Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Các bệnh thường gặp ở cá hồi pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (319.32 KB, 6 trang )







Các bệnh thường gặp ở cá hồi

Các bệnh thường gặp ở cá hồi

Các vùng cao nguyên Việt Nam, về mặt môi trường khá thích hợp cho việc nuôi cá hồi
(Salmon, Rainbow trout, đặc biệt là Donaldson trout). Do đó đây là quyển sách quý giá
cho chúng tôi và những người quan tâm đến kỹ thuật nuôi cá hồi nói riêng và cá nước
lạnh nói chung.

Các loại bệnh thường gặp nơi cá Salmonid
Để phân định rõ ràng các bệnh của loài cá Salmonid, chúng ta tạm chia các bệnh tật của
loài cá Salmonid làm 5 loại khác nhau.

- Bệnh do vi khuẩn (Bacterial diseases)
- Bệnh do virus (Viral diseases)
- Bệnh nấm (Fungal diseases)
- Ký sinh Protozoan (Protozoan parasites)
- Ký sinh Metazoan (Metazoan parasites)
1/ Bệnh do vi khuẩn (Bacterial diseases):
Với cá Salmonids thì các bệnh do vi khuẩn gây nên khá nhiều, một số bệnh thường gặp:
Furunculosis:
Bệnh gây ra bởi vi khuẩn Aeromonas salmonicida. Trong môi trường nước ngọt, bệnh
Furunculosis thường xuất hiện nhiều vào thời gian nhiệt độ gia tăng.
Triệu chứng rõ rệt nhất của bệnh Furunculosis cấp tính là xuất huyết trên thân cá. Các
triệu chứng khác là biếng ăn, đờ đẫn. Hình thức mãn tính của bệnh này thường thấy ở


những cá đã trưởng thành với triệu chứng chảy máu cấp tính, lá lách lớn rộng, thận bị hóa
lỏng.
Đề phòng và trị liệu:
- Furazolidone, 35mg/kg cá mỗi ngày, liên tục trong 21 ngày.
- Sulfamerazine (NF-180 hoặc Furozone), 0,26gr/kg cá mỗi ngày, trong 3 ngày liên tục,
sau đó dùng 0.15gr/kg cá trong 11 ngày tiếp theo.
Các loại thuốc trụ sinh như Oxytetracycline hoặc Sulphonamides pha trộn trong thức ăn
có thể ngăn ngừa được Furunculosis nhưng khó khăn là cá thường rất biếng ăn trong thời
gian mang bệnh Furunculosis, vì vậy cần kiên nhẫn trong khi chữa trị. Hiện nay người ta
sử dụng vaccine cho bệnh Furunculosis trong thời gian cá còn nhỏ hơn là trị liệu khi cá
đã lớn.
Bacterial gill disease (Bệnh vi khuẩn ở mang)
Bệnh có tên như vậy vì thường xảy ra ở mang cá. Có nhiều triệu chứng cho biết các sản
phẩm của sự biến dưỡng, đặc biệt là Ammonia, là những yếu tố về môi trường chính yếu
đưa tới bệnh vi khuẩn ở mang.
Triệu chứng: Triệu chứng đầu tiên của bệnh vi khuẩn ở mang là cá trồi lên trên mặt nước
để hít không khí. Chúng bơi chậm chạp và vô định. Mang bắt đầu sưng lên, mang trở nên
trắng rồi có những điểm xám xuất hiện.
Trị liệu:
- Potassium permanganate > 5mg/l trong 1 giờ, 2-3 ngày liên tiếp.
- Aureomycin, 55mg/kg cá mỗi ngày, trong 10nga2y liên tiếp.
- Kanamycin, 20mg/kg mỗi ngày cho tới 20 ngày.

Bacterial kidney disease (BKD)
Bệnh gây ra bởi vi khuẩn Renibacterium salmoninarum.
Triệu chứng rõ rệt nhất là sau khi phá phách một số nội tạng cơ thể cá Salmonid, bệnh
BKD sẽ tạo nên các mụn nhỏ xuất hiện trên các bắp cơ và sau đó tạo thành cá hố sâu tại
đây. Cá mắc bệnh, cơ thể có màu đậm hơn thường lệ, mắt lồi ra và có các đốm máu ở
phía dưới các vi ngực. Trong nội tạng, thận sưng lên và có thể chứa những nốt màu trắng
như sữa.

Trị liệu: Bệnh BKD là 1 trong những bệnh khó trị liệu với thuốc men vì là bệnh kinh niên
trong môi trường và vi khuẩn lại nằm sâu trong tế bào. Hiện tại người ta chỉ thấy:
- Erythromycin là tương đối có khả năng ngăn ngừa được sự phát triển của BKD, với
190-220mg/kg cá mỗi ngày và trị liệu như vậy liên tục trong 21 ngày.
- Sulfadiazine, 0,26gr/kg cá mỗi ngày, cho 7 ngày, sau đó dùng 0,13gr/kg cá cho 21 ngày
tiếp theo.

Vibriosis:
Bệnh gây ra bởi vi khuẩn Vibrio anguillarum, một loại vi khuẩn có liên hệ rất gần với
loại vi khuẩn gây bệnh dịch tả và vi khuẩn Vibrio salmonicida. Bệnh không xuất hiện
triệu chứng rõ rệt bên ngoài nhưng lại gây thiệt hại nhanh cho nhà sản xuất. Vì vậy, việc
sử dụng thuốc trụ sinh phối hợp thuốc chủng ngừa và công việc điều hành hoàn hảo (vệ
sinh ao hồ nuôi, di chuyển cá, thức ăn thích hợp ) ngay từ lúc cá còn nhỏ là phương
pháp hữu hiệu nhất. Bệnh thường xảy ra khi nhiệt độ cao (>10 độ C). Cá bị bệnh nặng
thường có những vết thương trên da sưng lên, gây lở loét và tiết ra những chất nhầy có
máu. Trong nội tạng, lá lách bị lớn rộng và thận bị mềm nhũn. Mang và cá bắp thịt trở
nên nhợt nhạt.
Trên da và trong các bắp thịt thường xuất hiện những vết thương giống như bị bỏng,
không khác bệnh Furunculosis.
Trị liệu: Sulfonamide và thuốc trụ sinh có tác dụng với bệnh Vibriosis, tương tự
Sulfamerazine và Oxytetracycline.
Bệnh Columnasis
Do vi khuẩn Flexibacter Columnaris gây nên.

Triệu chứng bệnh là sự xuất hiện các chất nhầy ở các điểm trên đầu, trong mang, vi và
xung quanh các vết thương.
Trị liệu:
- Furanace 1,5mg/l trong 1 giờ, kéo dài từ 1-3 ngày.
- Oxytetracycline 50mg/kg cá trong 10 ngày.
2/ Bệnh do virus

Một số bệnh do virus như: Infectious Pancreatic Necrosis (IPN); Viral Haemorrhagic
Septicamia (VHS); Infectious Haematopoietic Necrosis Virus (IHN); Infectious Salmon
Anaemia Virus (ISA).
Phương pháp phòng ngừa là tốt nhất.
3/ Bệnh do nấm gây nên (Fungus diseases)
Trước khi có dịch nấm, một hoặc nhiều các tình huống sau đây xuất hiện trước: môi
trường bị ô nhiễm, mật độ nuôi quá cao, xác cá chết không được loại bỏ kịp thời, mực
nước quá thấp.
Những loại nấm thường gặp là Saprolegnia, Exophiala, Ichthyophonus, Branchiomyces,
Phialophora. Trong nước ngọt, người ta thường thấy nhiều nhất là bệnh nấm Saprolegnia
đối với loại cá giống, xuất hiện khắp mọi nơi.
4/ Các bệnh ký sinh nguyên sinh (Protozoan parasites)
Trong nhóm bệnh ký sinh nguyên sinh gây ra cho cá Salmonids ta có thể kể:
- Bệnh Proliferative Kidney Disease (PKD);
- Bệnh Ceratomyxa shasta;
- Bệnh Ichthyobodo necatrix;
- Bệnh Myxobolus cerebralis.
5/ Bệnh ký sinh đa bào (Metazoan parasites)
Thường gặp:
- Nematode (Tuyến trùng);
- Cestoda (Sán lãi);
- Acanthocephala (Giun);
- Trematoda (Giun bẹt);
- Mollusca;
- Crustacea;
- Hirudinea (Đỉa)

Formalin và Potassium permanganate là 2 dung dịch có khả năng ngăn ngừa được loại ký
sinh này. Nhưng an toàn hơn vẫn là phương pháp ngăn ngừa từ bước đầu với việc kiểm
tra nguồn giống cá và nguồn nước trước khi nuôi.


×