Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Quy trình nuôi cá tra thịt trắng phục vụ xuất khẩu pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.4 KB, 26 trang )



Quy trình nuôi cá tra thịt
trắng phục vụ xuất khẩu

Cá tra là một trong những đối tượng nuôi xuất khẩu chủ lực
của ngành thủy sản nước ta hiện nay. ở ÐBSCL cá được nuôi
chủ yếu trong ao do năng suất cao (200 - 400kg/ha) và chi
phí đầu tư thấp so với nuôi bè. Do thịt cá Tra nuôi trong ao
thường có màu vàng, các nông hộ đã áp dụng biện pháp thay
nước thường xuyên để thịt cá nuôi trắng. Tuy vậy, tỷ lệ thịt
trắng ở các nông hộ không ổn định đồng thời thay nước nhiều
thì cá dễ bị bệnh. Trong nghiên cứu này đề tài đã áp dụng
biện pháp sục khí đáy kết hợp với thay nước có kiểm soát để
bố trí thí nghiệm xác định thông số của quy trình kỹ thuật
nuôi cá Tra thịt trắng. Thí nghiệm được bố trí trong 3 ao tại
Vĩnh Long có diện tích 2.700 - 5.000m2, mật độ cá thả 15,3 -
22,2 con/m2, sử dụng thức ăn sản xuất theo công thức của đề
tài. Tỷ lệ thịt trắng của cá Tra nuôi theo quy trình này đạt 71
- 75%; chi phí sản xuất 1 kg cá Tra thịt trắng của đề tài
(7.053 đ/kg) thấp hơn chi phí bình quân cho 1 kg cá thịt trắng
(7.279 đ/kg) nuôi tại An Giang áp dụng biện pháp thay nước.
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Ðịa điểm
Ðề tài Nghiên cứu kỹ thuật nuôi cá tra thương phẩm trong ao
đất đạt tiêu chuẩn thịt trắng phục vụ xuất khẩu được tiến
hành tại Trại giống Minh An - ấp Cái Cạn 2, Xã Mỹ An,
Huyện Măng Thít, Vĩnh Long.
2. Bố trí thí nghiệm
2.1 Nuôi cá trong ao đất tại Vĩnh Long
Bảng 1. Mật độ và cỡ cá thả nuôi ở các ao thí nghiệm



Ao nuôi
1 2 3
Thời
gian
nuôi
(tháng)
6 11 11.5
Diện
tích
(m
2
)
2.700 5.000 3.000
Số cá
thả
(con)
60.00
0
95.00
0
46.00
0
Mật độ
(con/m
2
)
22,2 19,0 15,3
Trọng
lượngT

B cá thả
(g/con)
37,5 66,7 125,0
Ðể xây dựng quy trình nuôi cá tra thương phẩm trong ao đất
đạt tỷ lệ thịt trắng trên 70%, đề tài đã tiến hành thí nghiệm
trong ao 1 để rút ra một số thông số cho việc xây dựng quy
trình sơ bộ. Sau đó, thí nghiệm được lặp lại trong ao 2 và ao
3 để khẳng định quy trình. Chi tiết về các ao nuôi được trình
bày trong bảng 1.
2.2 Thức ăn dùng trong thí nghiệm
Thức ăn viên C534A (18% prôtêin) và T505 (18% prôtêin)
đuợc dùng trong giai đoạn đầu khi nông hộ chưa tự sản xuất
thức ăn. Thức ăn 25%, 22%, 20% và 18% prôtêin sản xuất tại
nông hộ theo công thức ghi ở bảng 2 thành dạng viên có
đường kính 6mm; 8 mm; 10 mm và 12 mm.
Bảng 2: Công thức thức ăn 25% prôtêin và 22% prôtêin
sản xuất tại nông hộ
Nguy
ên
liệu
(%)
Công thức thức ăn theo tỷ lệ prôtêin (%)
2
5
2
2
2
0
1
8

Cá lạt
1 1 8, 8,
8,
0
0
6,
0
0
0
0
0
0
BDÐ
N
2
0,
0
0
1
5,
0
0
1
5,
0
0
8,
0
0
Cám

gạo
trích
ly
3
0,
0
0
2
5,
0
0
4
5,
8
2
5
2,
7
8
Cám
lau
-
2
0,
0
0
- -
Cám 2 1 2 2
lúa mì 0,
0

0
0,
0
0
0,
0
0
0,
0
0
Bột
khoai

1
0,
0
3
1
0,
5
0
8,
0
0
8,
0
0
Premi
x
vitami

n
1,
0
0
1,
0
0
1,
0
0
1,
0
0
Stay
C
35%
0,
0
2
0,
0
2
0,
0
2
0,
0
2
Chất
kết

0,
3
0,
3
0,
3
0,
3
dính 0 0 0 0
Mỡ cá
(ba
sa)
0,
5
0
2,
0
0
1,
8
0
1,
8
0
Lysin
e
0,
0
5
0,

1
5
- -
Metho
nine
0,
1
0
0,
3
0
0,
0
6
0,
1
0

III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
1. Ðiều tra tình hình nuôi cá tra thịt trắng ở Cần Thơ và
Ðồng Tháp
Kết quả tổng kết tình hình nuôi cá tra thịt trắng tại 47 nông
hộ ở Thốt Nốt (Cần Thơ) và 27 hộ ở Hồng ngự (Ðồng Tháp)
cho thấy :
- Chất đất ở các ao nuôi thịt trắng ở Thốt Nốt chủ yếu là đất
sét và bùn cát, ao nuôi có độ sâu khoảng 2,5 - 3,0m thuận tiện
cho việc cấp và thoát nước hơn các ao sâu 5 - 6m ở Hồng
ngự.
- Ao nuôi ở Thốt Nốt được cải tạo kỹ, nạo vét bùn đáy, phơi
đáy ao nên tỷ lệ thịt trắng thường đạt cao hơn cá nuôi ở Hồng

Ngự.
- Thức ăn: trong 1 tháng đầu cho cá ăn thức ăn công nghiệp,
từ tháng thứ 2 trở đi cho ăn thức ăn nấu chín do nông hộ tự
chế biến. Không dùng các nguyên liệu có màu vàng để chế
biến thức ăn cho cá. Các nguyên liệu cung cấp đạm chủ yếu
là cá biển tươi hoặc cá Linh, phụ phẩm của cá ba sa, khô cá
lạt xay, bánh dầu đậu nành. Ðộ ẩm của thức ăn nông hộ dao
động trong khoảng 40 - 60%, hàm lượng prôtêin 9-14%.
Theo các nông hộ thì cho cá ăn thức ăn đã bị ôi thiu thịt cá sẽ
có màu vàng.
- Chế độ thay nước: Thay nước càng nhiều thì thịt cá nuôi
càng trắng, từ tháng nuôi thứ 2 trở đi 5-6 ngày thay nước 1
lần, lượng nước thay khoảng 30%. Khi cá lớn sắp xuất bán,
mỗi tuần thay nước 5 - 6 lần, lượng nước thay khoảng 20 -
30% mực nước trong ao, có khi thay tới 50% lượng nước
trong ao. Tuy nhiên vào mùa nước đổ nếu thay nước nhiều
thì thịt cá sẽ bị vàng và cá dễ bị bệnh.
- Bệnh cá: cá tra nuôi mật độ cao thường bị lở loét do ký sinh
gây ra. Năm 1999-2000 cá tra bị bệnh, chết nhiều với biểu
hiện xuất huyết ở miệng và vùng hầu, nổ 1 bên mắt, thận
sưng, có những đốm trắng ở gan, thận. Bệnh cá cũng ảnh
hưởng đến tỉ lệ thịt trắng: nếu cá nuôi bị bệnh nhiều lần trong
thời gian nuôi thì thịt cá dễ bị chuyển sang màu vàng và tỷ lệ
thịt trắng đạt được sẽ thấp (dưới 40%).
- Cá nuôi lớn nhanh, đạt trọng lượng 0,8-1,2 kg/con sau 5 - 6
tháng nuôi thì tỷ lệ thịt trắng sẽ cao (>70%). Nếu thời gian
nuôi kéo dài (thường là do không xuất bán được) thì tỉ lệ thịt
trắng sẽ không cao.
- ở cỡ cá nhỏ khoảng 0,4-0,6 kg/con, nếu thời gian nuôi ngắn
(3 - 4 tháng) thì tỷ lệ thịt trắng đạt thường đạt trên 80%, cũng

có khi lên đến 100%.
* Từ các kết quả trên, có thể rút ra một số nhận xét để làm cơ
sở cho việc bố trí thí nghiệm nuôi cá tra thịt trắng:
Môi trường ao nuôi sạch thì thịt cá nuôi sẽ trắng. Do vậy, các
giải pháp kỹ thuật để quản lý tốt môi trường ao nuôi đều có
thể áp dụng trong nuôi thâm canh cá tra để cá nuôi có thịt
trắng.
Cá nuôi bị bệnh chủ yếu do các yếu tố môi trường bị thay đổi
đột ngột, việc giữ cho môi trường ao nuôi ổn định sẽ hạn chế
được bệnh cá.
Chất lượng nguyên liệu để làm thức ăn và độ tươi của thức ăn
cũng ảnh hưởng đến tỷ lệ thịt trắng và tăng trưởng của cá
nuôi.
2. Nuôi cá trong ao đất tại Vĩnh Long
2.1. Biến động các chỉ tiêu thủy hóa
Biến động các yếu tố môi trường trong các ao 1, 2, 3 được
trình bày ở bảng 3.
Bảng 3. Biến động các chỉ tiêu thủy hóa trong 3 ao nuôi

Ao
nuôi

Chỉ tiêu 1 2 3
Ðộ trong
(cm)
17 -
24
16
27
15 -

26
Nhiệt
độ(oC)
28,7
-
28,6
-
28,5
-
30,8 34,0 33,5
pH
6,7 -
7,6
6,9 -
7,3
6,7 -
7,4
DO
(mg/l)
1,1 -
2,5
1,9 -
3,3
1,3 -
2,5
COD
(mgO2/l)
7,9 -
11,1
6,4 -

11,4
10,3
-
15,5
N-NH3
(mg/l)
0,05
-
0,45
0,08
-
0,29
0,12
-
0,27
a. Ðộ trong
Ðộ trong của 3 ao có xu hướng giảm dần vào cuối kỳ nuôi,
chủ yếu do hoạt động bơi lội bắt mồi của một lượng lớn cá
tra trong ao. Ðộ trong dao động trong khoảng 15 - 27 cm.
b. Nhiệt độ
Nhiệt độ trong ao 1 biến động không nhiều, khoảng 28,7 -
30,8oC trong 6 tháng nuôi. ở ao 2 và ao 3 biến động nhiệt độ
lần lượt là 28,6 - 4,0 và 28,6 - 34,0oC. Chênh lệch nhiệt độ
nước trung bình giữa sáng và chiều trong các ao trong
khoảng 1,0 - 2,0 độ C.
c. pH và N-NH3
pH của các ao nuôi ở trong giới hạn thích hợp cho cá phát
triển. Trong 6 tháng nuôi pH ao 1 biến động trong khoảng
6,77,6. Giá trị pH đo được ở ao 2 và ao 3 lần lượt là 6,97,3 và
6,77,4 trong 11 tháng nuôi. pH của nước trong ao vào buổi

sáng và buổi chiều chênh lệch khoảng 0,2 do trong ao nuôi
gần như không có tảo.
N-NH3 ở ao 1 biến động trong khoảng 0,05-0,45 mg/l. Giá trị
N-NH3 ở các ao 2, 3 là 0,08 0,29 và 0,120,27 tuy nhiên vẫn
trong giới hạn cho phép của nước nuôi thủy sản. Vào cuối kỳ
nuôi N-NH3 không cao có thể là do tác dụng của việc định
kỳ sử dụng formol để phòng bệnh cho cá nuôi, theo
Chiayvareesajja và Boyd 1993, thì formol ở nồng độ 10ppm
có tác dụng làm giảm đáng kể hàm lượng N-NH3 trong ao
nuôi cá.
d. Ôxy hoà tan
Giá trị trung bình của DO đo tại ao 1 vào buổi sáng sớm biến
động trong khoảng 1,1-2,5mg/l trong 6 tháng nuôi. Trong 11
tháng nuôi, ôxy hoà tan trong ao 2 khoảng 1,9 -3,3mg/l ; hàm
lượng DO trong ao 3 là 1,3 - 2,5 mg/l.
Sục khí đáy liên tục ở mức 22 - 24 giờ/ngày trong những
tháng cuối kỳ nuôi thì DO đo được không thấp hơn 1,9 mg/l.
e. COD
COD trong các ao có khuynh hướng tăng dần theo thời gian,
khi lượng chất thải của cá và thức ăn dư thừa tích tụ ngày
càng nhiều trong ao. Biến động của COD trong ao 1 khoảng
7,9 11,1 mgO2/l. Trong 11 tháng nuôi, COD ở ao 2 dao động
từ 6,4 11,4mg O2/l. Giá trị COD ở ao 3 đo được trong thời
gian nuôi là 10,3 15,5 mgO2/l.
Sở dĩ COD trong ao nuôi không cao do tăng cường sục khí
vào buổi trưa và chiều từ tháng nuôi thứ 5, để đẩy nhanh tiến
trình khoáng hóa các chất hữu cơ. Mặt khác, sục khí cũng
góp phần làm giảm COD trong môi trường bởi vì, theo Rubin
và ctv (1963) thì các chất hữu cơ hoà tan có thể bị đuổi ra
khỏi môi trường nước theo 2 cơ chế: (a) các chất hữu cơ hòa

tan, hoạt động bề mặt sẽ bị hấp thu tại giao diện nước - khí và
bị thu gom vào trong các bọt khí, (b) các chất hữu cơ hòa tan,
không hoạt động bề mặt sẽ kết hợp với các chất tan, hoạt
động bề mặt và sau đó bị tập trung vào các bọt khí.
2.2. Kết quả nuôi cá tra trong ao đất
a. Tăng trưởng của cá nuôi
Sau 6 tháng nuôi, tăng trưởng của cá ở ao 1 là 1.106g. Trọng
lượng bình quân của cá nuôi ở ao 2 là 1.812g sau 11 tháng
nuôi và ở ao 3 là 1.990g sau 11,5 tháng nuôi. ở các ao 2 và 3,
cá nuôi tăng trưởng tốt trong 8 tháng đầu, những tháng sau
tốc độ tăng trưởng của cá chậm đi do khẩu phần thức ăn của
cá bị cắt giảm (do vụ kiện cá tra, ba sa - xí nghiệp đông lạnh
không thu mua).
b. Kết quả thu hoạch và tỷ lệ thịt trắng
Kết quả thu hoạch và tỷ lệ thịt trắng của cá ở các ao 1, 2 và 3
được trình bày trong bảng 4.
Bảng 4 : Kết quả thu hoạch cá tra nuôi trong ao 2 và ao 3
A
o
n
u
ôi
Sản
lượn
g thu
hoạc
h
(kg)
Tỷ
lệ

số
ng
(%
)
F
C
R
Tỷ
lệ
thị
t
trắ
ng
(%
)
1
59.0
00
88
,9
1
1,
7
6
71
,4
3
2
153.
000

88
,7
8
1,
9
9
75
,0
0
3
82.5
00
90
,0
9
2,
0
6
70
,0
0
Theo bảng 5, tỷ lệ sống của cá Tra nuôi dao động trong
khoảng 88 - 90%. Sản lượng cá thu hoạch ở ao 1 sau 6 tháng
nuôi là 59 tấn (năng suất 218,5 tấn/ha); Sản lượng cá thu ở ao
2 sau 11 tháng nuôi là 153 tấn (năng suất 306 tấn/ha); Sản
lượng cá thu hoạch ở ao 3 sau 11,5 tháng nuôi là 82,5 tấn
(năng suất 275 tấn/ha). Hệ số chuyển đổi thức ăn FCR của
thức ăn nuôi cá ở ao 2 và ao 3 (1,99 và 2,06) cao hơn so với
FCR của thức ăn nuôi cá trong ao 1 do thời gian nuôi bị kéo
dài (11 - 11,5 tháng). Tỷ lệ cá nuôi thịt trắng đạt được ở ao 1,

ao 2 và ao 3 lần lượt là 71,48%; 75% và 70%. Như vậy, việc
áp dụng biện pháp sục khí đáy kết hợp với thay nước có kiểm
soát trong ao nuôi thâm canh cá tra cho kết quả ổn định, tỷ lệ
thịt trắng đạt trên 70%.
c. Chi phí nuôi 1 kg cá tra thịt trắng
Chi phí cho 1 kg cá tra thịt trắng nuôi ở ao 1 là 7.053
đồng/kg. Với chi phí này người nuôi cá sẽ có mức lời cho
mỗi kg cá bán cho các xí nghiệp đông lạnh khoảng 200 đồng
so với chi phí bình quân cho 1kg cá tra nuôi hầm ở An Giang
là 7.279 đồng/kg. (Chi phí nuôi 1kg cá tra thịt trắng ở ao 2 và
ao 3 bị đội lên khá cao do ảnh hưởng của vụ kiện cá tra, ba sa
nên làm cho thời gian nuôi kéo dài).
2.3 Nhận xét :
Từ các kết quả nuôi, đề tài có một số nhận xét như sau:
Quản lý ao nuôi tốt góp phần quan trọng hôỗ trợ cho phương
pháp sục khí đáy kết hợp thay nước có kiểm soát.
Sục khí đáy có thể bắt đầu vận hành khi sinh khối cá trong ao
đạt trên 2 kg/m3, thời gian vận hành là 12 giờ/ngày. Khi sinh
khối cá trong ao đạt xấp xỉ 6 kg/m3, cần vận hành sục khí
đáy 24 giờ/ngày để COD trong ao không tăng cao.
áp dụng biện pháp sục khí đáy trong ao nuôi cá tra mật độ 15
- 22 con/m2 kết hợp với thay nước có kiểm soát thì hàm
lượng COD sẽ ổn định ở mức thấp hơn 15,5 mgO2/l và tỷ lệ
thịt trắng đạt trên 70%.
3. Kết quả nuôi cá tra thịt trắng trong ao đất
3.1 Chuẩn bị ao
Chuẩn bị ao theo các mục 5,6,7,8 của 28 TCN 62-79. Ao
phải đạt độ sâu (3m, độ dốc mái bờ 1:1). Bờ ao phải cao hơn
mực nước cao nhất trong năm ít nhất là 0,5m.
Lắp đặt hệ thống sục khí đáy

Hệ thống sục khí đáy được lắp đặt trước khi thả cá, gồm:
- 01 máy dầu D10 (có thể thay thế bằng 01 mô tơ 3CV) nếu
diện tích ao nuôi từ 3.000 -5.000m2.
- 01 supercharge.
- 01 dàn khung sắt cố định máy và supercharge.
- 01 ống cấp khí chính F60mm (nhựa PVC).
Các ống cấp khí phụ F21mm (nhựa mềm) đã dùi lỗ để thoát
khí, chiều dài ống bằng chiều rộng của ao nuôi.
- Các van bằng nhựa để điều chỉnh lượng khí thoát ra và các
ống giảm F60mm - 21mm (các ống giảm 21 có răng phía
trong) để gắn ống nhựa.
Hệ thống ống dẫn khí được lắp đặt cách đáy ao 0,5m, ống
cấp khí F60mm được lắp đặt ở 1 bên bờ ao (cùng bên với
máy dầu & supercharge). Các ống phụ bằng nhựa mềm gắn
một bên của ống chính, song song với nhau, cách nhau
khoảng 4m. Các ống phụ được cố định bằng tầm vông và dây
cột.
3.2 Thả giống
Cá giống thả nuôi phải đạt yêu cầu chất lượng theo 28 TCN
170-2001.
3.3 Quản lý cho ăn và theo dõi tình hình sức khỏe cá nuôi
a. Quản lý cho ăn
Thức ăn cho cá : theo 28 TCN 188:2004. Cỡ cá 5-20g (30%
prôtêin), cỡ 20 - 200g (26% prôtêin), cỡ 200 - 500g (22%
prôtêin), cỡ >500g (18% prôtêin). Cho ăn 4 lần/ngày vào lúc
6 giờ sáng, 11 giờ, 17 giờ, và 21 giờ.
Mỗi tháng kiểm tra cá 1 lần, cân 30 cá thể để ước tính lượng
thức ăn cho cá. Thức ăn được điều chỉnh hằng ngày theo khả
năng ăn của cá để hạn chế thức ăn dư thừa.
b. Theo dõi tình hình sức khoẻ cá nuôi

- Hằng ngày theo dõi hoạt động bơi lội và bắt mồi của cá để
có thể sớm phát hiện bệnh. Ðịnh kỳ dùng formol 10 ppm để
ngừa bệnh ký sinh ngoài da (2 tuần/lần). Nếu cá bị bệnh, khử
trùng nước ao bằng formol 15ppm hoặc dùng BestaquamS
0,4ppm. Cho cá ăn thức ăn có trộn thuốc kháng sinh theo
hướng dẫn (không dùng các loại thuốc và hoá chất bị cấm).
3.4 Quản lý môi trường ao nuôi
a. Quản lý ao nuôi
Dùng vôi rải quanh bờ ao trong mùa mưa để ổn định pH,
dùng zeolite với lượng 40 kg/1600m2 ao để cải thiện chất
lượng môi trường đáy ao.
b. Quản lý chất lượng nước ao
Hằng ngày, theo dõi các chỉ tiêu : độ trong, nhiệt độ, pH, ôxy
hoà tan (dùng test), định kỳ đo chỉ tiêu COD (nếu có điều
kiện).
Lượng nước thay tối đa (5-10%/ngày) khi:
- Sục khí đã vận hành hết công suất nhưng COD trong ao vẫn
ở mức cao
- Ôxy hoà tan buổi sáng sớm < 1mg/l.
c. Chế độ sục khí
Chế độ sục khí phụ thuộc vào kết quả đo chỉ tiêu DO, COD
(nếu có) kết hợp với hoạt động hô hấp của cá buổi sáng sớm
và mức độ bắt mồi của cá.
Chế độ sục khí (giờ) trong ngày:
- Sục khí 12 giờ, từ 17.00 đến 5.00 giờ sáng hôm sau khi sinh
khối cá trong ao đạt khoảng 2,5 kg/m3.
- Sục khí 24 giờ khi sinh khối cá trong ao đạt 6 kg/m3.
- Tăng cường sục khí vào các thời điểm: 5.00 - 7.00; 5.00 -
10.00; 13.00 - 17.00 giờ khi DO<1 mg/l.
- Sục khí 22 - 24 giờ/ngày khi COD > 15 mg02/l.

3.5 Thu hoạch
Thu hoạch toàn bộ cá trong ao nuôi, sau khi thu hoạch tát cạn
ao và cải tạo ao chuẩn bị cho vụ nuôi kế tiếp. Nước thải từ ao
nuôi phải được xử lý trước khi thải ra môi trường.
IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
1. Kết luận
1. Biện pháp sục khí đáy kết hợp với thay nước có kiểm soát
áp dụng trong các ao nuôi cá tra công nghiệp ở Măng Thít,
Vĩnh Long cho kết quả chất lượng môi trường nước nuôi ổn
định, COD ( 15,5 mg O2/l. Tỷ lệ thịt trắng của cá tra nuôi lần
lượt là 71% (ao 1), 75% (ao 2) và 70% (ao 3).
2. Với mật độ thả từ 15,3 - 22,2 con/m2, năng suất cá tra nuôi
ở các ao 1, 2, 3 tương ứng là 218,5 tấn/ha, 306 tấn/ha và 275
tấn/ha.
3. Quy trình kỹ thuật nuôi thâm canh cá tra thương phẩm thịt
trắng có thể áp dụng cho các ao nuôi ở ÐBSCL với tỷ lệ thịt
trắng đạt ổn định (70%), chi phí cho 1 kg cá tra thịt trắng

×