THỰC TRẠNG TÀI CHÍNH VÀ TRIỂN KHAI TỰ CHỦ TÀI CHÍNH
TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CƠNG LẬP
Mai Thanh Phong
Trường Đại học Bách Khoa-ĐHQG TP.HCM
Theo Hiệp hội đại học Châu Âu (European University Association) (2012), tự
chủ đại học bao gồm (i) tự chủ về tổ chức (organisational autonomy), (ii) tự chủ về tài
chính (financial autonomy), (iii) tự chủ về nhân sự (staffing autonomy), (iv) tự chủ về
học thuật (academic autonomy). Trong đó, quyền tự chủ về tài chính cho phép trường
có điều kiện huy động các nguồn lực và phân bổ nguồn tài chính để hiện thực hóa
những mục tiêu đặt ra. Tự chủ về tài chính thể hiện ở các nội dung cụ thể sau: quyết
định mức học phí, trả lương cho giảng viên (theo thành tích nghiên cứu và giảng dạy),
phân bổ ngân sách một cách độc lập, sở hữu bất động sản, tài sản tài chính, vay vốn,
đầu tư ở thị trường tài chính. Một số trường đại học đã triển khai thực hiện thí điểm tự
chủ đại học trong giai đoạn 2014-2017 theo tinh thần Nghị định 77/NĐ-CP ngày
24/10/2014 về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với cơ sở giáo dục đại học công
lập giai đoạn 2014-2017. Cho đến nay, các trường đại học đang trong giai đoạn bắt
đầu thực hiện tự chủ đại học theo Luật Giáo dục đại học số 34/2018/QH14 ngày
19/11/2018 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học, có hiệu lực từ
01/07/2019 và Nghị định hướng dẫn số 99/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019. Bài viết này
trình bày một số điểm chính về thực trạng tài chính và một số vấn đề khi thực hiện tự
chủ tài chính trong trong các trường đại học cơng lập Việt Nam.
1. Thực trạng tài chính của các trường đại học cơng lập (ĐHCL) hiện nay
Nguồn tài chính cho giáo dục đại học (GDĐH) bao gồm nguồn ngân sách nhà
nước (NSNN) và nguồn thu hợp pháp của các cơ sở GDĐH.
Cơ chế tài chính GDĐH bao gồm chi NSNN cho GDĐH và phương pháp phân
bổ NSNN cho GDĐH thực hiện theo quy định tại Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày
25/4/2006 của Chính phủ về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ,
tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp cơng lập (ĐVSNCL);
hiện nay là Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy định cơ
chế tự chủ của ĐVSNCL, trong đó có cơ sở GDĐH cơng lập. Cơ chế quản lý chi NSNN
cho GDĐH (chi đầu tư và chi thường xuyên và phương pháp phân bổ NSNN cho
GDĐH) được thực hiện theo các quy định chung của Luật NSNN, Luật Đầu tư công và
các văn bản hướng dẫn. Nguồn thu hợp pháp của các cơ sở GDĐH công lập bao gồm
thu học phí; các khoản thu hợp pháp và nguồn vốn vay, viện trợ, tài trợ theo quy định.
Về nguyên tắc, Nhà nước vẫn phải có trách nhiệm đảm bảo cung cấp phần kinh
phí quan trọng cho các trường ĐHCL kể cả khi trường đã thực hiện tự chủ tài chính.
Tuy nhiên, việc cung cấp phần kinh phí này tới mức nào, theo cơ chế nào và trách
nhiệm của nhà trường đối với việc sử dụng phần kinh phí này như thế nào đối với một
trường đại học cụ thể cần phải được nghiên cứu kỹ và xác định phù hợp, hiệu quả. Đối
với các cơ sở giáo dục được Nhà nước bao cấp 100% kinh phí thì vẫn cần và có thể xây
dựng một cơ chế tự chủ về tài chính phù hợp và hiệu quả, đồng bộ với tự chủ về thực
hiện nhiệm vụ chuyên môn và tự chủ về tổ chức, biên chế, nhân sự.
401
Do nguồn tài chính từ ngân sách nhà nước cịn hạn hẹp, việc tăng cường huy
động và huy động có hiệu quả các nguồn lực tài chính cho cơ sở GDĐH, hướng tới phát
triển nhanh, toàn diện và bền vững đã trở thành một yêu cầu cấp thiết. Khi có nguồn lực
tài chính thì các trường đại học mới có cơ sở để phát triển các nguồn lực khác như cơ sở
vật chất, con người vì đó chính là những yếu tố quyết định đến chất lượng của giáo dục
đại học, trong giai đoạn hiện nay giáo dục đại học địi hỏi một nguồn lực tài chính rất
lớn.
Theo thống kê, hiện nay, nguồn tài chính của các trường đại học công lập
(ĐHCL) cơ bản là từ ngân sách nhà nước và thu từ học phí:
+ Ngân sách nhà nước chiếm từ 30% - 40% tổng thu của các trường ĐHCL hàng
năm. Do nguồn ngân sách được cấp là nguồn thu chủ yếu và lại phụ thuộc rất lớn vào
quy mô hay cụ thể hơn là số lượng sinh viên đầu vào của Trường, cho nên để gia tăng
nguồn thu chỉ có thể có được khi tăng quy mơ sinh viên.
+ Nguồn tài chính quan trọng thứ hai cho các trường là thu từ hoạt động sự
nghiệp, bao gồm nguồn thu từ sinh viên và các nguồn thu khác chiếm khoảng 60% 70% tổng nguồn thu của các trường. Bình quân các trường đại học tự đảm bảo cân đối
chi thường xuyên được khoảng 75% từ nguồn thu sự nghiệp. Tuy nhiên, với tỷ lệ chi
thường xuyên này vẫn chưa thể đảm bảo đủ nguồn lực để tăng cường đầu tư cơ sở vật
chất và đảm bảo thu nhập tăng thêm cho cán bộ, giảng viên hàng năm.
Sau một thời gian triển khai Nghị định 77/NĐ-CP năm 2014 về cơ chế tự chủ đại
học và cụ thể là tự chủ tài chính, các trường ĐHCL thực hiện thí điểm cơ chế tự chủ đã
đạt một số kết quả và tồn tại như sau:
Về cơ bản các trường ĐHCL đã đảm bảo được toàn bộ chi hoạt động thường
xuyên, thực hiện trách nhiệm xã hội đối với người học, miễn giảm học phí cho các đối
tượng chính sách, trích lập quỹ học bổng khuyến khích theo quy định và các trường
ĐHCL đó đều có chênh lệch thu lớn chi. Nhờ có cơ chế học phí mới, các trường cũng
có cơ hội và thuận lợi hơn trong thực hiện chính sách học bổng, học phí (gia tăng học
bổng, số xuất và số người được học bổng) đối với đối tượng chính sách. Có thể minh
chứng bằng số liệu như sau:
+ Thu từ học phí và lệ phí tăng 3% so với thời điểm trước tự chủ và vẫn là nguồn
thu chính của các trường đại học, chiếm trên 70% trong tổng thu của các trường;
+ Tổng thu giai đoạn thí điểm tự chủ năm 2015-2016 tăng 19,9% so với giai
đoạn trước tự chủ, trong đó: (i) Thu từ ngân sách nhà nước cấp chi thường xuyên,
không thường xuyên và vốn đầu tư xây dựng cơ bản tăng 29,8%; (ii) Thu hoạt động sự
nghiệp từ thu học phí, lệ phí, thu sự nghiệp khác tăng 23,5%; (iii) Thu hoạt động sản
xuất kinh doanh dịch vụ giảm 0,2%. Thu nhập của người lao động đã tăng lên rõ rệt so
với thu nhập bình quân giai đoạn trước;
+ Cơ cấu nguồn quỹ trích lập trong các trường tự chủ trên 24 tháng cũng có sự
phân hóa mạnh mẽ. Cùng với việc tăng học phí theo cơ chế tự chủ tài chính và tiếp tục
thu hút giảng viên và sinh viên, các trường cũng tăng quỹ trích lập lên 45,5% kể từ sau
tự chủ;
+ Trong khi đó, quỹ khen thưởng và quỹ phát triển sự nghiệp (giai đoạn 20152017) tăng lên, quỹ phúc lợi và quỹ ổn định thu nhập đều có xu hướng giảm xuống, tỷ
lệ giảm tương ứng là -17% và -14%.
402
Các trường ĐHCL được chủ động xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ trong phạm
vi nguồn tài chính được sử dụng phù hợp với từng đơn vị, dần dần quản lý hoạt động
của đơn vị theo đầu ra, giảm dần việc quản lý các yếu tố đầu vào.
2. Một số vướng mắc, tồn tại trong quá trình triển khai tự chủ đại nói chung
trong các trường ĐHCL
Tự chủ đại học đặt ra một số thách thức như năng lực tự chủ của một số trường
ĐHCL còn hạn chế, một số quy định của luật và các văn bản pháp quy chưa được rõ, cụ
thể dẫn đến nhiều vấn đề bất cập, lúng túng khi triển khai thực hiện.
Luật Giáo dục đại học số 34/2018/QH14 ngày 19 tháng 11 năm 2018 về sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học, có hiệu lực từ 01/07/2019 trong đó đề
cao tính tự chủ của các trường đại học đặc biệt là tự chủ về tài chính. Đây là cơ sở để
các trường ĐHCL chủ động xây dựng và triển khai các giải pháp gia tăng nguồn thu và
kế hoạch chi tiêu. Tuy nhiên, biện pháp gia tăng nguồn thu khả dĩ nhất của các trường
chỉ là từ nguồn thu học phí. Trong khi đó, trên bình diện chung của xã hội thì khả năng
chi trả của người học là chưa cao nên các trường phần lớn gặp khó khăn khi quyết định
nâng mức học phí. Hiện tại, việc tự chủ đại học là đồng nghĩa với việc nhà nước cắt
ngân sách chi thường xuyên, thậm chí cả chi đầu tư. Như vậy có thể thấy rõ, nguồn tài
chính của các trường đang đặt hết lên vai người học. Việc đa dạng hoá nguồn thu cho
các trường gặp rất nhiều rào cảm bởi quy định của các luật và văn bản pháp quy khác.
Chẳng hạn, Luật quản lý, sử dụng tài sản công; Luật đất đai sẽ hạn chế các trường triển
khai các hoạt động như liên doanh, liên kết, cho thuê, góp vốn đầu tư,… nhằm gia tăng
nguồn thu. Việc sở hữu và quyền khai thác kết quả nghiên cứu khoa học từ các công
trình nghiên cứu cũng gặp nhiều khó khăn bởi các quy định của Luật sở hữu trí tuệ,
Luật khoa học và cơng nghệ.
Bên cạnh các quy định theo Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Giáo dục
đại học, các cơ sở giáo dục ĐH vẫn phải tuân thủ các quy định của Luật Đầu tư công,
Luật Đấu thầu dẫn đến vướng mắc, khó khăn và chưa được chủ động trong nhiều hoạt
động liên quan đến mua sắm thiết bị, đầu tư công, xây dựng cơ bản, gây chậm tiến độ ở
nhiều dự án.
Việc thực hiện tự chủ về bộ máy, công tác tuyển dụng, bổ nhiệm, sa thải, cơ chế
tiền lương tại các Trường ĐHCL là đối tượng được điều chỉnh đồng thời bởi quy định
của nhiều luật: Luật Cán bộ, công chức; Luật Viên chức; Bộ luật Lao động; Luật Thi
đua khen thưởng; một số luật chuyên ngành… Điều này dẫn đến sự xung đột và chồng
chéo trong việc thực hiện.
Quyền và trách nhiệm của Hội đồng trường, quan hệ giữa hội đồng trường với
hiệu trưởng, Đảng uỷ,… cũng là vấn đề còn nhiều tranh cãi. Tất cả những điều này đều
có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của trường và tất nhiên đến chất lượng
đào tạo và nghiên cứu khoa học của các trường.
3. Kiến nghị, giải pháp tăng cường tự chủ tài chính tại các trường ĐHCL
Các cơ quan quản lý nhà nước cần tiếp tục rà sốt, xây dựng và hồn thiện khung
pháp lý về cơ chế tự chủ cho các trường đại học, đặc biệt trong tự chủ tài chính:
- Tiếp tục tăng đầu tư của nhà nước gắn với đổi mới phương thức và cơ chế
đầu tư của nhà nước cho phát triển giáo dục đại học phù hợp với xu thế chung của thế
giới và điều kiện cụ thể của Việt Nam, nâng cao hiệu quả đầu tư, theo hướng đầu tư có
403
trọng tâm, trọng điểm, có tính cạnh tranh gắn với kết quả, chất lượng, hiệu quả thực
hiện nhiệm vụ chuyên mơn của trường.
- Xây dựng chính sách cho phép trường đại học công lập được phép vay vốn
phát triển từ các định chế tài chính.
- Giao quyền sở hữu kết quả nghiên cứu cho các trường; các trường được
quyền khai thác và được miễn giảm các loại thuế liên quan hoạt động này.
- Trường đại học được sở hữu và khai thác cơ sở vật chất (đất đai, nhà cửa,
trang thiết bị,…) cho liên doanh, liên kết, hợp tác, cho thuê,… để gia tăng nguồn thu.
Kết luận
Tự chủ (Autonomy) là thuộc tính tất yếu của quản trị đại học hiện đại. Để nâng
cao hơn nữa chất lượng giáo dục đại học Việt Nam, Chính phủ đã ban hành Luật Giáo
dục đại học số 34/2018/QH14 ngày 19/11/2018 về sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Giáo dục đại học, có hiệu lực từ 01/07/2019 và Nghị định hướng dẫn số
99/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019. Trong đó, tự chủ đại học là một nội dung quan trọng.
Tuy nhiên, do đang trong giai đoạn đầu triển khai nên một số vấn đề vẫn còn lúng túng
khi thực hiện. Mặt khác, việc triển khai tự chủ đại học còn bị chi phối bởi các luật và
văn bản pháp quy khác nên chưa thực sự được “tự chủ” ở một số vấn đề. Điều này làm
hạn chế đáng kể thuộc tính quan trọng “tự chủ” của một trường đại học, cụ thể ở đây là
tự chủ về tài chính. Do đó, việc khơng ngừng rà sốt, điều chỉnh các luật và văn bản
pháp quy liên quan nhằm hoàn thiện cơ chế tự chủ đại học là hết sức cần thiết. Qua đó,
tạo hành lang pháp lý phù hợp cho phát triển giáo dục đại học, hòng bắt kịp các nền
giáo dục đại học khác trong khu vực và thế giới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Chính phủ (2014), Nghị quyết số 77/NQ-CP về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động
đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập giai đoạn 2014 – 2017, ban hành ngày
24 tháng 10 năm 2014
2.
Chính phủ, Nghị định số 16/2015/NĐ-CP quy định về cơ chế tự chủ của đơn vị sự
nghiệp công, ngày 14/2/2015;
3.
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2017), Báo cáo kết quả đánh giá tình hình thực hiện Nghị
quyết số 77/NQ-CP về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ cở GDĐH
công lập giai đoạn 2014-2017;
4.
Trang Thông tin điện tử Hội đồng lý luận TW, Một số vấn đề về cơ chế tự chủ của
các trường đại học;
5.
Tổng hợp ý kiến từ Báo cáo kiểm toán thực hiện cơ chế tự chủ tại các trường đại
học thuộc Bộ GD&ĐT của KTNN cho giai đoạn thí điểm tự chủ - năm 2019.
404