là
viện trợ phát triển phải chú trọng vào việc hỗ trợ cho các nước nhận có được
thể chế và những chính sách phù hợp chứ không phải chỉ cấp vốn. Dĩ nhiên
tiền cũng là vấn đề quan trọng nhưng viện trợ có hiệu quả phải mang lại cả tài
chính lẫn ý tưởng, và sự kết hợp giữa hai yếu tố đó có ỹ nghĩa thực sự quan
trọng
Một yếu tố nữa thúc đẩy quá trình phát triển ODA trên thế giới là xu
hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới. Bản thân các nước phát triển
nhìn thấy lợi ích của mình trong việc hợp tác, giúp đỡ các nước chậm phát
triển để mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm và thị trường đầu tư, trực diện
là đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của họ vào các nước đang phát triển. Đi
liền với sự quan tâm và lợi ích kinh tế đó, các nước phát triển còn sử dụng
ODA như một công cụ chính trị xác định vị trí ảnh hưởng tại các nước và khu
vực tiếp nhận ODA nhất là đối với các nước lớn.
Mặt khác, một số vấn đề quốc tế đang nổi cộm lên như bùng nổ dân số
thế giơi, bảo vệ môi trường sống trong sạch và an ninh, phòng chống bệnh
AIDS giải quyết các cuộc xung đột sắc tộc, tôn giáo… đòi hỏi nỗ lực của cả
cộng đồng quốc tế, không phân biệt nước giàu , nghèo.
Cho tới nay, trải qua trên nửa thế kỷ phát triển của mình, ODA vẫn
6
đang đóng một vai trò rất quan trọng đối với những nước đang và chậm phát
triển trong quá trình thúc đẩy, xây dựng, cải tạo, củng cố và phát triển kinh tế.
1.1.1.2 Khái niệm về hỗ trợ phát triển chính thức (ODA)
Hỗ trợ phát triển chính thức (gọi tắt là ODA) là các khoản viện trợ
không hoàn lại, có hoàn lại hoặc tín dụng ưu đãi của các Chính phủ, tổ chức
phi Chính phủ, các tổ chức thuộc hệ thống Liên Hợp Quốc, các tổ chức Tài
chính quốc tế dành cho các nước đang và chậm phát triển.
Như vậy, ODA là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế (hoặc cơ
quan đại diện chính phủ) cung cấp, trong đó có các tổ chức như: Ngân hàng
Thế giới (WB ), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Nhật Bản…là những chủ thể cung

cấp vốn chủ yếu. ODA là hình thức viện trợ chính thức không bao gồm các
khoản tài trợ tư nhân kể cả khi Chính phủ nước đó đứng ra bảo lãnh. Cũng như
vậy viện trợ của các tổ chức phi Chính phủ (NGOs) cũng được tính vào ODA
mặc dù các tổ chức này vẫn nhận được sự hỗ trợ về tài chính của Chính phủ.
Có hai điều kiện chung nhất cho các nước đang và chậm phát triển
nhận được ODA tài trợ của Cộng đồng tài trợ:
Điều kiện 1: Các nước được nhận ODA phải có mức GDP bình quân
đầu người thấp (< 525USD/ năm). Chỉ tiêu này càng thấp thì khả năng nhận
được ODA càng nhiều.
Theo quy định của DAC thì có các mức phân loại nước nhận ODA như sau:
Các nước chậm phát triển nhất ( LDCs – Lowest Developing
Countries): Các nước này chủ yếu tập trung ở Châu Phi và một vài nước Châu
Á như Lào, Myanma, Bangladet…
Các nước có mức thu nhập thấp ( LICs – Lowest Income Countries ), là
những nước có thu nhập bình quân đầu người thấp hơn 675 USD. Có thể kể
đến một vài nước như Ấn độ, Nigiêria, Kennia, Guana, trong các nước này có
cả Lào.
7
Các nước có thu nhập trung bình thấp ( LMICs – Low Middle Income
Countries ): Những nước này có thu nhập bình quân đầu người thường từ 676
đến 2.695 USD. Các nước này tập trung chủ yếu ở Nam Mỹ, Trung Đông,
Châu Á, một số nước ở Châu Phi và Đông Âu…
Các nước có thu nhập trên trung bình ( UMICs – Upper Middle Income
Countries) có thu nhập bình quân đầu người từ 2.696 đến 8.355 USD. Những
nước này nằm ở châu Mỹ như Braxin, Mexico, Châu Á như Malaixia, Cộng
hoà dân chủ nhân dân Triều tiên, và ở các Châu lục khác.
Điều kiện 2: Mục tiêu sử dụng vốn của các nước đang và chậm phát
triển phải phù hợp với phương hướng ưu tiên, tiêu chí này được xem xét trong
mối quan hệ giữa bên cấp ODA và bên nhận ODA.
Thường thì yêu cầu của các nước, các tổ chức tài trợ quốc tế đặt ra cho

nước nhận ODA là khác nhau.
1.1.1.3 Đặc điểm của ODA
Nguồn vốn ODA được hình thành nhằm mục đích hỗ trợ tài chính cho
các nước đang và chậm phát triển nên việc cung cấp vốn của các nước và tổ
chức tài trợ thường cho vay với những điều kiện ưu đãi nhất, thậm chí nguồn
tài trợ là không hoàn lại.
Theo đánh giá các khoản viện trợ từ trước đến nay thì ODA có những
đặc điểm chung như sau:
Thời gian vay rất dài, từ 10-40 năm trong đó có cả thời gian ân hạn.
Khối lượng vốn vay lớn từ hàng chục đến hàng trăm triệu đôla Mỹ. Lãi suất
được ưu đãi từ 0%-5%/năm. Với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển,
ODA mang tính ưu đãi hơn bất cứ một nguồn tài trợi nào khác. Thông
thường, ODA có một phần viện trợ không hoàn lại, phần này dưới 25% tổng
số vốn vay. Đây chính là điểm phân biệt giữa viện trợ và cho vay. Yếu tố cho
không được xác định dựa vào việc so sánh mức lãi suất viện trợ với mức lãi
8
suất tín dụng thương mại (tiêu chuẩn quy ước là 10%/năm). Chi tiết được
minh hoạ trong biểu 1 dưới đây:
Bảng 1.1: Yếu tố cho không trong ODA
Thời gian
(năm)
Hoàn trả Ân hạn
Yếu tố
Cho không
(% so với tổng
số vốn)
- Cho không
- Vay thương mại (Lãi suất
10%/năm)
- Lãi suất vay: 4%

- Lãi suất vay: 3%
- Lãi suất vay: 4%
- Lãi suất vay: 2,5%
- Lãi suất vay: 0%
7
11
25
30
25-50
3
3
7
8
7-12
100
0
25
35
45
60
76
Nguån: Ng©n hµng Nhµ níc
Mục tiêu tổng quát của ODA là hỗ trợ các nước nghèo thực hiện những
chương trình phát triển và tăng phúc lợi của mình. Tuy nhiên, tính ưu đãi
dành cho vốn này thường đi kèm các điều kiện ràng buộc tương đối khắt khe
như tính hiệu quả của dự án, thủ tục chuyển giao vốn và thành toán…Đôi khi
ODA được cung cấp từ các Chính phủ còn gắn với những ràng buộc nào đó
về chính trị, xã hội thậm chí về quân sự. Với những điều kiện đó không phải
nước nào cũng có thể nhận được viện trợ hoặc sử dụng nó có hiệu quả trong
hoàn cảnh riêng của mình. Trong một số trường hợp, các điều kiện, thực chất

là những yêu sách của các nước cung cấp viện trợ mà các nước nhận viện trợ
không thể đáp ứng, chẳng hạn như về nhân quyền, về định hướng xã hội hoặc
thoả mãn lợi ích cục bộ về kinh tế và an ninh của các nước cung cấp viện trợ.
9
Ngay cả về mặt kinh tế, Nhiều dự án tài trợ, do đi kèm một số ràng buộc như
phải mua hàng hoá, thiết bị công nghệ kỹ thuật hay thuê chuyên gia từ chính
nơi cung cấp viện trợ nên có giá trị thực tế đắt hơn nhiều so với giá trị ghi
trong Hiệp định.
Nhiều khi bên cung cấp viện trợ thường lợi dụng ưu thế của mình để
đạt được những mục tiêu chính sách riêng. Họ cấp viện trợ cho những đồng
minh chính trị và quân sự của mình mà không cấp viện trợ cho những đối
tượng mà họ coi là kẻ thù. Những nước này nhiều khi gắn quỹ viện trợ với
việc mua hàng hoá và dịch vụ ở nước họ như một biện pháp nhằm tăng cường
khả năng làm chủ thị trường xuất khẩu và giảm bớt tác động của viện trợ đối
với cán cân thanh toán. Nói chung, những nước cấp viện trợ, cả song phương
lẫn đa phương, đều sử dụng viện trợ làm công cụ buộc các nước đang phát
triển thay đổi chính sách phát triển cho phù hợp với lợi ích của các biên cấp
viện trợ.
Một điểm nữa cần phải nhấn mạnh rằng nguồn hỗ trợ phát triển chính
thức là nguồn vốn vay nợ của nước ngoài, là nguồn vốn mà nước đi vay sẽ
phải thành toán trong một thời gian nhất định. Chính vì vậy cần phải xem xét
dự án viện trợ trong điều kiện tài chính tổng thể. Nếu không việc tiếp nhận
viện trợ có thể trở thành gánh nặng nợ nần lâu dài cho nền kinh tế.
1.1.1.4 Phân loại ODA
1.1.1.4.1 Phân loại ODA theo tính chất
Viện trợ không hoàn lại: Đây là nguồn vốn cho không của các nhà tài
trợ, nguồn vốn này thường được cấp dưới dạng các dự án hỗ trợ kỹ thuật
(TA), Dự án các chương trình xã hội như chương trình dinh dưỡng, nước
sạch, chương trình dân số. Quá trình chuẩn bị dự án, tăng cường năng lực
phát triển thể chế, hỗ trợ, xây dựng chính sách. viện trợ hàng hoá, đầu tư cho

10
giáo dục, y tế, năng lượng, văn hoá…
Viện trợ có hoàn lại: Hay còn gọi là vốn vay ưu đãi. Nguồn vốn này
thường chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng số vốn vay của các nhà tài trợ. Yếu
tố cho không trong nguồn vốn này thường thấp hơn 25% tổng số vốn vay.
Loại này thường có lãi suất thấp từ 0,7-3%/năm, thời gian cho vay dài trên 10
năm, có khi lên đến 40 năm và có thời gian ân hạn. Nguồn vốn đầu tư chủ yếu
cho các dự án cơ sở hạ tầng kỹ thuật và các chương trình thuộc dạng ưu tiên
của chính phủ.
Viện trợ hỗn hợp: Cơ cấu của nguồn vốn bao gồm cả phần vốn hoàn lại
và không hoàn lại (yếu tố cho không). Hiện nay các nhà tài trợ có xu hướng
cấp vốn theo hình thức này. Loại vốn này có ưu điểm là lãi suất cho vay
tương đối thấp từ 4-7,5%/năm. Do vẫn còn tính chất ưu đãi cho nên việc sử
dụng nguồn vốn này vẫn còn phải tuân theo một số quy tắc của phía nhà tài
trợ quy định
1.1.1.4.2 Phân theo hình thức sử dụng
Hình thức dự án đầu tư: Đây là hình thức chủ yếu hỗ trợ phát triển
chính thức, bao gồm:
- Hỗ trợ cơ bản: Hỗ trợ cơ bản thường gắn với xây dựng cơ bản tập trung
như đường xã, cầu cống, đê đập, trường học, bệnh viện, hệ thống viễn thông
- Hỗ trợ kỹ thuật: Thường có nội dung chủ yếu là tăng cường năng lực
thể chế, đào tạo nguồn nhân lực, chuyển giao công nghệ, nghiên cứu cơ bản…
Hỗ trợ kỹ thuật thường có 3 phần:
Cung cấp chuyên gia
Đào tạo cán bộ
Cung cấp trang thiết bị
Trên thực tế có dự án kết hợp cả hai loại hình hỗ trợ trên.
Hình thức chương trình: Hình thức này còn gọi là hình thức viện trợ phi
11
dự án, viện trợ khi đã đạt được một Hiệp định với đối tác viện trợ nhằm cung

cấp một khối lượng ODA cho một mục đích tổng quát với thời hạn nhất định
để thực hiện Nhiều nội dung khác nhau của một chương trình
Hình thức hỗ trợ cán cân thanh toán ( hay hỗ trợ ngân sách ): Thường
thì hình thức này được thể hiện dưới dạng hỗ trợ tài chính trực tiếp như
chuyển giao tiền tệ nhưng đôi khi lại là hiện vật như hàng hoá hoặc hỗ trợ
nhập khẩu. Ngoại tệ và hàng hoá chuyển vào trong nước qua hình thức hỗ trợ
cán cân thanh toán được chuyển hoá thành hỗ trợ ngân sách.
1.1.1.4.3 Phân theo các kênh cung cấp
Kênh song phương: Nguồn này thường được cấp trực tiếp giữa chính phủ
với chính phủ hay cấp gián tiếp giữa các chính phủ với nhau thông qua các tổ
chức phi Chính phủ hoặc các tổ chức quốc tế.
Mô hình số 1 : Kênh tài trợ song phương
Kênh đa phương: Các tổ chức quốc tế cung cấp ODA trực tiếp cho
Chính phủ
Mô hình số 2: Kênh đa phương
NGOs: Các tổ chức phi Chính phủ cung cấp ODA trực tiếp cho Chính phủ
Mô hình số 3: Các tổ chức phi Chính phủ
12
Các tổ chức quốc tế
Chính phủ nhận viện trợ
Chính phủ nước ngoài

Chính phủ nhận viện trợ
NGOs ( Non-government organisations)
Các tổ chức quốc tế
C¸c tæ chøc phi chÝnh phñ
Chính phủ nhận viện trợ
1.1.1.5 Quá trình và xu hướng phát triển ODA trên thế giới
1.1.1.5.1 Quá trình phát triển ODA trên thế giới
Khối lượng ODA trên thế giới luôn biến động, trong những năm 60

khối lượng ODA trên thế giới tăng chậm, giữa thế kỷ 80 thì khối lượng viện
trợ cho các nước đang và chậm phát triển đạt mức tăng trưởng gấp hai lần so
với lượng ODA đầu thập kỷ 70. Những năm này nguồn viện trợ của các nước
thành viên DAC và các nước Ả Rập tăng liên tục. Nửa sau thập kỷ 80, khối
lượng ODA trên thế giới bắt đầu bị giảm sút do tình hình thế giới có nhiều
thay đổi, sau đó đến đầu thập kỷ 90, khối lượng ODA trên thế giới mới bắt
đầu tăng trở lại.
Điều đáng chú ý là trong suốt 40 năm qua, khối lượng ODA của các
nước thành viên DAC tăng liên tục trong khi đó lượng ODA từ Liên xô cũ
(CIS) và các nước Đông Âu (CEECs) bị giảm mạnh và đến cuối năm 80 thì
mất hẳn, thậm chí các nước này trở thành nước nhận ODA
Mục tiêu phấn đấu đầu tiên về tỷ lệ ODA/GNP là 1% đã được chấp
nhận tại Hội đồng Nhà thờ thế giới (1958). Năm 1960, Liên Hợp Quốc cũng
khuyến nghị tỷ lệ ODA/GNP là 1% như trên và về sau mục tiêu này cũng
được OEACD/DAC và UNCTAD chấp nhận. Đây chính là thời điểm mà
nguồn tài chính cho các nước đang phát triển vượt quá 1%
Năm 1969, để làm rõ các khoản tài chính này, Hội đồng Pearson đề
nghị mục tiêu 1% GNP cho mọi nguồn vốn và trong đó 0,7% GNP cho hỗ trợ
phát triển chính thức. Tỷ lệ ODA/GNP năm 1961 là 0,54% và hiện nay nó giữ
ở mức hợp lý khoảng 0,32-0,33%. Mục tiêu 0,7% đang đặt ra thách thức lớn
và rất khó để đạt tới. Tuy nhiên đã diễn ra sự chuyển dịch đáng kể tỷ lệ này ở
từng nước thành viên DAC. Trong khi tỷ lệ này tiếp tục giảm đáng kể ở Mỹ
13
và Anh, thì các nước Bắc Âu và Hà Lan lại duy trì được ở mức gần 1%.
Trong những năm 80 các nước Phần Lan, Ý, Thuỵ Sỹ cũng gia tăng đáng kể
các khoản viện trợ.
Nói đến sự phân bố ODA trên thế giới, ta thấy kể từ thập kỷ 70, việc
phân phối các khoản viện trợ chủ yếu hướng vào vùng Sahara của Châu phi
và Trung Đông, bao gồm cả Ai Cập. Bên cạnh khu vực Trung Mỹ, nơi nhận
được không đáng kể các khoản viện trợ, tỷ trọng này đã thực sự bị giảm mạnh

đối với các vùng Nam Á (đặc biệt là Ấn Độ) và Địa Trung Hải.
Liên minh Châu Âu, các nước Bắc Âu, và Canada tập trung viện trợ rất
nhiều cho miền Sahara Châu Phi, và khu vực Trung Mỹ. Nhật Bản tập trung
vào Châu Á, nhưng cũng tăng viện trợ cho khu vực Sahara. Ôxtraylia và
Niuzilan chủ yếu viện trợ cho châu Đại dương và miền Viễn đông.
Trên 50% viện trợ của DAC được dành cho các nước có thu nhập thấp
(LICs). Những nước chậm phát triển nhất (LDCs) nhận được rất Nhiều viện
trợ trong những năm của thập kỷ 70. Nhật Bản, Anh, Thuỵ Sĩ và các nhà tài
trợ khu vực Bắc Âu quan tâm nhiều tới các nước có thu nhập thấp.
Khoảng 15% lượng ODA của DAC đi vào các nước có thu nhập trên
trung bình (UMICs) gồm tài trợ của Mỹ cho Israel, và tài trợ của Pháp cho
lãnh thổ của mình ở hải ngoại. Khi những quốc gia và lãnh thổ có số dân ít
hơn 1 triệu người, thì việc phân phối viện trợ thường dành cho những người
có thu nhập thấp hơn là những người có thu nhập trên trung bình.
Sự phân phối ODA theo khu vực nghèo của thế giới vốn đã không đồng
đều nhưng phân phối ODA theo các nước nhận tài trợ lại có nhiều sự chênh
lệch hơn nữa.
1.1.1.5.2 Xu hướng phát triển ODA trên thế giới
Quá trình phát triển ODA trên thế giới hiện có các xu hướng chủ yếu
sau đây:
14
Một là, trong tổng cơ cấu tổng ODA của thế giới tỷ trọng ODA song
phương có xu hướng tăng lên, ODA đa phương có xu hướng giảm đi. Xu
hướng này hình thành dưới tác động của 2 nhân tố chủ yếu sau đây:
- Quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới và xu thế hội nhập đã
tạo điều kiện cho quan hệ ODA trực tiếp giữa các quốc gia
- Hiệu quả hoạt động của một số tổ chức đa phương tỏ ra kém hiệu quả
làm cho một só nhà tài trợ ngần ngại đóng góp cho các tổ chức này. Trong
tổng số ODA của thế giới thỉ tỷ trọng viện trợ song phương đã tăng rất đáng
kể trong khi đó tỷ trọng viện trợ đa phương giảm đi

Hai là, Mức độ cạnh tranh thu hút ODA đang tăng lên giữa các nước
đang phát triển. Trên thế giới số nước giành được độc lập, bắt đầu xây dựng
kinh tế phát triển xã hội tăng lên đáng kể và có nhu cầu lớn về ODA. Sự tan
rã của Liên Xô và Đông Âu đã hình thành một loạt nước mới, các nước Cộng
hoà thuộc Nam Tư cũ bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh sắc tộc đòi hỏi sự
hỗ trợ quốc tế. Ở Châu Á, Trung Quốc cũng đang cần đến nguồn vốn ODA
lớn để xây dựng kinh tế. Ở Đông Nam Á, mặc dù một số nước như Singapore,
Malaisia, Thái Lan đã giảm dần nguồn tiếp nhận ODA, song bên cạnh đó lại
nổi lên các quốc gia khác với yêu cầu ODA lớn hơn như các nước Đông
Dương, Myanma. Theo Ngân hàng thế giới thì trong giai đoạn 1995-2004, các
nước đang phát triển ở Châu Á sẽ cần tới 1400 tỉ đôla cho xây dựng cơ sở hạ
tầng để có thể duy trì được tốc độ phát triển như hiện nay. Trong khi đó thị
trường vốn vay dài hạn từ 20-30 năm cho cơ sở hạ tầng ở Châu Á vẫn chưa
hình thành. Đây sẽ là một trong những yếu tố cạnh tranh gay gắt giữa các
nước đang phát triển trong việc thu hút vốn ODA
Ba là, Triển vọng gia tăng nguồn vốn ODA ít lạc quan. Mặc dù Đại hội
đồng liên hợp quốc đã khuyến nghị dành 0,7% của các nước phát triển để
cung cấp cho các nước đang phát triển. Song khả năng này ít hiện thực. Thực
15
tế cho thấy các nước có khối lượng ODA lớn nhất như Nhật Bản, Mỹ… thì tỷ
lệ này mới chỉ đạt ở mức trên dưới 0,3% trong nhiều năm qua. Tuy có một số
nước như Thuỵ Điển, Na Uy, Phần Lan, Đan Mạch…đã có tỷ lệ ODA chiếm
hơn 1% GNP song khối lượng ODA tuyệt đối của các nước này không lớn
nhất là trong giai đoạn này, khi mà cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Đông
Nam Á đã làm ảnh hưởng trực tiếp tới các nước khu vực châu Á như Thái
Lan, Inđônêxia, Philippin, Hồng Kông, Hà Quốc và nhất là tới Nhật Bản, một
trong những nhà cung cấp ODA lớn nhất hiện nay. Nền kinh tế các nước ở
những Châu lục khác cũng bị ảnh hưởng ít nhiều bởi cuộc khủng hoảng này
như các nước ở Châu Âu, kinh tế Mỹ và các nước khu vực Nam Mỹ… Chắc
chắn trước tình hình suy thoái kinh tế nghiêm trọng này trên thế giới, nguồn

ODA cung cấp sẽ bị cắt giảm đi rất nhiều các nước sẽ phải tập trung nguồn
lực tài chính của mình để phục hồi nền kinh tế trong nước đang xuống dốc.
Để giảm bớt thiệt hại từ cuộc khủng hoảng, các nước như Nhật Bản, Mỹ, các
nước Châu Âu và các tổ chức tài chính quốc tế đang có chính sách cung cấp
vốn ra bên ngoài nhưng chủ yếu tập trung vào các nước bị ảnh hưởng nặng nề
từ cuộc khủng hoảng.
1.1.2. Các tổ chức tài trợ ODA
1.1.2.1 Các nhà tài trợ ODA chủ yếu trên thế giới
Nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) được cung cấp bới các
Chính phủ, tổ chức phi Chính phủ, các tổ chức thuộc hệ thống Liên Hợp
Quốc, các tổ chức tài chính quốc tế.
Vào đầu thập kỷ 60, Mỹ là nước cấp viện trợ lớn nhất thế giới. Pháp,
Đức và Anh cũng là những nước tài trợ chính. Đến năm 70, Nhật Bản mới trở
thành một trong các nhà tài trợ lớn cùng với Canada và Hà Lan.
Những thập kỷ sau, số lượng các nhà tài trợ ODA trên thế giới tăng lên rõ
rệt. Có thể chia các nhà tài trợ thành các nhóm cung cấp ODA chủ yếu như sau:
16
a. Các nước thành viên của Uỷ ban Hỗ trợ phát triển (DAC), trên 20
nước gồm một số nước thành viên của Cộng đồng Châu Âu, các nước Bắc
Âu, và các nước khác. ODA của Uỷ ban này dành chủ yếu cho các nước vùng
Sahara, Nam và Trung Á, các nước Trung Đông, Bắc phi, các nước Mỹ La
tinh và vùng Caribe, một số nước Ả Rập, các nước thuộc Liên Xô cũ và các
nước Đông Âu.
b. Các tổ chức đa phương
Các tổ chức thuộc Liên Hợp Quốc như chương trình phát triển của Liên
Hợp Quốc (UNDP), Quỹ nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF), chương trình
lương thực thế giới (WFB), Quỹ dân số Liên Hợp Quốc(UNFTA), tổ chức y
tế thế giới (WHO), Tổ chức nông nghiệp và lương thực (FAO), Tổ chức phát
triển công nghiệp thế giới (UNIDO)…
Hầu hết viện trợ của các tổ chức thuộc hệ thống Liên Hợp Quốc đều

thực hiện dưới hình thức viện trợ không hoàn lại, ưu tiên cho các nước đang
phát triển có thu nhập thấp và không ràng buộc điều kiện chính trị một cách lộ
liễu. Viện trợ thường tập trung cho các như cầu có tính chất xã hội như văn
hoá, giáo dục, sức khoẻ, dân số, xoá đói giảm nghèo…
Liên minh Châu Âu (EU) là tổ chức có tính chất kinh tế - xã hội của 15
nước công nghiệp phát triển ở Châu Âu (chủ yếu là Tây - Bắc Âu) có quỹ lớn
song chủ yếu dành ưu tiên cho các thuộc điạ cũ ở Châu Phi, Caribe, Nam Thái
Bình Dương, nay bắt đầu chú ý đến Đông Âu.
c. Các tổ chức phi Chính phủ (NGOs): Trên thế giới có hàng trăm tổ
chức phi Chính phủ hoạt động theo các mục đích, tôn chỉ khác nhau (từ thiện,
nhân đạo, y tế, thể thao, tôn giáo…). Vốn của các tổ chức này thường nhỏ,
chủ yếu dựa vào quyên góp hoặc nhờ sự tài trợ của các Chính phủ. Do vậy,
viện trợ của các NGOs thường có đặc điểm:
- Đa dạng: có thể là vật tư thiết bị hoặc lương thực, thực phẩm, thuốc
17
men, cũng có thể là tiền mặt, quần áo, đồ dùng.
- Quy mô nhỏ: từ vài ngàn đến vài chục trăm ngàn đôla, nhưng thủ tục
đơn giản thực hiện nhanh, đáp ứng kịp thời nhu cầu khẩn cấp (khắc phục
thiên tai, dịch bệnh…)
Khả năng cung cấp viện trợ và thực hiện viện trợ thất thường và nhất
thời (do phụ thuộc vào kết quả quyên góp). Ngoài mục đích nhân đạo trong
một số trường hợp viện trợ của các tổ chức phi Chính phủ còn mang mầu sắc
tôn giáo, chính trị khác nhau.
d. Các tổ chức tài chính quốc tế: Các tổ chức tài chính quốc tế thường
cung cấp các khoản ODA lớn là Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế
giới (WB), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), tổ chức các nước xuất khẩu
dầu mỏ (OPEC), Quỹ Co-Oet…
1.1.2.2 Khối lượng ODA trên thế giới
Trong các nguồn cung cấp ODA nói ở trên, ODA từ các nước thành
viên của DAC là lớn nhất. Năm 2003, DAC cung cấp 62,711 tỷ đola chiếm

0,34% tổng GNP của các nước này. Năm 2006, DAC cung cấp 48,324 tỷ đôla
bằng 0,22% tổng GNP
Trong giai đoạn từ năm 2003 đến năm 2006, tất cả các nhà tài trợ đều
giảm tỷ lệ ODA/GNP. Mỹ là nước giảm viện trợ mạnh nhất, vào năm 2006
viện trợ của nước này chỉ còn chiếm 0.08% GNP. Thuỵ Điển và các nước Bắc
Âu khác vốn vẫn được coi là hào phóng cũng chỉ dành cho viện trợ 1% GNP
của mình. Nhưng trong số các nước lớn thì Pháp là nước duy nhất đóng góp
hơn 0,45% GNP. Tóm lại, năm 2006 các nước OECD chỉ đóng góp được
0,22% GNP. Tuy vậy, phải ghi nhận rằng xu thế chung của DAC là liên tục
tăng khối lượng ODA của các nước thành viên trong suốt 30 năm qua. Nỗ lực
viện trợ không đồng đều cũng làm cho tổng khối lượng ODA nhìn chung tăng
18
lên chậm chạp. Trong khi một số nước tăng viện trợ thì một số nước khác lại
giảm, vì vậy mà ảnh hưởng đến tình hình chung.
Bảng 1.2: ODA và tỷ lệ ODA/ vốn góp của các nước DAC
Các nước
DAC
2003
( Triệu USD)
2004
(Triệu USD)
2005
(Triệu USD)
2006
(Triệu USD)
Oxtraylia 1015 1061 0,37 0,28
Áo 556 527 0,30 0,26
Bỉ 870 764 0,39 0,31
Canada 2515 2045 0,46 0,34
Đan Mạch 1392 1637 1,02 0,97

Phần Lan 644 379 0,64 0,33
Pháp 8270 6307 0,63 0,45
Đức 7583 5857 0,38 0,28
Ailen 70 187 0,16 0,31
Italia 4122 1266 0,34 0,11
Nhật Bản 11151 9358 0,3 0,22
Lúcxambua 38 95 0,26 0,55
Hà Lan 2753 2947 0,86 0,81
Niudilan 97 154 0,26 0,26
NaUy 1273 1306 1,16 0,86
Bồ Đào Nha 293 250 0,35 0,25
Tây Ban Nha 1518 1234 0,27 0,23
Thuỵ Điển 2460 1731 1,03 0,79
Thuỵ Sĩ 1139 911 0,45 0,34
Anh 3243 3433 0,31 0,26
Mỹ 11709 6878 0,2 0,09
Tổng Cộng 62711 48324 0,34 0,22
Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế số 351- tháng 9/2006
Trong những năm tiếp theo của năm 1997, nguồn vốn ODA tiếp tục
được mở rộng từ các tổ chức đa phương do phải trợ giúp các nước đang khó
khăn và ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính - tiền tệ Đông Nam Á. Ngân
hàng Thế giới thông báo rằng, năm 1998, WB tiếp tục mở rộng các khoản
vay tín dụng, vay ưu đãi và nhanh chóng giải ngân các khoản vay này cho
19
các nước nằm trong khu vực ảnh hưởng bất lợi của cuộc khủng hoảng, trong
đó có Lào. Đến tháng 6/1998, WB cam kết cung cấp khoản vay lên tới 28,6
tỷ đôla và số vốn giải ngân lên tới 25,5 tỷ đôla cho các nước châu Á, và cho
vay hỗ trợ phát triển cho các nước nghèo lên tới 7,5 tỷ đôla.
Trong khi đó lượng ODA lại giảm từ phía các nhà tài trợ song phượng
lớn trên thế giới. Được biết, vốn ODA của Nhật Bản đã giảm 34,8% trong

năm 1996 từ mức 9,61% tỷ đôla trong năm 1995. Các năm tiếp theo, lượng
ODA của Nhật Bản vẫn giảm mạnh vì tình hình tài chính của Nhật gặp rất
nhiều khó khăn và sự xuống giá của đồng Yên so với đồng đôla Mỹ. Trong
suốt 5 năm liền ( 1990-1995), Nhật đứng đầu thế giới trong viện trợ kinh tế
cho nước ngoài, tuy nhiên vị trí này của Nhật Bản hiện nay không còn nữa.
* Phân phối ODA theo vùng
Kể từ năm 1970, ODA chủ yếu hướng vào tiểu vùng Sahara, riêng
Nhật Bản lại ưu tiên cho Châu Á. Sau đây là phân bổ ODA theo vùng của 10
nhà tài trợ lớn ( giữ vị trí từ 1 đến 10 trong số các thành viên OECD, theo
thứ tự từ trái qua phải)
Bảng 1.3: Phân bổ ODA theo vùng của 10 nhà tài trợ lớn nhất (ĐV %)
Vùng Nhật Mỹ Đức Pháp

Lan
Anh Italia
Thuỵ
Điển
Canada
Đan
Mạch
Viễn Đông Châu Á 48,4 5,5 22,9 7,3 5 10,2 8,7 10,2 18,8 11,9
Nam ¸
20 6,8 11,7 2,4 16,3 22,6 1,5 1,5 15,6 15,3
Trung Đông 4,8 26,4 7,5 2,1 6 3,5 1,6 5,5 2,6 0,9
Nam Mỹ 5,6 5,3 7,5 3,3 11,3 3,2 8,2 5,9 8,4 2,5
Bắc và Trung Mỹ 5,0 15,1 5,0 1,9 13,9 5,8 7,9 8,3 10,2 5,9
Nam Sahara Châu Phi 11,6 21,6 25,4 53,4 28,2 45,8 34,8 4,9 34,7 55,2
Bắc Sahara Châu Phi 2,5 12 8,3 15,7 1,8 1,2 30,2 30,2 7,7 8,0
Châu Âu 0,8 2,6 11,4 0,8 7,2 6,3 6,0 9,4 1,6 0,3
Châu Đaị Dương 1,3 4,7 0,3 13,1 0,2 1,3 0,4 11,9

( Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế số 351 – tháng 9/2006)
* Phân phối ODA theo nhóm nước
20
Viện trợ từ các nước DAC tập trung rót vào các nước có thu nhập thấp
(LICs). Các nước chậm phát triển nhất (LDCs) cũng được viện trợ ngày càng
tăng kể từ những năm 70. Nhật Bản, Anh, Thuỵ Sĩ và các nước Bắc Âu tập
trung viện trợ chủ yếu cho các nước LICs, trong đó các nước Bắc Âu tập
trung vào các nước LDCs
* Cơ cấu ODA theo ngành và lĩnh vực
Cơ cấu ODA theo ngành và lĩnh vực của từng nước tài trợ có khác nhau
song nhìn chung các nhà tài trợ đều quan tâm tới giáo dục, y tế, vận tải, viễn
thông, hỗ trợ chương trình…Các nhà tài trợ cũng không quên dành một phần
đáng kể trong ODA để xoá nợ.
Mặc dù có sự nhất trí về tầm quan trọng của đầu tư cho phát triển
nguồn nhân lực, ODA dành cho lĩnh vực này dù đánh giá bằng tiều chí nào
cũng còn nhiều hạn chế. Tính từ năm 1993 đến năm 1996, hàng năm, chỉ có
Na Uy và Thuỵ Điển là hai nước có tỷ lệ viện trợ dành cho giáo dục phố cập
trong tổng chi phí dành cho giáo dục lớn hơn 30%, và Hà Lan cũng đã giữ
được mức bình quân là 23%, còn DAC trong cùng thời gian này chỉ đạt bình
quân là 13%.
Bảng 1.4: Cơ cấu ODA theo ngành và lĩnh vực của 10 nhà tài trợ lớn
Ngành
và lĩnh vực
Nhật Mỹ Đức Pháp

Lan
Anh Italia
Thuỵ
Điển
Canada

Đan
Mạch
Giáo dục, y tế và dân số 10,7 17,4 20,9 24,0 9,9 15,9 4,4 15,3 13,9 8,8
Nước và vệ sinh 0,7 1,0 7,5 3,2 2,7 2,4 0,7 4,4 0,9 2,2
Vận tải, thông tin và năng
lượng
41,1 3,9 20,1 5,3 4,1 9,3 8,4 10,9 9,3 25,5
Nông nghiệp 9,8 5,7 5,8 5,1 12,5 8,0 1,6 10,5 3,6 8,4
Viện trợ chương trình 4,4 2,4 2,4 9,3 1,8 11,9 9,4 6,2 1,5 1,3
Giảm nợ 4,3 12,1 30,7 6,4 4,3 56,0 1,3 0,4 2,5
Cứu trợ khẩn cấp và viện
trợ lương thực
0,6 16,9 8,1 0,8 8,4 19,3 11,1 24,6 24,5 8,6
Các lĩnh vực khác 28,4 52,7 23,1 21,6 54,2 28,9 8,4 26,8 45,9 43,7
(Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế số 351-Tháng9/2006)
21
1.2. VAI TRÒ CỦA NGUỒN VỐN ODA ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC ĐANG
PHÁT TRIỂN
Vì các nước đang phát triển là khu vực tập trung tỷ lệ dân số cao của
thế giới (130 nước – 77% toàn bộ dân số thế giới) nhưng lại chiếm một phần
thu nhập ít ỏi (GNP chưa đầy 14% trong tổng số trên 20.000 tỷ/năm của thế
giới). Những vấn đề nảy sinh trong những nước đang phát triển không chỉ
thuần tuý liên quan đến vấn đề kinh tế. Những vấn đề xã hội là hậu quả của
một nền kinh tế yếu kém và đồng thời cũng là nguyên nhân kìm hãm sự phát
triển như tỷ lệ phát triển dân số cao, đói ăn và suy dinh dưỡng, những vấn đề
về môi trường…Tỷ lệ dân số cao đã khiến cho mức phát triển thực tế tính
theo đầu người giảm 0,2%. Nghèo đói, tích luỹ thấp đã làm các nước đang
phát triển rơi vào cái “vòng luẩn quẩn” của sự nghèo đói. Theo lý thuyết của
nhiều nhà kinh tế học trong đó P.Samuelson đưa ra là để tăng trưởng kinh tế
nói chung cần đảm bảo 4 nhân tố là: nhân lực, tài nguyên, thiên nhiên, cơ

cấu tư bản và kỹ thuật, mà ở các nước đang phát triển nhìn chung 4 nhân tố
trên là khan hiếm, chưa thoả mãn. Hơn nữa, trong “cái vòng luẩn quẩn”, việc
kết hợp chúng càng gặp trở ngại lớn. Để có được sự phát triển, ngoài những
nỗ lực của bản thân, các nước đang phát triển cần có đầu tư và hỗ trợ của
nước ngoài. Đối với các nước đang phát triển, FDI và ODA là hai nguồn vốn
quan trọng nhất, các nguồn vốn còn lại nhỏ và thất thường. Mặc dù có tỷ
trọng nhỏ hơn FDI trong tổng nguồn vốn ngoài nước nhưng ODA lại có
những ưu điểm riêng. Trái với FDI là nguồn vốn đầu tư trực tiếp của nước
ngoài thường lựa chọn các dự án kinh doanh nhanh chóng mang lại lợi
nhuận, do tính ưu đãi, vốn ODA thường được các nước sử dụng để nâng cấp
và cải tạo cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội, như đầu tư vào đường sá, cầu cống,
công trình điện, cấp thoát nước và lĩnh vực giáo dục, y tế ,văn hoá phát triển
nguồn nhân lực…Đây là những ngành nền tảng cho sự tăng trưởng vì có giải
22
quyết tồn tại về cơ sở hạ tầng thì mới có khả năng thu hút mạnh nguồn vốn
FDI cũng như có thể sử dụng hiệu quả hơn nguồn vốn này.
Vai trò của ODA đối với các nước đang phát triển
* Bổ sung cho nguồn vốn trong nước:
Đối với các nước đang phát triển, các khoản viện trợ và cho vay theo
điều kiện ODA là nguồn tài chính quan trọng giữ vai trò bổ sung vốn cho
quá trình phát triển. Chẳng hạn, trong thời kỳ đầu của quá trình công nghiệp
hoá ở các nước NICs và ASEAN viện trợ nước ngoài đã có một tầm quan
trọng đáng kể.
Đài Loan, trong thời kỳ của quá trình công nghiệp hoá đã dung viện
trợ và nguồn vốn nước ngoài để thoả mãn gần 50% tổng khối lượng vốn đầu
tư trong nước. Sau khi nguồn tiết kiệm trong nước tăng lên, Đài Loan mới
giảm dần sự lệ thuộc vào viện trợ. Đối với Hàn Quốc, nhờ có mối quan hệ
đặc biệt với Mỹ nên có được nguồn viện trợ rất lớn, chiếm 81,2% tổng số
viện trợ của nước này trong những năm 1970-1972. Nhờ đó mà giảm được
sự căng thẳng về nhu cầu đầu tư và có điều kiện thuận lợi để thực hiện được

các mục tiêu kinh tế. Còn ở hầu hết các nước Đông Nam Á, sau khi giành
được độc lập đất nước ở trong tình trạng nghèo nàn và lạc hậu. Để phát triển
cơ sở hạ tầng- một lĩnh vực đảm bảo tiền đề vật chất ban đầu cho phát triển
kinh tế, song lại đòi hởi phải có Nhiều vốn và khả năng thu hồi vốn chậm.
Giải quyết vấn đề này các nước đang phát triển nói chung và các nước Đông
Nam Á nói riêng đã sử dụng nguồn vốn ODA..
* ODA dưới dạng viện trợ không hoàn lại giúp các nước nhận viện trợ
tiếp thu những thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại và phát triển nguồn
nhân lực.
Dù cho các nước tài trợ thường không muốn chuyển giao những công
23
nghệ cao nhưng trên thực tế cũng có công nghệ tương đối cao được chuyển
giao làm tăng thêm tiềm lực khoa học công nghệ của nước tiếp nhận. Khả
năng này thường được chuyển giao qua các dự án hỗ trợ kỹ thuật. Khả năng
này thường được chuyển giao qua các dự án hỗ trợ kỹ thuật. Chúng ta có thể
thấy rõ vai trò này của ODA thông qua loại hình hợp tác kỹ thuật của Nhật
Bản - nước đứng đầu thế giới về cung cấp ODA. Hợp tác kỹ thuật là một bộ
phận lớn trong hỗ trợ phát triển chính thức của Nhật Bản-nó bao gồm Nhiều
loại hình khác nhau và gắn với các dự án khác nhau, như các dự án về huấn
luyện đào tạo chuyên môn, các chương trình về tuyển cử quốc gia, các dự án
về cung cấp thiết bị và vật liệu độc lập; các chương trình cử các đoàn khảo sát
về phát triển…Chẳng hạn, với các dự án cung cấp thiết bị và vật liệu độc lập
kết hợp với việc cử chuyên gia và đào tạo kỹ thuật tại Nhật đã nâng cao hiệu
quả của việc hợp tác. Chỉ tính trong thời gian từ 1964-1978 đã có 910 trường
hợp Nhật Bản cung cấp vốn ODA theo dạng này, có trị giá tổng cộng khoảng
15,7 tỷ yên, trong đó Châu Á và Châu Đại Dương chiếm 43%; Trung Cận
Đông 28%; Mỹ La Tinh 25% và 4% cho các khu vực khác.
Vai trò phát triển nguồn nhân lực của ODA được thể hiện qua các chương
trình đào tạo, cấp học bổng, gửi chuyên gia. Ngoài ra, khả năng này cũng thể
hiện khá rõ khi có các công trình dung vốn nước ngoài, có đào tạo cho một số

công nhân và cán bộ kỹ thuật của nước tiếp nhận có khả năng tiếp thu các công
nghệ mới và làm quen với các quy trình khoa học hiện đại. Điều đó sẽ góp phần
nâng cao chất lượng trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
* Giúp các nước đang phát triển hoàn thiện cơ cấu kinh tế
Đối với các nước đang phát triển, khó khăn kinh tế là điều không thể
tránh khỏi, trong đó nợ nước ngoài và thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế
ngày một gia tăng là tình trạng phổ biến. Để giải quyết vấn đề này, các quốc
gia đều phải cố gắng hoàn thiện cơ cấu kinh tế bằng cách phối hợp với Ngân
hang Thế giới, Quỹ tiền tệ Quốc tế và các tổ chức quốc tế khác tiến hành điều
24
chỉnh cơ cấu. Chính sách này dự định việc chuyển chính sách kinh tế nhà
nước đóng vai trò trung tâm sang chính sách khuyến khích nền kinh tế phát
triển theo định hướng phát triển khu vực kinh tế tư nhân. Nhưng muốn thực
hiện được việc điều chỉnh này cần phải có một lượng vốn lớn, do vậy mà các
chính phủ lại dựa vào nguồn hỗ trợ ODA. Trong giai đoạn 3 năm từ
1993-1995 Nhật đã dành một khoản viện trợ tổng cộng khoảng gần 700 triệu
USD để hỗ trợ điều chỉnh cơ cấu kinh tế các nước đang phát triển.
Tăng khả năng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI và tạo điều
kiện để mở rộng đầu tư phát triển trong nước ở các nước đang và chậm phát triển
Như chúng ta đã biết, để có thể thu hút được các nhà đầu tư trực tiếp
nước ngoài bỏ vốn đầu tư vào một lĩnh vực nào đó, thì tại các quốc gia đó
phải đảm bảo cho họ có một môi trường đầu tư tốt (cơ sở hạ tầng kinh tế xã
hội, hệ thống chính sách, pháp luật ổn định…), đảm bảo đầu tư có lợi với phí
tổn đầu tư thấp, hiệu quả đầu tư cao. Muốn vậy, đầu tư của nhà nước phải
được tập trung vào việc nâng cấp cải thiện và xây dựng mới cơ sở hạ tầng, hệ
thống tài chính, Ngân hàng…Nguồn vốn để nhà nước có thể giải quyết những
đầu tư này là phải dựa vào nguồn vốn ODA giúp bổ sung cho vốn đầu tư hạn
hẹp từ ngân sách của nhà nước. Môi trường đầu tư hạn hẹp một khi được cải
thiện sẽ tăng sức hút đồng vốn trực tiếp nước ngoài, thúc đẩy đầu tư trong
nước tăng dẫn đến sự phát triển bền vững của nền kinh tế.

Mặt khác, việc sử dụng nguồn vốn ODA để đầu tư cải thiện cơ sở hạ
tầng sẽ tạo điều kiện cho các nhà đầu tư trong nước tập trung đầu tư vào các
công trình sản xuất kinh doanh có khả năng mang lại lợi nhuận
Tuy nhiên, ngoài những tác dụng tích cực, việc sử dụng ODA còn có
những mặt tiêu cực mà nếu không lưu tâm giải quyết, các nước nhận viện trợ
gặp nhiều khó khăn.
Thứ nhất là tính ưu đãi của loại vốn này thường đi kèm các điều kiện
ràng buộc về chính trị - xã hội mà với những điều kiện đó không phải nước
25

×