Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

Quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam - Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (524.83 KB, 95 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 3
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ VÀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU
TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI .................................................................................... 4
1.1.1. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ......................................................... 5
.........................................................................................................................................
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
APEC Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương
ASEAN Hiệp hội các nước Đông Nam Á
ASEM Diễn đàn hợp tác Á - Âu
BOT Hợp đồng xây dựng – kinh doanh – chuyển giao
BTO Hợp đồng xây dựng – chuyển giao – kinh doanh
BT Hợp đồng xây dựng – chuyển giao
BQL Ban quản lý
DN Doanh nghiệp
-1-
DNNN Doanh nghiệp nhà nước
DNTN Doanh nghiệp tư nhân
ĐTM Đánh giá tác động môi trường
ĐTNN Đầu tư nước ngoài
FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài
GPĐT Giấy phép đầu tư
GCNĐT Giấy chứng nhận đầu tư
IMF Quỹ tiền tệ quốc tế
KCN Khu công nghiệp
KCX Khu chế xuất
KKT Khu kinh tế
KCNC Khu công nghệ cao
KTTT Kinh tế thị trường
QLNN Quản lý Nhà nước


TTg CP Thủ tướng Chính phủ
UBND Ủy ban nhân dân
XHCN Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC BẢNG BIỂU ĐỒ
Trang
Bảng 2.1. Những thay đổi chủ yếu trong chính sách thu hút FDI trong các thời kỳ sửa đổi
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam......................................................29
Bảng 2.2. Danh sách các quốc gia và vùng lãnh thổ Việt Nam đã ký hiệp định song
phương về khuyến khích và bảo hộ đầu tư ...................................................36
Bảng 2.3. Tình hình cấp GCNĐT tư tại Việt Nam giai đoạn 1991 – 2007....................72
Biểu đồ 2.1. Cơ cấu vốn ĐTNN theo ngành giai đoạn 1987 – 2007.............................52
-2-
Biểu đồ 2.2. Cơ cấu vốn ĐTNN theo hình thức đầu tư giai đoạn 1987 - 2007 ............59
Biểu đồ 2.3. Tình hình cấp chứng nhận đầu tư tại Việt Nam giai đoạn 1987 - 2007.....73
Sơ đồ 1.1: Pháp luật về đầu tư nước ngoài....................................................................15
Sơ đồ 2.1. Lĩnh vực đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ...................................................48
Sơ đồ 2.2. Các hình thức đầu tư nước ngoài tại Việt Nam hiện nay..............................55
Sơ đồ 2.3. Các phương thức cơ bản hình thành DN liên doanh tại Việt Nam................55
Sơ đồ 2.4. Các phương thức cơ bản hình thành hợp đồng hợp tác kinh doanh..............56
Sơ đồ 2.5. Các phương thức cơ bản hình thành DN 100% vốn nước ngoài...................57
Sơ đồ 2.6. Các phương thức cơ bản hình thành hợp đồng BOT, BTO, BT....................59
Sơ đồ 2.7. Phân loại dự án cấp Giấy chứng nhận đầu tư...............................................61
Sơ đồ 2.8. Quy trình cấp Giấy chứng nhận đầu tư đối với các dự án loại 1...................62
Sơ đồ 2.9. Quy trình cấp Giấy chứng nhận đầu tư đối với các dự án loại 2...................62
Sơ đồ 2.10. Quy trình cấp Giấy chứng nhận đầu tư đối với các dự án loại 3.................63
Sơ đồ 2.11. Quy trình cấp Giấy chứng nhận đầu tư đối với các dự án loại 4.................64
Sơ đồ 2.12. Quy trình cấp Giấy chứng nhận đầu tư đối với các dự án loại 5.................65
MỞ ĐẦU
Việt Nam đã mở cửa cho các nhà đầu tư nước ngoài vào cuối thập kỷ 80’ theo
chính sách đổi mới và các cuộc cải cách kinh tế. Năm 2008 là năm thứ 21 thi hành chính

sách mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Trong khoảng 20 năm qua, đầu tư
nước ngoài đã trở thành một kênh quan trọng, đóng góp ngày càng lớn vào tăng trưởng
kinh tế, thúc đẩy việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại
hóa, mở rộng thị trường xuất khẩu và tăng nguồn thu đáng kể cho ngân sách Nhà nước,
tạo thêm thế và lực cho Việt Nam chủ động hội nhập sâu rộng với kinh tế khu vực và
trên thế giới.
Cũng trong 20 năm qua, công tác Quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư
nước ngoài đã có nhiều thay đổi theo hướng tạo ra một môi trường đầu tư hấp dẫn, bình
đẳng và an toàn thu hút ngày càng nhiều nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Bên cạnh những
-3-
thành tựu đã đạt được, công tác QLNN vẫn còn tồn tại nhiều bất cập ảnh hưởng trực tiếp
đến kết quả và hiệu quả thu hút đầu tư nước ngoài.
Xuất phát từ những điều trên, tôi lựa chọn đề tài: "Quản lý Nhà nước đối với
hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam – Thực trạng và giải pháp".
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ VÀ HOẠT
ĐỘNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
1.1. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ NÓI CHUNG VÀ QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ NÓI RIÊNG
Từ cuối thế kỷ XIX và sang cả thế kỷ XX nhiều trường phái kinh tế đã xuất
hiện trên thế giới, đặc biệt là sự xuất hiện trường phái của Samuelson. Ông chủ trương
phát triển kinh tế phải dựa vào cả “hai bàn tay” - là cơ chế kết hợp cả hai yếu tố thị
trường và Nhà nước. Samuelson đã đưa ra một hình ảnh khá thuyết phục, “điều hành
một nền kinh tế không có đồng thời cả Chính phủ lẫn thị trường thì cũng như định vỗ
tay bằng một bàn tay”.
Từ học thuyết “hai bàn tay” của Samuelson đã khẳng định vai trò quan trọng của
Nhà nước trong nền KTTT để hạn chế những khuyết tật của nó. Việt Nam cũng không
nằm ngoài quy luật đó. Nhà nước Việt Nam là tổ chức quyền lực chính trị của nhân dân
-4-
Việt Nam, đại diện cho nhân dân Việt Nam thực hiện quản lý thống nhất mọi mặt hoạt
động của đời sống xã hội trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, an ninh, quốc phòng, đối

ngoại. QLNN về kinh tế là nội dung quan trọng và rộng lớn nhất.
1.1.1. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Quản lý Nhà nước (QLNN) trong nền kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã
hội chủ nghĩa (XHCN) ở Việt Nam là một vấn đề lớn cả về lý luận lẫn thực tiễn. Trên
giác độ hình thức pháp lý, QLNN thể hiện trong ba nội dung: lập pháp, hành pháp, tư
pháp trong phạm vi quốc gia và cả những vấn đề liên quan đến thế giới.
Trong ba mặt đó, thì chức năng lập pháp của QLNN được thể hiện thông qua
việc xây dựng và ban hành hệ thống pháp luật là rất quan trọng. Hệ thống pháp luật
từ Hiến pháp đến các luật và văn bản dưới luật của Nhà nước là sự cụ thể hoá quyền lực
nhà nước và lợi ích của nhân dân. Còn QLNN nói chung, là sự điều hành, điều chỉnh các
hành vi, hành động của các tổ chức và của mọi công dân theo luật định bằng quyền lực
của Nhà nước.
Trên lĩnh vực hành pháp, bộ máy nhà nước bằng các hoạt động cụ thể, đưa pháp
luật vào đời sống xã hội, bảo đảm để pháp luật trở thành khuôn mẫu hoạt động của Nhà
nước, của cả xã hội, bảo đảm thực hiện thống nhất pháp luật ở mọi ngành, mọi cấp trên
phạm vi toàn lãnh thổ quốc gia. Quản lý của Nhà nước thể hiện qua cơ cấu tổ chức của
Nhà nước và sự phân công trách nhiệm thực hiện cũng như sự phân công phối hợp thực
hiện các nhiệm vụ QLNN trong tất cả mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội
trong phạm vi quốc gia và quốc tế.
Để đạt các mục tiêu trước mắt và mục tiêu lâu dài, Nhà nước ta thực hiện chức
năng QLNN thông qua bộ máy hành pháp với những công cụ như: xây dựng các chương
trình mục tiêu, quy hoạch, kế hoạch về từng lĩnh vực theo từng thời kỳ khác nhau.
Hoạt động tư pháp là một trong những phương pháp để thực hiện chức năng
QLNN. Chính lĩnh vực tư pháp, thông qua hoạt động của các cơ quan chức năng: Toà
án, Viện kiểm sát, Thanh tra,… thể hiện sự QLNN nhằm bảo đảm cho pháp luật được
thực hiện nghiêm, duy trì trật tự, kỷ cương phép nước, sự ổn định của xã hội; đồng thời
-5-
góp phần thực hiện các chương trình, quy hoạch, kế hoạch trên mọi lĩnh vực.
Vai trò QLNN của Nhà nước ta được cụ thể hơn và dễ nhận thấy trong việc
QLNN ở từng nhiều lĩnh vực khác nhau: chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc

phòng, mà lĩnh vực lớn nhất là QLNN trong lĩnh vực kinh tế.
1.1.2. NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA QLNN VỀ KINH TẾ
1.1.2.1. Xây dựng pháp luật kinh tế
Nhận thức được tầm quan trọng của việc xây dựng pháp luật kinh tế trong hệ
thống các hoạt động QLNN nhằm thể hiện Đảng cầm quyền có đường lối chính trị - kinh
tế rõ ràng, các điều kiện tối thiểu của hoạt động kinh tế - xã hội của mọi thành phần kinh
tế đã được thể chế hoá qua hệ thống pháp luật là một trong những điều kiện tiên quyết
làm cơ sở cho mọi công dân cũng như các nhà đầu tư nước ngoài có lòng tin để làm kinh
tế trên lãnh thổ Việt Nam và một phần cho các nhà đầu tư Việt Nam đầu tư ra nước
ngoài. Việc xây dựng pháp luật về kinh tế ở nước ta mặc dù đã được đặc biệt quan tâm
“tăng tốc” song là quá chậm trước yêu cầu chuyển sang KTTT có sự QLNN theo định
hướng XHCN và hội nhập quốc tế. Đây là điều Nhà nước ta đã thấy và đang tìm mọi
biện pháp để đẩy nhanh việc xây dựng pháp luật kinh tế.
1.1.2.2. QLNN về kinh tế thông qua tổ chức bộ máy QLNN
Cơ cấu tổ chức của Chính phủ theo nguyên tắc Bộ đa ngành, đa lĩnh vực thực
hiện chức năng quản lý vĩ mô bằng pháp luật, chính sách và hướng dẫn kiểm tra thực
hiện; theo hướng gọn nhẹ, chức năng rõ ràng, khoa học, hoạt động có hiệu lực hiệu quả;
giảm các cơ quan trực thuộc Chính phủ và tổ chức trực thuộc Thủ tướng Chính phủ.
1.1.2.3. QLNN về kinh tế thông qua việc xây dựng phương hướng, mục tiêu, chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
Việc QLNN về kinh tế ở nước ta thông qua việc xây dựng các kế hoạch kinh tế -
xã hội 5 năm và hàng năm, các quy hoạch, chương trình, v.v… Chức năng QLNN ở đây
không dừng ở các văn bản mà còn là kiểm tra, đôn đốc thực hiện và thực hiện báo cáo
quá trình thực hiện Chương trình. Xây dựng hệ thống các chính sách và dự án đầu tư
nhằm cụ thể hoá chương trình mục tiêu chiến lược.
1.1.2.4. QLNN đối với hệ thống các doanh nghiệp
-6-
Nhà nước ban hành các văn bản pháp luật về kinh tế nhằm bảo đảm sự bình đẳng
và quyền tự chủ của các DN thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Bên cạnh đó, hỗ
trợ các DN thuộc các thành phần kinh tế khác về tư pháp, về thông tin, các cơ quan

ngoại giao và thương mại của Nhà nước ta ở nước ngoài có trách nhiệm hỗ trợ các DN
trong nước về thị trường ở nước ngoài, về khả năng hợp tác đầu tư với nước ngoài ở
trong nước và đầu tư ra nước ngoài.
1.1.2.5. Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng cho mọi hoạt động kinh tế của đất
nước nói riêng, của nhu cầu toàn xã hội nói chung
Trong mỗi quốc gia luôn có các ngành sản xuất các loại hàng hoá và dịch vụ mà
các thành phần kinh tế khác không “mặn mà” đầu tư như các công trình hạ tầng cơ sở
như: đường sá, cầu cống, hệ thống cấp thoát nước, vận tải công cộng trong thành phố,
giáo dục, văn hoá, y tế; đầu tư ở các vùng sâu, vùng xa... Nhưng các ngành này lại không
thể thiếu cho một quốc gia. Đây chính là trách nhiệm của Nhà nước. Nhà nước phải đầu
tư xây dựng các loại DN hoạt động trong các ngành tổ chức xây dựng và khai thác sử
dụng các hệ thống kết cấu hạ tầng này.
1.1.2.6. Kiểm tra, kiểm soát hoạt động các đơn vị kinh tế
Kiểm tra các DN về việc tuân thủ các pháp luật kinh doanh, pháp luật lao động,
pháp luật về bảo vệ tài nguyên và môi trường; kiểm tra chất lượng sản phẩm, chống
hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng, kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm. Nhà
nước có các chính sách và biện pháp toàn diện nhằm thực hiện ngăn ngừa các dịch bệnh
cho cây, con và bảo vệ sức khoẻ của nhân dân khỏi các bệnh dịch ở trong nước và từ
nước ngoài lan vào nước ta, như cúm gia cầm, dịch bệnh gia súc,…
1.1.2.7. Kiểm tra các DN tuân thủ pháp luật về tài chính, kế toán, thống kê
Nhà nước đứng ra thông qua các tổ chức Viện Kiểm sát, Toà án để làm “trọng
tài” trong các vụ việc tranh chấp trong lĩnh vực kinh tế, liên quan đến lao động, phạm vi
trong nước và cả với ngoài nước.
1.1.2.8. Một số hình thức QLNN riêng có của nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa
Ngoài các hoạt động QLNN như đã nêu trên, ở Việt Nam và một số nước có thể
-7-
chế chính trị gần giống nước ta còn có một số các hình thức QLNN khác đó là tổ chức
giáo dục, động viên, khen thưởng, tổ chức thi đua,… (như Đại hội thi đua ngành, địa
phương, cả nước; các danh hiệu Anh hùng lao động trong thời kỳ đổi mới), nhằm

hướng toàn dân thực hiện các nhiệm vụ được giao một cách sáng tạo, hiệu quả cao,…
góp phần thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của các chương trình chung của đất nước.
1.1.3. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẦU TƯ
1.1.3.1. Khái niệm quản lý nhà nước về đầu tư
Đầu tư là hoạt động có tính liên ngành. Quản lý đầu tư là công tác phức tạp
nhưng là yêu cầu khách quan, nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư.
Quản lý, theo nghĩa chung là sự tác động có mục đích của chủ thể vào các đối
tượng quản lý nhằm đạt được các mục tiêu quản lý đã đề ra. Quản lý nhà nước về đầu tư
là sự tác động liên tục, có tổ chức, định hướng, mục tiêu của Nhà nước vào quá trình đầu
tư (bao gồm công tác chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư và vận hành kết quả đầu tư) và
các yếu tố đầu tư, bằng một hệ thống đồng bộ các biện pháp kinh tế - xã hội, tổ chức kỹ
thuật và các biện pháp khác nhằm đạt được kết quả và hiệu quả đầu tư cao nhất, trong
điều kiện cụ thể xác định và trên cơ sở vận dụng sáng tạo những quy luật khách quan và
quy luật đặc thù của đầu tư.
1.1.3.2. Mục tiêu quản lý nhà nước về đầu tư
Quản lý nhà nước về đầu tư là việc quản lý đầu tư trên góc độ vĩ mô nhằm đáp
ứng những mục tiêu sau:
- Thực hiện thành công các mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
trong từng thời kỳ của quốc gia, từng ngành và từng địa phương nhằm thực hiện chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế,
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người lao động.
- Huy động tối đa và sử dụng hiệu quả cao nguồn vốn đầu tư, các nguồn tài lực,
vật lực của ngành, địa phương và toàn xã hội. Quản lý đầu tư nhằm sử dụng hợp lý, tiết
kiệm và khai thác có hiệu quả từng loại nguồn vốn, tài nguyên thiên nhiên, đất đai, lao
động và các tiềm năng khác. Đồng thời, quản lý đầu tư gắn với việc bảo vệ môi trường
-8-
sinh thái, chống mọi hành vi tham ô, lãng phí trong sử dụng vốn đầu tư và khai thác các
kết quả đầu tư.
- Thực hiện đúng những quy định pháp luật về yêu cầu kinh tế - kỹ thuật trong

lĩnh vực đầu tư. Quản lý vĩ mô hoạt động đầu tư nhằm bảo đảm quá trình thực hiện đầu
tư, xây dựng công trình theo đúng quy hoạch và thiết kế được duyệt, đảm bảo sự bền
vững và mỹ quan, đảm bảo chất lượng và thời hạn xây dựng với chi phí hợp lý.
1.1.3.3. Nội dung quản lý đầu tư của nhà nước
Nhà nước XHCN thực hiện chức năng quản lý kinh tế của mình trong đó có việc
quản lý hoạt động đầu tư. Nhà nước thống nhất quản lý đầu tư với các nội dung sau đây:
- Nhà nước xây dựng, hoàn chỉnh hệ thống luật pháp và những văn bản dưới luật
liên quan đến hoạt động đầu tư. Nhà nước ban hành, sửa đổi, bổ sung luật đầu tư và các
luật liên quan như luật thuế, luật đất đai, luật đấu thầu… và các văn bản dưới luật nhằm,
một mặt khuyến khích các hoạt động đầu tư, mặt khác bảo đảm cho hoạt động đầu tư
thực hiện đúng luật và đạt hiệu quả cao.
- Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch đầu tư. Trên cơ sở chiến lược, quy
hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, của ngành và của địa phương và
vùng lãnh thổ, xây dựng các quy hoạch, kế hoạch đầu tư trong đó quan trọng nhất là việc
xác định nhu cầu về vốn, nguồn vốn, các giải pháp huy động vốn… Từ đó xác định danh
mục các dự án ưu tiên.
- Ban hành kịp thời các chính sách chủ trương đầu tư nhằm cải thiện môi trường
và thủ tục đầu tư, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn.
- Ban hành các định mức kinh tế - kỹ thuật, các chuẩn mực đầu tư.
- Xây dựng các chính sách cán bộ thuộc lĩnh vực đầu tư.
- Đề ra các chủ trương chính sách hợp tác đầu tư với nước ngoài, xúc tiến đầu tư
và quảng bá hình ảnh quốc gia.
- Thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát việc tuân thủ pháp luật của các chủ đầu
tư, xử lý những vi phạm pháp luật, quy định của nhà nước, những cam kết của chủ đầu
tư (như chuyển nhượng, bổ sung mục tiêu hoạt động…)
-9-
- Quản lý trực tiếp nguồn vốn Nhà nước. Nhà nước đề ra các biện pháp để quản
lý và sử dụng nguồn vốn nhà nước từ khâu xác định chủ trương đầu tư, phân phối vốn,
đến việc thi công xây dựng và vận hành công trình.
1.1.3.4. Phương pháp quản lý hoạt động đầu tư

Cũng như các hoạt động kinh tế khác, quản lý hoạt động đầu tư bao gồm các
phương pháp như phương pháp kinh tế, giáo dục, hành chính, các phương pháp toán,
thống kê…
 Phương pháp kinh tế
Quản lý hoạt động đầu tư bằng phương pháp kinh tế, nghĩa là, thông qua các
chính sách và đòn bẩy kinh tế để hướng dẫn, kích thích, động viên và điều chỉnh các
hành vi của những đối tượng tham gia hoạt động đầu tư theo một mục tiêu nhất định của
nền kinh tế xã hội. Như vậy, phương pháp kinh tế trong quản lý chủ yếu dựa vào lợi ích
kinh tế của đối tượng tham gia vào quá trình đầu tư, kết hợp hài hòa lợi ích của Nhà
nước, xã hội với lợi ích của tập thể và cá nhân người lao động trong lĩnh vực đầu tư.
 Phương pháp hành chính
Phương pháp hành chính là cách thức tác động trực tiếp của chủ thể quản lý đến
đối tượng quản lý bằng những văn bản, chỉ thị, những quy định về tổ chức…
Phương pháp giáo dục
Để đạt được mục tiêu và yêu cầu quản lý, phương pháp giáo dục cần được coi
trọng. Nội dung của phương pháp giáo dục trong quản lý bao gồm giáo dục thái độ đối
với lao động, ý thức tổ chức kỷ kuật, tinh thần trách nhiệm, khuyến khích phát huy sáng
kiến, giữ gìn uy tín đối với chủ đầu tư…
Phương pháp toán và thống kê
Để quản lý hoạt động đầu tư có hiệu quả, bên cạnh các phương pháp định tính
cần áp dụng cả các biện pháp định lượng, đặc biệt là phương pháp toán kinh tế và thống
kê. Đó là những phương pháp thu thập, tổng hợp, xử lý và phân tích các số liệu thống kê
trong hoạt động đầu tư, dự báo các chỉ tiêu…
1.2. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
-10-
QLNN là việc Nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình
thông qua ba nội dung: lập pháp, hành pháp, tư pháp trong phạm vi quốc gia và cả những
vấn đề liên quan đến thế giới. Do vậy, hoạt động đầu tư nước ngoài cũng không nằm
ngoài sự quản lý chung đó.
QLNN đối với hoạt động đầu tư nước ngoài trên góc độ lập pháp là việc xây

dựng và ban hành hệ thống pháp luật đầu tư nước ngoài, tạo lập hành lang pháp lý điều
chỉnh các vấn đề phát sinh trong quá trình hoạt động; Trên góc độ hành pháp Quản lý
của Nhà nước thể hiện qua cơ cấu bộ máy tổ chức và sự phân công trách nhiệm thực
hiện cũng như phối hợp thực hiện các nhiệm vụ trong quá trình hoạt động bằng các công
cụ như xây dựng các chương trình mục tiêu, quy hoạch, kế hoạch về đầu tư nước ngoài
theo từng thời kỳ khác nhau; Trên góc độ tư pháp Quản lý nhà nước về đầu tư nước
ngoài là việc Nhà nước sử dụng các phương pháp để thể hiện sự QLNN nhằm bảo đảm
cho pháp luật đầu tư nước ngoài được thực hiện nghiêm, bảo đảm lợi ích hợp pháp của
các bên tham gia thông qua các cơ quan chức năng như Tòa án kinh tế; Viện kiểm sát,
Thanh tra kinh tế…
1.2.1. NỘI DUNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng các cơ quan hữu quan xây dựng cơ chế phối hợp
trong quản lý hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, quy định việc phối hợp giữa các
Bộ và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trong 4 khâu cơ bản:
• Một là, công tác hướng dẫn về hoạt động đầu tư nước ngoài, bao gồm:
- Xây dựng, ban hành và rà soát Danh mục dự án quan trọng cần gọi vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài;
- Soạn thảo, ban hành và rà soát các văn bản pháp luật về đầu tư nước ngoài
thuộc thẩm quyền Bộ, ngành, địa phương;
- Công bố công khai, rõ ràng các thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động đầu
tư nước ngoài của Bộ, ngành, địa phương;
- Công tác phối hợp với Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trong việc lựa chọn nhà đầu tư,
kiểm tra năng lực tài chính, tư cách của đối tác, tổ chức tiếp xúc, đàm phán để triển khai
dự án.
-11-
• Hai là, công tác thẩm định cấp, điều chỉnh GCNĐT, bao gồm:
- Quy định chế độ góp ý kiến của các Bộ, ngành, UBND địa phương các loại dự
án nhóm A, nhóm B, dự án diện phân cấp, uỷ quyền;
- Quy định cách xử lý khi có ý kiến khác nhau giữa các cơ quan chức năng.
- Chế độ báo cáo, thống kê việc cấp Giấy chứng nhận đầu tư, điều chỉnh Giấy

chứng nhận đầu tư.
- Chế độ giám sát việc cấp, điều chỉnh Giấy chứng nhận đầu tư.
• Ba là, công tác hướng dẫn triển khai thực hiện dự án:
- Tổ chức nhân sự tham gia điều hành trong các liên doanh có Bên Việt Nam là
doanh nghiệp Nhà nước.
- Hướng dẫn các công việc triển khai sau khi cấp phép đầu tư
- Hướng dẫn các công việc liên quan đến tổ chức lại doanh nghiệp, trong xử lý
tranh chấp, chấm dứt hoạt động, giải thể, thanh lý doanh nghiệp,...
- Phối hợp trong việc xem xét, đề nghị khen thưởng, xử lý vi phạm.
• Bốn là, chế độ phối hợp công tác quản lý hoạt động FDI:
- Chế độ thông tin, báo cáo;
- Chế độ giao ban giữa các Bộ; giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư với địa phương, với
các Ban quản lý các Khu công nghiệp, Khu chế xuất; giữa địa phương, Ban quản lý các
Khu công nghiệp với Doanh nghiệp...
- Cơ chế thanh tra, kiểm tra.
1.2.2. PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
1.2.2.1. Khái niệm
Pháp luật về ĐTNN là một bộ phận trong hệ thống pháp luật. Việc điều chỉnh các
quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động ĐTNN có sự tham gia của nhiều ngành luật,
trong đó các ngành luật như Luật Kinh tế, Luật Tư pháp quốc tế, Luật Dân sự, Luật Lao
động, Luật Đất đai... đóng vai trò rất quan trọng. Nói cách khác, pháp luật về ĐTNN là
nơi giao thoa của nhiều ngành luật khác nhau như Luật Kinh tế, Luật Tư pháp quốc tế,
Luật Dân sự, Luật Lao động, Luật Đất đai...
Sơ đồ 1.1: Pháp luật về đầu tư nước ngoài
-12-
Pháp luật về ĐTNN được hiểu theo nghĩa rộng, gồm ba bộ phận cấu thành:
- Bộ phận thứ nhất: là đạo luật Đầu tư nước ngoài và các văn bản hướng dẫn trực
tiếp thi hành.
- Bộ phận thứ hai: là các chế định có liên quan đến ĐTNN được quy định trong
các đạo luật khác.

- Bộ phận thứ ba: là các quy phạm pháp luật có liên quan đến ĐTNN được quy
định trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia.
Pháp luật về ĐTNN được hiểu theo nghĩa hẹp, chỉ bao gồm Luật đầu tư và các
nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành trực tiếp.
1.2.2.2. Đối tượng điều chỉnh của pháp luật về ĐTNN
Đối tượng điều chỉnh của pháp luật là các quan hệ xã hội, nhưng không phải là tất
cả các quan hệ xã hội. Trên quan điểm như vậy, đối tượng điều chỉnh của pháp luật về
ĐTNN là các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực ĐTNN tại Việt Nam. Các quan hệ
này bao gồm:
• Quan hệ giữa nhà ĐTNN với nước tiếp nhận đầu tư mà đại diện là các cơ quan có
thẩm quyền, trong quá trình tìm hiểu môi trường đầu tư, cấp Giấy phép đầu tư và
quản lý các hoạt động ĐTNN.
• Quan hệ hợp tác đầu tư giữa nhà ĐTNN với nhà đầu tư trong nước.
ĐẦU TƯ
NƯỚC NGOÀI
ĐẦU TƯ
TRỰC TIẾP
ĐẦU TƯ GIÁN
TIẾP
TÍN DỤNG
THƯƠNG MẠI
ODA
LUẬT ĐẦU TƯ
NƯỚC NGOÀI
HIỆP ĐỊNH,
ĐIỀU ƯỚC
QUỐC TẾ
-13-
• Quan hệ kinh doanh giữa doanh nghiệp có vốn ĐTNN với các doanh nghiệp
trong nước.

• Quan hệ giữa doanh nghiệp có vốn ĐTNN với các tổ chức, cá nhân nước ngoài.
• Quan hệ giữa doanh nghiệp có vốn ĐTNN, nhà ĐTNN, nhà đầu tư trong nước
với người lao động.
• Quan hệ giữa doanh nghiệp có vốn ĐTNN, nhà ĐTNN, nhà đầu tư trong nước
với các cơ quan tài phán trong nước và quốc tế.
Các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động ĐTNN và được pháp luật điều
chỉnh được gọi là các quan hệ pháp luật ĐTNN. Đặc trưng có tính chất bao trùm của các
quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật ĐTNN là yếu tố nước ngoài.
Các quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của các ngành luật khác như Luật Dân
sự, Luật Thương mại, Luật Kinh tế... có thể cũng có yếu tố nước ngoài, nhưng không có
tính chất bao trùm như quan hệ ĐTNN.
1.2.3. PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
Phương pháp điều chỉnh hoạt động đầu tư nước ngoài là tổng hợp tất cả những
cách thức tác động do Nhà nước thông qua các cơ quan có thẩm quyền đặt ra; được ghi
nhận trong quy phạm pháp luật; được Nhà nước đảm bảo thực hiện trên cơ sở có thể áp
dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước. Trên cơ sở đó, hoạt động đầu tư nước ngoài có
ba phương pháp điều chỉnh:
1.2.3.1. Phương pháp thỏa thuận hay còn gọi là phương pháp tự nguyện
Đây cũng là phương pháp điều chỉnh của Luật Kinh tế, Luật Dân sự, Luật Lao
động... Quan hệ ĐTNN là quan hệ tự nguyện được thiết lập trên cơ sở thỏa thuận về
hình thức đầu tư, nội dung, mục tiêu, thời hạn đầu tư. Trong cơ chế thị trường, không
chủ thể nào trong quan hệ kinh tế nói chung, quan hệ ĐTNN nói riêng có quyền ra lệnh,
bắt buộc chủ thể khác phải làm theo ý mình; các chủ thể đều phải tuân theo các quy luật
kinh tế khách quan. Nhà nước hoặc các chủ thể trong nước có thể đưa ra danh mục kêu
gọi đầu tư, nhưng nhà ĐTNN có quyền quyết định có đầu tư vào nước sở tại hay không.
Để đạt được sự thỏa thuận, các bên phải có sự bàn bạc, trao đổi, có những sự nhân
nhượng cần thiết theo nguyên tắc đảm bảo các bên đều có lợi. Vấn đề quan trọng là biết
-14-
thỏa thuận sao cho phù hợp với lợi ích của mỗi bên. Những yêu cầu mang tính chất áp
đặt của bất cứ bên nào, đều không thể dẫn đến quá trình đầu tư. Nếu ta quá nhân

nhượng, sẽ dẫn đến vi phạm nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia, nhưng nếu không
chú ý đúng mức đến lợi ích của nhà ĐTNN, cũng không thể thu hút họ vào đầu tư ở
nước ta.
Quan hệ ĐTNN diễn ra theo những quy luật khách quan của nền kinh tế thị
trường, cho nên Nhà nước không thể can thiệp trực tiếp vào hoạt động sản xuất - kinh
doanh của họ, mà chỉ tạo hành lang pháp lý cho hoạt động ĐTNN. Vấn đề ở chỗ, Nhà
nước chỉ can thiệp bằng biện pháp hành chính trong các trường hợp cần thiết liên quan
đến các vấn đề quan trọng của quốc gia và trong trường hợp các doanh nghiệp có vốn
ĐTNN vi phạm các quy định của pháp luật. Do đó, các thủ tục pháp lý cần được quy
định rõ ràng, cụ thể, dễ hiểu, dễ nhớ. Pháp luật với tính chất là một bộ phận quan trọng
của môi trường đầu tư, về lâu dài phải tạo ra "sân chơi" bình đẳng cho các nhà ĐTNN và
các nhà đầu tư trong nước.
1.2.3.2. Phương pháp mệnh lệnh hay còn gọi là phương pháp bắt buộc
Phương pháp mệnh lệnh là phương pháp điều chỉnh của một số ngành luật có mối
quan hệ tương tác, giao thoa với pháp luật về ĐTNN như Luật Hành chính, Luật Kinh
tế... nhưng trong pháp luật về ĐTNN, nó được sử dụng ở cấp độ khác.
Bên cạnh những mặt tích cực, ĐTNN cũng có mặt trái, mặt tiêu cực cần hạn chế,
bởi lẽ ĐTNN có bản chất của quan hệ thị trường, có mục đích là lợi nhuận nên dễ bất
chấp, bỏ qua các lợi ích xã hội. Vì vậy, ngoài phương pháp thỏa thuận, pháp luật về
ĐTNN còn sử dụng phương pháp mệnh lệnh hay còn gọi là phương pháp bắt buộc. Để
định hướng cho các hoạt động ĐTNN theo một trật tự nhất định, phát huy tối đa những
ưu điểm của nó, đồng thời hạn chế những tác động tiêu cực của nó, pháp luật về ĐTNN
vừa tạo ra "sân chơi" cho các hoạt động ĐTNN, vừa tạo ra "hàng rào pháp lý" với những
biện pháp chế tài nhất định và cơ chế đảm bảo thực hiện một cách chặt chẽ.
Để bảo vệ độc lập, chủ quyền của đất nước, thì phương pháp được thực hiện
không thể là "thỏa thuận", mà phải mang tính chất mệnh lệnh, buộc các bên tham gia
quan hệ ĐTNN phải tuân thủ pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư. Nhà nước với chức
-15-
năng điều hành, quản lý xã hội có quyền buộc mọi chủ thể phải tuân thủ những quy định
của pháp luật, tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt

Nam. Trong trường hợp nhà đầu tư cố tình vi phạm các quy định của pháp luật, xâm
phạm độc lập, chủ quyền của nước tiếp nhận đầu tư, Nhà nước có quyền áp dụng các
biện pháp chế tài cần thiết đối với người vi phạm.
1.2.3.3. Phương pháp khuyến khích
Ngoài hai phương pháp trên, quản lý hoạt động ĐTNN còn sử dụng phương pháp
điều chỉnh thứ ba, đó là phương pháp khuyến khích. Phương pháp này mang tính chất
khuyến khích các cá nhân, tổ chức nước ngoài đầu tư vào các lĩnh vực mà nước tiếp
nhận đầu tư đang cần như: thực hiện các chương trình kinh tế lớn, sản xuất hàng xuất
khẩu và thay thế hàng nhập khẩu; sử dụng kỹ thuật cao, đào tạo công nhân lành nghề;
đầu tư theo chiều sâu để khai thác, tận dụng các khả năng và nâng cao công suất của các
cơ sở kinh tế hiện có; sử dụng nhiều lao động, nguyên liệu và tài nguyên thiên nhiên sẵn
có ở nước tiếp nhận đầu tư; xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng; đầu tư vào những
vùng sâu, vùng xa, kinh tế khó khăn. Để có thể sử dụng phương pháp này, cần có những
quy định mang tính chất ưu đãi về thuế, về sử dụng đất và các biện pháp khuyến khích,
bảo đảm đầu tư khác.
Ba phương pháp điều chỉnh trong công tác quản lý hoạt động ĐTNN có mối quan
hệ hữu cơ, tác động qua lại lẫn nhau và được sử dụng trong sự kết hợp với nhau. Sẽ là
sai lầm nếu như tuyệt đối hóa bất cứ phương pháp nào, kể cả việc tuyệt đối hóa phương
pháp mệnh lệnh là phương pháp mang tính chất đặc trưng của QLNN.
-16-
CHƯƠNG 2.
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG
ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM - GIAI ĐOẠN 1987 - 2007
2.1. TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1987 – 2007
Sau 20 năm kể từ ngày đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã thay đổi một cách tích
cực. Từ một nền kinh tế nông nghiệp, tập thể hóa, nghèo và cô lập, Việt Nam đã chuyển
mình trở thành một quốc gia đang phát triển mạnh mẽ. Không hề giảm thiểu vai trò của
nguồn vốn đầu tư trong nước, song phải khẳng định nhịp độ chuyển đổi nền kinh tế
nhanh như vậy có sự đóng góp không nhỏ của luồng vốn FDI.

Khu vực kinh tế có vốn ĐTNN đã góp phần đáng kể trong quá trình phát triển
kinh tế - xã hội đất nước bằng việc tạo ra tổng giá trị doanh thu đáng kể, trong đó có giá
trị xuất khẩu, cũng như đóng góp tích cực vào ngân sách và tạo ra việc làm và thu nhập
ổn định cho người lao động. Trong giai đoạn 1991-1995 tổng giá trị doanh thu mới đạt
4,1 tỷ USD thì trong thời kỳ 1996-2000 tổng giá trị doanh thu đã đạt 27,09% tăng gấp
6,5 lần so với 5 năm trước. Trong giai đoạn 2001-2005 tổng giá trị doanh thu đạt 77,4 tỷ
-17-
USD, tăng gấp 2,8 lần giai đoạn trước đó. Riêng hai năm 2006 và 2007 tổng giá trị
doanh thu đạt 69 tỷ USD.
Tính đến cuối năm 2007, cả nước có hơn 9.500 dự án ĐTNN được cấp phép đầu
tư với tổng số vốn đăng ký khoảng 98 tỷ USD (kể cả vốn tăng thêm). Trừ các dự án đã
hết thời hạn hoạt động và giải thể trước thời hạn, hiện có 8.590 dự án còn hiệu lực với
tổng vốn đăng ký 83,1 tỷ USD (trong đó số vốn thực hiện chiếm 52,2% tổng vốn đăng
ký).
Quy mô vốn đầu tư bình quân của một dự án tăng dần qua các giai đoạn, tuy có
“trầm lắng” trong vài năm sau khủng hoảng tài chính 1997. Thời kỳ 1988-1990 đạt 7,5
triệu USD/dự án/năm. Giai đoạn 1991-1995 đạt 13,0 triệu USD/dự án/năm. Giai đoạn
2001-2005 đạt 5,2triệu USD/dự án/năm. Riêng hai năm 2006 và 2007 đều đạt mức
trung bình 14,4 triệu USD/dự án/năm.
Nguồn thu ngân sách nhà nước từ khu vực có vốn ĐTNN cũng tăng dần qua các
năm và bắt đầu vượt ngưỡng 1 tỷ USD từ năm 2005. Năm 2007, thu ngân sách đạt
1,576 tỷ USD. Đồng thời, khu vực kinh tế có vốn ĐTNN cũng tạo việc làm và thu
nhập ổn định cho một bộ phận dân cư, tính từ năm 1988 đến cuối năm 2007 có trên
1,26 triệu lao động trực tiếp, chưa kể số lao động gián tiếp khác làm việc trong khu
vực dịch vụ.
Những kết quả đạt được trên đây phần nào phản ánh hiệu quả công tác quản lý
đối với hoạt động đầu tư nước ngoài của Nhà nước sau hơn 20 năm mở cửa thu hút đầu
tư trực tiếp nước ngoài.
2.2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT
ĐỘNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI

Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 là một trong những đạo luật kinh
tế đầu tiên của thời kỳ đổi mới. Việc ban hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã
đặt nền móng cho sự hình thành và phát triển của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN tại Việt
Nam trong suốt hơn 20 năm qua.
Hơn 20 năm mở cửa thu hút FDI là hơn 20 năm Nhà nước thực hiện nhiệm vụ
quản lý của mình đối với hoạt động của nguồn vốn này. Cùng với nỗ lực tạo ra một môi
-18-
trường hấp dẫn thu hút ĐTNN là việc hoàn thiện dần dần hoạt động quản lý sao cho hiệu
quả, linh hoạt nhưng vẫn bảo đảm tính chặt chẽ, nghiêm minh.
Công tác QLNN đối với hoạt động kinh tế nói chung và hoạt động ĐTNN nói
riêng là việc phối hợp quản lý giữa nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều địa phương thuộc
nhiều lĩnh vực khác nhau song vẫn đảm bảo tính thống nhất và đồng bộ.
Thực trạng công tác quản lý hoạt động ĐTNN này sẽ được nghiên cứu dưới một
số khía cạnh chủ yếu như sau:
2.2.1. PHÂN CẤP VÀ PHỐI HỢP HOẠT ĐỘNG TRONG CÔNG TÁC QLNN ĐỐI
VỚI ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
Với quyết tâm cải thiện hơn môi trường đầu tư, củng cố niềm tin của các nhà đầu
tư nước ngoài, tạo điều kiện thu hút đầu tư nước ngoài cho phát triển kinh tế, Chính phủ
Việt Nam đã đề ra các biện pháp tích cực nhằm không ngừng nâng cao năng lực QLNN
về đầu tư trực tiếp nước ngoài. Một trong những biện pháp quan trọng đó là nâng cao
hiệu quả cơ chế phân cấp quản lý và phối kết hợp giữa các cơ quan QLNN ở Trung ương
và địa phương, giữa cơ quan quản lý đầu tư nước ngoài với các doanh nghiệp có vốn
ĐTNN để củng cố và đổi mới công tác thông tin trong quản lý hoạt động đầu tư trực tiếp
nước ngoài nhằm giúp cho các cơ quan quản lý nắm chính xác và đầy đủ thông tin về
đầu tư trực tiếp nước ngoài để có biện pháp hỗ trợ kịp thời cho doanh nghiệp FDI, cho
các dự án; đồng thời tạo điều kiện để các doanh nghiệp FDI, các Nhà đầu tư kịp thời
nắm bắt các chủ trương, chính sách của Nhà nước, tiến hành hoạt động đầu tư phù hợp
quy định của luật pháp từ hình thành, triển khai và thực hiện dự án đầu tư.
Theo đó, Chính phủ thống nhất QLNN đối với hoạt động ĐTNN thông qua Bộ
Kế hoạch và Đầu tư và phân cấp triệt để cho UBND cấp tỉnh và BQL với quyền hạn,

trách nhiệm cụ thể của tưng cấp như sau:
2.2.1.1. Quyền hạn, trách nhiệm về quản lý nhà nước đối với hoạt động ĐTNN của
Chính phủ
Chính phủ thống nhất QLNN về hoạt động đầu tư nói chung và ĐTNN nói riêng
trong phạm vi cả nước; chỉ đạo xây dựng và thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch,
đầu tư phát triển theo ngành, lĩnh vực và vùng kinh tế; ban hành chính sách, văn bản quy
-19-
phạm pháp luật về đầu tư; phân cấp quản lý nhà nước về đầu tư cho các Bộ, ngành và
địa phương;
Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành và địa phương thực hiện luật pháp,
chính sách về đầu tư; phê duyệt hoặc ủy quyền phê duyệt quy hoạch; quyết định chủ
trương đầu tư đối với những dự án đầu tư thuộc thẩm quyền; quyết định hoặc cho phép
thành lập các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao và khu kinh tế; chỉ đạo
giải quyết những vấn đề vướng mắc trong quá trình điều hành, quản lý hoạt động đầu tư
vượt quá thẩm quyền của các Bộ, ngành và địa phương;
Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Ban Quản lý
khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao và khu kinh tế có chương trình đối
thoại với cộng đồng doanh nghiệp, nhà đầu tư.
2.2.1.2. Quyền hạn, trách nhiệm về quản lý nhà nước đối với hoạt động ĐTNN của
Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xây dựng và rà
soát các văn bản pháp luật, chính sách về đầu tư. Hướng dẫn, phổ biến, theo dõi, kiểm
tra việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về đầu tư. Ban hành các mẫu văn bản
liên quan đến thủ tục đầu tư để áp dụng trong phạm vi cả nước.
Tổ chức, phối hợp với các Bộ, ngành và địa phương xây dựng, tổng hợp trình
Chính phủ về quy hoạch, kế hoạch đầu tư phát triển; quy hoạch tổng thể quốc gia về
phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế.
Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong việc lập
danh mục dự án quốc gia thu hút vốn đầu tư trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; tham
mưu về việc bổ sung quy hoạch đối với dự án đầu tư thuộc thẩm quyền chấp thuận của

Thủ tướng Chính phủ không nằm trong quy hoạch; có ý kiến với cơ quan cấp Giấy
chứng nhận đầu tư về sự cần thiết của dự án đầu tư thuộc thẩm quyền chấp thuận của
Thủ tướng Chính phủ mà thuộc lĩnh vực chưa có quy hoạch để trình Thủ tướng Chính
phủ chấp thuận.
Thẩm tra các dự án đầu tư quan trọng quốc gia và dự án đầu tư khác theo quyết
định của Thủ tướng Chính phủ.
-20-
Thực hiện quản lý nhà nước về hoạt động xúc tiến đầu tư; xây dựng chương trình,
kế hoạch và tổ chức thực hiện chương trình quốc gia về vận động xúc tiến đầu tư; phối
hợp với các Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong việc tổ chức hoạt động xúc tiến
đầu tư; đặt đại diện tổ chức xúc tiến đầu tư tại nước ngoài; thực hiện quản lý quỹ xúc
tiến đầu tư quốc gia.
Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành đàm phán và trình Chính phủ ký kết hoặc
tham gia các điều ước quốc tế liên quan đến hoạt động đầu tư; thực hiện hợp tác quốc tế
về hoạt động đầu tư.
Tổ chức hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, tăng cường năng lực quản lý
đầu tư cho hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư các cấp.
Phối hợp với Tổng cục Thống kê tổ chức hoạt động thống kê về đầu tư theo quy
định của pháp luật về thống kê; tổ chức, xây dựng hệ thống thông tin quốc gia phục vụ
hoạt động đầu tư.
Phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá
trình hình thành, triển khai và thực hiện dự án đầu tư.
Đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội của hoạt động đầu tư.
Kiểm tra, giám sát, thanh tra hoạt động đầu tư theo thẩm quyền; xây dựng
chương trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát liên ngành đối với hoạt động đầu tư; kiểm tra
việc cấp, điều chỉnh, thu hồi Giấy chứng nhận đầu tư của cơ quan cấp Giấy chứng nhận
đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư và Nghị định 108/2006/NĐ-CP; kiểm tra, giám sát
việc tuân thủ các quy hoạch đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt trong quá trình đầu
tư.
Định kỳ 6 tháng, hàng năm, tổng hợp tình hình hoạt động đầu tư và báo cáo Thủ

tướng Chính phủ.
2.2.1.3. Quyền hạn, trách nhiệm về quản lý nhà nước đối với hoạt động ĐTNN của
UBND tỉnh
Căn cứ vào quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, phối hợp với các Bộ, ngành liên
quan lập và công bố Danh mục dự án thu hút đầu tư tại địa phương; tổ chức vận động và
xúc tiến đầu tư;
-21-
Chủ trì tổ chức việc đăng ký đầu tư, thẩm tra và cấp GCNĐT và điều chỉnh, thu
hồi GCNĐT, quyết định chấm dứt hoạt động của dự án đầu tư trước thời hạn đối với
các dự án đầu tư thuộc thẩm quyền.
Thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với dự án đầu tư trên địa bàn ngoài
khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao và khu kinh tế theo các nội dung chủ
yếu sau:
- Theo dõi, giám sát, kiểm tra việc thực hiện mục tiêu đầu tư quy định tại Giấy
chứng nhận đầu tư, tiến độ góp vốn và triển khai dự án đầu tư; giám sát, kiểm tra việc
thực hiện các nghĩa vụ tài chính, quan hệ lao động tiền lương, bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của người lao động và người sử dụng lao động, hoạt động của các tổ chức chính trị
- xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái; chủ trì hoặc tham gia cùng các Bộ, ngành thực
hiện thanh tra các dự án đầu tư trên địa bàn;
- Tổ chức thực hiện việc giải phóng mặt bằng; cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất và giám sát việc sử dụng đất;
- Giải quyết các khó khăn, vướng mắc của nhà đầu tư; kiến nghị Thủ tướng
Chính phủ hoặc các Bộ, ngành có liên quan giải quyết những vấn đề vượt thẩm quyền;
- Đánh giá hiệu quả hoạt động đầu tư trên địa bàn.
- Chỉ đạo lập quy hoạch chi tiết xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất và phê
duyệt quy hoạch chi tiết xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất theo quy định của
pháp luật về xây dựng.
- Định kỳ hàng quý, 6 tháng và hàng năm, chủ trì, phối hợp với Ban Quản lý tổng
hợp để báo cáo Bộ Kế hoạch và Đầu tư về hoạt động đầu tư trên địa bàn.
2.2.1.4. Quyền hạn, trách nhiệm về quản lý nhà nước đối với hoạt động ĐTNN của

Ban Quản lý KCN, KCX, KCNC, KTT
Tham gia ý kiến với các Bộ, ngành, địa phương trong việc xây dựng các văn bản
quy phạm pháp luật, chính sách, quy hoạch liên quan đến hoạt động đầu tư, phát triển
khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế.
Thực hiện việc đăng ký đầu tư; thẩm tra và cấp, điều chỉnh, thu hồi Giấy chứng
nhận đầu tư đối với các dự án đầu tư thuộc thẩm quyền.
-22-
Kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực hiện mục tiêu đầu tư quy định tại Giấy
chứng nhận đầu tư, tiến độ góp vốn và triển khai dự án đầu tư; phối hợp kiểm tra, thanh
tra việc chấp hành pháp luật về lao động, tiền lương; bảo vệ quyền lợi hợp pháp của
người lao động và người sử dụng lao động, hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội,
bảo vệ môi trường sinh thái đối với các dự án trong khu công nghiệp, khu chế xuất, khu
công nghệ cao và khu kinh tế.
Giải quyết các khó khăn, vướng mắc của nhà đầu tư trong khu công nghiệp, khu
chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế và kiến nghị Thủ tướng Chính phủ, các Bộ,
ngành liên quan và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giải quyết những vấn đề vượt thẩm quyền.
Đánh giá hiệu quả đầu tư trong khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế.
Định kỳ hàng quý, 6 tháng và hàng năm, gửi báo cáo về hoạt động đầu tư trong
khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao và khu kinh tế cho Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh và Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
2.2.1.5. Đánh giá công tác phân cấp và phối hợp hoạt động trong công tác QLNN
đối với ĐTNN
Chủ trương phân cấp quản lý hoạt động ĐTNN đã được thực tế kiểm nghiệm là
đúng đắn, thực sự góp phần nâng cao hiệu quả quản lý của chính quyền địa phương phát
huy sự linh hoạt, tính sáng tạo của mỗi địa phương trong thu hút ĐTNN, tạo điều kiện
cho thành phần kinh tế này đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội trên địa
bàn. Theo đó, đã chú trọng nâng cao trách nhiệm, tăng cường kiện toàn tổ chức bộ máy
với đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên sâu về chuyên môn nghiệp vụ, về ngoại ngữ, tin
học... để đảm đương trách nhiệm QLNN đối với khu vực ĐTNN trên địa bàn. Đồng
thời, là cơ sở cho việc tiếp tục triển khai cải cách thủ tục hành chính và trực tiếp góp

phần cải thiện môi trường đầu tư từ cấp cơ sở. Cho tới nay, công tác quản lý hoạt động
ĐTNN ở địa phương, nhất là các địa phương có nhiều doanh nghiệp, đã đi vào nề nếp,
theo các trình tự hợp lý, đã được đơn giản hóa... Ngoài ra các địa phương còn chủ động
xây dựng các chương trình xúc tiến đầu tư, quảng bá môi trường đầu tư trên địa bàn
tỉnh...
-23-
Bên cạnh đó, các Bộ, ngành và UBND cấp tỉnh đã phối hợp chặt chẽ trong quá
trình thực hiện các nội dung hoạt động ĐTNN, từ thẩm định cấp GCNĐT đến hỗ trợ
tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã phối hợp với các Bộ,
ngành liên quan tổ chức tập huấn, trao đổi nghiệp vụ và hỗ trợ các địa phương tổ chức
hội nghị, hội thảo vận động xúc tiến đầu tư, ban hành văn bản hướng dẫn về ĐTNN tại
địa bàn... đưa hoạt động quản lý ĐTNN ở các địa phương đi vào nề nếp, góp phần nâng
cao hiệu quả thu hút vốn ĐTNN vào Việt Nam.
Như vậy, công tác QLNN về ĐTNN được thực hiện ở đơn vị chủ quản là Bộ kế
hoạch và Đầu tư. Ngoài ra còn có sự phối kết hợp với các Bộ, ban, ngành và địa phương
liên quan với nhiều cấp khác nhau nhằm tạo ra sự phân cấp triệt để, tránh chồng chéo
mang lại tính hiệu quả và linh hoạt cao trong công tác quản lý.
2.2.2. PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
Trong khoảng 20 năm qua, đầu tư nước ngoài đã trở thành một kênh quan trọng,
đóng góp ngày càng lớn vào tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy việc chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mở rộng thị trường xuất khẩu và tăng
nguồn thu đáng kể cho ngân sách Nhà nước, tạo thêm thế và lực cho Việt Nam chủ động
hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới.
Trước năm 2005 hoạt động đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài được điều
chỉnh bởi hai hệ thống luật riêng là Luật khuyến khích đầu tư trong nước và Luật đầu tư
nước ngoài. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế và nhu cầu hội nhập thế giới, việc cải
thiện môi trường đầu tư và tạo ra “sân chơi” bình đẳng không phân biệt đối xử giữa các
nhà đầu tư là tất yếu khách quan. Luật đầu tư chung năm 2005 ra đời đã góp phần thực
hiện điều đó.
Luật Đầu tư nước ngoài là văn bản pháp quy cơ bản và quan trọng nhất tạo hành

lang pháp lý cho các hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Quá trình hình thành và
phát triển của Luật đầu tư nước ngoài gắn liền với sự chuyển biến về nhận thức và quan
điểm của Việt Nam về vai trò của đầu tư nước ngoài nói chung và FDI nói riêng. Bên
cạnh đó, những thay đổi trong chính sách thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam còn
xuất phát từ những cam kết quốc tế của Việt Nam về đầu tư nước ngoài.
-24-
2.2.2.1. Chuyển biến về nhận thức và quan điểm của Việt Nam về vai trò của đầu
tư trực tiếp nước ngoài
Cho đến nay, quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về vai trò của đầu tư
nước ngoài nói chung, FDI nói riêng đã có nhiều thay đổi. Nếu như trước năm 2000, các
doanh nghiệp FDI chưa được coi như một chủ thể độc lập trong nền kinh tế thì từ Đại
hội Đảng lần thứ IX (năm 2001) trở lại đây, khu vực FDI đã được khẳng định là một
trong 6 thành phần cùng tồn tại trong nền kinh tế. Dưới đây nêu các mốc quan trọng
đánh dấu sự thay đổi về quan niệm và nhận thức của Đảng và Nhà nước về vai trò của
FDI đối với nền kinh tế.
• Đại hội Đảng lần thứ VII (1991) và Đại hội VIII (1996) tuy không tách riêng khu
vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thành một “thành phần kinh tế” trong nền
kinh tế nhiều thành phần của Việt Nam, song đã ghi nhận sự hợp tác liên doanh
giữa kinh tế nhà nước và tư bản nước ngoài, khẳng định khu vực đầu tư nước
ngoài “có vai trò to lớn trong động viên về vốn, công nghệ, khả năng tổ chức
quản lý...” – văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII. Với quan điểm như
vậy, chính sách đối với khu vực có vốn FDI trong thời kỳ này chủ yếu hướng vào
việc khuyến khích các nhà đầu tư liên doanh với các DNNN của Việt Nam, hoạt
động trong nhiều lĩnh vực kinh tế, trừ những lĩnh vực có tầm quan trọng đặc biệt
đối với nền kinh tế quốc dân và an ninh quốc phòng.
• Năm 2001, lần đầu tiên khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được công
nhận là một thành phần kinh tế với vai trò “ hướng vào xuất khẩu, xây dựng kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều
việc làm…” và đề ra nhiệm vụ “phải tạo chuyển biến cơ bản trong thu hút vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài” – Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX. Theo

đó, chính sách thu hút FDI trong thời gian này sẽ tập trung vào nâng cao chất
lượng FDI đổ vào Việt Nam thông qua việc thu hút mạnh hơn nữa các tập đoàn
xuyên quốc gia đầu tư vào các ngành, lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế, đặc
biệt là các lĩnh vực công nghệ cao, công nghiệp mũi nhọn.
-25-

×