Tải bản đầy đủ (.docx) (365 trang)

Tổng Quan - Vai Trò Của Nhà Nước Đối Với Phát Triển Xã Hội Và Quản Lý Phát Triển Xã Hội Trong Tiến Trình Đổi Mới.docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.22 MB, 365 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự cần thiết, tính cấp bách của việc nghiên cứu vai trị của nhà nước
đối với phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội thể hiện trên cả hai
phương diện lý luận và thực tiễn.
Về lý luận: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X đã nhận
định "chúng ta nhận thức ngày càng sâu sắc rằng, xã hội, văn hóa là những
lĩnh vực thể hiện rõ nhất bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa" 1 và mặc dù
trong những năm đổi mới vừa qua "văn hóa và xã hội có tiến bộ trên nhiều
mặt, việc gắn phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội có chuyển
biến tốt, nhất là trong cơng cuộc xóa đói giảm nghèo, đời sống các tầng lớp
nhân dân được cải thiện"2 nhưng "cơ chế, chính sách về văn hóa - xã hội chậm
đổi mới, nhiều vấn đề xã hội, bức xúc chưa được giải quyết tốt" 3. Một trong
những nguyên nhân của tình hình trên đây, theo chúng tôi, là do chưa đầu tư
nghiên cứu lý luận về các vấn đề xã hội, với tư cách là các yếu tố để "phát
triển xã hội", từ đó lý luận về vai trò của nhà nước đối với phát triển xã hội và
quản lý phát triển xã hội, sự biến đổi vai trò, chức năng của nhà nước trong
điều kiện đổi mới; điều kiện, nội dung, các yếu tố tác động, các điều kiện bảo
đảm vai trò của nhà nước đối với phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội
v.v... cũng chưa được nghiên cứu một cách có hệ thống.
Mặc dù có nhiều cơng trình nghiên cứu liên quan đến vai trò, chức
năng của nhà nước trong điều kiện đổi mới nhưng mới đề cấp những vấn đề
chung, khái quát, chưa đi sâu nghiên cứu có hệ thống về sự biến đổi vai trò
của nhà nước trong từng lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực phát triển xã hội và
quản lý phát triển xã hội. Hơn nữa, có nhiều cơng trình nghiên cứu về các vấn
. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2006, trang 32.
2
. Sđd, trang 32.
3
. Sđd, trang 33.


1

1


đề xã hội nhưng chỉ đi sâu nghiên cứu thực trạng của từng vấn đề riêng rẽ,
chưa làm rõ vai trị của nhà nước là người có trách nhiệm xây dựng chiến
lược, chính sách và tổ chức thực hiện đối với phát triển xã hội và quản lý phát
triển xã hội, vì thế chưa đi sâu nghiên cứu biến đổi vai trị, q trình thực hiện
và thực trạng chức năng, vai trò của nhà nước đối với phát triển xã hội và
quản lý phát triển xã hội trong những năm đổi mới một cách có hệ thống.
Trong giai đoạn 2011-2020, các vấn đề xã hội sẽ cịn có những xu
hướng vận động, biến đổi phức tạp, đòi hỏi phải tăng cường vai trò của nhà
nước đối với các vấn đề này. Cần phải tổng hợp các kết quả nghiên cứu, dự
báo xu hướng vận động, biến đổi của các vấn đề này để đi sâu nghiên cứu các
yêu cầu đặt ra cũng như khả năng, điều kiện đảm bảo có tính khả thi đối với
vai trị của nhà nước trong phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội. Chỉ
trên cơ sở những kết quả nghiên cứu lý luận mới đề ra được những giải pháp
đúng đắn, khả thi, có tầm chiến lược, có tính hệ thống nhằm phát huy vai trò
của nhà nước đối với phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội một cách
chủ động, khắc phục tính bị động, chắp vá.
Cần phải nhấn mạnh thêm rằng trên thế giới, từ năm 1987, vấn đề phát
triển bền vững được Ủy ban thế giới về môi trường và phát triển đề cập đến
trong Báo cáo "Tương lai của chúng ta" đã thu hút sự quan tâm của các tổ
chức quốc tế, các đảng phái chính trị, các nhà tư tưởng, các phong trào xã hội,
tổ chức phi chính phủ, đặc biệt là giới khoa học. Nhiều quốc gia đã coi phát
triển bền vững là chiến lược phát triển quốc gia trên cả phương diện kinh tế,
xã hội, tài nguyên môi trường. Trong xu hướng đó, vai trị của nhà nước nổi
lên như một yếu tố quyết định của sự phát triển bền vững. Ở những nước có
nền kinh tế chuyển đổi sang cơ chế thị trường như Trung Quốc và Việt Nam

thì vấn đề phát triển bền vững xã hội càng gay gắt, bức xúc. Quá chú trọng
mục tiêu phát triển kinh tế mà không quan tâm đúng mức đến phát triển xã
hội, tài nguyên môi trường sẽ dẫn đến những hậu quả khôn lường. Để khắc
phục những quan điểm, chủ trương phiến diện, thiếu tính chiến lược và căn cứ
khoa học đó, việc nghiên cứu vai trị của nhà nước nói chung và vai trò của
2


nhà nước đối với phát triển xã hội một cách bền vững nói riêng đã trở thành
yêu cầu cấp bách.
Về thực tiễn: trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, hội nhập
quốc tế, các vấn đề xã hội như phân hóa giàu nghèo, chuyển dịch cơ cấu lao
động dân cư, thất nghiệp, an sinh xã hội, môi trường, tệ nạn xã hội v.v... ngày
càng phát sinh nhiều vấn đề phức tạp, bức xúc. Đảng đã có nhiều chủ trương
đúng đắn trong việc giải quyết các vấn đề nêu trên nhưng việc thể chế hóa, cụ
thể hóa và tổ chức thực hiện những chủ trương đó của nhà nước cịn bộc lộ
nhiều yếu kém, khuyết điểm. Nhà nước chưa phát huy được đầy đủ vai trị của
mình đối với phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội. Từ xây dựng chiến
lược chính sách, pháp luật đến quản lý, điều hành đến nay cịn có những biểu
hiện bị động, lúng túng, chắp vá. Trước tình hình đó, việc nghiên cứu lý luận,
đánh giá thực trạng để đề xuất những quan điểm, giải pháp phát huy vai trò
của nhà nước đối với phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ngày càng
trở thành yêu cầu bức thiết.
2. Tình hình nghiên cứu
A. Tình hình nghiên cứu trong nước
* Những cơng trình nghiên cứu về phát triển xã hội và quản lý
phát triển xã hội có đề cập đến vai trị của nhà nước
- Sách chun khảo, cơng trình nghiên cứu khoa học
Trịnh Duy Luân (chủ biên), Phát triển xã hội ở Việt Nam - Một tổng
quan xã hội học năm 2000, Nxb KHXH, H. 2002 của Viện Xã hội học, Viện

Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia; Phạm Minh Hạc, Nguyễn Khoa Điềm
(chủ biên), Về phát triển văn hóa và xây dựng con người trong thời kỳ cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, H.2003; PGS.TS. Nghiêm
Đình Vỳ và ThS. Nguyễn Đắc Hưng: Phát triển giáo dục và đào tạo nhân tài,
Nxb Chính trị quốc gia, H.2002; PGS.TS.Hồ Sĩ Quý, Con người và phát triển
con người, Nxb Giáo dục, H. 2007; Viện Nghiên cứu phát triển giáo dục, Từ
chiến lược giáo dục đến chính sách phát triển nguồn nhân lực, Nxb Giáo dục,
3


H. 2002; Nguyễn Thế Chi, Phát triển nguồn nhân lực lao động vùng đồng
bằng sông Cửu Long phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Luận án Tiến sĩ,
2003; Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực: Niên giám nghiên cứu số 3,
Nxb Khoa học xã hội, H.2004; Nguyễn Văn Trung, Phát triển nguồn nhân
lực trẻ ở nông thôn để cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng thơn, nơng nghiệp
nước ta, Nxb CTQG, H.1998; Trần Văn Tùng, Phát triển nguồn nhân lực kinh nghiệm thế giới và thực tiễn nước ta, Nxb. CTQG, H.1996; Lê Thị Ngân,
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tiếp cận nền kinh tế tri thức ở Việt Nam,
Luận án Tiến sĩ, 2005; Trần Văn Tùng, Đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nguồn
nhân lực: Kinh nghiệm của thế giới, Nxb. Thế giới, H.2005; Nguyễn Tiệp,
Nguồn nhân lực, Nxb. Lao động xã hội, H. 2005; Lê Du Phong, Nguồn lực và
động lực phát triển trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam, Nxb. Lý luận chính trị, H.2006; Lê Thị Ái Lâm, Phát triển nguồn
nhân lực thông qua giáo dục và đào tạo - Kinh nghiệm Đông Á, Nxb. Khoa
học xã hội, H.2003; Hồ Sỹ Quý, Con người và phát triển con người, Nxb.
Giáo dục, H.2007; Hồ Sĩ Quý, Mối quan hệ giữa con người và tự nhiên trong
sự phát triển xã hội, Nxb. Khoa học xã hội, H.2000; Hà Huy Thành, Một số
vấn đề xã hội và nhân văn trong việc sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi
trường ở Việt Nam, Nxb. CTQG, H.2001; Nguyễn Xuân Kính, Con người,
mơi trường và văn hóa, Nxb. KHXH, H. 2003; Kỷ yếu Hội thảo quốc tế, Môi
trường và phát triển bền vững, Nxb. Nông nghiệp, H. 2004; Phạm Thị Ngọc

Trâm, Môi trường sinh thái - vấn đề và giải pháp, Nxb. CTQG, H. 1996;Trần
Quốc Vượng, Môi trường, con người và văn hóa, Nxb Văn hóa thơng tin, H.
2005; Đỗ Văn Sinh, Hoàn thiện quản lý quỹ bảo hiểm xã hội ở Việt Nam,
Luận án Tiến sĩ, năm 2005.
- Chương trình nghiên cứu cấp nhà nước: thuộc chương trình khoa
học xã hội KX.01, KX.02, KX.05 nghiên cứu các đề tài có liên quan đến phát
triển xã hội và quản lý phát triển xã hội như sau:
PGS.TS. Nguyễn Công Nghiệp, Vụ Ngân sách nhà nước-Bộ Tài Chính,
KX.01.10. Vấn đề phân phối nhằm đảm bảo phát triển kinh tế và thực hiện
4


công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam; PGS.TS. Bùi Thế Cường, Viện Xã hội học - Trung tâm khoa học
xã hội và nhân văn quốc gia, KX.02.10. Các vấn đề xã hội và mơi trường
trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa; TS. Hồ Sĩ Quý, Viện Nghiên
cứu con người - Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, KX.05.01
Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu và phát triển văn hóa, con
người và nguồn nhân lực trong điều kiện kinh tế thị trường, tồn cầu hóa và
hội nhập kinh tế; PGS.TS. Đặng Quốc Bảo, Trường cán bộ quản lý giáo dục
và đào tạo - Bộ Giáo dục và đào tạo, KX.05.05 Nghiên cứu, phân tích các chỉ
số phát triển con người (HDI) của người Việt Nam giai đoạn 2001 - 2005;
GS.VS Phạm Minh Hạc, Ban Khoa giáo trung ương, KX.05.07. Xây dựng con
người Việt Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện kinh tế thị
trường, mở cửa và hội nhập quốc tế; TS. Phạm Thành Nghị, Viện Nghiên cứu
con người - Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, KX.05.11
Nghiên cứu và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng
nguồn nhân lực trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước;
GS.TSKH Lê Nam Trà, Trường Đại học Y Hà Nội, Bộ Giáo dục và đào tạo,
KX.05.12. Nghiên cứu một số đặc điểm sinh thể, tình trạng sức khỏe của một

số nhóm người lao động, xét dưới góc độ yêu cầu của q trình cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa.
- Những bài viết trên các Tạp chí về các vấn đề phát triển và quản lý
phát triển xã hội, trong đó có đề cập đến vai trò của nhà nước
Phạm Hữu Nghị, Chính sách xã hội và vai trị của pháp luật trong
việc bảo đảm thực hiện chính sách xã hội, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Số
2 năm 2001;Vũ Đình Nam, Pháp luật cứu trợ xã hội Việt Nam qua các thời
kỳ từ năm 1945 đến nay, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Số 10 năm 2002;
Nguyễn Hữu Dũng, Giải quyết vấn đề lao động và việc làm trong q trình
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn, Tạp chí Lý luận chính
trị, Số 8 năm 2004; Song Thành, Chiến lược nhân tài - một số vấn đề cấp
5


bách của Việt Nam trên đường phát triển và hội nhập, Tạp chí Lý luận chính
trị, Số 8 năm 2004; Đào tạo nghề đáp ứng nhu cầu của thanh niên nơng thơn
vùng đồng bằng Sơng Hồng hiện nay, Tạp chí Lý luận chính trị, Số 10 năm
2004; Nguyễn Thị Miền, Hồn thiện cơng tác đào tạo nghề phù hợp với nhu
cầu của thị trường lao động nước ta, Tạp chí Lý luận chính trị, Số 12
năm2004; Phạm Đi, Chương trình xóa đói giảm nghèo- một nhân tố mới trong
quản lý của nhà nước ta, Tạp chí Lý luận chính trị, Số 9 năm 2005; Trịnh Gia
Ban, Phát triển nhân lực, đào tạo và trọng dụng nhân tài", Tạp chí Lý luận
chính trị, Số 7 năm 2005; Hà Việt Hùng, Hà Thanh Thanh, Tác động của dự án
lồng ghép dân số với phát triển bền vững, Tạp chí Lý luận chính trị, Số 12 năm
2005; Nguyễn Minh Phương, Quản lý nguồn nhân lực hành chính nhà nước,
Tạp chí Lý luận chính trị, Số 1 năm 2004; Nguyễn Hải Hữu, Phát triển hệ
thống an sinh xã hội phù hợp nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta, Tạp chí Cộng sản, Số 21 tháng 11 năm 2006; Nguyễn Văn
Phúc, Về vấn đề phát triển thị trường sức lao động có trình độ cao, Tạp chí
Cộng sản, Số 21, tháng 11 năm 2006; Nguyễn An Lương, Cần có một chiến

lược về an toàn và vệ sinh lao động trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa, Số 10 tháng 4 năm 2002; Nguyễn Khắc Thanh, Một số vấn đề trong tư
duy, nhận thức về phát triển thị trường sức lao động, Số 12 năm 2007.
* Những cơng trình nghiên cứu vai trị, chức năng nói chung của
nhà nước trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, xây dựng nhà nước
pháp quyền, hội nhập quốc tế
Diễn đàn Kinh tế - Tài chính Việt Pháp: Tiến đến xây dựng một nhà
nước với vai trò là nhà hoạch định chiến lược, người đảm bảo cho lợi ích
chung, Báo cáo của Ủy ban "Nhà nước, nền hành chính nhà nước và hoạt
động dịch vụ công trước ngưỡng cửa năm 2000", Nxb. CTQG, H. 2000; Ngân
hàng Thế giới: Nhà nước trong một thế giới đang chuyển đổi, Nxb CTQG, H.
1998; Đinh Văn Ân, Võ Trí Thành (Chủ biên): Thể chế - cải cách thể chế và
phát triển - Lý luận và thực tiễn ở nước ngoài và Việt Nam, Nxb Thống kê, H.
6


2002; Lê Minh Thơng, Vai trị của nhà nước trong trật tự kinh tế thị trường ở
Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Số 10 năm 1998; Nguyễn Phước
Thọ, Bàn thêm về quản lý nhà nước ở nước ta hiện nay, Tạp chí Nhà nước và
Pháp luật, Số 10 năm 2001; Đỗ Trung Hiếu, Vai trò của nhà nước trong thời
đại tồn cầu hóa, Tạp chí Lý luận chính trị, Số 4 năm 2002; Nguyễn Văn
Mạnh. Nhận thức mới về vai trò, chức năng của nhà nước trong điều kiện
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và mở cửa ở
nước ta hiện nay", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Số 5 năm 2005; Mai Hữu
Khuê, Vai trò, chức năng của nhà nước trong nền kinh tế thị trường, Tạp chí
Quản lý nhà nước, Số 1 năm 1995; Văn Đức Thanh, Về mối quan hệ giữa nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và đời sống xã hội dân sự", tạp chí Lý luận
chính trị, Số 1 năm 2004; Đào Trí Úc, Mối liên hệ giữa nhà nước với xã hội
dân sự và vấn đề cải cách hành chính, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Số 4
năm 2004; Võ Khánh Vinh, Mối quan hệ giữa xã hội - cá nhân - nhà nước

trong nhà nước pháp quyền và vai trò của nó trong việc xác định mơ hình tổng
thể nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và
pháp luật, Số 2 năm 2003; Đồn Trọng Truyến, Nhà nước pháp quyền Việt
Nam với việc thực hiện quyền con người, Tạp chí Quản lý nhà nước, Số 2 năm
1999; Tường Duy Kiên, Nhà nước - cơ chế bảo đảm quyền con người, Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, số 2/2003; Phan Ngọc Trung, Quản lý kinh tế của nhà
nước trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, Tạp chí Kinh tế và phát triển, số
56/2002; Lê Khoa, Mấy suy nghĩ về một nền kinh tế thị trường có sự điều tiết
vĩ mơ của nhà nước, Tạp chí kinh tế và dự báo, số 3/1998; GS.TS, Chu Văn
Cấp, Về vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 9/2000; Lê Nguyễn
Hương Trinh, Về vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường, Tạp chí
Triết học, số 9 (148), tháng 9/2003; Vũ Ngọc Nhung, Vai trò của nhà nước
trong kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Tạp chí Cộng sản,
số 8/1999; Phan Văn Phúc, Vai trò của nhà nước trong điều tiết nền kinh tế thị
trường hiện đại, Tạp chí Sinh hoạt lý luận, số 3/1998.
7


* Những cơng trình, bài viết trực tiếp nghiên cứu vai trò của nhà
nước đối với phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội
- Sách chuyên khảo, bài của tạp chí
Phương Thế Nam: Trách nhiệm của Chính phủ trong việc xây dựng
xã hội thân thiện với môi trường (2007), Tạp chí Nghiên cứu chủ nghĩa Mác
(Trung Quốc), số 7, đăng trên Thông tin những vấn đề lý luận của Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh số 4-2/2008, trang 35; GS, TS
Vũ Huy Từ (chủ biên): Quản lý khu vực công, Nxb. Khoa học kỹ thuật,
H.1998; Viện Nghiên cứu Hành chính, TS Lê Chi Mai (chủ biên): Chuyển giao
dịch vụ công cho các cơ sở ngoài nhà nước - Vấn đề và giải pháp, Nxb. Lao
động - Xã hội, H.2002; Viện Nghiên cứu phát triển giáo dục: Từ chiến lược

giáo dục đến chính sách phát triển nguồn nhân lực, Nxb Giáo dục, H. 2002;
Ban Khoa giáo Trung ương, Bộ Khoa học, Công nghệ và Mơi trường: Tiến tới
kiện tồn hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường ở Việt
Nam, Nxb CTQG, H.2001; PGS.TS. Phạm Thành Nghị (chủ biên), Nâng cao
hiệu quả quản lý nguồn nhân lực, Nxb Khoa học xã hội, H.2006; PGS,TS
Phạm Thị Ngọc Trầm (chủ biên), Quản lý nhà nước đối với tài nguyên và môi
trường vì sự phát triển bền vững dưới góc nhìn xã hội - nhân văn, Nxb Khoa
học xã hội, H. 2006; PGS,TS Mai Hữu Thực (chủ biên): Vai trò của Nhà nước
trong phân phối thu nhập ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2004.
* Những bài viết nghiên cứu trực tiếp về vai trò, chức năng xã hội
của nhà nước và vai trò của nhà nước đối với những vấn đề cụ thể trong
lĩnh vực phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội
Ngô Ngọc Thắng: Sự biến đổi chức năng xã hội của nhà nước trong
bối cảnh kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Tạp chí Lý luận
Chính trị, Số 3 năm 2007; Ngô Ngọc Thắng: Đổi mới chức năng xã hội của
nhà nước, Tạp chí Cộng sản, Số 779, tháng 9 năm 2007; Trần Kim Dung:
Quản trị nguồn nhân lực, Nxb. Thống kê, H.2005; Nguyễn Hồng Thao: Bảo
vệ môi trường biển - vấn đề và giải pháp, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2004;
8


Bùi Văn Nhơn: Quản lý nhà nước về dân số, kế hoạch hóa gia đình - những
vấn đề nhìn từ góc độ pháp luật, Tạp chí Quản lý nhà nước, Số 1, năm 1999;
Mai Kỷ: Quản lý nhà nước về cơng tác dân số - kế hoạch hóa gia đình, Tạp
chí Quản lý nhà nước, Số 5 năm 1995; Trương Tuấn Ngọc: Bảo vệ quyền trẻ
em - mối quan tâm hàng đầu của Nhà nước ta, Tạp chí Quản lý nhà nước, Số
6 năm 2000; Trần Việt Trung: Quản lý nhà nước trong lĩnh vực phòng, chống
tệ nạn xã hội, Tạp chí Quản lý nhà nước, Số 7 năm 2002; Hà Thị Thanh Vân:
Quản lý nhà nước về bình đẳng giới- thực tiễn và những vấn đề cần quan
tâm, Tạp chí Quản lý nhà nước, Số 10 năm 2007; Phan Thị Cúc: Quản lý nhà

nước dịch vụ công trong lĩnh vực y tế đã được xã hội hóa, Tạp chí Quản lý
nhà nước, số 2 năm 2001; Trần Huy Quang: Tăng cường hiệu lực quản lý nhà
nước về hành nghề y dược tư nhân, Tạp chí Quản lý nhà nước, Số 4 năm 2001;
Phan Nguyên Thái: Một số giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về công
tác thanh niên, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 3 năm 2003; Nguyễn Thanh
Tùng: Tăng cường vai trò quản lý nhà nước đối với tổ chức và hoạt động của
các hội, Tạp chí Quản lý nhà nước, Số 3 năm 2003; Lê Bạch Hồng: Quản lý
nhà nước về bảo hiểm xã hội, Tạp chí Quản lý nhà nước, Số 9 năm 2003;Tơn
Thu Hiền: Vai trị nhà nước trong xã hội hóa giáo dục", Tạp chí Quản lý nhà
nước, Số 11 năm 2003; Trương Thị Thúy Thu: Quản lý nhà nước về vệ sinh
an tồn thực phẩm", Tạp chí Quản lý nhà nước, Số 2 năm 2004;
B. Các cơng trình nghiên cứu của nước ngoài
A.N.Ovcharenko (2006), Quản lý xã hội trong xã hội thơng tin:
những cách tiếp cận mới, Tạp chí Tri thức xã hội và nhân văn (Nga), số 6,
đăng trên Thông tin những vấn đề lý luận, Học viện Chính trị - Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh, số 19-10/2007, trang 01; E.I.Glushenkova (2007),
Quan niệm phát triển bền vững trong bối cảnh tồn cầu hóa, Tạp chí Kinh tế
thế giới và quan hệ quốc tế, số 6, đăng trên Những vấn đề chính trị xã hội của
Viện Thơng tin khoa học thuộc Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ
Chí Minh, số 3-1/2008, trang 8; Douglas Zhihua Zeng, Báo cáo chính sách
9


phát triển của Ngân hàng thế giới tháng 2 năm 2005, "Một số vấn đề về lao
động, việc làm của Trung Quốc trong chặng đường đầu gia nhập WTO",
Thông tin tư liệu chuyên đề, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí
Minh, số 1/2007, trang 61; Phân hóa giàu nghèo, mặt trái của sự phát triển ở
Trung Quốc, Thơng tin tư liệu chun đề, Học viện Chính trị - Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh, số 1/2007, trang 74; Lý Cường, Xu thế mới trong sự
biến đổi cơ cấu xã hội Trung Quốc hiện nay, Tạp chí Tân hoa văn trích

(Trung Quốc), số 10/2006, đăng trên Thơng tin những vấn đề lý luận của Học
viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, số 1+2-1/2008, trang 34;
Vương Thu Văn, Nguyên tắc công bằng và cơ chế bảo đảm xã hội trong thời
kỳ chuyển đổi mô hình kinh tế - xã hội, Tạp chí Thế giới đương đại và chủ
nghĩa xã hội (Trung Quốc), số 6/2005, đăng trên Thông tin những vấn đề lý
luận của Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh số 5-3/2008,
trang 34.
Nhận xét chung: Những cơng trình, bài viết nghiên cứu nêu trên dù
trực tiếp hay gián tiếp nghiên cứu đến vai trò của nhà nước đối với phát triển
xã hội và quản lý phát triển xã hội đã đề cập sự biến đổi chức năng xã hội
của nhà nước và vai trò của nhà nước đối với nhiều nội dung phát triển xã
hội như quản lý nguồn nhân lực, dân số và kế hoạch hóa gia đình, cơng tác
thanh niên, quyền trẻ em, bình đẳng giới, dịch vụ công trong lĩnh vực y tế,
bảo hiểm xã hội, giáo dục v.v... Tuy vậy, các bài viết trên đây tiếp cận các
vấn đề xã hội chủ yếu từ góc độ quản lý nhà nước (hoạt động của cơ quan
hành chính nhà nước) mà chưa bao qt hết vai trị của nhà nước đối với
phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội, bao hàm cả việc xây dựng và tổ
chức thực hiện chiến lược, chính sách, pháp luật về phát triển xã hội và quản
lý xã hội, giữ vai trị nịng cốt trong q trình xã hội hóa, xử lý vi phạm (hoạt
động của cả cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp v.v...).
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

10


- Mục đích: Đề xuất giải pháp phát huy vai trò của nhà nước đối với
phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội trong tiến trình đổi mới (giai
đoạn 2010 -2020).
- Nhiệm vụ:
Một là: luận giải được cơ sở lý luận về vai trò của nhà nước đối với

phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở nước ta trong điều kiện phát
triển kinh tế thị trường, xây dựng nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế.
Hai là: đánh giá thực trạng thực hiện vai trò của nhà nước đối với phát
triển xã hội và thực tiễn hoạt động quản lý phát triển xã hội của nhà nước
trong những năm đổi mới, đúc rút được những bài học kinh nghiệm và những
vấn đề đặt ra cần tiếp tục hoàn thiện để phát huy vai trò của nhà nước trong
phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội.
Ba là: dự báo xu hướng và quan điểm tăng cường vai trò của nhà nước
đối với phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội trong giai đoạn 2011-2020
Bốn là: đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm đổi mới, phát huy vai
trò của nhà nước đối với sự phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở
nước ta trong giai đoạn 2011-2020.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh
- Phương pháp kết hợp logic với lịch sử
- Phương pháp khảo sát, điều tra xã hội học: phát phiếu điều tra,
phương pháp tọa đàm, thảo luận nhóm, phương pháp chun gia
Ngồi ra, đề tài tiến hành sử dụng các kỹ thuật sử dụng để nghiên cứu
như: Dịch thuật, kỹ thuật lấy mẫu điều tra, kỹ thuật phỏng vấn sâu, các kỹ
thuật xử lý thông tin khác và kỹ thuật sử dụng mạng Internet v.v...
5. Kết cấu: Đề tài gồm có 3 phần.

11


PHẦN I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN XÃ HỘI VÀ QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN
XÃ HỘI Ở NƯỚC TA TRONG TIẾN TRÌNH ĐỔI MỚI


12


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI
VÀ QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI
1.1. Khái niệm phát triển xã hội
Phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội là hai vấn đề có ý nghĩa
lý luận và thực tiễn hết sức phong phú, là đối tượng nghiên cứu của nhiều
ngành khoa học như triết học, xã hội học, sử học, chính trị học và luật học
v..v.. Mỗi ngành khoa học có cách tiếp cận khác nhau song đều chung một
mục đích là từ sự phân tích cơ sở lý luận, tiến hành đánh giá thực tiễn của
hoạt động quản lý phát triển xã hội để đưa ra các giải pháp phù hợp với thực
tiễn nhằm phát huy vai trò của các chủ thể quản lý trong việc phát triển xã
hội. Ở Việt Nam, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, trong bối cảnh tồn cầu
hóa đang diễn ra sâu sắc, khi Nhà nước ta đang tiến hành xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân và
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì phát triển xã
hội và quản lý phát triển xã hội được xem là vấn đề trung tâm quyết định đến
sự tồn tại của Nhà nước, sự phát triển con người và các nhân tố xã hội khác
như gia đình, cộng đồng, dân tộc v.v.,. Như vậy, lý luận về phát triển xã hội
và quản lý phát triển xã hội mặc dù không phải là vấn đề mới song bản chất
của vấn đề của sự phát triển là một quá trình nên cần phải tiếp cận trên cơ sở
lịch sử, hiện tại và dự báo xu hướng phát triển trong tương lai. Hơn thế nữa,
sẽ mang tính thực tiễn hơn nếu gắn việc nghiên cứu phát triển xã hội và quản
lý phát triển xã hội với xác định vai trò của Nhà nước và các chủ thể trong xã
hội đối với phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội. Do đó, việc làm rõ
cơ sở lý luận về phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội là vấn đề hết sức
cần thiết.
Bản thân khái niệm phát triển xã hội cũng có sự phát triển khơng

ngừng. Có nhiều quan điểm khác nhau về phát triển xã hội. Mỗi quan

13


điểm phụ thuộc rất nhiều vào cách tiếp cận của tác giả và trường phái tư
tưởng chi phối.
Trước hết, phát triển xã hội được tiếp cận theo thuyết phát triển của
chủ nghĩa Mác - Lênin
Chủ nghĩa Mác - Lênin với quan điểm duy vật biện chứng cho rằng tất
cả mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy luôn vận động và
phát triển không ngừng. Theo quan điểm này, sự phát triển hàm chứa sự vận
động theo hướng đi lên, trong đó có tính kế thừa, lặp lại cái cũ, nhưng ở mức
độ cao hơn và có sự xuất hiện của cái mới. Trong đó, xã hội được được quan
niệm "xã hội không phải bao gồm các cá nhân, mà xã hội biểu hiện tổng số
những mối liên hệ và những quan hệ của các cá nhân đối với nhau"1
Nền tảng của thuyết phát triển này, theo Ph.Ăngghen: "... một quan
niệm đúng đắn về vũ trụ, về sự phát triển của vũ trụ và sự phát triển của loài
người, cũng như về sự phản ánh của sự phát triển ấy vào đầu óc con người chỉ
có thể được bằng con đường biện chứng, với sự chú ý thường xuyên đến
những tác động qua lại phổ biến giữa sự phát sinh và sự tiêu vong, giữa sự
biến đổi tiến bộ và thụt lùi". Với cách tiếp cận phát triển một cách biện chứng
đó, Lênin kế thừa và đi đến khẳng định: "Sự phát triển hình như diễn lại
những giai đoạn đã qua, nhưng dưới một hình thức khác, ở một trình độ cao
hơn, sự phát triển có thể nói là theo đường trơn ốc chứ khơng theo đường
thẳng, sự phát triển bằng những bước nhảy vọt, bằng những sự đột biến, bằng
những cuộc cách mạng".
Như vậy, quan điểm về phát triển xã hội theo chủ nghĩa Mác - Lênin
không chỉ đưa ra phép biện chứng là cơ sở để nghiên cứu sự phát triển mà còn
khẳng định phát triển xã hội là quá trình phản ánh nội dung mang tính xã hội

và gắn với quy luật khách quan của vũ trụ, không gian, thời gian và con người.
Thứ hai, quan điểm về phát triển của các nhà kinh tế học phát triển
giữa của thế kỷ 20 xác định lý thuyết phát triển xã hội tập trung vào việc xử lý
. C.Mác và Ăngghen, Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1995, tập 46, ph1, Trang 355.

1

14


các vấn đề lý thuyết và thực tiễn của quá trình phát triển, giải quyết các vấn
đề ách tắc trong phát triển kinh tế tại các xã hội ở các nước kém phát triển của
Châu Phi, Châu Á, Châu Mỹ La tinh. Quan niệm về phát triển xã hội theo
trường phái này chỉ tập trung đến phát triển kinh tế nông thôn để làm tiền đề
cho xã hội phát triển.
Thứ ba, quan niệm của các nhà phát triển học, coi phát triển xã hội
gắn với phát triển kinh tế. Các nhà khoa học theo trường phái này coi sự tăng
trưởng về kinh tế là tiền đề cho sự phát triển của xã hội. Tuy nhiên trường
phái phát triển học này chưa trả lời được câu hỏi: nếu phát triển kinh tế trước
một bước rồi mới đến phát triển xã hội và các vấn đề văn hóa, chính trị thì
khoảng cách đó là bao lâu, có gì để đảm bảo rằng phát triển kinh tế tất yếu sẽ
đưa đến phát triển văn hóa và xã hội.
Thứ tư, quan niệm của các nhà xã hội học coi phát triển xã hội là trọng
tâm của các nhà nước xã hội. Theo quan điểm này thì sự phát triển kinh tế
làm cho xã hội phát triển thiếu cân bằng. Các giá trị xã hội sẽ phần nào bị tác
động của các giá trị vật chất dẫn đến quyền lợi của các nhóm xã hội yếu thế bị
xâm phạm và tổn thương.
Thứ năm, quan điểm về phát triển xã hội của các nhà khoa học phát
triển bền vững. Quan điểm phát triển bền vững được thể hiện rõ nét trong Báo
cáo Brundtland: "phát triển bền vững là sự phát triển hài hòa giữa tăng trưởng

kinh tế, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường nhằm đáp ứng nhu cầu của
hiện tại mà không làm tổn hại đến nhu cầu của thế hệ tương lai". Theo quan
điểm này, phát triển xã hội được gắn với ba trụ cột của phát triển bền vững:
(một) bền vững về mặt kinh tế là phát triển kinh tế nhanh và an toàn; (hai) bền
vững về mặt xã hội là phát triển công bằng xã hội và phát triển con người, chỉ
số phát triển con người HDI là tiêu chí cao nhất về phát triển xã hội, chỉ số
phát triển con người gồm: thu nhập bình quân đầu người, trình độ dân trí, giáo
dục, sức khỏe, tuổi thọ, mức hưởng thụ thành tựu văn minh v.v..; (ba) bền
vững về sinh thái môi trường là khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên
nhiên, bảo vệ và không ngừng cải thiện chất lượng môi trường sống.
15


Như vậy, các quan điểm nêu trên mặc dù có những cách tiếp cận khác
nhau đều thống nhất trong cách quan niệm phát triển xã hội là quá trình vận
động theo chiều hướng đi lên của các giá trị xã hội. Tuy nhiên, cũng chính từ
tiêu chí của các giá trị xã hội khác nhau và nội hàm xã hội khác nhau mà quan
niệm về phát triển xã hội cũng khác nhau.
Tựu chung có hai quan niệm như sau:
Về nghĩa rộng, phát triển xã hội là sự phát triển của xã hội cụ thể,
trong đó nội hàm của xã hội được tiếp cận ở mọi về lĩnh vực của đời sống xã
hội như đời sống kinh tế - xã hội theo nghĩa hẹp, đời sống xã hội tự nhiên
v..v. Do đó, theo nghĩa này, phát triển xã hội là phát triển cả văn hóa, phát
triển con người, phát triển kinh tế v.v... tất cả các vấn đề xã hội cần phát triển
đều là vấn đề xoay quanh con người (đó là phát triển các lĩnh vực cụ thể của
xã hội cụ thể cho con người).
Về nghĩa hẹp: phát triển xã hội được hiểu là những khía cạnh phát
triển gắn với con người. Trong mối quan hệ này, xã hội chỉ là một thành
phần cơ bản, một lĩnh vực tương tác với lĩnh vực kinh tế, lĩnh vực văn hóa
và lĩnh vực chính trị. Phát triển xã hội theo nghĩa này là phát triển những

lĩnh vực xã hội song song với phát triển lĩnh vực kinh tế, lĩnh vực chính trị
và lĩnh vực văn hóa.
Sở dĩ, có quan niệm này bởi trong đời sống xã hội, bốn lĩnh vực cơ
bản cùng tồn tại và có mối quan hệ với nhau, tác động biện chứng với nhau là
lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội. Việc tiếp cận xã hội là một trong
bốn bộ phận để có cách tiếp cận phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội
một cách cụ thể chứ không phải là tách một cách cơ học xã hội ra khỏi kinh
tế, chính trị, văn hóa.
Theo nghĩa hẹp này, phát triển xã hội Việt Nam hiện nay đang được
tiếp cận ở ba nội dung: giáo dục, y tế và cộng đồng. Ngay trong chính nội
hàm phát triển xã hội theo nghĩa này cũng có những nội dung xã hội phong
phú và cụ thể. Ví dụ, lĩnh vực giáo dục cũng được chia thành những lĩnh vực
16


cụ thể như giáo dục trong nhà trường, giáo dục ngồi xã hội, giáo dục cộng
đồng và giáo dục tín ngưỡng. Trong loại hình giáo dục cũng tồn tại các loại
hình như giáo dục mầm non, giáo dục tiểu học, giáo dục đại học v.v... Vấn đề
y tế cũng vậy. Bản thân y tế là một nội dung của lĩnh vực xã hội. Do đó, phát
triển xã hội địi hỏi phải tính đến phát triển y tế mà nội hàm của các nội dung
của y tế được xem xét gắn với chăm sóc sức khỏe của nhân dân như vấn đề
chữa bệnh, phòng bệnh và dịch bệnh v.v... Để phát triển y tế gắn với chăm sóc
sức khỏe nhân dân thì việc trả lời câu hỏi chữa bệnh ở đâu luôn gắn với nhu
cầu phát triển bệnh viện công, bệnh viện tư, bệnh viện tuyến v.v... Tương tự
như vậy, cồng đồng là nội hàm thứ ba của phát triển xã hội đòi hỏi phải phát
triển các nội dung liên quan đến cộng đồng như gia đình, các nhóm người, các
tộc người, đặc biệt là các nhóm người thiệt thịi trong xã hội như người cô
đơn, trẻ mồ côi, người khuyết tật v.v... và đi cùng với nó là một loạt các vấn
đề xã hội phải giải quyết như an sinh xã hội, phòng chống tệ nạn xã hội và các
căn bệnh xã hội như bệnh AID, HIV, nghiện rượu, mại dâm, ma túy, cờ bạc…

Đồng thời, phát triển xã hội đòi hỏi xử lý mối quan hệ xã hội cụ thể giữa con
người với môi trường sống và tự nhiên. Trong mối quan hệ này, con người
tồn tại trong môi trường sống trong đó có quan hệ xã hội, đạo đức xã hội và
văn hóa xã hội. Phát triển xã hội theo hướng tiếp cận này thể hiện ở sự phát
triển lối sống, quan hệ xã hội truyền thống và hiện đại tốt đẹp, tiếp thu đạo
đức xã hội và phát triển trên cơ sở coi văn hóa là nền tảng. Phát triển xã hội
trong môi trường xã hội tự nhiên thể hiện việc giải quyết các nội dung của
phát triển mơi trường tự nhiên gồm phịng chống thiên tai, phát triển bền vững
và phát triển cộng đồng. Cũng với cách hiểu theo nghĩa hẹp của vấn đề xã hội
thì cũng cần phải khu biệt xã hội với chính trị, mặc dù chính trị được xem là
một quan hệ xã hội song là quan hệ xã hội đặc biệt mà thơng qua đó, các giai
cấp mà cụ thể là giai cấp cầm quyền thể hiện ý chí của mình để thiết lập các
mối quan hệ khác nhau trong xã hội có nhà nước. Phát triển chính trị gồm hai
bộ phận: tính khách quan của chính trị (sự vận động, phát triển của xã hội) và
tính chủ quan (sự vận động phát triển của các quan hệ mang tính giai cấp và
17


sự phát triển của Nhà nước do giai cấp cầm quyền lãnh đạo. Do đó, phát triển
xã hội cũng cần phải chú trọng tới phát triển chính trị theo nghĩa khách quan
để nhằm phù hợp với sự phát triển đúng quy luật. Đó là sự phát triển xã hội
theo nghĩa hẹp.
Như vậy, theo nghĩa này, vấn đề phát triển xã hội đặt xã hội trong mối
quan hệ thu hẹp và cụ thể. Rất khó để đưa ra khái niệm phát triển xã hội nếu
xác định xã hội là một lĩnh vực đặt trong mối quan hệ với lĩnh vực kinh tế,
chính trị và văn hóa. Bởi như vậy sẽ dẫn đến việc nhìn nhận xã hội một cách
phiến diện và thiếu đi tính thống nhất của chính sự tồn tại xã hội. Tuy nhiên,
với cách tiếp cận theo nghĩa hẹp này, cần thống nhất một cách hiểu về phát
triển xã hội như sau:
Phát triển xã hội là khái niệm có nội hàm, nội dung rộng lớn, đặt sự

phát triển xã hội với những lĩnh vực gắn với con người, ngoài kinh tế, chính
trị, văn hóa nhưng gắn với kinh tế, chính trị và tương tác với kinh tế, chính
trị, văn hóa tư tưởng. Đương nhiên, cần phải thấy rằng, khi đặt phát triển xã
hội ngồi kinh tế, chính trị, văn hóa thì khơng thể tách ra một cách cơ học. Do
đó, cần hiểu xã hội ngồi kinh tế, chính trị chứ khơng thể tách ra khỏi kinh tế
và chính trị. Như vậy, khái niệm phát triển xã hội vì thế phải được nhìn nhận
là một khái niệm đa cấp, đa phương diện (nghiên cứu ở các cấp độ và phương
diện khác nhau trong một vấn đề cụ thể). Ví dụ: vấn đề xóa đói, giảm nghèo
là một vấn đề xã hội nhưng muốn giải quyết vấn đề mang tính xã hội này thì
khơng được tách ra khỏi sự phát triển kinh tế. Song cũng phải thấy sự khác
biệt cơ bản giữa phát triển kinh tế với phát triển kinh tế nhằm xóa đói giảm
nghèo là tính kinh tế và tính xã hội. Nếu như, mục tiêu của phát triển kinh tế
là hạch tốn được lợi nhuận thì mục tiêu của phát triển xã hội là khơng hạch
tốn được. Xóa đói, giảm nghèo mang tính xã hội là hoạt động khơng lấy lợi
nhuận làm mục đích chính mà mục đích của nó là tạo giá trị phát triển xã hội
chứ khơng phải là tạo ra giá trị có thể tính được như của kinh tế. Do đó,
khơng thể nói việc phát triển xã hội là đắt hay rẻ được vì hậu quả của nó là vơ
cùng. Điều này cho thấy sự tồn tại quan điểm muốn phát triển xã hội thì phải
18


chú trọng phát triển kinh tế. Bởi lẽ, phát triển kinh tế sẽ từng bước góp phần
giải quyết về mặt vật chất cho các tình trạng kém phát triển của xã hội như sự
bất bình đẳng xã hội, tạo cơ hội cho người nghèo thụ hưởng các giá trị vật
chất mà phát triển kinh tế mang lại. Tuy nhiên, đây mới là chiều thuận của sự
phát triển kinh tế tác động đến phát triển xã hội theo nghĩa hẹp. Phát triển
kinh tế, xét về mặt khách quan, đó là quá trình tích lũy tư bản của tầng lớp
nhân dân và tập trung nhiều ở giai cấp tư sản. Điều này dẫn đến sự bất bình
đẳng trong xã hội. Lịch sử phát triển kinh tế và xã hội đã chỉ ra các khiếm
khuyết của sự phát triển kinh tế không làm cho xã hội phát triển mà thậm chí

làm cho xã hội bị tổn thương, thể hiện như: tăng trưởng kinh tế nhưng khơng
có tiến bộ và cơng bằng xã hội, tăng trưởng kinh tế theo hướng cơng nghiệp
hóa, đơ thị hóa nhưng lại dẫn đến sự lụi tàn của nơng nghiệp và nơng thơn,
làm cho người lao động khơng có quyền làm chủ, văn hóa, đạo đức khơng
được chú trọng dẫn đến suy đồi và phát triển kinh tế dẫn đến sự suy thối mơi
trường, sự cân bằng sinh thái bị phá vỡ v.v...
Như vậy, phát triển xã hội ở đây hiểu theo nghĩa hẹp trên cả hai
phương diện:
+ Về mặt nội dung: phát triển xã hội là phát triển mặt xã hội của đời sống
xã hội (để phân biệt với các phương diện kinh tế, chính trị, văn hóa của đời sống
xã hội);
+ Về mặt phạm vi: chỉ tập trung nghiên cứu sự phát triển xã hội trong
một nước, một chế độ xã hội nhất định. Đương nhiên, trong q trình nghiên
cứu phương diện xã hội khơng thể khơng nói tới mối liên quan của nó với các
phương diện khác của đời sống xã hội và nghiên cứu sự phát triển xã hội
trong phạm vi một quốc gia phải chú ý tới mối liên quan của nó với sự phát
triển xã hội ở các quốc gia khác và sự phát triển của tồn nhân loại nói chung.
Phương diện xã hội của đời sống xã hội là một tập hợp các vấn đề xã
hội có liên quan đến con người và bao trùm mọi mặt cuộc sống của con
người. Đó là những vấn đề "phát sinh trong lòng xã hội liên quan đến con

19


người, liên quan đến sự cơng bằng, bình đẳng trong xã hội, đến cơ hội tồn tại
và phát triển, đến sự hưởng thụ các nhu cầu về vật chất và tinh thần của con
người. Đó là các vấn đề có ảnh hưởng, tác động, thậm chí đe dọa sự phát
triển bình thường của con người, của cộng đồng xã hội, tác động xấu đến
chất lượng sống của con người, của cộng đồng và do vậy địi hỏi phải có
những giải pháp, biện pháp kiểm sốt, phịng ngừa, ngăn chặn, điều chỉnh

hoặc giải quyết theo hướng bảo đảm sự phát triển bền vững của xã hội"1.
Xuất phát từ các nhu cầu rất phong phú, đa dạng của con người, phát
triển xã hội là biến đổi các yếu tố thuộc mặt xã hội của đời sống xã hội theo
hướng tích cực và mong muốn của chủ thể quản lý phát triển xã hội thơng qua
các mục đích và mục tiêu mà chủ thể quản lý đặt ra. Như vậy, phát triển xã
hội vừa có nghĩa là làm cho một số vấn đề tốt lên, tăng lên về số lượng, đồng
thời làm cho một số vấn đề giảm đi cả về mức độ và số lượng, nhằm tạo ra sự
hài hòa trong quá trình phát triển xã hội làm cho cuộc sống con người ngày
một tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn.
Để phát triển xã hội phải đồng thời phát triển cả kinh tế, chính trị, văn
hóa của đất nước, bởi giữa các mặt hoạt động đó của đời sống xã hội ln có
sự liên quan mật thiết, có tác động, ảnh hưởng qua lại với nhau, không thể chỉ
giải quyết vấn đề này mà bỏ qua vấn đề khác. Phát triển xã hội về thực chất là
giải quyết các vấn đề xã hội vốn có cũng như bất thường nảy sinh trong q
trình tồn tại và phát triển của xã hội loài người một cách trực tiếp và phổ biến
như vấn đề dân số, dân sinh, dân chủ và dân quyền v.v...
- Vấn đề dân số: đây là vấn đề có ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển
kinh tế - xã hội của một đất nước. Một quốc gia hùng mạnh không chỉ thể
hiện ở chỗ có lãnh thổ rộng lớn và nhiều yếu tố khác mà cịn phải có số lượng
dân cư tương xứng, được phân bố hài hòa trên các địa bàn lãnh thổ của đất
nước. Phát triển dân số khơng chỉ chú trọng về số lượng mà cịn phải bảo đảm
chất lượng của dân số, bao gồm chiều cao, cân nặng, sức khỏe, điều kiện sống
. Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chính sách, pháp
luật xã hội, (Phạm Hữu Nghị chủ biên), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2002, tr. 10.
1

20




×