Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2007 2008 và sự ảnh hưởng đến thị trường xuất khẩu của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.7 KB, 11 trang )

MỤC LỤC
I. Lời mở đầu
1. Giới thiệu về đề tài
2. Lý do chọn đề tài

II. Nội dung
1.
2.
3.
4.
5.

Định nghĩa
Nguyên nhân
Biểu hiện
Đặc trưng
Khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2007-2008 và sự ảnh
hưởng đến thị trường xuất khẩu của Việt Nam


I. LỜI MỞ ĐẦU
1. Giới thiệu về đề tài
Trong mọi thời kỳ phát triển của kinh tế ln có những lúc chỉ số kinh tế
tăng vượt bậc và bên cạnh đó cũng có lúc nó xuống mức âm. Sản xuất hàng hóa
giản đơn của chủ nghĩa tư bản ra đời với những ưu điểm vượt trội của nó đã thúc
đẩy sản xuất, trao đổi và lưu thơng hàng hóa. Vì vậy nó đã thúc đẩy nền sản xuất
chủ nghĩa tư bản lên mức mới cao hơn hẳn mức cũ. Nhưng đi kèm với phương
thức sản xuất chủ nghĩa tư bản lại là những mặt trái không thể tránh khỏi. Một
trong những vấn đề đó chính là những cuộc khủng hoảng kinh tế chu kỳ cứ 8 đến
12 năm lại diễn ra một lần. Khủng hoảng kinh tế, đặc biệt là khủng hoảng kinh tế
dưới chủ nghĩa tư bản là một hiện tượng gắn liền với bản chất của nền kinh tế thị


trường tư bản chủ nghĩa.
Thế giới đã phải chứng kiến rất nhiều cuộc khủng hoảng kinh tế và chịu
những hậu quả nặng nề mà nó gây ra. Tùy theo cách phân chia mà người ta chia
khủng hoảng kinh tế ra thành các loại như khủng hoảng thừa, khủng hoảng thiếu,
khủng hoảng nợ, khủng hoảng cơ cấu, khủng hoảng cung cầu, khủng hoảng năng
lượng, công nghiệp, tiền tệ,…

2. Lý do chọn đề tài
Khủng hoảng kinh tế có ảnh hưởng lớn đến mọi mặt, mọi vấn đề của đời
sống xã hội, thậm chí có thể gây ra các cuộc chiến đẫm máu. Khủng hoảng kinh tế
thế giới cũng gây tác động vô cùng lớn đến đền kinh tế của Việt Nam. Do vậy việc
nghiên cứu về khủng hoảng kinh tế là vô cùng cần thiết. Từ đề tài nghiên cứu này,
ta sẽ tiếp tục mở rộng và nghiên cứu kỹ hơn về các nguyên nhân gây ra khủng
hoảng kinh tế, các đặc trưng của khủng hoảng kinh tế, hậu quả của nó cũng như sự
tác động đến nền kinh tế Việt Nam. Em chọn đề tài này vì cảm thấy đây là một vấn
đề khá thú vị, dễ dàng tìm hiểu và quan trọng hơn hết là nó tác động rất trực tiếp
đến nền kinh tế của Việt Nam.

II. NỘI DUNG
1. Định nghĩa
Nếu như trong sản xuất hàng hóa giản đơn, với sự phát triển của của chức
năng phương tiện thanh toán của tiền tệ đã làm xuất hiện khả năng nổ ra khủng
hoảng kinh tế, thì đến chủ nghĩa tư bản, khi nền sản xuất đã xã hội hóa cao độ,


khủng hoảng kinh tế là điều không thể tránh khỏi. Từ đầu thế kỷ XIX, sự ra đời
của đại công nghiệp cơ khí đã làm cho q trình sản xuất tư bản chủ nghĩa bị gián
đoạn vởi những cuộc khủng hoảng có tính chu kỳ. Hình thức đầu tiên và phổ biến
trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là khủng hoảng sản xuất “thừa”. Khi khủng
hoảng nổ ra, hàng hóa khơng tiêu thụ được, sản xuất bị thu hẹp, nhiều doanh

nghiệp bị vỡ nợ, phá sản, thợ thuyền bị thất nghiệp, thị trường bị rối loạn. Trong
lúc khủng hoảng thừa xảy ra, hàng hóa đang bị phá hủy thì hàng triệu người lao
động lại lâm vào tình trạng đói khổ vì họ khơng có khả năng thanh tốn.
Như vậy, khủng hoảng kinh tế là thuật ngữ đã xuất hiện rất lâu trong công
cuộc phát triển kinh tế. Vậy thực chất khủng hoảng kinh tế theo học thuyết kinh tế
của Mác là “sự suy giảm các hoạt động kinh tế kéo dài và trầm trọng hơn cả suy
thoái trong chu kỳ kinh tế”. Ngoài ra trong học thuyết kinh tế chính trị của MácLênin thì khủng hoảng kinh tế ảm chỉ thời gian chuyển biến rất nhanh sang giai
đoạn suy thoái kinh tế. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, ta cần xem rõ thuật ngữ “suy
thoái kinh tế”. Theo kinh tế học vĩ mơ, suy thối kinh tế là sự suy giảm tổng sản
phẩm quốc nội thực trong thời gian 2 quý hoặc hơn 2 quý liên tiếp trong năm, hay
nói cách khác là tốc độ tăng trưởng kinh tế âm liên tiếp trong 2 quý. Còn theo cơ
quan nghiên cứu kinh tế quốc gia của Hoa Kỳ thì suy thối kinh tế là sự tụt giảm
hoạt động kinh tế trên cả nước, kéo dài nhiều tháng. Từ đó ta thấy được rằng suy
thối kinh tế là sự sụt giảm của tất cả các hoạt động kinh tế bao gồm cả việc làm,
đầu tư, lợi nhuận doanh nghiệp,… Suy thoái kinh tế kéo theo cả giảm phát và lạm
phát. Như vậy, sự suy thoái trầm trọng và kéo dài được gọi là khủng hoảng kinh tế.

2. Nguyên nhân
Nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế tư bản chủ nghĩa bắt nguồn từ chính
những mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản. Đó là mâu thuẫn giữa trình độ xã
hội xóa cao của lực lượng sản xuất với chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về
tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Mâu thuẫn này biểu hiện ra thành các mâu
thuẫn:
- Mâu thuẫn giữa tính tổ chức, tính kế hoạch trong từng xí nghiệp rất chặt chẽ và
khoa học với khuynh hướng tự phát vơ chính phủ trong tồn xã hội.
- Mâu thuẫn giữa khuynh hướng tích lũy, mở rộng khơng có giới hạn của tư bản
với sức mua ngày càng eo hẹp của quần chúng do bị bần cùng hóa.
- Mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp tư bản và giai cấp lao động làm thuê.

3. Biểu hiện của khủng hoảng kinh tế



3.1. Trắc trở trong việc mua và bán:
Không bán được hàng hóa hoặc phải bán rẻ, khơng đủ tiền thanh tốn nợ đến
hạn. Giá ngun liệu lên khơng đủ tiền mua, nếu khơng vay được thì phải giảm
quy mơ sản xuất, sa thải công nhân, không tận dụng được công suất của máy móc,
thiết bị.

3.2. Mất cân đối trong sản xuất:
C. Mác đã phát hiện những quan hệ tỷ lệ cân đối giữa các bộ phận tổng sản
phẩm hàng năm giành cho tái sản xuất ra tư bản và cho tiêu dùng cá nhân. Nếu một
nước không tự đảm bảo được những tỷ lệ cân đối đó thì sẽ lâm vào khủng hoảng.
Ngoại thương có thể tạm thời góp phần giải quyết những mất cân đối đó, nhưng
ngoại thương chỉ đẩy mâu thuẫn ra một trường rộng rãi hơn, chứ không giải quyết
được mâu thuẫn, khiến cho khủng hoảng mang tính chất tồn thế giới.
Những điều kiện tạo ra sự trao đổi bình thường và quá trình bình thường của
tái sản xuất lại biến thành những điều kiện cho một q trình khơng bình thường,
thành bấy nhiêu khả năng khủng hoảng, bởi vì do tính chất tự phát của nền sản
xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa, bản thân sự cân bằng chỉ là một sự ngẫu nhiên.

3.3. Rối loạn hệ thống tín dụng:
Trong một chế độ sản xuất mà tất cả những mối liên hệ của quá trình tái sản
xuất đều dựa trên tín dụng, nếu đột nhiên tín dụng bị đình chỉ và chỉ những việc
thanh tốn bằng tiền mặt mới có hiệu lực thơi, thì thế nào cũng xảy ra khủng hoảng
và tình trạng xơ đẩy nhau chạy theo các phương tiện thanh tốn.
Trong hệ thống tín dụng, các doanh nghiệp nợ lẫn nhau, nên khả năng thanh
toán của người này lại do khả năng thanh toán của người kia quyết định. Chừng
nào quá trình tái sản xuất diễn ra liên tục, do đó việc tư bản quay trở về vẫn được
bảo đảm, thì chừng đó tín dụng vẫn được duy trì bình thường. Nhưng nếu xảy ra
một sự đình trệ do việc tư bản quay trở về bị chậm lại, do thị trường ứ trệ, do giá cả

sụt xuống, hàng hóa khơng bán được hoặc phải bán rẻ khơng đủ khả năng trả nợ,
lịng tin vào tín dụng bị tan vỡ, khơng cần mua bán chịu v.v. sẽ dẫn đến tình trạng
khan hiếm tín dụng. Việc khơng có khả năng thanh tốn khơng chỉ xuất hiện ở một
điểm mà ở nhiều điểm, do đó đẻ ra khủng hoảng.

3.4. Vi phạm quy luật về lưu thông tiền tệ:
Phát hành giấy bạc vượt số lượng tiền tệ cần thiết trong lưu thông sẽ gây lạm
phát. Nhưng phát hành giấy bạc không đủ cũng gây khủng hoảng. C. Mác đã dẫn


ra sự kiện đạo luật Ngân hàng Anh năm 1844 đã hạn chế số lượng giấy bạc ngân
hàng được phát hành dẫn đến khủng hoảng vào năm 1847 và 1857, nhưng khi
Chính phủ Anh xóa bỏ sự hạn chế đó vào tháng Mười năm 1847 và tháng Mười
Một năm 1857, thì cả hai lần đều đẩy lùi được khủng hoảng, từ đó phải đình chỉ thi
hành đạo luật đó.

3.5. Mất cân đối giữa sản xuất và nhu cầu có khả năng thanh tốn:
Do hệ thống tín dụng và ngoại thương mở rộng, do đầu cơ...đã tạo ra những
nhu cầu giả tạo vượt q nhu cầu có khả năng thanh tốn thực sự, khiến cho quy
mô sản xuất mở rộng quá mức, dẫn tới sản xuất thừa thêm trầm trọng. Hơn nữa,
lượng cầu từ phía cơng nhân khơng đủ, bởi vì lợi nhuận tồn tại được chính vì lượng
cầu mà cơng nhân có thể đưa ra lại ít hơn giá trị sản phẩm của họ, và lợi nhuận sẽ
càng lớn nếu lượng cầu đó càng ít đi một cách tương đối. Sự tiêu dùng của quần
chúng nhân dân không tăng lên một cách tương ứng với sự tăng lên của năng suất
lao động.

4. Đặc trưng của khủng hoảng kinh tế
Khủng hoảng kinh tế xuất hiện làm cho quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa
mang tính chu kỳ. Trong giai đoạn tự do cạnh tranh của chủ nghĩa tư bản, cứ
khoảng từ 8 đến 12 năm, nền kinh tế tư bản chủ nghĩa lại phải trải qua một cuộc

khủng hoảng kinh tế. Chu kỳ kinh tế của chủ nghĩa tư bản là khoảng thời gian nền
kinh tế tư bản chủ nghĩa vận động từ đầu cuộc khủng hoảng này đến đầu cuộc
khủng hoảng sau. Chu kỳ kinh tế gồm 4 giai đoạn: khủng hoảng, tiêu điều, phục
hồi, hưng thịnh.


- Khủng hoảng: Là giai đoạn khởi điểm của chu kỳ kinh tế mới. Ở giai đoạn này,
hàng hóa ế thừa, ứ đọng, giá cả giảm mạnh, sản xuất đình trệ, xí nghiệp đóng cửa,
cơng nhân thất nghiệp hàng loạt, tiền cơng hạ xuống. Tư bản mất khả năng thanh
tốn các khoản nợ, dẫn đến phá sản, lực lượng sản xuất bị phá hoại nghiêm trọng.
Đây là giai đoạn mà các mâu thuẫn biểu hiện dưới hình thức xung đột dữ dội.
- Tiêu điều: Đặc điểm của giai đoạn này là sản xuất ở trạng thái trì trệ, khơng cịn
tiếp tục đi xuống nhưng cũng không tăng lên, thương nghiệp vẫn đình đốn, hàng
hóa được đem bán hạ giá, tư bản để rỗi nhiều vì khơng có nơi đầu tư. Trong giai
đoạn này, để thốt khỏi tình trạng bế tắc, các nhà tư bản cịn trụ lại được sẽ tìm
cách giảm chi phí bằng cách hạ thấp tiền cơng, tăng cường độ và thời gian lao động
của công nhân, đổi mới tư bản cố định làm cho sản xuất vẫn cịn có lời trong tình
hình hạ giá. Việc đổi mới tư bản cố định làm tăng nhu cầu về tư liệu sản xuất và tư
liệu tiêu dùng, tạo điều kiện cho sự phục hồi chung của nền kinh tế.
- Phục hồi: Là giai đoaạn mà các xí nghiệp được khơi phục và mở rộng sản xuất.
Công nhân lại được thu hút vào làm việc, mức sản xuất đạt đến quy mô cũ, vật giá
tăng lên, lợi nhuận của tư bản do đó cũng tăng lên.
- Hưng thịnh: Là giai đoạn sản xuất phát triển vượt quá điểm cao nhất mà chu kỳ
trước đã đạt được. Nhu cầu và khả năng tiêu thụ hàng hóa tăng, xí nghiệp được mở
rộng và xây dựng thêm. Nhu cầu tín dụng tăng, ngân hàng tung tiền cho vay, năng
lực sản xuất lại vượt quá sức mua của xã hội. Do đó lại tạo điều kiện cho một cuộc
khủng hoảng kinh tế mới.


Từ cuộc khủng hoảng năm 1825, sau khi nền đại cơng nghiệp vừa mới thốt

khỏi thời kỳ ấu trĩ thì sự tuần hồn có tính chất chu kỳ mới bắt đầu. Tính trung
bình thuở ban đầu là mười năm, vì thời gian sử dụng tư bản cố định cũng vào
khoảng mười năm. Tư bản cố định là cơ sở vật chất cho những cuộc khủng hoảng
chu kỳ, vì khủng hoảng bao giờ cũng cấu thành khối điểm cho những khoản đầu tư
mới và lớn của tư bản. Do đó, đứng về tồn thể xã hội mà xét thì khủng hoảng ít
nhiều đều tạo một cơ sở vật chất mới cho chu kỳ chu chuyển sau đó. Tiến bộ khoa
học, cơng nghệ lại làm cho cuộc đời của tư bản cố định bị rút ngắn do những biến
thiên không ngừng trong các tư liệu sản xuất. Phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa càng phát triển thì những biến thiên này càng xảy ra thường xuyên hơn. Gắn
với tình hình này là sự thay thế tư bản cố định sớm hơn do hao mịn vơ hình, trước
khi những tư liệu sản xuất ấy sống trọn đời sống thể chất của chúng. Do đó chu kỳ
khủng hoảng được rút ngắn lại.

5. Khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2007-2008 và sự tác động
đến thị trường xuất khẩu của Việt Nam
5.1. Vài nét về cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2007-2008
Khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2007-2008 là một cuộc khủng hoảng bao gồm
sự đổ vỡ hàng loạt hệ thống ngân hàng, tình trạng đói tín dụng, tình trạng sụt giá
chứng khốn và mất giá tiền tệ quy mô lớn ở Mỹ và nhiều nước châu Âu, có nguồn
gốc từ khủng hoảng tài chính ở Hoa Kỳ. Nguyên nhân là do Bong bóng nhà ở cùng
với giám sát tài chính thiếu hồn thiện ở Hoa Kỳ đã dẫn tới một cuộc khủng hoảng
tài chính ở nước này từ năm 2007, bùng phát mạnh từ cuối năm 2008. Thơng qua
quan hệ tài chính nói riêng và kinh tế nói chung mật thiết của Hoa Kỳ với nhiều
nước. Cuộc khủng hoảng từ Hoa Kỳ đã lan rộng ra nhiều nước trên thế giới, dẫn
tới những đổ vỡ tài chính, suy thoái kinh tế, suy giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế ở
nhiều nước trên thế giới.
Hoa Kỳ là điểm xuất phát và là trung tâm của cuộc khủng hoảng. Ngay
khi bong bóng nhà ở vỡ cuối năm 2005, kinh tế Hoa Kỳ bắt đầu tăng trưởng chậm
lại. Tuy nhiên, bong bóng vỡ đã dẫn tới các khoản vay không trả nổi của người đầu
tư nhà ở đối với các tổ chức tài chính ở nước này. Giữa năm 2007, những tổ chức

tài chính đầu tiên của Hoa Kỳ liên quan đến tín dụng nhà ở thứ cấp bị phá sản. Giá
chứng khoán Hoa Kỳ bắt đầu giảm dần. Sự đổ vỡ tài chính lên đến cực điểm vào
tháng 10 năm 2008 khi ngay cả những ngân hàng khổng lồ và lâu đời từng sống sót
qua những cuộc khủng hoảng tài chính và kinh tế trước đây cũng lâm nạn. Tình


trạng đói tín dụng xuất hiện làm cho khu vực kinh tế thực của Hoa Kỳ cũng rơi vào
tình thế khó khăn, điển hình là cuộc Khủng hoảng ngành chế tạo ơ tơ Hoa Kỳ
2008-2010.
Nhiều tổ chức tài chính của các nước phát triển, nhất là các nước ở châu Âu,
cũng tham gia vào thị trường tín dụng nhà ở thứ cấp ở Hoa Kỳ. Chính vì vậy, bong
bóng nhà ở của Hoa Kỳ bị vỡ cũng làm các tổ chức tài chính này gặp nguy hiểm
tương tự như các tổ chức tài chính của Hoa Kỳ. Những nước châu Âu bị rối loạn
tài chính nặng nhất là Anh, Iceland, Ireland, Bỉ và Tây Ban Nha. Các thị trường
chứng khoán lớn của thế giới ở New York, London, Paris, Frankfurt, Tokyo đều có
thời điểm sụt giá lớn lịch sử. Tình trạng tồi tệ của các tổ chức tài chính đã khiến
cho tình trạng đói tín dụng xảy ra ở nhiều nước, ảnh hưởng nghiêm trọng tới khu
vực sản xuất thực. Khủng hoảng tài chính tồn cầu đã dẫn tới suy thối kinh tế ở
nhiều nước.

5.2. Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đến thị trường
xuất khẩu của Việt Nam
Tác động của khủng hoảng tài chính đến xuất khẩu là nhanh nhất vì đây là
lĩnh vực nhạy cảm nhất đối với biến động trên thị trường thế giới. Nhìn chung,
xuất nhập khẩu của Việt Nam sẽ chịu tác động rất lớn bởi:
- Việt Nam là một trong một số nước có độ mở ngoại thương khá lớn
- Trước khủng hoảng, Việt Nam nằm trong tốp 50 quốc gia có kim ngạch xuất
khẩu và nhập khẩu hàng đầu thế giới
- Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam với các nước Mỹ, Nhật, châu Âu lên đến
52%, riêng Mỹ chiếm đến 20,8%. Ðây là những nước chịu ảnh hưởng trực tiếp của

suy thoái kinh tế, cầu đầu tư và tiêu dùng giảm, từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam
Tỷ trọng xuất nhập khẩu theo các đối tác thương mại của Việt Nam giai
đoạn 2000 – 2011


(Đơn vị: %)
Năm
2000 2001
ASEAN
18,1 17,0
EU
19,6 20,0
Đài Loan 5,2 5,4
Hàn Quốc 2,4 2,7
Hồng Kông 2,2 2,1
Nhật Bản 17,8 16,7
Trung Quốc10,6 9,4
Hoa Kỳ
5,1 7,1
Úc
8,8 6,9
Tổng cộng 89,8 87,3

2002
14,6
18,9
4,9
2,8
2,0

14,6
9,1
14,7
8,0
89,6

2003
14,7
19,1
3,7
2,4
1,8
14,4
9,3
19,5
7,1
92,1

2004
15,3
18,8
3,4
2,3
1,4
13,4
10,9
19,0
7,1
91,6


2005
17,7
17,0
2,9
2,0
1,1
13,4
9,9
18,3
8,4
90,7

2006
16,7
17,8
2,4
2,1
1,1
13,2
8,1
19,7
9,4
90,6

2007 2008 2009
16,7 16,5 15,3
18,7 17,4 16,5
2,3 2,2 2,0
2,6 2,9 3,6
1,2 1,4 1,8

12,5 13,5 11,1
7,5 7,7 9,5
20,8 19,0 20,0
7,8 6,9 4,2
90,2 87,5 83,9

2010
14,3
15,8
2,0
4,3
2,0
10,7
10,1
19,7
3,7
82,7

2011*
17,5
12,3
5,3
9,1
1,6
10,7
18,1
10,9
2,4
87,8


Nguồn: Tác giả tính tốn từ số liệu Kim ngạch xuất nhập khẩu phân theo nước,
khối nước và vùng lãnh thổ chủ yếu, Tổng cục Thống kê, *số sơ bộ
Các thị trường lớn như Mỹ, EU, Nhật là những thị trường truyền thống nhập 
khẩu  hàng sản xuất từ Việt nam đang  bị khủng hoảng, do mức sinh hoạt của
người dân bị đảo lộn, đòi hỏi mọi người phải cắt giảm chi tiêu, thắt lưng buột
bụng, mức độ mua hàng giảm, nhu cầu thanh toán yếu… Mỹ là thị trường xuất
khẩu lớn của Việt Nam chiếm khoảng 20-21% kim ngạch xuất khẩu. Khủng hoảng
tài chính đã tác động đến tốc độ tăng trưởng xuất khẩu vào thị trường Mỹ do cầu
tiêu dùng tại thị trường Mỹ đang trên đà giảm mạnh. Việc suy giảm tốc độ tăng
trưởng xuất khẩu vào thị trường Mỹ sẽ ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng xuất
khẩu chung của ViệtNam trong năm 2008 và cả năm 2009 (nếu nền kinh tế Mỹ
chưa có dấu hiệu phục hồi). Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng cịn tuỳ thuộc vào tính
chất của từng mặt hàng.
Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu năm 2008
STT

MẶT HÀNG

TIỀN(Triệu USD)

1

Dầu thô

10450

2

Dệt May


9108

3

Da giầy

4697

4

Hải sản

4562


5

Lúa gạo

2902

6

Đồ gỗ

2779

7

Điện tử ,máy tính


2703

8

Cà phê

2022

9

Cao su

1597

10

Than đá

1444

11

Dây & cáp điện

1014

12

Khác


19622

Nguồn: http// www.indembassy.com.vn/tabid/960/default.aspx
Thực tế cho thấy kể từ khi kinh tế thế giới khủng hoảng, xuất khẩu của Việt Nam
vẫn không ngừng tăng. Lý do hàng xuất khẩu của Việt Nam vẫn chủ yếu là hàng
thiết yếu có độ co giãn cầu với thu nhập thấp.

5.3. Giải pháp ứng phó của Việt Nam
Những khó khăn mà khủng hoảng tồn cầu mang lại đã làm cho hoạt động
xuất khẩu bị khó khăn, một số doanh nghiệp co cụm sản xuất hoặc đóng cửa ngừng
hoạt động và cơng nhân mất việc vì Doanh nghiệp khơng có tiền trả lương, hàng 
bán chậm, vay ngân hàng đến hạn không đáo hạn được …để các Doanh nghiệp
khơng bị đình đốn sản xuất, xuất khẩu, khơng bị vỡ hợp đồng do thiếu tài chính,
Nhà nước đã chỉ đạo các ngân hàng khoanh nợ, giãn nợ và tiếp tục cho vay. Bên
cạnh đó Nhà nước áp dụng hàng loạt biện pháp quyết liệt nhằm kiềm chế lạm phát
với chính sách tài khóa, giảm hạn mức cho vay đầu tư bất động sản và chứng
khoán, hạn chế lưu thơng tiền mặt, cho tạm hỗn, giãn tiến độ thi cơng một số cơng
trình đầu tư xây dựng cơ bản kém hiệu quả, tập trung vốn cho các công trình mang
lại hiệu quả kinh tế thấy được như: Nhà máy điện, Nhà máy lọc dầu…đồng thời
hạn chế thất thu thuế, tích cực thu thuế, nợ tồn đọng.
Ngồi ra, Chính phủ điều hành chính sách tiền tệ, linh hoạt, hiệu quả tạo
điều kiện cho các Doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn, điều chỉnh thuế suất thuế xuất
khẩu, cũng như thuế suất thuế nhập khẩu một số mặt hàng nhằm tránh những hiện
tượng tiêu cực đổ bể mang tính dây chuyền với thị trường trong nước và có giải
pháp ngăn chặn, xử lý kịp thời không để chúng xuất hiện, Nhà nước phải quản lý
chặt việc giao dịch ngoại tệ trên thị trường tự do nhằm hạn chế sự đầu cơ ngoại tệ


và gây sức ép tỷ giá, thông qua Ngân hàng Nhà nước tiến hành thực hiện nghiệp vụ

bán ngoại tệ làm giảm và bình ổn tỷ giá trên thị trường, tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp có nhu cầu nhập các thiết bị,… hỗ trợ cho Doanh nghiệp mở rộng
sản xuất và xuất khẩu, kích thích cho các doanh nghiệp trong nước cùng phát triển
sản xuất, bình ổn cuộc sống. Nhà nước phải sử dụng công cụ quản lý vĩ mô nhằm
điều chỉnh  thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển nhanh, mạnh, chất lượng, phù
hợp với thị hiếu thị trường trong thời kỳ khó khăn này, khuyến khích các doanh
nghiệp tăng cường mở rộng thị trường và thúc đẩy kinh doanh xuất khẩu.
Khủng hoảng tài chính tuy có những tác động nhất định đến nền kinh tế Việt
Nam trong ngắn hạn. Tuy nhiên, đây cũng là cơ hội để Việt Nam có thể thay đổi
chính sách, rà sốt lại các chính sách chưa phù hợp nhằm đưa ra các chính
sách phù hợp hơn như: chính sách về xuất khẩu, tỷ giá, tiền tệ, tài khoá…
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tổng cục Thống kê
2.
3. Sách giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin



×