Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Cảm nhận kiến trúc chữ tam chùa Tây Phương pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.42 KB, 4 trang )

Cảm nhận kiến trúc chữ tam chùa
Tây Phương
Được xem là “đệ nhất thắng cảnh” nước Nam, nhưng chùa Tây Phương không hề to
lớn đồ sộ.




Thong thả leo lên 237 bậc, cuối đoạn dốc núi mở ra một không gian cao và khoáng đạt,
nếp chùa như sừng sững hiện ra, in trên nền trời trong vắt như thể người ta đã tìm được
về với cõi Phật. Chùa xây dựng trên một khoảng đất hẹp trên đỉnh của ngọn Câu Lậu sơn,
có lẽ do điều kiện khó vận chuyển vật liệu nên có thể nghĩ đến khả năng đồ sộ của công
trình. Do đó, để tạo ra được một công trình mẫu mực, các kiến trúc sư dân gian dường
như đã tập trung mọi cố gắng vào khai thác những khía cạnh khác nhau của nghệ thuật
kiến trúc gỗ.

Với bố cục mặt bằng, hình chữ Tam thật đơn giản, ba tòa nhà của chùa được dựng kiểu
trùng thiềm điệp ốc. Theo thư tịch cổ ghi lại, chùa có niên đại từ thời Mạc năm 1554.
Nhưng theo ghi chép trên bia Tây Phương sơn Sùng Phúc tự thạch bi thì nó được trùng tu
và làm lại vào đầu thế kỷ XVII (1635). Đến cuối thế kỷ XVII Tây Đô Vương Trịnh Tạc
(1606-1682) lại cho phá chùa cũ dựng lại chùa mới và tam quan. Đến đời Trịnh Uy
Vương Trịnh Giang theo như ghi chép của Phạm Đình Hổ trong Vũ Trung Tùy Bút, chùa
được đại hưng công vào khoảng năm 1740. Tuy nhiên, cuộc đại trùng tu này vẫn chưa
thực hoàn thiện, mà phải đến đầu thời Tây Sơn năm 1794 chùa Tây Phương mới có được
bộ mặt như ngày nay. Niên đại này khiến không ít nhà nghiên cứu xếp chùa Tây Phương
vào mỹ thuật thời Tây Sơn, nhưng người ta cũng nhận thấy rằng kiến trúc không chỉ chùa
Tây Phương mà mẫu hình của nó được hiện diện trên cả chùa Kim Liên đã làm nên nét
độc đáo riêng biệt cho hai ngôi chùa hình chữ Tam này là sản phẩm của nghệ thuật thời
Lê Trịnh. Cả hai ngôi chùa đều do các chúa Trịnh bỏ công trùng hưng và xây dựng qua
nhiều đời. Thậm chí không phải ngẫu nhiên chúng được mang dạng thức chữ “Tam”.


Theo cuốn “Di tích chùa Tây Phương” của Vũ Tam Lang cho rằng: chùa Lấm, Quảng
Ninh, thuộc di tích thời Trần cũng có ba lớp nền song song. Do đó có ý cho rằng thời
Trần dạng bình đồ “chữ Tam” đã có, nên có thể kiến trúc chữ Tam chùa Tây Phương
không hẳn là một sáng tạo độc đáo của thế kỷ XVII. Nhưng có lẽ vào thời Lê Trịnh dựa
trên nhu cầu, hàm ý biểu tượng các chúa Trịnh mặc dầu lúc nào họ cũng ở trong ngôi vị
“phi đế, phi bá” thì hình chữ Tam (có dạng triết tự gần với chữ Vương) được thể hiện ra
ở đây đã mang nhiều hàm nghĩa hơn cho các chúa. Hơn nữa, các chúa như Trịnh Căn,
Trịnh Sâm, Trịnh Tạc, Trịnh Giang đều là những người hay chữ, do vậy cái hàm ý được
thể hiện ra trên một ngôi chùa thuộc hàng quốc tự cũng là điều dễ hiểu. Tính chất bác học
được thể hiện ra trên từng chi tiết, cũng chứng minh cho điều này.

Không chỉ vậy các thành tựu kiến trúc của thế kỷ XVII với lối dựng các nếp nhà chồng
diêm hai tầng tám mái đã được hiện diện trong các thành phần kiến trúc ở đây. Chưa kể
dạng thức tàu đao mái lá rất phổ biến trong các dạng thức đình làng thế kỷ này, cũng đã
được áp dụng khiến cho ba nếp chùa vừa như tĩnh tại, lại vừa như bay bổng tạo nên sự
cân bằng trên đỉnh núi chênh vênh.

Bước vào chùa, trong thế giới hoàn toàn tách biệt, thứ ánh sáng nhẹ, lan tỏa dìu dịu
như vẽ ra một bức tranh nhiều sắc độ. Ánh sáng này đã kiến tạo nên một không gian tĩnh
lặng huyền ảo nhờ sự tính toán công phu khi dựng chùa. Quan sát kĩ thì thấy rằng tuy ba
nếp chùa được dựng song hành gồm chùa Hạ, chùa Trung và chùa Thượng, nhưng chúng
lại được liên kết với nhau bởi lớp tường bao đóng thành một khối kín, có cửa ngách
thông sang hai bên. Sự tài tình của các nhà kiến trúc dân gian xưa là đã biết sử dụng nghệ
thuật đối lập ngay một công trình kiến trúc. Chỉ có chùa Hạ là có 9 cửa (nhưng thường
đóng), còn nếp chùa trong chỉ là kết cấu bởi những hàng cột rỗng, khiến chúng liên thông
với nhau tạo nên nội thất chùa rộng và thoáng. Giữa mỗi nếp chùa này còn có một
khoảng sân hẹp thông với không gian mở rộng lên trời hứng ánh sáng gọi là sân “thiên
tỉnh” (giếng trời). Ở mỗi khoảng sân này lại được thiết kế một cái bể nước khiến cho lớp
gạch lót mái “sắc-không” tượng trưng cho tấm áo cà sa của đức Phật như ánh lên thứ ánh
sáng muôn màu. Từ ngoài bước vào, cái cảm giác về khoảng tối như dần được mở ra khi

bước qua những sân thiên tỉnh để dần vào trong, chiêm ngưỡng những pho tượng Phật,
thì cảm giác về thế giới Phật pháp như mở cõi lòng đến sự rộng lớn vô biên.

Nhìn từ ngoài vào, ta còn thấy một sự khác biệt nữa trong kiến trúc: đầu hồi của chùa
Trung lùi vào khiến những đầu đao mái chùa như sinh động hơn trong nhịp điệu đã được
thay đổi một cách cơ bản. Tường bao của ngôi chùa đã liên kết ba tòa thành dạng thức
mặt bằng gần với chữ công rất phổ biến trong kiến trúc cổ truyền Việt Nam. Tuy nhiên,
ta lại không thể quy mặt bằng này vào hình chữ công, vì ba nếp chùa lại hoàn toàn tách
bạch trong nội thất, làm nên lối kiến trúc đặc biệt hiếm thấy của chùa Tây Phương, như
cái lý về sắc sắc không không vậy.

Lối kiến trúc chữ Tam chưa hẳn đã đẹp do sự kết hợp với một số khoảng không kiến
trúc đặc biệt như sân thiên tỉnh, hay độ lùi vào của chùa Trung, hay những đầu đao được
uốn cong, cao vút tạo nên sự bay bổng. Kiến trúc này là sự kết hợp giữa sự phức tạp của
trang trí trên các thành phần của các vì kèo và sự đơn giản của kết cấu mặt bằng. Sự đối
lập tĩnh tại của các đường thẳng và sự sinh động của các mái cong, khiến cho ngôi chùa
trở nên sống động một cách lạ thường. Sự đơn giản, nhưng tinh tế của kiến trúc chữ Tam
như kiến tạo nên một không gian siêu thoát đối lập sự rối ren hỗn loạn của thời thế lúc
bấy giờ (thế kỷ XVII-XVIII) đã trở thành nơi con người tìm được nơi trú ngụ bình yên.
Kiến trúc chữ Tam chùa Tây Phương được dựng trên non cao tĩnh lặng và cổ kính đã góp
phần vào sự phong phú của kiến trúc chùa Việt Nam.

×