Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Luận văn thạc sĩ vấn đề lý luận sử học ở miền bắc việt nam thời kỳ 1954 1975

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (731.21 KB, 104 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------------------

NGUYỄN THỊ THU

VẤN ĐỀ LÝ LUẬN SỬ HỌC Ở MIỀN BẮC VIỆT NAM
THỜI KỲ 1954-1975

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Hà Nội - 2013

z


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------------------------------------

NGUYỄN THỊ THU

VẤN ĐỀ LÝ LUẬN SỬ HỌC Ở MIỀN BẮC VIỆT NAM
THỜI KỲ 1954-1975

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Lịch sử Sử học và Sử liệu học
Mã số: 60 22 58

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Hoàng Hồng

Hà Nội - 2013



z


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU……………………………………………………………………...

2

1. Lý do chọn đề tài………………………………………………………….

2

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề……………………………………………….

3

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu……………………………………..

4

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu……………………………………...

5

5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu…………………………...

5


6. Đóng góp của luận văn ………………………………………………….

5

7. Bố cục của luận văn………………………………………………………

6

Chương 1: KHÁI QUÁT SỬ HỌC MIỀN BẮC VIỆT NAM
THỜI KỲ 1954-1975……………………………………………………….

7

Chương 2: LÝ LUẬN VỀ ĐỐI TƯỢNG VÀ NHIỆM VỤ,
CHỨC NĂNG CỦA SỬ HỌC…………………………………………...

18

2.1. Lý luận về đối tượng của sử học……………………………………..

18

2.2. Lý luận về nhiệm vụ, chức năng của sử học……………………….

24

Chương 3: LÝ LUẬN VỀ PHƯƠNG PHÁP SỬ HỌC…………….

32


3.1. Về tính đảng và tính khoa học trong sử học………………………..

32

3.2. Về phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic trong sử học…...

47

3.3. Về chủ nghĩa chủ quan và chủ nghĩa khách quan trong sử học....

55

3.4. Về tài liệu lịch sử……………………………………………………….

73

Kết luận……………………………………………………………………….

82

Tài liệu tham khảo……………………………………………….................

86

Phụ lục…………………………………………………………………………

94

1


z


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Khi quyết định chọn chuyên ngành Lịch sử Sử học và Sử liệu học để
học tập và thực hiện luận văn cao học, tôi định hướng sẽ nghiên cứu một vấn
đề lịch sử sử học nào đó trong tiến trình sử học Việt Nam hiện đại.
Tiếp cận tiến trình sử học Việt Nam hiện đại (chủ yếu từ năm 1954 đến
nay) tôi nhận thấy giới sử học Việt Nam đã nghiên cứu và tích lũy được một
khối lượng kiến thức khổng lồ trong nhiều lĩnh vực khác nhau của khoa học
lịch sử Việt Nam như: Lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm, Lịch sử chính trị-xã
hội, Lịch sử kinh tế, Lịch sử văn hóa, Khởi nghĩa nông dân, Nhân vật lịch sử…
Lý luận sử học là lĩnh vực được quan tâm và triển khai nghiên cứu từ
sớm. Bài viết đầu tiên về lý luận sử học là bài đầu tiên trong số đầu tiên của
Tập san Nghiên cứu Văn Sử Địa (1954). Trong tiến trình sử học Việt Nam
hiện đại, có ba thời điểm giới sử học Việt Nam tập trung nghiên cứu lý luận
sử học, đó là năm 1966, năm 1992, năm 2011. Mỗi thời điểm đều đã đánh dấu
những nhận thức mới trong các vấn đề lý luận sử học.
Thời kỳ 1954-1975, ở miền Bắc việc nghiên cứu lý luận sử học có
nhiều thành tựu, giới sử học miền Bắc, trung thành với chủ nghĩa MácLênin, đã xây dựng một hệ thống lý luận sử học bao gồm các luận điểm về
đối tượng, về phương pháp, về nhận thức trên cở sở của chủ nghĩa duy vật
lịch sử, đồng thời phủ nhận hoàn toàn, tuyệt đối bất kỳ một quan niệm nào
của sử học tư sản.
Vậy hệ thống lý luận của sử học miền Bắc như thế nào, nó có yếu tố gì
hợp lý và bất hợp lý. Dưới góc độ lịch sử sử học, khảo cứu vấn đề lý luận sử học
ở miền Bắc thời kỳ 1954-1975 sẽ làm sáng tỏ các luận điểm về lịch sử và sử học
thể hiện tư tưởng và phương pháp sử học của các học giả miền Bắc đồng thời có
thể nhận thấy những giá trị cần kế thừa để phát triển lý luận sử học ở Việt Nam.
Đây là cơng việc khó khăn, phức tạp, đòi hỏi sự cố gắng rất lớn của bản

thân, nhưng với mong muốn được góp phần tìm hiểu tiến trình sử học Việt
2

z


Nam nói riêng cùng với sự khuyến khích của các Thầy, Cô trong bộ môn Lý
luận Sử học, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Vấn đề lý luận sử học ở miền Bắc
Việt Nam thời kỳ 1954-1975” làm luận văn Thạc sỹ, Chuyên ngành Lịch sử
sử học và sử liệu học.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Bài viết đầu tiên có nội dung tổng kết cơng tác lý luận sử học ở miền
Bắc từ 1954-1960 là của Nguyễn Hồng Phong “Công tác lý luận của ngành
sử học trong 7 năm qua” (Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 21-1960). Bài viết
điểm lại các ý kiến luận bàn về lý luận sử học theo các vấn đề: Mục tiêu của
sử học, tác dụng của sử học, cơ sở lý luận của sử học, đồng thời chỉ ra những
hạn chế thường mắc phải trong nghiên cứu lịch sử là bệnh giáo điều, bệnh sơ
lược, bệnh tài liệu chủ nghĩa…
Từ năm 1961, các bài nghiên cứu của giới sử học trong nước và ngoài
nước về vấn đề lý luận sử học nhiều hơn. Đến năm 1966, cuộc Hội thảo
phương pháp luận sử học đã diễn ra sôi nổi trong giới sử học. Sau hội thảo
này, cuốn Mấy vấn đề phương pháp luận sử học đã được xuất bản năm 1967.
Cuốn sách này bao gồm các bài viết tiêu biểu về phương pháp luận sử học
được trình bày trong Hội thảo. Đây là những lý giải khoa học và hình thành
nên những luận điểm quan trọng về tư tưởng sử học và phương pháp sử học.
Sau khi đất nước được thống nhất, các nhà sử học miền Bắc có điều
kiện tiếp xúc với những cơng trình lý luận sử học của các học giả miền Nam.
Giáo sư Trương Hữu Quýnh đã có hai bài viết “Đọc sách nhập môn phương
pháp sử học của Nguyễn Thế Anh” (Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 7-1978)
và “Đọc sách Phương pháp sử học của Nguyễn Phương” (Tạp chí Nghiên cứu

lịch sử, số 5-1978). Trong hai bài viết này, tác giả đã phê phán sự không nhất
quán của Nguyễn Thế Anh và Nguyễn Phương, đồng thời chỉ ra những hạn
chế trong các luận điểm của các ông là: Phủ nhận quy luật và tính khách quan
của lịch sử, đề cao vai trò quyết định của cá nhân trong lịch sử, nhấn mạnh
yếu tố chủ quan trong nhận thức lịch sử…
3

z


Năm 1980, nhân Kỷ niệm 20 năm thành lập Viện Sử học, giáo sư Phạm
Xuân Nam, viết bài “Về những vấn đề phương pháp luận trong công tác sử
học của chúng ta” (in trong “Sử học Việt Nam trên đường phát triển- Nxb
KHXH.H.1981). Bài viết khái lược quá trình nghiên cứu phương pháp luận sử
học ở nước ta từ năm 1954 và tập trung phân tích hai vấn đề chủ yếu là “Đối
tượng của sử học” và “Tính đảng tính khoa học trong sử học”. Kế đó tác giả
đề xuất cần tiếp tục nghiên cứu một số vấn đề có ý nghĩa lý luận như: Lý luận
tư liệu học, Nhận thức quy luật lịch sử, Nghiên cứu lịch sử sử học…
Đầu những năm 90 của thế kỷ XX, vấn đề đổi mới trong công tác
nghiên cứu lịch sử đặt ra như một yêu cầu cấp thiết mà trước hết là sự đổi mới
về lý luận và phương pháp luận. Tạp chí nghiên cứu lịch sử đã dành trọn số
258 (1991) là đặc san bàn về sử học và đổi mới. Trong đặc san này có một số
ý kiến bàn luận đánh giá lại nội dung phương pháp luận sử học được xây
dựng từ năm 1966. Đó là: Phạm vi đối tượng của sử học, tính đảng tính khoa
học lịch sử, tính tất yếu của lịch sử…
Năm 2011, trong hội thảo “Sử học trong bối cảnh hội nhập và tồn
cầu hóa- Những vấn đề lý luận và phương pháp tiếp cận” do Trường Đại
học KHXHNV Hà Nội và Trường Đại học KHXHNV thành phố Hồ Chí
Minh tổ chức, có một số bài viết đã trình bày vấn đề nhận thức lịch sử theo
một kiến giải mới.

Các cơng trình nghiên cứu trên đây là những gợi mở rất hữu ích cho tơi
trong q trình tiếp cận, phân tích, đánh giá nội dung lý luận sử học ở miền
Bắc Việt Nam thời kỳ 1954-1975.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ nội dung các vấn đề lý luận sử học ở miền Bắc Việt Nam thời
kỳ 1954-1975. Chỉ ra những ưu điểm, hạn chế của lý luận sử học miền Bắc.
Góp phần bổ sung kiến thức cho chuyên ngành Lịch sử sử học Việt Nam hiện
đại nói chung và lý luận sử học nói riêng.
4

z


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Khảo cứu các cơng trình nghiên cứu liên quan đến nội dung lý luận sử
học ở miền Bắc thời kỳ 1954-1975.
Phân tích, đánh giá chỉ ra những ưu điểm, hạn chế của lý luận sử học ở
miền Bắc Việt Nam 1954-1975.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Hệ thống kiến thức về lý luận sử học ở miền Bắc Việt Nam thời kỳ
1954-1975.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Lý luận sử học có nội dung rất rộng lớn, trong khuôn khổ một luận văn
thạc sỹ, đề tài giới hạn phạm vi nghiên cứu với các vấn đề: Đối tượng và
nhiệm vụ, chức năng của sử học; tính đảng và tính khoa học trong sử học;
phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic trong sử học, chủ nghĩa chủ quan
và chủ nghĩa khách quan trong sử học; vấn đề tài liệu lịch sử. Phần mô tả các
vấn đề sẽ chiếm một vị trí quan trọng trong luận văn.

Các vấn đề trên chủ yếu được khảo cứu qua các bài viết trên Tạp chí
nghiên cứu lịch sử và một số sách của Nhà xuất bản khoa học xã hội thời kỳ
1954-1975.
5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu
5.1. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp chính được áp dụng là: Phương pháp lịch sử, Phương
pháp lôgic, Phương pháp phân tích, Phương pháp tổng hợp…
5.2. Nguồn tài liệu
Các bài viết đề cập đến lý luận sử học được đăng tải trên Tập san Văn
Sử Địa, Tạp chí nghiên cứu lịch sử và một số tạp chí chuyên ngành khác.
Các sách đề cập đến nội dung lý luận sử học của các nhà xuất bản:
Khoa học xã hội, Giáo dục, Đại học Quốc gia, Đại học Sư phạm…

5

z


6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần bổ sung kiến thức cho chuyên ngành Lịch sử Sử
học Việt Nam hiện đại nói chung và lý luận sử học nói riêng.
Có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho sinh viên ngành sử các
trường đại học.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục; Nội dung của
luận văn được chia thành 3 chương:
Chương 1: KHÁI QUÁT SỬ HỌC MIỀN BẮC VIỆT NAM THỜI KỲ
1954-1975
Chương 2: LÝ LUẬN VỀ ĐỐI TƯỢNG VÀ NHIỆM VỤ, CHỨC
NĂNG CỦA SỬ HỌC

2.1. Lý luận về đối tượng của sử học
2.2. Lý luận về nhiệm vụ, chức năng của sử học
Chương 3: LÝ LUẬN VỀ PHƯƠNG PHÁP SỬ HỌC
3.1. Về tính đảng và tính khoa học trong sử học
3.2. Về phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic trong sử học
3.3. Về chủ nghĩa chủ quan và chủ nghĩa khách quan trong sử học
3.4. Về tài liệu lịch sử

6

z


Chương 1
KHÁI QUÁT SỬ HỌC MIỀN BẮC VIỆT NAM THỜI KỲ 1954-1975
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954) đã
đưa cách mạng nước ta sang giai đoạn mới: miền Bắc hồn tồn giải phóng và
bước đầu chuyển sang cách mạng xã hội chủ nghĩa. Miền Nam còn bị đế quốc
Mỹ và tay sai thống trị, nhân dân còn phải tiếp tục cách mạng dân tộc dân
chủ. Nhiệm vụ, mục tiêu chung của cách mạng mỗi miền là hoàn thành cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thực hiện thống nhất nước nhà, do đó nhiệm
vụ cách mạng ở hai miền có quan hệ mật thiết với nhau, ảnh hưởng qua lại lẫn
nhau, tác động thúc đẩy cùng phát triển.
Hoạt động của sử học ở miền Bắc thời kỳ 1954-1975 diễn ra trong bối
cảnh nền sử học cách mạng Việt Nam, hình thành trong cuộc kháng chiến
chống Pháp, còn chưa được củng cố phát triển, nhiệm vụ đặt ra cho sử học
miền Bắc là rất to lớn: vừa phải tham gia thực hiện những nhiệm vụ của cuộc
cách mạng văn hóa tư tưởng và giải quyết những vấn đề cơ bản của khoa học
lịch sử, vừa phải góp phần thiết thực cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Điều quan trọng nhất của sử học giai đoạn này là làm thế nào để sử học vừa đảm

bảo tính khách quan khoa học vừa phục vụ trực tiếp sự nghiệp cách mạng của
đất nước.
Ngày 2-12-1953, Ban Bí thư Trung ương Đảng Việt Nam ra quyết định
thành lập Ban nghiên cứu Lịch sử-Địa lý-Văn học trực thuộc Ban Chấp hành
Trung ương Đảng gọi là Ban nghiên cứu Sử-Địa-Văn. Cùng với việc thành
lập Ban nghiên cứu Sử-Địa-Văn, tập san Sử-Địa-Văn cũng ra đời.
Chủ trương thành lập Ban nghiên cứu Lịch sử-Địa lý-Văn học của
Trung ương Đảng ngay trong thời kỳ kháng chiến đã đáp ứng một yêu cầu cấp
thiết của cán bộ và nhân dân, góp phần vào việc giáo dục chủ nghĩa yêu nước
và chủ nghĩa quốc tế vô sản, đồng thời cũng đáp ứng được một phần yêu cầu

7

z


của nhiều bạn quốc tế, nhất là những bạn trong phe xã hội chủ nghĩa, muốn
tìm hiểu về lịch sử, văn học, địa lý Việt Nam.
Việc thành lập Ban nghiên cứu Sử-Địa-Văn là bước phát triển lớn
nhất của khoa học xã hội nước ta từ sau cách mạng tháng Tám. Đây là tổ
chức đầu tiên lớn nhất của ba ngành xã hội Việt Nam. Nó kế thừa những tổ
chức và thành tựu trước đó của hoạt động văn hóa dưới sự lãnh đạo của
Đảng và đặt cơ sở cho việc thành lập các tổ chức nghiên cứu khoa học xã
hội sau này ở nước ta.
Từ cuối năm 1953 đến giữa năm 1957, Ban nghiên cứu Sử-Địa-Văn đã
có những hoạt động đầu tiên rất quan trọng, đã tổ chức một số cuộc hội thảo
khoa học về lịch sử. Cuộc hội thảo ‘‘Vấn đề ruộng đất và vai trị nơng dân
trong lịch sử’’ được tổ chức ở Tân Trào-Tuyên Quang. Kết quả của hội thảo
được công bố trên tập san Sử, Địa, Văn số 2-1954. Một cơng việc có ý nghĩa
quan trọng trong hoạt động khoa học của Ban nghiên cứu Sử-Địa-Văn là bắt

đầu biên tập các bộ tài liệu tham khảo về lịch sử đấu tranh chống thực dân
Pháp từ 1858 đến 1945. Một vài cơng trình sử học có giá trị được tổ chức biên
soạn, đáng kể nhất là cuốn ‘‘Vài nhận xét về thời kỳ cuối nhà Lê đến nhà
Nguyễn Gia Long’’ của Nguyễn Khánh Toàn. Tác giả đã vận dụng những
quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin vào nghiên cứu một thời kỳ phức tạp ở
Việt Nam và đề xuất một số ý kiến về lý luận như nguyên nhân dẫn đến sự
hình thành dân tộc Việt Nam.
Cuối năm 1954, Ban nghiên cứu Lịch sử-Địa lý-Văn học đổi thành
Ban nghiên cứu Văn-Sử-Địa. Sau khi tiếp quản Thủ đô, Đại học Văn khoa
được thành lập trong đó có khoa Ngữ văn và Khoa Sử-Địa. Năm 1956 trên
cơ sở Trường Đại học Văn khoa, thành lập các Trường Đại học Tổng hợp
Hà Nội và Đại học sư phạm Hà Nội, trong các Trường Đại học này có Khoa
lịch sử làm nhiệm vụ đào tạo cán bộ sử học đồng thời cũng là những cơ quan
nghiên cứu lịch sử.

8

z


Ban nghiên cứu Văn-Sử-Địa tồn tại trong gần 5 năm (12/1953-3/1958)
và có nhiều thành tích đáng kể: xuất bản 36 đầu sách, có đầu sách gồm nhiều
tập như bộ Lịch sử 80 năm chống Pháp, Tài liệu tham khảo lịch sử cách mạng
cận đại Việt Nam…Các cơng trình đồ sộ của ông cha để lại bằng Hán văn đã
được dịch ra tiếng Việt và in ấn phổ biến rộng rãi như Khâm định Việt sử
thông giám cương mục, Đại Nam thực lục tiền biên và chính biên, Đại việt sử
ký tồn thư, Lịch triều hiến chương loại chí.
Cùng với 36 đầu sách là 46 số Tập san Văn-Sử-Địa với gần 300 bài
nghiên cứu ra từ tháng 6-1954 đến tháng 1-1959.
Ban nghiên cứu Văn Sử Địa đã làm tròn nhiệm vụ của mình trong giai

đoạn từ khi thành lập đến hết năm 1959. Khi thực tế đất nước có nội dung
phong phú hơn, những nhiệm vụ chung đề ra cũng cao hơn, những đòi hỏi của
cách mạng, của nhân dân đối với mặt trận cơng tác tư tưởng, trong đó ngành
sử học là một bộ phận trọng yếu. cũng cao hơn. Cho nen phải có một tổ chức
với một trách nhiệm cao hơn Ban nghiên cứu Văn Sử Địa.
Ngày 6-2-1960, Viện Sử học trực thuộc Ủy ban khoa học Nhà nước
được thành lập. Viện có nhiệm vụ “căn cứ vào đường lối của Đảng và Chính
phủ nghiên cứu lịch sử theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin phục vụ sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước
nhà, góp phần vào cuộc đấu tranh cho hịa bình và chủ nghĩa xã hội thế giới”
(theo Quyết định số 039/TTg ngày 6-2-1960 của Thủ tướng Chính phủ). Là
cơ quan nhà nước, Viện Sử học ngoài nhiệm vụ nghiên cứu của mình cịn là
trung nghiên cứu sử học của cả nước, tập hợp lực lượng sử học, trao đổi kinh
nghiệm, phân công, phối hợp trong mọi công tác.
Việc thành lập Viện sử học ở Ủy ban Khoa học Nhà nước là một sự
kiện quan trọng đối với các ngành khoa học xã hội nói chúng, đối với ngành
sử học nói riêng. Sự quan trọng đó là ở chỗ: nó tạo nên cái cơ sở đầu tiên cho
chúng ta đi vào việc xây dựng ngành sử học Việt Nam theo tinh thần khoa
học.
9

z


Cùng với Viện Sử học, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử kế tục công việc
nghiên cứu lịch sử của Tập san Văn-Sử-Địa, đã đăng tải nhiều cơng trình
nghiên cứu có giá trị đặc biệt là từ các cuộc hội thảo quan trọng như:“Thời
đại Hùng vương trong lịch sử”, “Sự hình thành dân tộc Việt Nam”, “Việt
Nam có chế độ chiếm hữu nô lệ hay không”, “Phương thức sản xuất châu Á
ở Việt Nam”, các vấn đề về phương pháp luận sử học, đánh giá các nhân

vật lịch sử…
Cũng từ năm 1960, một số cơ quan nghiên cứu thuộc lĩnh vực sử học
cũng lần lượt ra đời như: Viện Khảo cổ học, Viện dân tộc học, Ban nghiên
cứu lịch sử Đảng Trung ương, Ban lịch sử dân tộc và Ban nghiên cứu lịch sử
Đảng của các tỉnh. Khoa sử các trường Đại học Vinh, Việt Bắc…
Thời kỳ 1954-1975, sử học miền Bắc đã đạt được các thành tựu như
sau:
Việc nghiên cứu vấn đề nguồn gốc dân tộc Việt Nam: Các nhà sử học
đã phối hợp với các nhà khảo cổ học, ngôn ngữ học, dân tộc học, nhân chủng
học, văn học dân gian tiến hành xác minh và nêu nhiều luận cứ khoa học quan
trọng. Khảo cổ học bằng các di vật khai quật đã chứng minh nhiều nền văn
hóa có nguồn gốc bản địa.
Trong nửa cuối những năm 50 và đầu 60, các nhà sử học Việt Nam đã
phê phán những luận điểm sai trái của nguồn gốc dân tộc Việt Nam và chứng
minh rằng nguồn gốc các dân tộc Việt Nam chủ yếu là cư dân bản địa lâu đời.
tiếp đó từ cuối những năm 60 trở đi, “Thời đại Hùng Vương” trở thành một
đề tài khoa học hấp dẫn các nhà nghiên cứu lịch sử trong những năm 19681971, kết quả nghiên cứu thời đại Hùng Vương được trình bày ở 4 hội nghị
khoa học (1968, 1969, 1970, 1971) và cơng bố trong 4 tập kỷ yếu có tên
chung Hùng Vương dựng nước và trên các tạp chí Nghiên cứu lịch sử, Khảo
cổ học, Dân tộc học, Ngôn ngữ học… Các kết quả nghiên cứu đã xác định cấu
trúc xã hội, trạng thái kinh tế, văn hóa, sinh hoạt, phong tục tập quán của thời
đại Hùng Vương và khẳng định đó là một thời đại có thực chứ không chỉ là
10

z


thời đại truyền thuyết hay thần thoại mà sử sách trước kia còn ghi lại để tồn
nghi. Sử học đã chứng minh rõ đó là giai đoạn đầu của sự nghiệp dựng nước
của dân tộc ta với sự xuất hiện Nhà nước đầu tiên cũng như sự xuất hiện nền

văn minh đầu tiên của dân tộc ta là nền Văn minh Sơng Hồng mà văn hóa
Đơng Sơn là tiêu biểu.
Vấn đề hình thành dân tộc Việt Nam: từ năm 1955, sau khi miền Bắc
được hồn tồn giải phóng, giới sử học miền Bắc nước ta đã tiến hành nghiên
cứu và thảo luận sơi nổi vấn đề này. Nhiều cơng trình nghiên cứu đã được
đăng trên tập san Văn Sử Địa, tập san Đại học sư phạm, tạp chí Nghiên cứu
lịch sử. Từ sau năm 1965, do yêu cầu biên soạn bộ Lịch sử Việt Nam (tập 1),
cuộc thảo luận lại tiếp tục diễn ra sôi nổi. Số người tham gia đơng đảo bao
gồm các nhà nghiên cứu trong và ngồi nước. Nhiều nhà nghiên cứu thay đổi
quan điểm. Quan điểm được nhiều người tán thành là: Dân tộc Việt Nam đã
hình thành từ rất sớm, trước chủ nghĩa tư bản, trong điều kiện một lãnh thổ
thống nhất, một ngôn ngữ Việt Nam thống nhất, một nền văn hóa Việt Nam
thống nhất và mãnh liệt, một tình cảm yêu nước thương nịi đậm đà sâu sắc.
Tất cả đã gắn bó đất nước Việt Nam làm một, con người Việt Nam làm một,
dân tộc Việt Nam làm một. Vấn đề còn lại là thời điểm hình thành. Có người
cho rằng dân tộc Việt Nam hình thành từ thời Hùng Vương, có người cho là
thế kỷ X, XI, có người xác định là thế kỷ XV…
Vấn đề các hình thái kinh tế xã hội Việt Nam: Cuộc thảo luận “Việt
Nam có chế độ chiếm hữu nô lệ hay không” diễn ra sôi nổi trong những năm
1957-1960 trên tạp chí Nghiên cứu lịch sử và trong nhiều cuộc hội thảo khoa
học (đặc biệt là cuộc hội thảo năm 1966). Có hai quan điểm trái ngược nhau
giữa những người chủ trương có và những người chủ trương khơng có chế độ
chiếm hữu nơ lệ ở Việt Nam. Phần lớn ý kiến cho rằng, ở Việt Nam không lúc
nào tồn tại chế độ chiếm hữu nô lệ điển hình (kiểu châu Âu) nhưng có tồn tại
loại hình đặc biệt là nơ tỳ. Tuy vậy nơ tỳ khơng đóng vai trị lực lượng sản

11

z



xuất chính trong xã hội, do đó khơng đủ cứ liệu để xác minh là đã có chế độ
chiếm hữu nô lệ thực sự ở Việt Nam.
Cuộc thảo luận về chế độ phong kiến Việt Nam sôi nổi nhất ở việc xác
định thời điểm khởi đầu của sự phong kiến hóa xã hội Việt Nam. Điều đã
được thống nhất là xác định được giai đoạn phát triển của chế độ phong kiến
với Văn minh Đại Việt bắt đầu từ thế kỷ X, XI trở đi, mà đặc trưng của nó là
sự phát triển mạnh mẽ của ý thức dân tộc, sự phát triển kinh tế, văn hóa xã
hội cùng với những chiến công oanh liệt chống ngoại xâm. Tuy vậy, một số
nhà nghiên cứu trong nước và ngồi nước cịn cho rằng, nếu nghiên cứu theo
khái niệm phương thức sản xuất châu Á thì sẽ rõ hơn là nghiên cứu theo khái
niệm phong kiến, bởi vì nội dung phong kiến thích hợp với phương Tây hơn
là phương Đơng.
Đến giai đoạn suy tàn của chế độ phong kiến, ý kiến còn phân tán: Nên
lấy thời điểm nào làm mốc, thế kỷ XVI, XVII hay thế kỷ XIX. Nếu khơng có
những thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa nảy sinh thì lấy gì làm nhân tố bên
trong đã phá vỡ chế độ phong kiến dẫn nó đến suy tàn.
Xác định hình thái kinh tế xã hội thời thuộc Pháp cũng có nhiều ý kiến
khác nhau. Có ý kiến cho đó là chế độ thuộc địa phong kiến, có ý kiến tán
thành khái niệm thuộc địa nửa phong kiến, có ý kiến gọi đó là chế độ thuộc địa.
Kinh tế dân chủ nhân dân cũng được nhiều người nghiên cứu chú ý.
Vấn đề đặt ra là đặt nó vào phạm trù nào của hình thái kinh tế-xã hội: Hình
thái kinh tế xã hội chủ nghĩa hay là một hình thái trung gian riêng biệt.
Vấn đề ruộng đất và phong trào nông dân trong lịch sử Việt Nam: vấn
đề này đã được đặt thành trọng tâm nghiên cứu ngay khi Ban nghiên cứu Lịch
sử-Địa lý-Văn học được thành lập. Trong hơn 20 năm nghiên cứu vấn đề
ruộng đất và phong trào nông dân, các nhà sử học miền Bắc đã làm sáng tỏ
nhiều vấn đề, trước hết là các chế độ sở hữu ruộng đất, từ quyền sở hữu của
Nhà nước, quyền sở hữu của làng xã, quyền sở hữu phong kiến, quyền sở hữu
của nông dân cá thể đến các chế độ sở hữu nửa công nửa tư như lộc điền, tự

12

z


điền, hậu điền…Đặc biệt là chế độ ruộng cơng có quan hệ tới sự tồn tại dai
dẳng của tàn dư công xã nông thôn và việc khẩn hoang trong lịch sử đã được
nhiều người nghiên cứu.
Trên cơ sở các quan hệ sở hữu và chiếm hữu ruộng đất, các mâu thuẫn
giai cấp đã phát sinh và phát triển, cuộc đấu tranh giai cấp giữa nông dân và
phong kiến ngày càng tăng lên. Trong lịch sử dân tộc, đã có hàng trăm cuộc
khởi nghĩa nông dân. Trong các thời kỳ bị ngoại xâm thống trị thì khởi nghĩa
nơng dân chống phong kiến luôn kết hợp chặt chẽ với đấu tranh chống ngoại
xâm, giải phóng dân tộc. Một số cơng trình đã bước đầu phân tích lý giải
nguồn gốc, đặc điểm, tính chất và tác dụng của các cuộc khởi nghĩa nông dân.
Những cơng trình nghiên cứu về ruộng đất và nơng dân sẽ đóng góp vào việc
đánh giá vai trị của nông dân của nước ta trong cuộc đấu tranh cách mạng ở
miền Nam và cơng cuộc hợp tác hóa của nông thôn miền Bắc.v.v.
Về truyền thống chống ngoại xâm của nhân dân Việt Nam trong lịch
sử: Trong lĩnh vực này giới sử học đã đạt được nhiều thành quả hơn cả. Đã có
khoảng gần 30 cơng trình được in thành sách và trên 600 bài nghiên cứu được
công bố. Các cơng trình đã đạt được nhiều kết quả trên lĩnh vực tài liệu-sự
kiện, về những khái quát kết luận khoa học phản ánh nhu cầu cấp thiết của
thời kỳ 1954-1975 là nghiên cứu những cuộc khủng hoảng, những cuộc kháng
chiến chống ngoại xâm để rút ra những bài học kinh nghiệm cho hiện tại và
khơi dậy truyền thống đấu tranh bất khuất của dân tộc. Tuy nhiên trong thời
kỳ 1954-1975 các nhà sử học tập trung nhiều vào nghiên cứu những cuộc
chiến trong giải phóng và chiến tranh giữ nước thời phong kiến, những phong
trào chống Pháp trước cách mạng tháng Tám mà chưa có nhiều cơng trình
nghiên cứu về kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954) và kháng chiến

chống Mỹ, cứu nước.
Việc nghiên cứu giai cấp công nhân Việt Nam: Vấn đề nghiên cứu này
được đặt ra từ sau khi Ban nghiên cứu Lịch sử-Địa lý-Văn học thành lập và
được triển khai mạnh mẽ sau khi miền Bắc hoàn tồn giải phóng. u cầu
13

z


nghiên cứu không chỉ làm sáng tỏ một vấn đề trong lịch sử thời cận đại, hiện
đại mà còn đáp ứng những yêu cầu về nghiên cứu lịch sử Đảng, về xác định vai
trò lãnh đạo cách mạng của giai cấp cơng an thơng qua chính Đảng của nó.
Việc nghiên cứu giai cấp công nhân và phong trào công nhân ở Việt
Nam rất rộng lớn và phong phú đạt được nhiều kết quả. Hàng chục cuốn sách,
hàng trăm luận văn nghiên cứu về vấn đề này được công bố. Các vấn đề chủ
yếu được nghiên cứu là: nguồn gốc, quá trình hình thành, đặc điểm tính chất
giai cấp Cơng nhân Việt Nam.
Tuy nhiên, nhiều vấn đề phong trào công nhân Việt Nam từ sau cách
mạng tháng tám, ở vùng tự do, ở miền Bắc, ở các vùng bị chiếm thời Pháp,
thời Mỹ-ngụy, vấn đề liên minh công nông, quan hệ giữa phong trào công
nhân và phong trào cộng sản quốc tế cần được nghiên cứu nhiều hơn, sâu hơn.
Lịch sử các phong trào cách mạng do giai cấp vô sản lãnh đạo: Phong
trào xô viết nghệ tĩnh được nghiên cứu và cơng bố trong nhiều cơng trình ở cả
Trung ương và địa phương Nghệ tĩnh, cả ở trong nước và ngồi nước. Các
cơng trình đã xác minh rõ sức mạnh của một phong trào quần chúng lần đầu
tiên được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, những sáng tạo cách mạng của
phong trào, tinh thần hy sinh anh dũng của quần chúng cách mạng trong đấu
tranh và ý nghĩa tập dượt đầu tiên của cách mạng Việt Nam, đồng thời cũng
làm sáng tỏ ý nghĩa quốc tế của phong trào.
Phong trào đấu tranh 1936-1939 được nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ

cuộc tập dượt cách mạng lần thứ hai mang nhiều tính sáng tạo trong kết hợp
đấu tranh dân chủ với đấu tranh dân tộc, đấu tranh công khai, hợp pháp với
đấu tranh bí mật bất hợp pháp, kết hợp giải quyết yêu cầu dân tộc với nghĩa
vụ đoàn kết quốc tế chống phát xít, chống chiến tranh.
Lịch sử cao trào cách mạng tháng Tám được triển khai một cách khá
toàn diện: từ việc chuyển hướng chiến lược, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc
lên hàng đầu, ra sức xây dựng, chuẩn bị lực lượng chính trị, lực lượng vũ

14

z


trang đến quá trình khởi nghĩa từng phần tiến tới tổng khởi nghĩa. Các bài học
kinh nghiệm của cách mạng tháng Tám được phân tích khá sâu sắc.
Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, tuy chưa có một cơng
trình nghiên cứu đầy đủ đúng tầm vóc nhưng những nội dung cơ bản của cuộc
kháng chiến đều đã được đề cập tới: chiến dịch Việt Bắc, chiến dịch Biên
giới, chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, chiến thắng Điện Biên phủ…
Kháng chiến thắng lợi, Hiệp định Giơnevơ được ký kết. Miền Bắc Việt
Nam được giải phóng tiến lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển
tư bản chủ nghĩa. Những cơng trình sử học nghiên cứu về hai mươi năm xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc Việt Nam, về giai cấp công nhân trong
cách mạng xã hội chủ nghĩa, về liên minh công nông, về giai cấp nông dân tập
thể, về chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong sản xuất và chiến đấu…đã ra đời
góp phần làm rõ hoạt động mọi mặt của miền Bắc trong thời kỳ 1954-1975.
Ngay trong khói lửa chiến tranh, hàng chục cơng trình sử học đã đi sâu
nghiên cứu vạch rõ bản chất của chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ,
những âm mưu, thủ đoạn và sự thất bại không thể tránh khỏi của chúng ở
miền Nam Việt Nam. Đồng thời nhiều cơng trình nghiên cứu cũng ghi lại

những sáng tạo cách mạng, những phẩm chất anh hùng, những chiến công
hiển hách của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Về lịch sử thế giới: Việc nghiên cứu, phổ biến lịch sử thế giới đặc biệt
là lịch sử phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đã trở thành nhiệm vụ
không thể thiếu của các cơ quan nghiên cứu, giảng dạy và phổ biến lịch sử ở
Việt Nam. Trước hết là nghiên cứu giảng dạy và phổ biến lịch sử các nước
Lào, Campuchia, các nước lớn như Liên Xô, Trung Quốc, Ấn độ, Mỹ…, các
nước Đông Nam Á. Phong trào giải phóng dân tộc ở Á, Phi, Mỹ La Tinh,
phong trào không liên kết đặc biệt là phong trào giải phóng dân tộc có khuynh
hướng tiến lên chủ nghĩa xã hội đã được nhiều tác giả chú ý. Trọng tâm
nghiên cứu lịch sử thế giới được nhiều cơ quan tham gia nhất là phong trào
cách mạng xã hội chủ nghĩa, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, trước
15

z


hết là lịch sử cách mạng tháng Mười, lịch sử xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác trong đó lịch sử cách mạng Cu Ba
được đặc biệt chú trọng.
Công tác sưu tập và công bố các nguồn sử liệu: Cùng với các ngành
khảo cổ học, dân tộc học, sinh viên khoa Sử các trường Đại học đã phát hiện
và cung cấp nhiều nguồn tư liệu (hiện vật, truyền miệng, thành văn…) có giá
trị được sử dụng vào nghiên cứu lịch sử. Một thành tựu về công tác sử liệu
thời kỳ này là việc sưu tầm, dịch thuật các tài liệu thành văn. Trong tổng số
hàng nghìn đầu sách lịch sử bằng chữ Hán-Nôm lưu trữ chủ yếu ở các thư
viện, các bộ sử có giá trị lớn trong lịch sử đã được dịch và xuất bản như: Đại
Việt sử ký toàn thư, Việt sử lược, Đại việt thông sử, Lê triều tạp kỷ, Lê quý
kỷ sự, Kiến văn tiểu lục, Phủ biên tạp lục, Lịch triều hiến chương loại chí,
Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Đại Nam thực lục, Đại Nam nhất

thống chí, Việt sử tiêu án, Việt sử bị khảo, Nghệ An ký, Gia Định thành
thơng chí… Ngồi ra đã biên soạn và xuất bản 12 tập tài liệu tham khảo lịch
sử cận đại Việt Nam.
Về lý luận sử học: Điểm lại quá trình nghiên cứu về lý luận sử học của
giới sử học miền Bắc Việt Nam từ năm 1954-1975, có thể ghi nhận những
hoạt động chủ yếu như sau:
Trong những năm 1954-1965, xuất hiện khá nhiều cơng trình nghiên
cứu về lý luận sử học. Trên tạp chí nghiên cứu lịch sử và tiền thân là tập san
nghiên cứu Văn-Sử-Địa thống kê được khoảng 50 bài viết về lĩnh vực này.
Điều đáng lưu ý là trong số đó có tới 18 bài trích dịch của các tác giả nước
ngoài mà phần lớn là của các tác giả Trung Quốc (13/18). Số liệu này chứng
tỏ nhu cầu tìm hiểu về lý luận sử học trong giai đoạn 1954-1965 tương đối
nhiều. Một trong những phương pháp để nắm bắt tri thức lý luận sử học là
dịch đăng bài viết của các tác giả nước ngoài. Ở đây ta cũng lại thấy ảnh
hưởng to lớn của tư tưởng sử học Trung Quốc đối với sử học Việt Nam trong
giai đoạn 1954-1965.
16

z


Vấn đề được bàn nhiều nhất trong giai đoạn này là xác định mục tiêu
của sử học, tác dụng của sử học và cơ sở lý luận của sử học. Vấn đề được nêu
lên khơng chỉ có ý nghĩa thuần túy về lý luận sử học mà còn để “đoạt tuyệt
với những ảnh hưởng của nền sử học cũ”.
Năm 1966, trải qua trên mười năm hoạt động, bản thân khoa học lịch
sử Việt Nam nảy sinh yêu cầu cần phải cụ thể hóa và hệ thống hóa những vấn
đề phương pháp luận, chấn chỉnh những sai lầm đã xảy ra trong thực tiễn
nghiên cứu, xuất phát từ yêu cầu đó, một cuộc thảo luận khá sôi nổi về
phương pháp luận sử học đã diễn ra trong giới sử học miền Bắc. Cuộc thảo

luận thu hút đông đảo các nhà sử học tham gia. 18 bài viết được đăng trên tạp
chí nghiên cứu lịch sử trong 2 năm 1966, 1967. Sáu bản báo cáo chính được
in thành cuốn“Mấy vấn đề phương pháp luận sử học” (Nxb KHXH.H.1967).
Nội dung phương pháp luận sử học được trình bày là: Đối tượng và nhiệm vụ
của sử học; tính đảng và tính khoa học trong khoa học lịch sử; phương pháp
lịch sử và phương pháp lơgíc trong nghiên cứu lịch sử; chủ nghĩa khách quan
và chủ nghĩa chủ quan trong công tác sử học; vấn đề phân kỳ lịch sử.
Nội dung trên đây chưa phải là toàn bộ lý luận về phương pháp luận sử
học mà “các vấn đề phương pháp luận đề xuất trong hội nghị này chính là
xuất phát từ tình hình nghiên cứu sử học miền Bắc nước ta” [97, tr. 6].
Cuộc thảo luận về phương pháp luận sử học trong những năm 1966,
1967 đánh dấu một trình độ nhận thức mới về lý luận sử học của giới sử học
miền Bắc Việt Nam. Các vấn đề trình bày đã thể hiện được tư tưởng và nội
dung cơ bản của phương pháp luận sử học. Kết quả đạt được từ cuộc thảo
luận dường như đã khiến các nhà sử học không trở lại đề tài phương pháp
luận sử học trong nhiều năm sau đó.
Nội dung chính của vấn đề lý luận sử học ở miền Bắc thời kỳ 19541975 sẽ được trình bày cụ thể trong các chương tiếp theo của luận văn.

17

z


Chương 2
LÝ LUẬN VỀ ĐỐI TƯỢNG VÀ NHIỆM VỤ,
CHỨC NĂNG CỦA SỬ HỌC
2.1. Lý luận về đối tượng của sử học
Lý luận về đối tượng là bộ phận cơ bản trong hệ thống lý luận sử học.
Các nhà nghiên cứu nói chung khơng thể khơng biết đối tượng nghiên cứu của
mình là gì. Nhận biết được đối tượng mới có thể tìm ra con đường tiếp cận

đối tượng và khám phá bản chất của đối tượng. Đối tượng của sử học là lịch
sử nhưng lịch sử là gì đã là câu hỏi đã có nhiều cách lý giải trong giới sử học
Việt Nam.
Bài viết đầu tiên bàn luận tới đối tượng nghiên cứu của sử học là của
nhà nghiên cứu Nguyễn Hồng Phong trên tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 20,
tháng 11/1966, với tiêu đề “Các nhà sử học cần phải lấy các vấn đề thời sự
quan trọng làm đối tượng nghiên cứu”. Bài viết đặt vấn đề “có một số người
nghiên cứu sử học cho rằng lịch sử là cái đã qua cho nên chỉ có cái gì thuộc
về q khứ thì mới có thể trở thành đối tượng nghiên cứu của nhà sử học
được. Lại cũng có một số người khác thì đồng ý là sử học có thể lấy các vấn
đề hiện đại làm đối tượng nghiên cứu nhưng lại thấy cái khó khăn là ở phía
phương pháp. Sử học có thể lấy các vấn đề có tính chất thời sự để nghiên cứu
được khơng. Nhà sử học nghiên cứu và viết các vấn đề có tính chất thời sự
như thế nào? Đó là những câu hỏi được đặt ra và cần được thảo luận, giải
đáp” [57, tr. 2].
Để chứng minh cho vấn đề thời sự quan trọng cũng là đối tượng nghiên
cứu của sử học, tác giả đã luận giải như sau:
Thứ nhất, khoa học lịch sử là khoa học nghiên cứu về quá trình phát
triển của sự vật và hiện tượng. Sự vật, hiện tượng nào cũng có q trình phát
sinh, phát triển và kết thúc rồi bước kết thúc ấy lại làm nảy sinh một số q
trình mới. Nhà sử học thơng qua tài liệu nhiều mặt về quá trình phát sinh, phát
triển và kết thúc của sự vật và hiện tượng ấy mà nghiên cứu lịch sử của nó.
18

z



×