Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

Chuyển đổi hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9000- (1994) sang 2000 tại Điện cơ Thống nhất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (709.19 KB, 65 trang )

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài
GDP Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Product)
ICOR Hệ số gia tăng vốn
IMF Quỹ tiền tệ Quốc tế
ODA Viện trợ phát triển chính thức (Official Development Assistance)
1
LỜI MỞ ĐẦU
Quá trình gia nhập WTO đã đem lại nhiều cơ hội và thử thách mới cho nền
kinh tế Việt Nam. Việt Nam có điều kiện tiếp xúc sâu hơn vào cá thị trường
nước ngoài , các địa phương có cơ điều kiện mở rộng thị trường xuất khẩu
hàng hoá . Đặc biệt Việt Nam có cơ hội thu hút được nhiều hơn nguồn vốn
đầu tư từ nước ngoài với chất lượng cao. Để đón nhận cơ hội mới này Việt
Nam đã từng bứoc cải thiện chính sách và tăng cường đội ngũ cán bộ kỹ thuật
để đón nhận công nghệ mới. Tuy nhiên nhiều vấn đề mới sẽ nảy sinh và đang
cần được khắc phục.
Đây là một vấn đề khá mới mẻ vì vậy em đã lựa chọn đề tài :" Phân tích tác
động của hội nhập kinh tế quốc tế tới việc nâng cao chất lượng nguồn lao
động ở Việt Nam" để nhằm làm rõ vấn đề này.Nội dung của chuyên đề gồm 4
phần chính :
Chương 1: Thực trạng nguồn lao động Việt Nam hiện nay và tầm quan trọng.
Chương 2: Diễn biến tính hình đầu tư ,thu hút vốn từ nước ngoài vào Việt
Nam.
Chương 3: Mối liên hệ giữa tình hình phát triển kinh tế dưới tác động của hội
nhập kinh tế quốc tế với việc nâng cao chất lượng lao động của Việt Nam.
Chương 4 Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng lao động và tăng
cường thu hút vốn trong thờì gian tới.
Trong phạm vi kiến thức còn hạn chế đề tài chắc chắn không tránh khỏi thiếu
sót.
2
CHƯƠNG 1: THỰC TRẠNG NGUỒN LAO ĐỘNG VIỆT


NAM HIỆN NAY VÀ TẦM QUAN TRỌNG
1.1 Thế nào là lực lượng lao động
Trước hết chúng ta cần hiểu rõ lực lượng lao động là gì?
Trong kinh tế học những người trong lực lượng lao động là những người cung cấp
lao động. Năm 2005, lực lượng lao động của toàn thế giới là trên 3 tỉ người.Thông
thường, lực lượng lao động bao gồm tất cả những người đang ở trong độ tuổi lao
động (thường là lớn hơn một độ tuổi nhất định (trong khoảng từ 14 đến 16 tuổi) và
chưa đến tuổi nghỉ hưu (thường trong khoảng 65 tuổi) đang tham gia lao động.
Những người không được tính vào lực lượng lao động là những sinh viên, người nghỉ
hưu, những cha mẹ ở nhà, những người trong tù, những người không có ý định tìm
kiếm việc làm. Ở Hoa Kỳ, lực lượng lao động được xác định là những người từ 16
tuổi trở lên, đã có việc làm hoặc đang tìm kiếm việc làm. Các Luật lao động trẻ em ở
Hoa Kỳ cấm việc thuê người dưới 18 tuổi trong các nghề nguy hiểm.Một phần nhỏ
trong lực lượng lao động đang tìm kiếm việc làm nhưng không thể tìm được việc làm
tạo thành đội quân thất nghiệp.
1.2.Quy mô lực lượng lao động Việt Nam hiện nay
Quy mô dân số nước ta lớn và tăng nhanh ,năm 1989 dân số trung bình toàn quốc
là 66,412 triệu người, năm 2005 :83,104 triệu người ,với tỷ lệ tăng tương ứng là
1,99% và giảm xuống 1,28% .Từ năm 1990 trở lại đây ,do tốc đọ tăng dân số còn
khá cao nên lực lương lao động nước ta nên lực lượng lao đông nước ta tăng khá
nhanh theo mỗi năm .
3
Theo biểu đồ trên ,có thể thấy lực lượng lao động nước ta vân động theo xu
hướng tăng dần và tốc đọ tăng khá cao ,3.2% /năm so với tốc đọ tăng của dân
số ,bùnh quân của giai đoạn 1999-2005 chỉ 1,3%/năm. Nguyên nhân có thể là do
nước ta đẫ thực hiện tốt chính sách dân số,kế hoạch hoá gia đình , đồng thời, đến
thời điểm này thì số người bước vào độ tuổi lao động hang năm được bổ sung khá
“dồi dào “. Tuy nhiên ,thời gian tới ,tốc độ này sẽ thay đổi theo hướng giảm
dần,cung lao động sẽ thấp hơn khi xu hướng chung của lực lượng trẻ muốn tiếp
tục đi học hoặc chờ đợi những việc làm thu nhập tướng đối cao.

Xét về giới :năm 2005 ,lực lượng lao động nam chiếm tỷ lệ 51,3% lực lượng lao
động toàn quốc,lực lượng lao đôngj nữ là 48.7%. Sự tham gia của lực lượng lao
động nữ vào thị trường lao động thấp xuất phát từ nhiều nguyên nhân : một phần
do hạn chế về bình đẳng giới nên người nữ ít có cơ hội học tập ,làm việc đúng
với năng lực và chuyên môn, mà hầu hết phải gánh vác việc gia đình như nội
trợ,chăm sóc con cái. Ngày nay,vai trò của người phụ nữ dần được đánh giá đúng
và đặt ngang bằng với nam giới trong mọi lĩnh vực,trong đó có hoạt động lao
động xã hội .
Xét theo độ tuổi : Lực lượng lao động trong độ tuổi lao động chiếm tỷ lệ cao
trong tổng lao động trong cả nước ,năm 2005 là 94,2%,trong khi trên độ tuổi lao
4
động chỉ có 5.8%. Ngoài ra có khoản 700 nghìn lao động trẻ em(dưới 15 tuổi) tha
gia vào hoạt đông kinh tế, chủ yếu là ở nông thôn và từ nông thôn ra thành phố
làm việc . Những năm gần đây ,lực lượng của cả nước có xu hướng tăng tỷ trọng
lao độngớ các nhóm tuổi từ 25 tuổi trở lên và giảm ở các nhóm tuổi trẻ từ 15-24
tuổi trong tổng số nhân khẩu tư 15 tuổi trở lên . Ngoài ra ,số người không tham
gia vào hoạt động kinh tế do đi học trong số nhân khẩu đủ 15 tuổi trở lên đã tăng
từ 10.9%(năm 2000) lên 11.4% (2005).
Xét theo khu vực : Xuất phát điểm nước ta là nước thuần nông nên phần lớn dân
số tập trung sống ở khu vực nông thôn, lực lượng lao động ở đây chiếm tới 75.1%
tổng số lao động cả nước . Theo thời gian ,xu hướng vân động rõ nét là giảm lực
lượng lao động nông thôn và tăng lực lượng lao động thành thị . Nếu năm 1996
lao động nông thôn chiếm hơn 79%thì đến năm 2005 giảm xuống còn 75.1%,
đồng thời nâng tỷ lệ tỷ lệ lao động thành thị từ 20.3% lên 24.9% . Điều này do tác
động của quá trình đô thị hoá , công nghiệp hoá , khu vực nông thôn bị thu hẹp
dần và các khu vực đô thị mới xuất hiện .
Xét theo vùng lãnh thổ: Đặc điểm rõ nét của cung lao động tập trung chủ yếu ở
các khu vực thị trường , đồng bằng song Hồng chiếm tỷ lệ 22.4%;vùng Đồng
bằng song Cửu Long 21.5%; Đông Nam Bộ 15.3% ; Bắc Trung Bộ 12%; Đông
Bắc 11.7%; Duyên Hải Nam Trung Bộ 8.3%; Tây Nguyên 5.6% và Tây Bắc là

3.2%.
Xu hướng biến động theo vùng , một mặt phụ thuộc vào tốc độ tăng dân số và
phân bố dân số theo vùng ,mặt khác phụ thuộc vào trình độ và tốc độ phát triển
kinh tế -xã hội của từng vùng .Nhìn chung lực lượng lao động có tốc độ tăng lớn
hơn ở các khu vực lãnh thổ nằm trong vùng kinh tế trọng điểm và các vùng có
tốc độ đô thị hóa cao. Các vùng này ngoài tăng lực lượng lao động tại chỗ còn thu
hút nhiều lao động từ các vùng khác đến để đáp ứng nhu cầu lao động trong các
ngành nghề,lĩnh vực mớ phát triển.
1.3.Trình độ học vấn của lực lượng lao động
5
Theo thống kê Lao Động-Việc làm của Bộ Lao Động- Thương binh xã hội giai
đoạn 1996-2005,tỷ lệ lao động không biết chữ có xu hướng giảm dần (năm
1996:5.72% va năm 2005 là 4.04%) , nhờ có sự phát triển không ngừng của hệ
thống giáo dục phổ thông ,trong đó .lực lượng lao động mới bổ sung là lao động
trẻ , đa số là tốt nghiệp phổ thong cơ sở và không ngừng tăng tỷ lệ tốt nghiệp phổ
thông trung học . Yêu cầu của thị trường lao đọng về chất lượng lao động ngày
càng khắt khe , nên xu hướng chung là cầu lao động trên thị trường lao động phải
đảm bảo trình độ văn hoá tối thiểu là tốt nghiệp phổ thông cơ sở .
Trình độ văn hoá của lực lượng lao động thành thị cao hơn lực lượng lao động
nông thôn,

tỷ lệ không biế chữ là 1.3%,trong khi ở nông thôn tới 5.9%(2005),kéo theo tỷ lệ
lao động ở thành thị đã qua tốt nghiệp phổ thong cũng cao hơn.
Hiện nay,lực lượng lao động thành thị đòi hỏi phải gắn với quan hệ công
nghiệp,công việc quản lý hành chính xã hội và hệ thống dịch vụ trình độ
cao..Ngược lại vì trình độ sản xuất-kinh doanh ở các vùng nông thôn còn thấp nên
một thực tế tất yếu là sự thua kém về mặt chuyên môn,tay nghề của cả đội ngũ lao
động. Mặt khác,do quá trình chuyển dịch cơ cấu kinhtế ở nhiều vùng nông
thônnước ta còn diễn ra châm,nên chất lượng lao động chưa có sự chuyển biến
nhanh chóng cũng là nhân tố ảnh hưởng đến nâng cao trình độ văn hoá của lực

lượng lao động nông thôn.
Trình độ văn hoá giữa thị trường lao động các vùng được thống kê không đồng
đều ,cụ thể: Đồng bằng song Hồng có 29% lao động đã tốt nghiệp phổ thong
ttrung học và 50% tốt nghiệp phổ thong cơ sở;tương ứng với đó,tại vùng Đông
6
Nam Bộ là 28% và 23% ;Bắc Trung Bộ là 21% và 45%; Đông Bắc là 21% và
37%;vùng Duyên Hải Nam Trung bộ là 20%% và 27% .
1.4.Lực Lượng lao động theo trình độ chuyên môn kỹ thuật
Đội ngũ lao động có chuyên môn-kỹ thuật ở nước ta không ngừng tăng lên,từ
10.4% (1996) lên 24.8%(2005); tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề tăng từ
7.5%(1996) lên 15.2%(2005);hiện nay,hang năm tuyển mới đào tạo nghề tăng
bình quân 9% ,trong đó đào tạo nghề dài hạn tăng bình quân 16% /năm , đào tạo
cao đẳng , đại học tăng 4.8%/năm .
Sự gia tăng theo chiều hướng tích cực của lực lượng lao động nước ta do nâng
cấp ,phát triểnhệ thống giáo dục , đào tạo ;Nhà nước có sự quan tâm nhiều hơn ,
đầu tư ngày càng lớn hơn đối với phát triển nguồn nhân lực; nhận thức của người
lao động tăng lên đối với vai trò,lợi ích của giáo dục đào tạo ;hợp tác quốc tế về
đào tạo và dạy nghề được mở rrộng.
Trên thực tế ,tỷ lệ lao động qua đào tạo trong lực lượng lao động thành thị lớn
hơn nhiều so với ở nông thôn,cụ thể là 45.5% so với 14.9%.Tình trạng này dẫn
đến hạn chếkhả năng tạo việc làm trong khu vực phi nông nghiệp ,hạn chế chuyển
đổi cơ cấu lao động và tiếp nhận chuyển giao khoa học công nghệ để thúc đẩy
quá trình công nghiệp hoá ,hiện đại hóa nông nghiệp,nông thôn .Nguyên nhân cơ
bản của tình trạng chậm cải thiện chất lượng cung lao động của thị trường lao
động nông thôn là :
-Hạn chế về nguồn lực đầu tư cho giáo dục và đào tạo của hộ nông thôn do thu
nhập và mức sống của lao động nông thôn thấp.
-Tỷ lệ học sinh nông thôn thi đỗ vào các trường trung hoc chuyên nghiệp ,cao
đẳng, đại học thấp hơn nhiều so với khu vực thành thị.
-Nhiều vùng nông thôn có chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm nên thiếu động lực

cho đổi mới chất lượng lao động .
Bên cạnh đó ,tuỳ theo từng vùng cũng có sự chênh lệch về trình độ chuyên môn
của lực lượng lao động(điều này thể hiện rõ trong biểu đồ dưới)
7
Sự chênh lệch mức độ phát triển nguồn nhân lực khác nhau của các vùng :mức
độ phân mảng thị trường lao động có chuyên môn kỹ thuật (thị trường lao động
kỹ năng) và thị trường lao động giản đơn của các vùng khác nhau ,vùng có phân
mảng lớn là vùng có tỷ lệ lao động qua đào tạo cao;trình độ công nghệ trong nền
kinh tế của các vùng cũng có sự khác nhau ,các vùng có trình độ công nghệ cao
hơn thì có tỷ lệ lao động qua đào tạo lớn hơn;chênh lệch lớn về tỷ lệ lao động qua
đào tạo trong lực lượng lao động của cá vùng,phản ánh tốc độ phát triển của các
ngành công nghệ cao,nghành kinh tế mũi nhọn của từng vùng có sự khác
nhau,nếu các ngành này phát triển nhanh hơn thì tỷ lệ lao động qua đào tạo
thường cao hơn.
Những đặc điểm nêu trên được biểu hiện rõ hơn khi xem xét tỷ lệ lao động qua
đào tạo của các vùng kinh tế trọng điểm là những vùng phát triển kinh tế-xã hội
có hiệu quả , đi đầu trong công cuộc công nghiệp hoá ,hiện đại hoá đất nước và
hội nhập kinh tế quốc tế,có vai trò thúc đẩy ,hỗ trợ các vùng khác nhất là các
vùng khó khăn cùng phát triển . Tỷ lệ lao động qua đào tạo của các vùng kinh tế
trọng điểm khác hẳn so với các vùng khác,trong đó (2005) vùng kinh tees trọng
điểm Bắc bộ là 36.3% ,vùng kinh tế trọng điểm miền Trung là 31% và vùng kinh
tế trọng điểm miền Nam là 36.1%.Các đặc trưng này đã có tác động thúc đẩy thị
trường lao động kỹ năng phát triển ,do đó chất lượng cung lao động tại các vùng
này nhanh chóng được cải thiện.

8
1.5.Thực trạng nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay
Hiện tại nước ta đang rât skhan hiếm nhân lực có chuyên môn cao trong các
lĩnh vục tài chính,bảo hiểm,ngân hàng thương mại,côngnnghệ thong tin,quản lý
luật pháp .Theo các chuyên gia đánh giá thì hiện tại Việt Nan mới chỉ có thể đáp

ứng được 35%-40% nhu cầu bậc cao của các doanh nghiệp Thông tin từ
vietnamwork.com đưa ra là họ đang lưu giữ hồ sơ của 500.000 ứng viên người
Vi ệt ,nhưng không chịn nổi 6000 nhân sự theo đặt hàng của một số doanh nghiệp
Lý do là các ứng viên Việt Nam tỏ ra hạn chế về khả năng làm việc độc lập và
làm việc theo nhóm ,nặng về lý thuyết mà hạn chế về kỹ năng thực hành,thiếu tư
duy độc lập có phản biện . Các ứng viên chuyên ngành quản lý thì bị hạn chế về
kinh nghiệm ,kỹ năng lãnh đạo và tầm nhìn chiến lược . Đây chính là điểm yếu
nhất của lực lượng lao động Viêth Nam. Và hệ quả là thị trường lao động trong
nước buộc phải chấp nhận làn song di chuyển của nguồn nhân lực chất lượng cao
là người nước ngoài vào làm việc tại các khu công nghiệp kỹ thuật cao.Chỉ tính
riêng Thành Phố Hồ Chí Minh và các vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đã có
hang chục nghìn lao động nước ngoài đang có làm việc thường xuyên và ổn định.
9
Chủ yếu họ đảm nhân những công việc , vị trí mà người Việt không đủ năng lực
thực hiện.
Đối với các doanh nghiệp, việc buộc phải tiếp cận lao động nứoc ngoài là bất
khả kháng. Đơn cử tại một nhà máy gia công giày da ở Đồng Naiđang sử dụng 20
nghìn lao động Việt Nam,nhưng quỹ lương của cả tập thể lao động này chỉ bằng
tổng số tiền lương mà doanh nghiệp này phải trả cho 70 chuyên gia nước ngoài .
Nhà máy xi măng Nghi Sơn(Thanh Hoá) ,do không tìm được người Việt có khả
năng đáp ứng được yêu cầu nên vị trí chủ chốt đều do người Nhật nắm giữ, tổng
quỹ lương của 20 người Nhật tương đương quỹ lương của hơn 2000 công nhân
người Việt . Một số dịch vụ khác như Ngân hàng , Y tế.., có tới 40% tổng số lao
động có thu nhập cao từ 14.000 USD/năm trở lên thuộc người nước ngoài .
Thông qua nhiều hình thức thong tin tuyên truyền , để “săn” nhân sự người Việt
vào những vị trí quan trọng , mục đích ban đầu là giảm chi phái đầu vào ,nhưng
đây vẫn là khâu nan giải đối với nhiều doanh nghiệp .
Theo dự đoán của các nhà phân tích kinh tế nước ngoài, số lượng các ứng viên
người nước ngoài (Mỹ, Úc, Hà Lan, Philippines, Hồng Kông, Ấn Độ…) tham gia
vào thị trường lao động Việt Nam đang có xu hướng gia tăng nhanh trong thời

gian tớivà có thể có sự rối loạn cho sản xuất kinh doanh của các công ty vừ và
nhỏ trong nứoc vì “mất” nhân lực chất lượng cao ở những vị trí trọng yếu . Bởi ,
theo quy luật thị trường nguồn nhân lực chất lượng cao có xu hướng di chuyển từ
các khu vực lao động có thu nhập thấp đến khu vực lao động có thu nhập cao,
thường là những doanh nghiệp có vốn đấu tư nước ngoài (doanh nghiệp FDI) với
nhiều ưu đãi hấp dẫn. Đã đến lúc chúng ta phải nhìn thăng vào thực trạng nguồn
nhân lực , trọng tâm là nguồn nhân lực chất lượng cao – động lực phát triển của
nền kinh tế nước nhà để hướng ra thế giới thực tâm cầu thị . Một vần đề cần nhấn
mạnh là đừng vội xem lao động giá rẻ là một lợi thế , mà phải coi đây là nỗi lo
lớn cho nền kinh tế ,vì so với một số nước ,năng suất lao động ở Việt Nam là quá
thấp :năng suất lao động của người dân Nhật Bản cao hơn Việt Nam gấp 135
lần ; Thái Lan gấp 30 lần ; Malaysia gấp 20 lần ; Indonesisa gấp 10 lần … Do
10
đó ,nếu coi lao động giá rẻ (đông nghĩa với chất lượng thấp) như một lợi thế là
một sai lầm bởi yếu tố quyết định đến doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp
chính là năng suất lao động. Khi doanh nghiệp sử dụng lao động giá rẻ ,bản thân
doanh nghiệp có thể giảm được quỹ tiền lương ,nhưng thực tế chi phí má họ phải
bỏ ra đào tạo , đầu tư cho nhân viên sẽ cao hơn rất nhiều . Lao động chất lượng
thấp ,kéo theo mức lương trả cho người lao động thấp ; đồng thời không đáp ứng
được xu thế đổi mới ,sử dụng công nghệ sản xuất,quản lý ngày càng cao của
doanh nghiệp.
Một thực tế nũa là ,mặc dù Việt Nam có một nguồn nhân lực trẻ rất dồi dào
nhưng đại đa số các doanh nghiệp luôn kêu thiếu nhân lực . Sự khan hiếm nhân
lực không phải nguồn lao động phổ thông mà tập trung ở số lao động có trình độ ,tay
nghề đã qua đào tạo ,có kỹ năng làm việc và có khả năng nắm giữ một số các vị trí chủ
chốt trong các doanh nghiệp. Trong khi đó một nghịc lý là hang năm số lượng sinh
viên tốt nghiệp các trường đại học,cao đẳng ,trường dạy nghề…ở nứoc ta rất lớn
nhưng không xin được việc làm ,hoặc đa phần là đi trai sngành nghề được đào tạo . Sở
dĩ xảy ra nghịch lý trên chính vì từ khâu chọn ngành nghề ,công tác đào tạo không bài
bản ,không chuyên môn nên rất khó đáp ứng được các yêu cầu công việc của các đơn

vị .
Tóm lại : Từ thực tiễn quan sát được và từ các đánh giá của các chuyên gia ta
thấy được một số vấn dề tồn tại chủ yếu về chất lượng lực lượng lao động nước
ta:
Mặc dù có những tiến bộ tích cực về cải thiện chất lượng lao đông thời kỳ đổi
mới ,nhưng hiện nay lực lượng lao động nước ta có những tồn tại chủ yếu sau:
-Cơ cấu lực lượng cả nứoc theo cấp trình độ chuyên môn -kỹ thuật có bất hợp
lý . Theo thống kê ,năm 2005 ,lực lượng lao động cả nứoc theo cấp trình độ như
sau: lao động qua đào tạo nghề và tương đương là 15.2% ,qua đào tạo trung học
chuyên nghiệp là 4.3% và qua đào tạo cao đẳng , đại học ,trên đại học là 5.3% .
Như vậy cứ 1 lao động cao đẳng , đại học ,trên đại học thì có 0.8 lao động trung
học chuyên nghiệp và 2.8 công nhân kỹ thuật. Cơ cấu trên thể hiện tìh trạng thiếu
11
cung công nhân kỹ thuật trên thị trường lao động . Trong các năm tới ,theo kinh
nghiệm của các nước phát triển trong khu bực (Malaysia,Hàn Quốc..) cơ cấu trên
cần được khắc phục theo hướng tiến tới là 1;3;5;10 . Để khắc phục sự bất hơp lý
này ,Nhà nước đang nỗ lực thực hiện các giải pháp tích cực tăng tốc đào tạo công
nhân kỹ thuật , điều chỉnh lại cơ cấu đào tạo phù hợp với nhu cầu của thị trường
lao động,nhưng không vì thế mà coi nhẹ chất lượng đào tạo.
-Người lao đông còn it nắm được các tiêu chí chaủan lao động ,pháp luật lao
động khi tham gia vào thị trường lao động
- Tính kỷ luật lao động và tác phong công nghiệp của một bộ phận lớn lực lượng
lao động chưa đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế hiện đại ,còn mang nặng dấu ấn
tác phong của nền nông nghiệp tiểu nông.
-Thể lực của lực lượng lao động còn hạn chế so với lao động nhiều nước trên thế
giới,biểu hiện ở các chỉ tiêu như:tính dẻo dai,chiều cao,cân năng …

12
CHƯƠNG 2: DIỄN BIẾN TÍNH HÌNH ĐẦU TƯ ,THU HÚT
VỐN TỪ NƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM

2.1.FDI
2.1.1.Thế nào là FDI
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI = Foreign Direct Investment) là hình thức đầu tư
dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác bằng cách thiết lập cơ sở
sản xuất, kinh doanh. Cá nhân hay công ty nước ngoài đó sẽ nắm quyền quản lý cơ sở
sản xuất kinh doanh này.
Tổ chức Thương mại Thế giới đưa ra định nghĩa như sau về FDI:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước
(nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở một nước khác (nước thu hút đầu tư)
cùng với quyền quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý là thứ để phân biệt
FDI với các công cụ tài chính khác. Trong phần lớn trường hợp, cả nhà đầu
tư lẫn tài sản mà người đó quản lý ở nước ngoài là các cơ sở kinh doanh.
Trong những trường hợp đó, nhà đầu tư thường hay đựoc gọi là "công ty mẹ"
và các tài sản được gọi là "công ty con" hay "chi nhánh công ty".
2.1.2.Lợi ích của thu hút FDI
2.1.2.1.Bổ sung cho nguồn vốn trong nước
Trong các lý luận về tăng trưởng kinh tế, nhân tố vốn luôn được đề cập. Khi một nền
kinh tế muốn tăng trưởng nhanh hơn, nó cần nhiều vốn hơn nữa. Nếu vốn trong nước
không đủ, nền kinh tế này sẽ muốn có cả vốn từ nước ngoài, trong đó có vốn FDI.
2.1.2.2.Tiếp thu công nghệ và bí quyết quản lý
13
Trong một số trường hợp, vốn cho tăng trưởng dù thiếu vẫn có thể huy động được
phần nào bằng "chính sách thắt lưng buộc bụng". Tuy nhiên, công nghệ và bí quyết
quản lý thì không thể có được bằng chính sách đó. Thu hút FDI từ các công ty đa
quốc gia sẽ giúp một nước có cơ hội tiếp thu công nghệ và bí quyết quản lý kinh
doanh mà các công ty này đã tích lũy và phát triển qua nhiều năm và bằng những
khoản chi phí lớn. Tuy nhiên, việc phổ biến các công nghệ và bí quyết quản lý đó ra
cả nước thu hút đầu tư còn phụ thuộc rất nhiều vào năng lực tiếp thu của đất nước.
2.1.2.3.Tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu
Khi thu hút FDI từ các công ty đa quốc gia, không chỉ xí nghiệp có vốn đầu tư của

công ty đa quốc gia, mà ngay cả các xí nghiệp khác trong nước có quan hệ làm ăn với
xí nghiệp đó cũng sẽ tham gia quá trình phân công lao động khu vực. Chính vì vậy,
nước thu hút đầu tư sẽ có cơ hội tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu thuận lợi cho
đẩy mạnh xuất khẩu.
2.1.2.4.Tăng số lượng việc làm và đào tạo nhân công
Vì một trong những mục đích của FDI là khai thác các điều kiện để đạt được chi phí
sản xuất thấp, nên xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ thuê mướn nhiều lao động
địa phương. Thu nhập của một bộ phận dân cư địa phương được cải thiện sẽ đóng
góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế của địa phương. Trong quá trình thuê mướn đó,
đào tạo các kỹ năng nghề nghiệp, mà trong nhiều trường hợp là mới mẻ và tiến bộ ở
các nước đang phát triển thu hút FDI, sẽ được xí nghiệp cung cấp. Điều này tạo ra
một đội ngũ lao động có kỹ năng cho nước thu hút FDI. Không chỉ có lao động thông
thường, mà cả các nhà chuyên môn địa phương cũng có cơ hội làm việc và được bồi
dưỡng nghiệp vụ ở các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
2.1.2.5.Nguồn thu ngân sách lớn
Đối với nhiều nước đang phát triển, hoặc đối với nhiều địa phương, thuế do các xí
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nộp là nguồn thu ngân sách quan trọng. Chẳng hạn,
14
ở Hải Dương riêng thu thuế từ công ty lắp ráp ô tô Ford chiếm 50 phần trăm số thu
nội địa trên địa bàn tỉnh năm 2006.
2.1.3.Các hình thức FDI
2.1.3.1.FDI phân theo bản chất đầu tư
Đầu tư phương tiện hoạt động
Đầu tư phương tiện hoạt động là hình thức FDI trong đó công ty mẹ đầu tư mua sắm
và thiết lập các phương tiện kinh doanh mới ở nước nhận đầu tư. Hình thức này làm
tăng khối lượng đầu tư vào.
Mua lại và sáp nhập
Mua lại và sáp nhập là hình thức FDI trong đó hai hay nhiều doanh nghiệp có vốn
FDI đang hoạt động sáp nhập vào nhau hoặc một doanh nghiệp này (có thể đang hoạt
động ở nước nhận đầu tư hay ở nước ngoài) mua lại một doanh nghiệp có vốn FDI ở

nước nhận đầu tư. Hình thức này không nhất thiết dẫn tới tăng khối lượng đầu tư vào.
2.1.3.2.FDI phân theo tính chất dòng vốn
Vốn chứng khoán
Nhà đầu tư nước ngoài có thể mua cổ phần hoặc trái phiếu doanh nghiệp do một công
ty trong nước phát hành ở một mức đủ lớn để có quyền tham gia vào các quyết định
quản lý của công ty.
Vốn tái đầu tư
Doanh nghiệp có vốn FDI có thể dùng lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh
trong quá khứ để đầu tư thêm.
Vốn vay nội bộ hay giao dịch nợ nội bộ
Giữa các chi nhánh hay công ty con trong cùng một công ty đa quốc gia có thể cho
nhau vay để đầu tư hay mua cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp của nhau.
15
2.1.3.3.FDI phân theo động cơ của nhà đầu tư
Vốn tìm kiếm tài nguyên
Đây là các dòng vốn nhằm khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên rẻ và rồi rào ở
nước tiếp nhận, khai thác nguồn lao động có thể kém về kỹ năng nhưng giá thấp hoặc
khai thác nguồn lao động kỹ năng dồi dào. Nguồn vốn loại này còn nhằm mục đích
khai thác các tài sản sẵn có thương hiệu ở nước tiếp nhận (như các điểm du lịch nổi
tiếng). Nó cũng còn nhằm khai thác các tài sản trí tuệ của nước tiếp nhận. Ngoài ra,
hình thức vốn này còn nhằm tranh giành các nguồn tài nguyên chiến lược để khỏi lọt
vào tay đối thủ cạnh tranh.
Vốn tìm kiếm hiệu quả
Đây là nguồn vốn nhằm tận dụng giá thành đầu vào kinh doanh thấp ở nước tiếp nhận
như giá nguyên liệu rẻ, giá nhân công rẻ, giá các yếu tố sản xuất như điện nước, chi
phí thông tin liên lạc, giao thông vận tải, mặt bằng sản xuất kinh doanh rẻ, thuế suất
ưu đãi, v.v...
Vốn tìm kiếm thị trường
Đây là hình thức đầu tư nhằm mở rộng thị trường hoặc giữ thị trường khỏi bị đối thủ
cạnh tranh giành mất. Ngoài ra, hình thức đầu tư này còn nhằm tận dụng các hiệp

định hợp tác kinh tế giữa nước tiếp nhận với các nước và khu vực khác, lấy nước tiếp
nhận làm bàn đạp để thâm nhập vào các thị trường khu vực và toàn cầu.
2.1.4.Tình hình thu hút vốn đầu tư nước ngoài FDI tại Việt Nam
16
Vốn FDI năm 2005
đã tăng gần 40% so
với năm trước, đạt
5,8 tỷ USD, mức
cao nhất trong 10
năm (trong đó, đầu
tư mới là 4 tỷ USD,
đầu tư bổ sung là 1,9 tỷ USD). Có thể nhận thấy rằng năm 2005 đã khởi đầu cho một
làn sóng đầu tư FDI mới (sau khi suy giảm từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế Châu Á)
do nền kinh tế đang hội tụ nhiều điều kiện thuận lợi:
-Nền kinh tế tăng trưởng mạnh, trong khi vẫn duy trì được những nền tảng kinh tế vĩ
mô vững chắc (tỷ lệ nợ thấp, lạm phát ở mức có thể chấp nhận được, tỷ lệ tiết kiệm
cao và sự phân hoá giầu nghèo thấp).
-Môi trường chính trị và xã hội ổn định: là một quốc gia yên bình, không có nạn
khủng bố, không nằm trong khu vực nhiều thiên tai và chi phí nhân công thấp.
-Nền kinh tế đang dần hội nhập với kinh tế thế giới. Việt Nam dự đoán sẽ trở thành
thành viên của WTO trong năm 2006 và đang nỗ lực đẩy mạnh việc mở rộng thị
trường trên phạm vi lớn (gồm các ngành dịch vụ nhạy cảm, ngân hàng và tài chính).
Các nhà đầu tư nước ngoài cũng đang tìm kiếm cơ hội đa dạng hóa rủi ro tại các thị
trường ngoài Trung Quốc, và Việt Nam đang xem là một nhân tố quan trọng trong
chiến lược "Trung Quốc + 1" của các công ty xuyên quốc gia. Nhật Bản đang xếp
Việt Nam nằm trong số 3 thị trường đầu tư hàng đầu của họ và một số lượng lớn các
công ty của Nhật đã và đang chuyển dần hoạt động sản xuất sang Việt Nam từ Trung
Quốc trong bối cảnh chính trị ngày càng căng thẳng giữa 2 nước Nhật - Trung.
Cho đến nay, Việt Nam hiện đã thu hút được 50,5 tỷ USD vốn trong các dự án FDI
vẫn còn có hiệu lực, trong đó 60,8% nguồn vốn đến từ Châu Á: Singapore, Đài Loan,

Nhật Bản, Hàn Quốc và Hồng Kông. Cơ cấu vốn FDI được định hướng chủ yếu là
các ngành công nghiệp xuất khẩu, khai thác lợi thế so sánh của Việt Nam (nhân công
và tài nguyên dồi dào).
17
thu h ú t v n FDI qua c á c n mố ă
0
100000
200000
300000
400000
500000
1995
1997
1999
2001
2003
2005
n m ă
t ngỷ đồ
vốn FDI
Tuy nhiên hiện đang có những dấu hiệu gia tăng FDI vào các lĩnh vực dịch vụ (vừa
phản ánh môi trường kinh tế thông thoáng hơn và đời sống/sức mua trong nước ngày
càng tăng). Do đó đầu tư từ các nước Châu Âu và Mỹ trong thời gian tới dự báo sẽ
gia tăng. Ngành công nghiệp kỹ thuật cao cũng đang tìm đường đến với Việt Nam
khởi đầu bằng việc Intel xây dựng nhà máy sản xuất chip và linh kiện máy vi tính đầu
tiên trị giá 605 triệu USD.
Hiện tại, hơn 3.000 doanh nghiệp FDI đang hoạt động rất tốt. Trong năm 2005, khu
vực này đạt doanh thu 21 tỷ USD (tăng 16.7%); tổng giá trị xuất khẩu của các doanh
nghiệp FDI đạt 10,3 tỷ USD (không kể dầu thô) tăng 26.6%. Nếu tính cả lĩnh vực
khai thác dầu thô thì tổng xuất khẩu đạt 15,9 tỷ USD, chiếm 56% tổng giá trị xuất

khẩu cả nước. Khu vực FDI do đó có những đóng góp quan trọng trong tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao và chiếm một phần đáng kể trong các ngành công nghiệp then
chốt.
18
Đoán gõp của các DN FDI vào một số ngành CN
Dưới đây là Bảng cân đối FDI theo các lĩnh vực
19
2.2. ODA
2.2.1. Thế nào là ODA
Hỗ trợ phát triển chính thức (hay ODA, viết tắt của cụm từ Official Development
Assistance), là một hình thức đầu tư nước ngoài. Gọi là Hỗ trợ bởi vì các khoản đầu
tư này thường là các khoản cho vay không lãi suất hoặc lãi suất thấp với thời gian vay
dài. Đôi khi còn gọi là viện trợ. Gọi là Phát triển vì mục tiêu danh nghĩa của các
khoản đầu tư này là phát triển kinh tế và nâng cao phúc lợi ở nước được đầu tư. Gọi
là Chính thức, vì nó thường là cho Nhà nước vay.
2.2.2.Ưu điểm của ODA
• Lãi suất thấp (dưới 3%, trung bình từ 1-2%/năm)
• Thời gian cho vay cũng như thời gian ân hạn dài (25-40 năm mới phải hoàn
trả và thời gian ân hạn 8-10 năm)
• Trong nguồn vốn ODA luôn có một phần viện trợ không hoàn lại, thấp nhất là
25% của tổng số vốn ODA.
2.2.3.Bất lợi khi nhận ODA
Các nước giàu khi viện trợ ODA đều gắn với những lợi ích và chiến lược như mở
rộng thị trường, mở rộng hợp tác có lợi cho họ, đảm bảo mục tiêu về an ninh - quốc
phòng hoặc theo đuổi mục tiêu chính trị... Vì vậy, họ đều có chính sách riêng hướng
vào một số lĩnh vực mà họ quan tâm hay họ có lợi thế (những mục tiêu ưu tiên này
thay đổi cùng với tình hình phát triển kinh tế - chính trị - xã hội trong nước, khu vực
và trên thế giới).Ví dụ:
Về kinh tế, nước tiếp nhận ODA phải chấp nhận dỡ bỏ dần hàng rào thuế quan bảo
hộ các ngành công nghiệp non trẻ và bảng thuế xuất nhập khẩu hàng hoá của nước tài

trợ. Nước tiếp nhận ODA cũng được yêu cầu từng bước mở cửa thị trường bảo hộ
cho những danh mục hàng hoá mới của nước tài trợ; yêu cầu có những ưu đãi đối với
20
các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài như cho phép họ đầu tư vào những lĩnh vực hạn
chế, có khả năng sinh lời cao
Nguồn vốn ODA từ các nước giàu cung cấp cho các nước nghèo cũng thường gắn
với việc mua các sản phẩm từ các nước này mà không hoàn toàn phù hợp, thậm chí là
không cần thiết đối với các nước nghèo. Ví như các dự án ODA trong lĩnh vực đào
tạo, lập dự án và tư vấn kỹ thuật, phần trả cho các chuyên gia nước ngoài thường
chiếm đến hơn 90% (bên nước tài trợ ODA thường yêu cầu trả lương cho các chuyên
gia, cố vấn dự án của họ quá cao so với chi phí thực tế cần thuê chuyên gia như vậy
trên thị trường lao động thế giới).
Nguồn vốn viện trợ ODA còn được gắn với các điều khoản mậu dịch đặc biệt nhập
khẩu tối đa các sản phẩm của họ. Cụ thể là nước cấp ODA buộc nước tiếp nhận ODA
phải chấp nhận một khoản ODA là hàng hoá, dịch vụ do họ sản xuất.
• Nước tiếp nhận ODA tuy có toàn quyền quản lý sử dụng ODA nhưng thông
thường, các danh mục dự án ODA cũng phải có sự thoả thuận, đồng ý của
nước viện trợ, dù không trực tiếp điều hành dự án nhưng họ có thể tham gia
gián tiếp dưới hình thức nhà thầu hoặc hỗ trợ chuyên gia.
• Tác động của yếu tố tỷ giá hối đoái có thể làm cho giá trị vốn ODA phải hoàn
lại tăng lên.
Ngoài ra, tình trạng thất thoát, lãng phí; xây dựng chiến lược, quy hoạch thu hút và sử
dụng vốn ODA vào các lĩnh vực chưa hợp lý; trình độ quản lý thấp, thiếu kinh
nghiệm trong quá trình tiếp nhận cũng như xử lý, điều hành dự án… khiến cho hiệu
quả và chất lượng các công trình đầu tư bằng nguồn vốn này còn thấp... có thể đẩy
nước tiếp nhận ODA vào tình trạng nợ nần
2.2.4.Lịch sử hình thành ODA
Sau chiến tranh thế giới thứ 2, Châu Âu chỉ còn lại là một bãi chiến trường đổ nát.
Các nước bại trận cũng như các nước thuộc địa ở thế giới thứ ba đều gặp suy thoái kinh
tế nghiêm trọng. Khẩu hiệu chính thức lúc bấy giờ là nhiệm vụ của các nước chính quốc

21
phải giúp các nước bại trận và các nước thuộc địa khôi phục lại kinh tế. Một phương
thức để vực dậy nền kinh tế thế giới đã được thông qua là thành lập các tổ chức tài chính
quốc tế nhằm mục đích sử dụng nguồn vốn chung trong công cuộc điều hoà nền kinh tế
thế giới cũng như khôi phục các nước có nền kinh tế bị tàn phá hay chậm phát triển. Tại
hội nghị về tài chính tiền tệ thế giới tổ chức vào ngày 1/7/1944 tại Bretton Woods (Mỹ),
Ngân hàng thế giới (WB) đã được thành lập với mục đích chủ yếu là thúc đẩy kinh tế và
tiến bộ xã hội ở các nước thành viên đang phát triển bằng cách cho các nước này vay vốn
để đầu tư vào các dự án và chương trình nhằm nâng cao năng suất và cải thiện mức sống
dân cư. Như vậy, một hình thức cung cấp vốn mới đã được hình thành với tên gọi Hỗ trợ
phát triển chính thức – ODA (Official Development Assitance).
Hỗ trợ phát triển chính thức bắt đầu bằng kế hoạch Marshall của Mỹ viện trợ cho các
nước Tây Âu nhằm khôi phục nền kinh tế sau chiến tranh. Mỹ đã viện trợ 17 tỷ USD
trong vòng 4 năm (tương đương 1,5% GNP của Mỹ) để xây dựng lại các nước này sau
chiến tranh. Để tiếp nhận nguồn hỗ trợ này, các nước Tây Âu đã đưa ra một chương trình
phục hồi kinh tế và thành lập tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển (OECD – Oranisation
of Economic Coororation and Development).
Trong khuôn khổ hợp tác phát triển, các nước thành viên OCED đã lập các uỷ ban
chuyên môn trong đó có Uỷ ban hỗ trợ phát triển DAC để giúp các nước đang phát triển
thúc đẩy kinh tế và nâng cao hiệu quả đầu tư. Các nước trong Uỷ ban này có trách nhiệm
thông báo thường kỳ các đóng góp của họ cho các chương trình hỗ trợ phát triển và trao
đổi những vấn đề liên quan đến chính sách hỗ trợ phát triển.
Năm 1970, lần đầu tiên Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã chính thức thông qua nghị
quyết trong đó kêu gọi các nước giàu hàng năm cần trích 0,7% tổng sản phẩm quốc dân
(GNP) của mình để thực hiện nghĩa vụ của mình đối với các nước nghèo. Tuy nhiên trên
thực tế có rất ít nước đáp ứng được yêu cầu này.
2.2.5.Diễn biến tình hình ODA tại Việt Nam
2.2.5.1 Tình hình phát triển ODA tại Việt Nam
22
2.2.5.1.1. Khái niệm về ODA được đề cập tại Việt Nam

Khái niệm Hỗ trợ phát triển chính thức (Official Development Assistance, viết tắt là
ODA) bắt đầu xuất hiện tại Việt Nam kể từ tháng 10/1993 sau khi Việt Nam bình
thường hoá quan hệ với Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (USA) và các tổ chức tài chính tiền
tệ Quốc tế như: Quĩ tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng
Phát triển châu Á (ADB)… Việc bình thường hoá quan hệ nói trên đã ngay lập tức
giúp cho Việt Nam khơi thông nguồn vốn huy động nước ngoài thông qua hình thức
ODA với cộng đồng các nhà tài trợ đa phương và song phương nhằm phục vụ đắc lực
cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, xoá đói giảm nghèo, tăng cường năng lực
thể chế…..
Theo Báo cáo nghiên cứu chính sách của Ngân hàng Thế giới (WB) xuất bản tháng
6/1999 có đưa ra định nghĩa về ODA như sau: “ODA là một phần của tài chính phát
triển chính thức ODF, trong đó có yếu tố viện trợ không hoàn lại cộng với cho vay ưu
đãi và phải chiếm ít nhất 25% trong tổng viện trợ thì gọi là ODA”. Còn Tài trợ phát
triển chính thức (Offcial Development Finance, viết tắt là ODF) là tất cả các nguồn
tài chính mà chính phủ các nước phát triển và các tổ chức đa phương dành cho các
nước đang phát triển. Định nghĩa ODA nói trên cũng đã được Chính phủ Việt Nam
sử dụng trong quy chế quản lý và sử dung nguồn vốn ODA ban hành kèm theo nghị
định số 17/2001/NĐ – CP ngày 4/5/2001 của Chính phủ, cụ thể : “Hỗ trợ phát triển
chính thức (ODA) là hoạt động hợp tác phát triển giữa Nhà nước hoặc Chính phủ
Việt Nam với nhà tài trợ, bao gồm: Chính phủ nước ngoài, các tổ chức liên chính phủ
hoặc liên quốc gia; Hình thức cung cấp ODA bao gồm: ODA không hoàn lại; ODA
vay ưu đãi có yếu tố không hoàn lại đạt ít nhất 25%…”. Như vậy, qua các định nghĩa
trên cho thấy: ODA chính là khoản vay kết hợp giữa “một phần cho vay ưu đãi” cộng
với “một phần cho không”, trong đó yếu tố cho không có thể được hiểu là: phần cho
không (không hoàn lại), hay vay với mức lãi suất thấp, hay thời hạn vay dài, thời gian
ân hạn cao… tất cả quy ra “phần cho không” phải đạt ít nhất là 25% trong tổng số
vốn vay mới được gọi là ODA.
23
2.2.5.1.2. Quá trình hình thành ODA
Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) được hình thành và phát triển xuất phát từ sự

thoả thuận của các nước công nghiệp phát triển, chủ yếu là các nước thuộc Tổ chức
hợp tác kinh tế và phát triển (OECD), vè sự trợ giúp dưới dạng viện trợ không hoàn
lại hoặc cho vay với điều kiện ưu đãi cho các nước kém phát triển nhằm thực hiện 2
mục tiêu chính: Một là: thúc đẩy tăng trưởng dài hạn và giảm nghèo đói ở những
nước kém phát triển. Hai là: tăng cường lợi ích chiến lược và chính trị ngắn hạn của
các nước tài trợ đối với các nước nhận viện trợ. Theo nghị quyết của Đại hội đồng
liên hợp quốc năm 1970, các nước giàu hàng năm cần phải trích 0,7% tổng sản phẩm
quốc dân (GNP) của mình để thực hiện nghĩa vụ đối với các nước nghèo thông qua
hình thức ODA và đến năm 2000 phải nâng tỉ lệ đó lên 1% GNP. Tuy nhiên trên thực
tế, cho đến nay, các nước công nghiệp phát triển lại thực hiện nghĩa vụ này rất khác
nhau. Chẳng hạn tính bình quân từ 1960 đến 1985, có một số nước thực hiện mức
quy định như Pháp là 0,78% GNP; Hà Lan là 0,9%; GNP;Thụy Điển là 0,86% GNP;
Đan Mạch là 0,8% Gnp; đặc biệt là Nauy đống góp trên 1,03% GNP; Ngược lại các
nước như Mỹ, Đức, Italia, Canada… chỉ đóng góp ở mức bình quân từ 0,24% GNP
đến tối đa là 0,54% GNP. Như vậy, tuỳ theo mức độ phát triển của nền kinh tế các
nước hàng năm và tuỳ thuộc vào các mối bang giao mang tính “chiến lược” giữa các
quốc gia cung cấp và tiếp nhận ODA để từ đó các bên đưa ra mức tài trợ ODA hàng
năm.
2.2.5.1.3. Vai trò của nguồn vốn ODA và những điểm khác biệt so với các
nguồn vốn vay thông thường khác:
Vai trò của nguồn vốn ODA đối với sự nghiệp phát triển kinh tế và xã hội:
Từ thực tế chu chuyển luồng vốn ODA trên thế giới từ thực tiễn huy động, tiếp nhận,
sử dụng, quản lý nguồn vốn ODA tại Việt Nam từ 1993 đến nay cho thấy Việt Nam
là một trong những nước đang phát triển có tỷ trọng huy động nguồn vốn nước ngoài
thông qua hình thức ODA khá lớn. Tổng số vốn cam kết mà cộng đồng các nhà tài
trợ ODA dành cho Việt Nam giai đoạn 1993-2005 đạt trên 32 tỷ USD. Số vốn đã hợp
24
thức hoá bằng các Hiệp định vay ước đạt trên 26 tỷ USD, chiếm 80% tổng số vốn đã
cam kết. Tổng số vốn đã giải ngân ước đạt trên 16 tỷ USD, chiếm 62% tổng số vốn
đã ký kết. Số vốn đã giải ngân nói trên đã sử dụng để xây dựng hàng loạt cơ sở hạ

tầng kinh tế, xã hội quan trọng của quốc gia; giải quyết có hiệu quả các vấn đề về xã
hội như xoá đói giảm nghèo; phát triển y tế, giáo dục và khao học công nghệ; bảo vệ
môi trường; cải cách hành chính, luật pháp; hỗ trợ một số lĩnh vực sản xuất. Hàng
loạt công trình đầu tư bằng nguồn vốn ODA đến nay đã được đưa vào sử dụng, góp
phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân. Nếu xét trên bình
diện tổng thể, trong 13 năm qua (1993 – 2006), nguồn vốn ODA đã hoà cùng với các
nguồn vốn trong nước, góp phần đưa tỷ lệ tăng trưởng kinh tế của nước ta lên gấp 2,4
lần từ 3,5% năm 1993 lên 8,4% năm 2005; tỷ lệ đói nghèo giảm xuống một nửa; xuất
khẩu tăng gấp 6 đến 7 lần…; Bên cạnh những kết quả đạt được mang tính định lượng
nói trên, nguồn vốn ODA còn gián tiếp hỗ trợ cho Việt Nam từng bước cải cách có
hiệu quả các cơ chế, chính sách quản lý kinh tế, góp phần thúc đẩy quá trình thực
hiện đầy đủ các cam kết giữa Việt Nam với cộng đồng các nhà tài trợ ODA. Những
kết quả trên đã và đang tiếp tục khẳng định vị thế của Việt Nam trong việc sử dụng
có hiệu quả nguồn vốn ODA đối với cộng đồng các nhà tài trợ ODA.
Một số ưu thế của ODA:
Rõ ràng, nhờ lợi thế riêng có của ODA so với các nguồn vốn vay thông thường khác,
nên Việt Nam đã ưu tiên phần lớn nguồn vốn này vào thực hiện các mục tiêu phát
triển kinh tế - xã hội quan trọng mang tính dài hạn của quốc gia. Vậy sự khác nhau
giữa nguồn vốn vay ODA với các nguồn vốn vay thông thường khác ở chỗ nào?
Theo định phần “khái niệm về ODA” cho thấy: sự khác biệt chính giữa nguồn vốn
ODA so với nguồn vốn vay thông thường chính là ở “thành tố hỗ trợ”. Thành tố hỗ
trợ bao gồm các yếu tố cơ bản như: lãi suất cho vay thấp, thậm chí là bằng không, kết
hợp với thời hạn vay dài, thời hạn ân hạn cao… đã tạo nên tính ưu đãi của ODA so
với các nguồn vốn khác. Ví dụ: hiện nay Việt Nam vau ODA của Hiệp hội Phát triển
quốc tế (LDA) thuộc nhóm WB với mức lãi suất bằng không, chỉ tính phí sử dụng
vốn 0,75% năm, thời hạn vay 40 năm, trong đó 10 năm ân hạn (tức đến năm thứ 11
25

×