Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Tiểu luận về đô la hoá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (779.12 KB, 23 trang )

1

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 2
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐÔ LA HÓA VÀ TÁC ĐỘNG ĐỐI VỚI NỀN
KINH TẾ. 3
I. Khái niệm: 3
II. Phân loại: 3
1/ Căn cứ vào hình thức: 3
2/ Căn cứ vào phạm vi: 3
III. Nguyên nhân 4
IV. Tác động của hiện tượng đô la hóa 5
1/ Những tác động tích cực 5
2/ Những tác động tiêu cực 5
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG ĐÔ LA HÓA TẠI VIỆT NAM 7
I. Biểu hiện của đô la hóa ở Việt Nam 7
1/ Đô la hóa trong hoạt động ngân hàng 8
2/ Đô la hóa trong lĩnh vực thương mại 13
II. Nguyên nhân của đô la hóa ở Việt Nam 13
III. Tác động của đô la hóa ở Việt Nam 15
1/ Những tác động tích cực 15
2/ Những tác động tiêu cực 16
CHƯƠNG III. GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC ĐÔ LA HÓA Ở VIỆT NAM 18
I. Giải pháp khắc phục đô la hóa ở Việt Nam 18
1/ Tạo môi trường đầu tư trong nước. 18
2/ Những biện pháp trong lĩnh vực tiền tệ 19
3/ Cần nhất quán chủ trương quản lý lưu hành ngoại tệ. 19
4/ Các giải pháp trong chính sách quản lý ngoại hối. 20
II. Mặt trái của những giải pháp chống đô la hóa 21
KẾT LUẬN 22


2

LỜI MỞ ĐẦU
Xã hội ngày càng phát triển với nền kinh tế từng nước hiện đại, năng động hơn,
cùng với tiến trình hội nhập diễn ra mạnh mẽ, quá trình tự do hóa tài chính liên tục, các
luồng tài chính dòng vốn được giao lưu tự do và xuyên suốt. Trong bối cảnh đó nền kinh
tế mỗi quốc gia càng gắn liền với tình hình biến động kinh tế chính trị diễn ra trong toàn
cầu, Việt Nam đã gia nhập WTO, cũng chịu sự tác động to lớn trong xu thế đó. Một nền
kinh tế phát triển ổn định bền vững, tự chủ về tài chính sẽ giúp nền kinh tế đất nước có
sức đề kháng trước những cú sốc kinh tế bên ngoài nhất là các cuộc khủng hoảng kinh tế.
“Chẩn đoán” ra các căn bệnh của nền kinh tế và tìm cách “chữa trị” nó là cách hữu hiệu để
đứng vững trên con đường hội nhập, trong đó vấn đề đặt ra đối với hệ thống tài chính cũng
như nền kinh tế hiện nay là tình hình “đô la hóa” mà theo các chuyên gia “đô la hóa Việt
Nam đang ở mức báo động” có thể ảnh hưởng rất sâu sắc đối với nền kinh tế Việt Nam.
Hiện tượng đô la hóa bắt nguồn từ cơ chế tiền tệ thế giới hiện đại, trong đó tiền tệ
của một số quốc gia phát triển, đặc biệt là đôla Mỹ, được sử dụng trong giao lưu quốc tế
làm vai trò của "tiền tệ thế giới". Cho nên người ta thường gọi hiện tượng ngoại tệ hóa là
"đô la hóa". Để có một cách đánh giá tổng quát hơn về tình trạng đô la hoá, cũng như tìm
ra những giải pháp khắc phục tình trạng đô la hoá ở Việt Nam là vấn đề cần thiết và cấp
bách, nhóm chúng tôi chọn đề tài: "Tình hình đô la hóa tại Việt Nam” làm đề tài nghiên
cứu. Trong phạm vi đề tài này, chúng tôi chỉ nghiên cứu nền kinh tế bị đô la hóa bằng
đồng USD mà cụ thể là nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn từ sau cải cách kinh tế đến
nay.
Do kiến thức và thời gian còn hạn chế nên bài viết không tránh khỏi những thiếu
xót, sai lầm, chúng tôi rất mong được sự đóng góp ý kiến của thầy, cô giáo và các bạn.
Kết cấu đề tài gồm 3 phần:
Chương I: Lý luận chung về đô la hóa và tác động của nó đối với nền kinh tế
Chương II: Thực trạng đô la hóa ở Việt Nam
Chương III: Giải pháp khắc phục hiện tượng đô la hóa ở Việt Nam




3

CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐÔ LA HÓA VÀ TÁC
ĐỘNG ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ.
I. KHÁI NIỆM:
Đô la hoá có thể hiểu một cách thông thường là trong một nền kinh tế khi ngoại
tệ được sử dụng một cách rộng rãi thay thế cho đồng bản tệ trong toàn bộ hoặc một số
chức năng tiền tệ, nền kinh tế đó bị coi là đô la hoá toàn bộ hoặc một phần. Sở dĩ đây là
tên gọi chung của hiện tượng ngoại tệ hóa, nhưng do đồng đô la Mỹ từ trước tới nay luôn
chiếm vị thế quan trọng nhất trong nền kinh tế quốc tế nên người ta thường gọi hiện tượng
ngoại tệ hoá là "đô la hoá".
Theo tiêu chí của IMF đưa ra, một nền kinh tế được coi là có tình trạng đô la
hoá cao khi mà tỷ trọng tiền gửi bằng ngoại tệ chiếm từ 30% trở lên trong tổng khối tiền tệ
mở rộng (M2); bao gồm: tiền mặt trong lưu thông, tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ
hạn, và tiền gửi ngoại tệ. Theo đánh giá của IMF năm 1998, trường hợp đô la hoá cao có
19 nước, trường hợp đô la hoá cao vừa phải với tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ/M2 khoảng 16,4%
có 35 nước, trong số đó có Việt Nam.
II. PHÂN LOẠI:
1/ Căn cứ vào hình thức:
a. Đô la hóa thay thế tài sản: Thể hiện qua tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ trên tổng
phương tiện thanh toán. Theo IMF, khi tỷ lệ này trên 30% thì nền kinh tế đó được cho
là có tình trạng đô la hóa cao, tạo ra các lệch lạc trong điều hành tài chính tiền tệ vĩ
mô. Nhìn chung đối với các nền kinh tế chuyển đổi, tỷ lệ đô la hóa hiện nay bình quân
là 29%.
b. Đô la hóa phương tiện thanh toán: Là mức độ sử dụng ngoại tệ trong
thanh toán. Các giao dịch thanh toán bất hợp pháp bằng ngoại tệ rất khó đánh giá nhất
là đối với những nền kinh tế tiền mặt như Việt Nam.
c. Đô la hóa định giá, niêm yết giá: Là việc niêm yết, quảng cáo, định giá

bằng ngoại tệ.
2/ Căn cứ vào phạm vi:
a. Đô la hóa không chính thức:
- Khái niệm: Đô la hoá không chính thức là trường hợp đồng đô la được sử dụng
rộng rãi trong nền kinh tế, mặc dù không được quốc gia đó chính thức thừa nhận.


4

- Phân loại:
• Các trái phiếu ngoại tệ và các tài sản phi tiền tệ ở nước ngoài.
• Tiền gửi bằng ngoại tệ ở nước ngoài.
• Tiền gửi ngoại tệ ở các ngân hàng trong nước.
• Trái phiếu hay các giấy tờ có giá bằng ngoại tệ cất trong túi.
b. Đô la hóa bán chính thức:
- Khái niệm: Đô la hoá bán chính thức là những nước có hệ thống lưu hành chính
thức hai đồng tiền.
- Đặc điểm: Ở những nước này, đồng ngoại tệ là đồng tiền lưu hành hợp pháp, và
thậm chí có thể chiếm ưu thế trong các khoản tiền gửi ngân hàng, nhưng đóng vai trò thứ
cấp trong việc trả lương, thuế và những chi tiêu hàng ngày. Các nước này vẫn duy trì một
ngân hàng trung ương để thực hiện chính sách tiền tệ của họ.
c. . Đô la hóa chính thức:
- Khái niệm: Đô la hoá chính thức (hay còn gọi là đô la hoá hoàn toàn) xảy ra khi
đồng ngoại tệ là đồng tiền hợp pháp duy nhất được lưu hành. Nghĩa là đồng ngoại tệ
không chỉ được sử dụng hợp pháp trong các hợp đồng giữa các bên tư nhân, mà còn hợp
pháp trong các khoản thanh toán của Chính phủ.
III. NGUYÊN NHÂN
Trước hết, đô la hoá là hiện tượng phổ biến xẩy ra ở nhiều nước, đặc biệt là ở các
nước chậm phát triển. Đô la hoá thường gặp khi một nền kinh tế có tỷ lệ lạm phát cao,
sức mua của đồng bản tệ giảm sút thì người dân phải tìm các công cụ dự trữ giá trị khác,

trong đó có các đồng ngoại tệ có uy tín.
Thứ hai, hiện tượng đô la hoá bắt nguồn từ cơ chế tiền tệ thế giới hiện đại, trong đó
tiền tệ của một số quốc gia phát triển, đặc biệt là đô la Mỹ, được sử dụng trong giao lưu
quốc tế làm vai trò của "tiền tệ thế giới". Nói cách khác, đô la Mỹ là một loại tiền mạnh,
ổn định, được tự do chuyển đổi đã được lưu hành khắp thế giới và từ đầu thế kỷ XX đã
dần thay thế vàng, thực hiện vai trò tiền tệ thế giới.
Ngoài đồng đô la Mỹ, còn có một số đồng tiền của các quốc gia khác cũng được
quốc tế hoá như: Bảng Anh, Mark Đức, Yen Nhật, Euro của EU nhưng vị thế của các
đồng tiền này trong giao lưu quốc tế không lớn.
Thứ ba, trong điều kiện của thế giới ngày nay, hầu hết các nước đều thực thi cơ chế
kinh tế thị trường mở cửa; quá trình quốc tế hoá giao lưu thương mại, đầu tư và hợp tác
kinh tế ngày càng tác động trực tiếp vào nền kinh tế và tiền tệ của mỗi nước, nên trong
từng nước xuất hiện nhu cầu khách quan sử dụng đơn vị tiền tệ thế giới để thực hiện một
số chức năng của tiền tệ. Đô la hoá ở đây có khi là nhu cầu, trở thành thói quen thông lệ ở
các nước.
5

IV. TÁC ĐỘNG CỦA HIỆN TƯỢNG ĐÔ LA HÓA
1/ Những tác động tích cực
Thứ nhất, việc sử dụng càng nhiều đồng ngoại tệ mạnh trong nền kinh tế như đồng
đô la Mỹ thay cho đồng nội tệ yếu sẽ làm giảm áp lực đối với nền kinh tế trong những thời
kỳ lạm phát cao, bị mất cân đối và các điều kiện kinh tế vĩ mô không ổn định.
Thứ hai, đô la hóa sẽ tăng cường khả năng cho vay của ngân hàng và khả năng hội
nhập quốc tế.
Tác động tích cực thứ ba là hạ thấp chi phí giao dịch. Ở những nước đô la hoá
chính thức, các chi phí như chênh lệch giữa tỷ giá mua và bán khi chuyển từ đồng tiền này
sang đồng tiền khác được xoá bỏ. Các chi phí dự phòng cho rủi ro tỷ giá cũng không cần
thiết, các ngân hàng có thể hạ thấp lượng dự trữ, vì thế giảm được chi phí kinh doanh.
Thứ tư là thúc đẩy thương mại và đầu tư. Các nước thực hiện đô la hoá chính thức
có thể loại bỏ rủi ro cán cân thanh toán và những kiểm soát mua ngoại tệ, khuyến khích tự

do thương mại và đầu tư quốc tế.
Cuối cùng là thu hẹp chênh lệch tỷ giá trên hai thị trường chính thức và phi chính
thức. Tỷ giá chính thức càng sát với thị trường phi chính thức, tạo ra động cơ để chuyển
các hoạt động từ thị trường phi chính thức (bất hợp pháp) sang thị trường chính thức (thị
trường hợp pháp).
2/ Những tác động tiêu cực
Thứ nhất là làm ảnh hưởng đến việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô. Làm
giảm hiệu quả điều hành của chính sách tiền tệ :
• Gây khó khăn trong việc dự đoán diễn biến tổng phương tiện thanh toán, do đó
dẫn đến việc đưa ra các quyết định về việc tăng hoặc giảm lượng tiền trong lưu thông kém
chính xác và kịp thời.
• Làm cho đồng nội tệ nhạy cảm hơn đối với các thay đổi từ bên ngoài, do đó
những cố gắng của chính sách tiền tệ nhằm tác động đến tổng cầu nền kinh tế thông qua
việc điều chỉnh lãi suất cho vay trở nên kém hiệu quả.
• Tác động đến việc hoạch định và thực thi chính sách tỷ giá. Đô la hoá có thể làm
cho cầu tiền trong nước không ổn định, do người dân có xu hướng chuyển từ đồng nội tệ
sang đô la Mỹ, làm cho cầu của đồng đô la Mỹ tăng mạnh gây sức ép đến tỷ giá.
• Ở các nước đô la hoá không chính thức, nhu cầu về nội tệ không ổn định. Trong
trường hợp có biến động, mọi người bất ngờ chuyển sang ngoại tệ có thể làm cho đồng nội
tệ mất giá và bắt đầu một chu kỳ lạm phát.
Trường hợp tiền gửi của dân cư bằng ngoại tệ cao, nếu khi có biến động làm cho
người dân đổ xô đi rút ngoại tệ, trong khi số ngoại tệ này đã được ngân hàng cho vay, đặc
6

biệt là cho vay dài hạn, khi đó ngân hàng nhà nước của nước bị đô la hoá cũng không thể
hỗ trợ được vì không có chức năng phát hành đô la Mỹ.
Thứ hai là khiến cho chính sách tiền tệ bị phụ thuộc nặng nề vào nước Mỹ. Trong
trường hợp đô la hoá chính thức, chính sách tiền tệ và chính sách lãi suất của đồng tiền khi
đó sẽ do nước Mỹ quyết định.
Thứ ba, đô la hoá chính thức sẽ làm mất đi chức năng của NHTW là người cho vay

cuối cùng của các ngân hàng. Trong các nước đang phát triển chưa bị đô la hoá hoàn toàn,
mặc dù các ngân hàng có vốn tự có thấp, song công chúng vẫn tin tưởng vào sự an toàn
đối với các khoản tiền gửi của họ tại các ngân hàng. Nguyên nhân là do có sự bảo lãnh
ngầm của Nhà nước đối với các khoản tiền này. Điều này chỉ có thể làm được đối với
đồng tiền nội tệ, chứ không thể áp dụng được đối với đô la Mỹ. Đối với vác nước đô la
hoá hoàn toàn, khu vực ngân hàng sẽ trở nên bất ổn hơn trong trường hợp ngân hàng
thương mại bị phá sản và sẽ phải đóng cửa khi chức năng người cho vay cuối cùng của
NHTW đã bị mất.


7

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG ĐÔ LA HÓA TẠI VIỆT NAM
I. BIỂU HIỆN CỦA ĐÔ LA HÓA Ở VIỆT NAM
Đô la hóa có thể là một giải pháp hiệu quả đối với các nền kinh tế mở, khá nhỏ và
có mối quan hệ thương mại cũng như tài chính chặt chẽ đối với quốc gia cung cấp đồng
tiền thay thế. Việt Nam rõ ràng không phải là ứng cử viên được hưởng lợi từ đô la hóa do
khác biệt lớn so với Mỹ về sự giàu có, cơ cấu kinh tế và sự hội nhập thấp về thị trường
vốn, lao động. Ngoài ra, mặc dù đô la là đồng tiền quốc tế chủ yếu, được ưu tiên trong cán
cân của Việt Nam, chứ không phải là đồng euro hay yen Nhật, nhưng Việt Nam lại có
quan hệ thương mại đa dạng với các nước khác trên thế giới. Mặc dù buôn bán với Mỹ
đang tăng nhanh song buôn bán với các nước châu Á, đặc biệt là Nhật Bản và châu Âu
cũng chiếm một tỷ trọng đáng kể.
Bức tranh tổng quát về tình hình đô la hóa ở Việt Nam qua các năm được biểu hiện
cụ thể qua số liệu sau:
Biểu đồ 1. Tỉ lệ đô la hóa ở Việt Nam giai đoạn 1998 - 2005

Nguồn: VNEconomy
Tỷ lệ Đô la hóa (FCD/M2)
21.9

24.6
29.6
30
26.1
21.3
23.2
22.3
0
5
10
15
20
25
30
35
1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005
%
8

1/ Đô la hóa trong hoạt động ngân hàng
1.1. Đô la hóa trong cơ cấu tiền gửi
Hiện tượng nền kinh tế Việt Nam sử dụng rộng rãi đồng đô la Mỹ trong giao dịch
buôn bán bắt đầu được chú ý đến từ năm 1988 khi các ngân hàng được phép nhận tiền
gửi bằng đồng đô la. Đến năm 1992, tình trạng đô la hoá đã tăng lên mạnh với hơn 41%
lượng tiền gửi vào các ngân hàng là bằng đô la USD. Trước tình trạng này, Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam đã cố gắng đảo ngược quá trình đô la hoá nền kinh tế và đã khá thành
công khi giảm mạnh mức tiền gửi bằng USD vào các ngân hàng xuống còn 20% vào năm
1996. Nhưng tiếp theo đó cuộc khủng hoảng tài chính châu Á đã khiến cho đồng tiền Việt
Nam giảm giá trị, và Việt Nam lại tiếp tục chịu sức ép của tình trạng đô la hoá.
Đến cuối năm 2001, tỷ lệ đồng USD được gửi vào các ngân hàng tăng lên đến

31,7%. Tỷ lệ này có xu hướng giảm đáng kể trong những năm tiếp theo, đến năm 2003
còn 23,6% và 9 tháng đầu năm 2004 là 22%. Cuối năm 2007, con số này ở mức 20 - 21 %.
Đây là xu hướng tích cực, cho thấy tình trạng đô la hoá tài sản nợ trong hệ thống ngân
hàng thương mại đang được kiềm chế một cách có hiệu quả, người dân đã có niềm tin vào
đồng tiền nội địa nhiều hơn. Tuy nhiên, đến đầu năm 2008, khi tình trạng lạm phát tăng
cao, tâm lý lo lắng về sự mất giá của đồng nội tệ tăng lên thì tình trạng đô la hoá ở nước ta
đang có nguy cơ trầm trọng trở lại.
Ở Việt Nam, theo thống kê, tỷ lệ đô la hóa luôn ở mức trên 20% trong khi tỷ lệ này
ở các nước trong khu vực thấp hơn rất nhiều, như: Indonesia, Thái Lan, Malaysia chỉ
khoảng 7-10%.
Bảng 1 : Tỷ lệ tiền gửi bằng đồng USD trên tổng phương tiện thanh toán
(FCD/M2) ở Việt Nam
STT
Năm
Tỷ lệ
1
1989
28.2
2
1990
32.4
3
1992
41.2
4
1002
30.6
5
1993
22.9

6
1994
22.2
7
1995
21
9

8
1996
20.3
9
1997
23.6
10
1998
24.6
11
1999
26.1
12
2000
26.9
13
2001
31.7
14
2002
28.4
15

2003
23.6
16
2004
24.3
17
2005
23
18
2006
21.6
19
3/2007
19.6
20
6/2007
20.2
Nguồn : IMF - Vietnam Statistical Appendix 2007
Những năm qua, lượng tiền gửi tuyệt đối bằng USD tại các ngân hàng đã không
ngừng tăng lên, đặc biệt là ở hệ thống ngân hàng tại 2 thành phố lớn là Hà Nội và thành
phố Hồ Chí Minh. Với nguồn vốn ngoại tệ đồ sộ đó, các ngân hàng thường có 2 cách lựa
chọn: một là đem gửi ở ngân hàng nước ngoài - những nước có lãi suất tiết kiệm bằng
đồng USD cao hơn trong nước để kiếm lời bằng chênh lệch lãi suất hoặc thực hiện nghiệp
vụ kinh doanh ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ quốc tế; hai là đầu tư và cho các doanh
nghiệp trong nước vay. Cách thứ nhất buộc các ngân hàng phải có một lượng USD tương
đối lớn, song hiệu quả kinh tế không cao, lại luôn tiềm tàng nhiều rủi ro do giá USD trên
thị trường thế giới luôn biến đổi thất thường. Điển hình là việc Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn đã từng có giai đoạn bị thua lỗ hàng chục triệu USD do kinh doanh
ngoại tệ. Chính vì vậy mà các ngân hàng thường thực hiện theo cách thứ hai: đầu tư cho
vay trong nước, và chính điều này đã làm gia tăng các giao dịch, thanh toán bằng USD

trên nhiều loại thị trường. Điều này không những đẩy nhanh quá trình đô la hóa mà còn
mang lại nhiều rủi ro cho doanh nghiệp vay vốn bằng USD: họ kinh doanh bằng VND
nhưng phải trả nợ ngân hàng bằng USD và nghiễm nhiên sẽ phải gánh chịu rủi ro về tỷ
giá.

10

Biểu hiện cụ thể của Đô la hóa ở Việt Nam qua các con số như sau :
Biểu đồ 2: Tỷ lệ tiền gửi bằng đồng USD trên tồng phương tiện thanh toán (FCD/M2)

Nguồn: IMF – Vietnam Statistical Appendix 2007
Việc xác định tình trạng đô la hóa theo công thức FCD/M2 được đánh giá là khá
chính xác ở những nước mà phần lớn các giao dịch thanh toán đều được thực hiện thông
qua ngân hàng. Tuy nhiên, ở Việt Nam, nơi mà tỷ lệ sử dụng tiền mặt còn cao, tỷ lệ
FCD/M2 không phản ánh đầy đủ thực trạng đô la hóa trong toàn bộ nền kinh tế. Về phía
các doanh nghiệp, trong một thời gian dài tiền gửi ngoại tệ của các tổ chức kinh tế vào các
ngân hàng đã giảm xuống do một số thay đổi trong chính sách quản lý ngoại hối như: quy
định các doanh nghiệp không được thanh toán trực tiếp với nhau bằng ngoại tệ, cũng như
quy định về giới hạn lãi suất tiền gửi bằng ngoại tệ của các doanh nghiệp.
Về số tiền gửi tuyệt đối của Việt Nam bằng đô la thì không ngừng tăng lên, đến
tháng 6/2007 đã ở mức 13,992 tỷ USD. Con số này một mặt cho thấy tiềm lực nguồn vốn
nhàn rỗi trong dân mà hệ thống ngân hàng có thể huy động được cho đầu tư phát triển
kinh tế, những mặt khác cũng đáng quan tâm ở góc độ đô la hoá.


28.2
32.4
41.2
30.6
22.9

22.2
21
20.3
23.6
24.6
26.1
26.9
31.7
28.4
23.6
24.3
23
21.6
19.6
20.2
Tỷ lệ FCD/M2 (%)
Tỷ lệ FCD/M2 (%)
11

Bảng 2 : Khối lượng tiền gửi bằng đồng USD (FCD) tại các ngân hàng Việt Nam
STT
Thời gian
FCD (triệu USD)
1
2003
6,220
2
2004
8,215
3

2005
10,027
4
2006
12,396
5
03/2007
12,560
6
06/2007
13,992
Nguồn : IMF - Vietnam Statistical Appendix 2007
1.2. Đôla hóa trong vấn đề cho vay
Trái với xu hướng biến đổi cơ cấu tiền gửi, tỷ trọng dư nợ cho vay bằng đồng đô la
Mỹ so với tổng dư nợ và đầu tư của hệ thống ngân hàng thương mại có xu hướng tăng lên,
cao hơn cả tiền gửi đôla.
Từ năm 1994 đến năm 2000, cơ cấu cho vay ngoại tệ trong tổng dư nợ của hệ thống
ngân hàng như sau:
Bảng 3 : Tỷ lệ dư nợ cho vay bằng ngoại tệ trên tổng dư nợ cho vay
STT
Thời gian
Tỷ lệ (%)
1
2003
22
2
2004
24.9
3
2005

24.3
4
2006
21.1
5
03/2007
22
12

6
06/2007
22.2
Nguồn : IMF - Vietnam Statistical Appendix 2007

Thời kỳ sau năm 2000, các ngân hàng tích cực cho doanh nghiệp vay bằng đô la để
sinh lời. Tính đến năm 2003, khoản tiền các ngân hàng cho vay bằng đô la chiếm bằng
28%. Đặc biệt, tại TP.Hồ Chí Minh, dư nợ cho vay bằng đô la Mỹ cuối tháng 9/2004 đã
tăng gấp 2 lần số dư cuối năm 2002. Trong khoảng thời gian đó, tốc độ cho vay USD ngày
càng tăng. Tốc độ cho vay đô la Mỹ tại các ngân hàng hiện nay tăng nhanh hơn tốc độ cho
vay đồng nội tệ khoảng 50%.
Thông qua việc quan sát niêm yết giá và bán hàng hoá, dịch vụ thu ngoại tệ hiện
nay, quan sát giao dịch mua bán ngoại tệ của dân cư tại nhiều cửa hàng vàng bạc quy mô
lớn ở Hà Nội, thông tin ghi nhận được từ các giao dịch kinh tế ngầm có thể thấy mức độ
sử dụng đô la Mỹ trong xã hội nước ta rất đáng quan tâm. Có thể nói Việt Nam là một nền
kinh tế bị đô la hoá một phần. Tuy vậy, mức độ chính xác của đô la hoá là số liệu rất khó
xác định. Trong một số năm khi lãi suất tiền gửi đồng đô la ở các ngân hàng nước ngoài ở
mức cao, để sử dụng những đồng tiền đô la mà người dân đã gửi vào ngân hàng, các ngân
hàng trong nước đã đem phần lớn nguồn đô la gửi ra các ngân hàng nước ngoài, chủ yếu
là ở Singapore và Hồng Kông, để kiếm lãi suất cao. Điều này có tác động xấu bởi vì
những đồng đô la đó đã không được sử dụng để đầu tư trong nước.

Đến năm 1992, lãi suất đồng đô la giảm mạnh, các ngân hàng Việt Nam không còn
thu lời được từ các tài khoản ở nước ngoài nên đành rút một lượng lớn tiền về, con số đó
khoảng từ 3 đến 4 tỷ USD. Lượng tiền gửi ở nước ngoài giảm đi chỉ còn một nửa tính đến
thời điểm cuối năm 2003.
Sau khi rút tiền đô la từ ngân hàng nước ngoài về, các ngân hàng Việt Nam bắt đầu
cho các doanh nghiệp trong nước vay bằng đồng đô la để sinh lợi. Nếu nhìn về hình thức
bên ngoài thì điều này có vẻ yên ổn đối với các ngân hàng, bởi vì họ nhận tiền gửi và cho
vay đều bằng ngoại tệ nên có ít rủi ro. Nhưng nếu xem xét kỹ, chúng ta nhận thấy các
doanh nghiệp đi vay sẽ gặp khó khăn khi đồng tiền Việt Nam bị giảm giá. Các doanh
nghiệp này chủ yếu có doanh thu bằng đồng Việt Nam, nhưng họ phải trả nợ bằng đồng
USD. Họ phải đứng trước các rủi ro về thay đổi tỷ giá giữa đồng USD và đồng tiền Việt
Nam mà không có những công cụ để phòng tránh rủi ro. Nếu đồng đô la tăng giá, nhiều
doanh nghiệp Việt Nam sợ mất khả năng thanh toán nợ. Khi đó các ngân hàng chắc chắn
sẽ bị ảnh hưởng và từ đó dẫn đến khủng hoảng kinh tế.
13

2/ Đô la hóa trong lĩnh vực thương mại
Một lĩnh vực đô la hóa tương đối mạnh đó là bán hàng qua mạng, kinh doanh các
sản phẩm nhập khẩu nhất là đồ điện tử, kinh doanh nhà hàng, khách sạn…Ta có thể bằng
trực giác việc niêm yết giá bằng cả VND lẫn USD ở hầu như 100% các trang web bán đồ
điện tử như: máy vi tính, các thiết bị gia dụng nhập ngoại v.v Mặc dù hai loại được đặt
song song nhưng việc thanh toán thực tế thì luôn dược thực hiện bằng USD, nếu khách
hàng thanh toán bằng VND thì giá của hàng hóa dựa trên tỷ gía hối đoái của VND và USD
ngày hôm thực hiện giao dịch. Những hàng hóa này thường là những hàng hóa mà doanh
nghiệp Việt Nam phải nhập khẩu toàn bộ hoặc nhập khẩu từng linh kiện nên giá của chúng
phụ thuộc hoàn toàn vào USD. Do vậy các doanh nghiệp, để tránh rủi ro về giá cho mình,
buộc phải niêm yết bằng USD. Ngoài ra doanh nghiệp niêm yết giá bằng USD còn để tăng
tính “hiện đại”, “thương mại điện tử”. Điều này rất đáng lo ngại vì kinh doanh qua mạng
sẽ trở thành loại hình kinh doanh chủ yếu trong tương lai.
Việt Nam đang phải nhập khẩu máy móc, thiết bị, công nghệ, hàng hóa tiêu dùng từ

các nước khác (nhất là các nước phát triển), nhu cầu nhập khẩu của chúng ta rất lớn.
Năm 2004 Việt Nam nhập khẩu 31.953,9 triệu USD; Cán cân thương mại luôn
thâm hụt nặng (nhập khẩu nhiều hơn xuất khẩu), kể từ khi đổi mới nền kinh tế đến nay chỉ
có mỗi năm 1992 cán cân thương mại của Việt Nam thặng dư được khoảng 90 triệu USD
còn lại thì luôn luôn thâm hụt.
Thực tế cho thấy, ở các quốc gia càng phát triển thì kim ngạch buôn bán hai chiều
càng lớn, như: Mỹ, Nhật Bản, Anh, Đức….Do đó trong hiện tại và tương lai Việt Nam cần
rất nhiều ngoại tệ, đặc biệt là các ngoại tệ mạnh như: USD, GBP, DMD, JPY…để phục vụ
cho các giao dịch với phần còn lại của thế giới.
II. NGUYÊN NHÂN CỦA ĐÔ LA HÓA Ở VIỆT NAM
Thứ nhất trong một thời gian dài tỷ lệ lạm phát của VND ở mức cao đã dẫn đến sự
mất lòng tin của công chúng đối với VND. Chính điều này đã kích thích người dân tìm
kiếm một sự thay thế, nắm giữ một đồng tiền có tính ổn định cao hơn.
Tỷ lệ lạm phát ở Việt Nam vẫn ở mức độ cao trong khi đó lãi suất tiền gửi VND
không mấy hấp dẫn hơn so với USD. Thực tế này đã khiến cho người dân có suy nghĩ
rằng: lãi suất tiền gửi VND không đủ để bù đắp sự giảm giá của VND do vậy nếu họ gửi
tiết kiệm bằng VND trong các NHTM thì tiền của họ sẽ ngày càng mất giá. Hệ quả là họ
đem VND đổi lấy ngoại tệ mạnh có tính ổn định cao hơn như USD, EUR để gửi tại các
NHTM. Điều này giải thích cho sự tăng lên không ngừng trong doanh số tiền gửi ngoại tệ
tại các NHTM. Với doanh số tiền gửi ngoại tệ không ngừng tăng lên, các NHTM cũng
phải tìm cách để cho vay số ngoại tệ này, tránh tình trạng tồn đọng vốn. Đây chính là hiện
14

tượng đô la hóa nguồn vốn huy động và đô la hóa cơ cấu dư nợ cho vay của hệ thống ngân
hàng.
Biểu đồ 3: Diễn biến lạm phát ở Việt Nam từ năm 2009 đến nay.

Thứ hai, nguồn ngoại tệ chảy vào Việt Nam trong thời gian qua tăng nhanh do
chính việc cho phép các khoản tiền gửi bằng USD cũng như việc sử dụng gần như hợp
pháp hóa đồng USD tại Việt Nam đã làm gia tăng quá trình đô la hóa rất nhiều, mặt khác

có rất nhiều kênh để huy động ngoại tệ như: lượng ngoại tệ chi tiêu của khách du lịch nước
ngoài ở Việt Nam, hoạt động đầu tư nước ngoài, tiền lương, thu nhập của người Việt Nam
trong các công ty có vốn nước ngoài, trong các dự án liên doanh, số lượng người nước
ngoài đến Việt Nam làm việc, sinh sống, làm ăn, học tập ngày càng gia tăng dẫn đến chi
tiêu ngoại tệ rất lớn;….Một lượng lớn ngoại tệ như vậy đổ vào thị trường , làm cho tình
trạng đô la hóa nền kinh tế ngày càng trầm trọng.
Thứ ba, hệ thống pháp luật về ngoại hối, sử dụng ngoại tệ vẫn chưa đầy đủ, chặt
chẽ, khâu thực thi pháp luật vẫn còn yếu kém từ đó dẫn tới tình trạng giao dịch bằng ngoại
tệ vẫn diễn ra phổ biến.
Bên cạnh đó phải kể đến nguyên nhân xuất phát từ mệnh giá VND. Đồng tiền VND
mệnh giá nhỏ, cao nhất là tờ 500.000 được đưa vào lưu thông từ năm 2003. Do vậy sử
dụng USD tiện lợi hơn cho người dân trong các giao dịch lớn như mua bán đất đai, nhà
cửa, ô tô…
15

Thứ tư, do nhu cầu thanh toán quốc tế gia tăng và do ảnh hưởng của các dòng vốn
quốc tế. Kể từ khi thực hiện mở cửa nền kinh tế, kim ngạch xuất, nhập khẩu làm các dòng
vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam ngày càng gia tăng, bởi vậy các doanh nghiệp có nhu
cầu nắm giữ một lượng ngoại tệ lớn để phục vụ nhu cầu mở rộng thương mại và đầu tư
quốc tế.
Thứ năm, tình trạng buôn lậu, nhất là buôn bán qua biên giới và trên biển khá phát
triển, và một số nguồn ngoại tệ qua các hoạt động kinh tế ngầm khác mà chính phủ chưa
thể quản lí được, cùng với sự quản lý lỏng lẻo của chính quyền các cấp. Thêm vào đó là
tình trạng các doanh nghiệp, các cửa hàng kinh doanh…bán hàng thu bằng ngoại tệ còn
tùy tiện và diễn ra phổ biến đã làm cho một số lượng ngoại tệ chui vào túi tư nhân.
III. TÁC ĐỘNG CỦA ĐÔ LA HÓA Ở VIỆT NAM.
1/ Những tác động tích cực:
 Tình trạng đô la hóa đã góp phần tạo ra một cái van giảm áp lực đối với nền
kinh tế trong những thời kì lạm phát cao hay khi nền kinh tế bị mất cân đối nghiêm trọng,
những giai đoạn mà điều kiện kinh tế vĩ mô không ổn định.

Lịch sử Việt Nam và nhiều nước khác trên thế giới như: Đức, Nga, các quốc gia
Châu Phi… đã từng chứng kiến sự phá hoại khốc liệt của lạm phát cao, đặc biệt là lạm
phát phi mã. Do USD có giá trị khá ổn định nên nhiều người đã lựa chọn phương thức đối
phó với lạm phát là chuyển nội tệ sang USD để cất trữ. Nếu hệ thống ngân hàng có một
lượng lớn ngoại tệ dự trữ, đáp ứng được phần lớn nhu cầu đổi ngoại tệ của người dân thì
sẽ góp phần làm dịu sự hỗn loạn trong dân cư. Hơn nữa, chính hành vi đổi ngoại tệ của
người dân đã làm cho nội tệ được hút vào hệ thống ngân hàng, giảm cung nội tệ trên thị
trường, góp phần kiềm chế sự gia tăng của lạm phát.
Ở các nước đô la hoá chính thức, bằng việc sử dụng đồng ngoại tệ, họ sẽ duy trì
được tỷ lệ lạm phát gần với mức lạm phát thấp làm tăng sự an toàn đối với tài sản tư nhân,
khuyến khích tiết kiệm và cho vay dài hạn.
 Mức độ đô la hóa càng cao thì càng tăng cường khả năng cho vay và khả
năng hội nhập của ngân hàng.
Nhờ có một lượng lớn ngoại tệ gửi vào ngân hàng, các ngân hàng sẽ có điều kiện
cho nền kinh tế vay bằng ngoại tệ, qua đó hạn chế vay nợ nước ngoài, tăng cường khả
năng kiểm soát của NHTW đối với luồng ngoại tệ. Đặc biệt ngày nay khi quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế diễn ra ngày càng sâu rộng, nhiều doanh nghiệp đã tham gia các giao
dịch vượt qua biên giới quốc gia, nhu cầu vay ngoại tệ rất lớn. Họ vay để thanh toán quốc
tế, đầu tư ra nước ngoài, thậm chí để phục vụ các hoạt động kinh doanh trong nước vì lãi
suất USD thấp, ổn định mệnh giá USD lớn .Bên cạnh đó, với lượng lớn ngoại tệ tiền gửi
16

tại ngân hàng sẽ tạo điều kiện để các ngân hàng mở rộng các hoạt động đối ngoại, thúc
đẩy quá trình hội nhập của thị trường trong nước với thị trường quốc tế
 Đô la hóa làm thu hẹp chênh lệch tỷ giá trên hai thị trường chính thức và
phi chính thức: tỷ giá chính thức càng sát với thị trường phi chính thức, tạo ra động cơ để
chuyển các hoạt động từ thị trường phi chính thức (bất hợp pháp) sang thị trường chính
thức (thị trường hợp pháp).
 Đô la hóa giúp hạ thấp chi phí giao dịch: ở những nước đô la hoá chính
thức, các chi phí như chênh lệch giữa tỷ giá mua và bán khi chuyển từ đồng tiền này sang

đồng tiền khác được xoá bỏ. Các chi phí dự phòng cho rủi ro tỷ giá cũng không cần thiết,
các ngân hàng có thể hạ thấp lượng dự trữ, vì thế giảm được chi phí kinh doanh.

 Các nước thực hiện đô la hoá chính thức có thể loại bỏ rủi ro cán cân thanh
toán và những kiểm soát mua ngoại tệ, khuyến khích tự do thương mại và đầu tư quốc tế.
2/ Những tác động tiêu cực:
 Đô la hóa làm giảm hiệu quả điều hành của chính sách tiền tệ : gây khó
khăn trong việc dự đoán diễn biến tổng phương tiện thanh toán, do đó dẫn đến việc đưa ra
các quyết định về việc tăng hoặc giảm lượng tiền trong lưu thông kém chính xác và kịp
thời.
 Đô la hóa còn làm cho đồng nội tệ trở nên nhạy cảm hơn đối với các thay
đổi từ bên ngoài, nhất là các loại rủi ro tài chính tiền tệ mang tính chu kỳ của nền kinh tế
thị trường trong điều kiện toàn cầu hoá như hiện nay: rủi ro thanh khoản ngoại tệ, rủi ro tỷ
giá, rủi ro lãi suất, rủi ro rút vốn đầu tư nước ngoài, rủi ro nợ quốc gia Do đó những cố
gắng của nhà nước nhằm điều chỉnh chính sách tiền tệ sẽ tác động đến tổng cầu của nền
kinh tế thông qua việc điều chỉnh lãi suất cho vay trở nên kém hiệu quả. Khi này, nền kinh
tế tồn tại không chỉ duy nhất đồng nội tệ mà còn nhiều ngoại tệ khác cho nên khi nhà nước
giảm lãi suất tiền gửi nhằm giảm tiết kiệm, tăng tiêu dùng trong dân cư. Nhưng Chính phủ
có thể không đạt được mục tiêu một cách hiệu quả vì trong tình hình đó người dân có thể
không tiêu dùng mà chuyển sang tiết kiệm bằng ngoại tệ, nghĩa là đô la hóa tăng.
 Đô la hóa ảnh hưởng trực tiếp đến việc hoạch định và thực thi chính sách tỷ
giá của Nhà nước. Nó làm cho cầu tiền cả nội tệ và ngoại tệ không ổn định, người dân có
nhiều sự lựa chọn hơn cho tài sản của mình. Nếu tình hình trong nước không thuận lợi,
lạm phát cao hay chỉ đơn giản là niềm tin vào sự tăng giá của USD trong tương lai sẽ
khuyến khích người dân đi mua ngoại tệ để cất trữ của cải hoặc đầu cơ ngoại tệ, làm tăng
cầu USD, gây sức ép tăng tỷ giá. Ngược lại nếu thấy những yếu tố bất lợi cho việc nắm
giữ đô la như USD có xu hướng giảm giá…thì người dân có thể lập tức bán ra ồ ạt USD,
17

gây sức ép giảm giá USD, làm tỷ giá giảm. Sự biến động thất thường của tỷ giá gây ra

nhiều bất lợi cho đất nước.
 Khi một quốc gia bị đô la hóa ở mức độ cao, đặc biệt là đô la hoá bằng
USD thì chính sách tài chính tiền tệ còn chịu sự phụ thuộc vào các chính sách của Mỹ. Sự
phụ thuộc càng lớn khi mức độ đô la hóa càng cao.
 Đô la hóa chính thức sẽ làm mất đi chức năng của ngân hàng Trung ương
trong vai trò là người cho vay cuối cùng của hệ thống ngân hàng thương mại. Còn ở
những nước đô la hóa không chính thức thì Ngân hàng Trung ương cũng không có chức
năng cho vay cuối cùng về ngoại tệ.

18

CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC ĐÔ LA HÓA Ở
VIỆT NAM
I. GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC ĐÔ LA HÓA Ở VIỆT NAM
Đô la hóa là tình trang khó tránh khỏi đối với các nước có điểm xuất phát thấp,đang
trong chuyển đổi và hội nhập kinh tế như quốc tế như Việt Nam. Tâm lý lo ngại về lạm
phát, về mất giá của đồng nội tệ, thói quen sử dụng tiền mặt trong giao dịch không thể
một sớm một chiều xóa bỏ được.
Quan điểm, chủ trương của Đảng, Chính phủ và ngân hàng nhà nước trong vấn đề
đô la hóa là rất rõ ràng: xóa bỏ đô la hóa trog nền kinh tế-xã hội nước ta phải thực hiện
từng bước, từng khâu thích ứng với từng giai đoạn đổi mới,phát triển của đất nước; phải
bằng nhiều giải pháp vừa kinh tế, vừa hành chính kết hợp với giáo dục pháp luật điều
chỉnh tâm lý xã hội trong lộ trình thực thi nhiều cơ chế kinh tế nghiệp vụ ngân hàng cụ thể
nối tiếp nhau, để nâng vị thế của đồng tiền Việt Nam trong các chức năng thuộc tính của
tiền tệ.
Việc xóa bỏ đô la hóa không thể xử lý theo quan điểm xóa bỏ sạch trơn, phủ định
tất cả. Trong giai đoạn hiện nay cố gắng khai thác các mặt lợi, thu hút vốn đô la trong dân
vào các hệ thống ngân hàng, đầu tư cho các dự án phát triển kinh tế-xã hội, thị trường
ngoại tệ và hoạt động kinh tế của nước ta đang hội nhập với thị trường tiền tệ quốc tế.
Phải kiềm chế, đẩy lùi và hạn chế các mặt tiêu cực, có nghĩa là chúng ta chấp nhận sự tồn

tại của đô la hóa ở mặt tích cực khác quan. Điều quan trọng nhất là nhà nước phải giữ vai
trò chủ động để điều chỉnh hiện tượng đô la hóa, nhất quyết phải có các giải pháp hành
chính-kinh tế-giáo dục đồng bộ để triệt tiêu các mặt tiêu cực của đô la hóa. Chúng ta
không thể sử dụng các biện pháp hành chính đã từng áp dụng trước đây như: tăng tỷ lệ kết
hối lên 100%, không cho nhận kiều hối bằng ngoại tệ, chỉ cho phép doanh nghiệp được
mở tài khoản ngoại tệ tại một ngân hàng Những biện pháp hành chính trên chứng tỏ
chúng ta đang gây khó khăn cho doanh nghiệp, không khuyến khích nguồn kiều hối
chuyển về nước và không phù hợp xu hướng hội nhập thế giới. Do đó để giữ được mặt
tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực của đô la hóa phải thực hiện các giải pháp dưới
đây:
1/ Tạo môi trường đầu tư trong nước.
- Thúc đẩy phát trển môi trường kinh tế vĩ mô, tạo môi trường cạnh tranh thực sự
giữa các thành phần kinh tế trong sản xuất, thương mại, dịch vụ và trong cả lĩnh vực tài
chính ngân hàng.
- Mở rộng các dự án đầu tư của Chính Phủ: dầu khí, cầu đường, điện lực khuyến
khích sự tham gia của các thành phần kinh tế.
19

- Phát triển các công cụ tài chính như cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, đa dạng hóa các
danh mục đầu tư trong nước.
- Thay cho dự kiến phát hành trái phiếu ngoại tệ trên thị trường quốc tế bằng việc
mở rộng phát hành trái phiếu ngoại tệ ở trong nước, huy động vốn đô la ở trong dân.
2/ Những biện pháp trong lĩnh vực tiền tệ
Cần tiếp tục có cơ cấu tích cực mệnh giá đồng Việt Nam , phát triển dịch vụ ngân
hàng và mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế. Đẩy mạnh tuyên
truyền về sử dụng thẻ , kể cả thẻ tín dụng quốc tế.
Thay cho việc chỉ gắn với dồng đô la Mỹ như trước đây, tỷ giá ngang giá nên gắn
với một "rổ" tiền tệ bao gồm một số ngoại tệ mạnh như USD, EURO, JPY và một số đồng
tiền của các nước trong khu vực như Trung Quốc, Hàn Quốc….
Các ngân hàng chỉ được phép cho vay đồng USD, đối với những đối tượng có

doanh thu trực tiếp và có khả năng chi trả bằng USD. Còn tất cả các doanh nghiệp trong
nước vay các NHTM trong nước đều có thực hiện bằng đồng bản tệ.
Sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ (như lãi suất, dự trữ bắt buộc ) để tác
động đến điều kiện thị trường nhằm làm cho đồng Việt Nam hấp dẫn hơn đô la Mỹ. Qua
đó hạn chế xu hướng chuyển đổi từ đồng Việt Nam sang đô la Mỹ. Trong điều kiện hiện
nay lãi suất ngân hàng không thay đổi, ngân hàng nhà nước có thực hiện điều chỉnh lãi
suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu như phát tín hiệu để các NHTM tăng lãi suất huy
động đồng Việt Nam.
3/ Cần nhất quán chủ trương quản lý lưu hành ngoại tệ.
Muốn nhất quán chủ trương “trên đất nước Việt Nam chỉ dùng tiền Việt Nam”, cần có
các quy định về việc sử dụng ngoại tệ như sau:
- Chi trả bằng ngoại tệ ở Việt Nam bao gồm tiền mặt hay chuyển khoản cũng
không được phép, trừ duy nhất trường hợp trả chuyển khoản cho các tổ chức kinh doanh
được ngân hàng nhà nước cho phép tiếp tục thu ngoại tệ.
- Việc chi trả cho người hướng trong nước các khoản tiền như kiều hối, tiền lương,
tiền thu nhập từ xuất khẩu lao động bằng ngoại tệ tiền mặt theo yêu cầu cũng nên chấm
dứt, việc này chỉ thực hiện bằng tài khoản tiền gửi ngoại tệ hoặc chi trả bằng tiền Việt
Nam.
- Cá nhân có tài khoản ngoại tệ tại NHTM chỉ rút ra bằng tiền mặt ngoại tệ để cất
giữ riêng hoặc để đưa đi nước ngoài chi tiêu.
20

- Ngăn chặn và giảm dần các hoạt động kinh tế ngầm, kiểm soát chặt chẽ tình trạng
buôn lậu, tình trạng bán hàng thu ngoại tệ trong nước. Cần có biện pháp hạn chế đến mức
tối đa việc lưu thông và sử dụng đô la Mỹ, niêm yết giá bằng đô la Mỹ trên thị trường Việt
Nam.
4/ Các giải pháp trong chính sách quản lý ngoại hối.
Về quan điểm chính sách cần đối xử với đô la như đối xử với một loại hàng hóa
nhập khẩu hơn là đối xử như với 1 liên minh tiền tệ lẫn lộn các chức năng với nội tệ trong
thị trường tài chính trong nước.

Trong khi giá cả đồng USD trên thị trường quốc tế và lãi suất trong chính nước Mỹ
giảm, thì tại Việt Nam lãi suất huy động và cho vay USD lại có xu hướng gia tăng . Điều
đó chứng tỏ cơ chế quản lý ngoại hối là có vấn đề mà chỉ có Việt Nam mới gặp phải.
Lý do là nhiều nước trên thế giới không cho phép có hoạt động tín dụng ngoại tệ,
đặc biệt là loại tín dụng ngoại tệ ngắn hạn. Nhiều nước cũng có luật cấm nghiêm ngặt việc
thanh toán hàng hóa dịch vụ trong nội địa bằng ngoại tệ.
Hiện nay ở nhiều NHTM nước ta có dấu hiệu nghịch lý về đồng USD, biểu hiện
qua hiện tượng "thiếu tiền, thừa vốn". Do lãi suất huy động ngoại tệ tăng , cùng với tỷ giá
có xu hướng tăng và đứng ở mức cao nên lượng " tiền gửi ngoại tệ" tăng, trong lúc tiền
mặt ngoại tệ "mua đứt bán đoạn" lại hiếm.
Tại Việt Nam tình trạng đô la hóa rất cao, nên khi lạm phát bùng nổ thì ngoại tệ
"lên ngôi" ngay cả khi chính nó đang bị mất giá rất nặng ở quê hương của nó và ở khắp
các nền kinh tế công nghiệp phát triển. Do đó cần sử dụng cơ chế mua đứt bán đoạn thay
cho cơ chế tín dụng ngoại tệ, cần phải tạo cơ chế cho phát triển mạnh thị trường ngoại hối
kèm theo việc kiểm soát chặt các hoạt động đô la hóa trong đó bao gồm cả việc cho phát
triển mạnh các giao dịch phát sinh ngoại hối để các bên tham gia thị trường tự bảo vệ
trước những biến động rủi ro về tỷ giá. Phải tuân theo nguyên tắc: "trên lãnh thổ Việt Nam
chỉ tiêu Việt Nam Đồng".
Cần ban hành ngay các văn bản quy phạm pháp luật về việc thanh tra, kiểm soát
mọi hành vi vi phạm việc sử dụng ngoại tệ trong thanh toán, trao đổi hàng hóa, dịch vụ
trên lãnh thổ Việt Nam.
Về thái độ chính sách , phải coi tỷ giá là một phạm trù giá cả trên thị trường ngoại
hối để làm phương tiện chuyển đổi quyền sở hữu tiền tệ theo quy luật của nó. Mọi nguồn
dự trữ ngoại hối quốc gia phải được thống nhất quản lý lưu giữ tại NHTW.
21

II. MẶT TRÁI CỦA NHỮNG GIẢI PHÁP CHỐNG ĐÔ LA HÓA
- Do quy định rõ những cơ quan đơn vị được phép sử dụng USD trong giao dịch,
trong thanh toán xuất nhập khẩu nên sẽ tạo ra những giao dịch ngầm trong nền kinh tế làm
cho tỷ giá mua vào bán ra chênh lệch lớn, chi phí tốn kém, rủi ro cao, gây thiệt hại cho

người dân.
- Rủi ro lớn có thể xảy ra là khi chống đô la hóa, hệ thống thanh toán chỉ cho phép
dùng đồng nội tệ và phải thu gom USD về. Trong quá trình chuyển USD về VND nếu
không khéo sẽ tạo áp lực tăng tiền mặt và lập tức gây lạm phát tiền tệ. Đây là bài học đã
gặp phải năm 2007 khi ta nhập về hơn 9 tỷ USD.




22

KẾT LUẬN
Đô la hóa là tình trạng khó tránh khỏi với một quốc gia có nền kinh tế còn non yếu
và đang trong quá trình chuyển đổi như Việt Nam. Vấn đề là phải kiểm soát và khai thác
được những mặt lợi để vận dụng tốt vào thực tế của đất nước. biện pháp hiệu quả nhất
vẫn là từ lợi ích kinh tế, với cơ chế lãi suất thỏa đáng và linh hoạt, với cơ chế điều hành
tỷ giá ổn định và hệ thống ngân hàng có uy tín sẽ cho phép huy động tối đa nguồn ngoại
tệ trong dân vào ngân hàng. Đồng thời cũng không thể coi nhẹ biện pháp hành chính, đó
là thu hẹp và quản lí chặt chẽ các đơn vị bán hàng và làm dịch vụ được phép thu bằng
ngoại tệ, không thể để tình trạng lỏng lẻo và tùy tiện như thời gian qua.
Tuy nhiên, giải quyết vấn đề đôla hóa đúng là khó khăn, song để bảo vệ tiền tệ quốc
gia thì khó mấy cũng phải làm theo phương châm “Dĩ bất biến ứng vạn biến”. “ Dĩ bất
biến” trong sự kiện đô la hóa trên đất nước Việt Nam chỉ lưu hành tiền Việt Nam, còn
“ứng vạn biến” sẽ tùy thuộc vào tài năng điều hành các công cụ chính sách tiền tệ một
cách thông minh, linh hoạt.
Qua quá trình nghiên cứu, đề tài đã làm rõ thực trạng đô la hóa đang diễn ra, những
tác động tích cực, tiêu cực cũng như những nguyên nhân của hiện tượng đó trong nền
kinh tế Việt Nam. Từ đó nhóm đã phân tích và đề xuất giải pháp nhằm góp phần giải
quyết những mặt hạn chế của hiện tượng đô la hóa ở Việt Nam.
Với sự mở cửa của khu vực tài chính trong những năm tới, việc kìm chế và đẩy lùi

tình trạng đô la hóa sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Muốn làm được cần phải có thời gian và
quyết tâm cao. Điều quan trọng là những mặt tích cực mang lại lợi ích của hiện tượng đô
la hóa không bị xoá bỏ, nó tồn tại đan xen trong cơ chế thị trường mở cửa và hội nhập,
được sử dụng như một giải pháp bổ sung trong chính sách tiền tệ tích cực của đất nước
trong giai đoạn mới, còn những mặt tiêu cực của đô la hóa thì cần phải được kiềm chế,
đẩy lùi và xoá bỏ. Và để hạn chế giảm tình trạng đô la hóa không phải có thể thực hiện
trong thời gian ngắn, tuy nhiên trong bối cảnh tự do hóa tài chính và Việt Nam gia nhập
WTO, thời gian này cần được rút ngắn nếu không nền kinh tế không phải lâm vào tình
hình đôla hóa hoàn toàn, không còn khả năng bảo vệ trước những biến cố kinh tế kinh tế,
khủng hoảng kinh tế trong khu vực và thế giới. Hiện tượng đô la hóa ở Việt Nam trong
những năm qua dù đã giảm nhưng vẫn còn ở mức độ cao so với các nước trong khu vực.
Đô la hóa đã tạo lên những tác động trái chiều đến nền kinh tế nước ta. Để có thể khắc
phục được những hạn chế, phát huy những ưu điểm của hiện tượng đô la hóa, Chính phủ
Việt Nam cần có những chính sách và giải pháp hiệu quả hơn nữa.


23

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo Vietnamnet:
2. Báo Vneconomy:
3. Báo BBC:
4. Báo Thời báo Ngân hàng
5. Giáo trình Tài chính quốc tế - GS-TS Nguyễn Văn Tiến,NXB Thống kê 2011
6. Quản trị Tài chính quốc tế, Hồ Diệu – Nguyễn Văn Tiến NXB Thống kê 2011
7. Tiền tệ ngân hàng, Lê Thị Tuyết Hoa NXB Thống kê 2012
8. Tiền và hoạt động ngân hàng – TS Lê Vinh Danh, NXB Chính trị quốc gia 1996
9. Và nhiều tài liệu khác.





×