Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Tiểu luận phương pháp đo tính các nhân tố điều tra lâm phần rừng gỗ. Vận dụng để xác định trữ lượng rừng cho một lâm phần theo số liệu điều tra.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.69 KB, 25 trang )

ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN
TRƯỜNG ĐH KINH TẾ NGHỆ AN

TIỂU LUẬN
Tên đề tài:
Những hiểu biết của anh (chị) về phương pháp đo tính các nhân tố điều tra lâm
phần rừng gỗ. Vận dụng để xác định trữ lượng rừng cho một lâm phần theo số
liệu điều tra.

Giảng viên hướng dẫn: ThS. Trần Thị Thúy Nga
Sinh viên thực hiện: Vi Minh Thủy
Lớp: K6.02 Tương Dương

Nghệ An, tháng 11 năm 2021


Phần 1
MỞ ĐẦU

Lưu ý: cần xáo thứ tự các mục ở các phần1 và 2, từ ngữ đầu câu cần
chỉnh sửa, có thể them dẫn dắt ở các ý ….để khác nhau.
1. Lý do chọn đề tài

2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu phương pháp đo tính các nhân tố điều tra lâm phần rừng gỗ
nhằm trang bị những kiến thức, kỹ năng, thái độ cần thiết trong lĩnh vực Điều tra
rừng để góp phần quản lý sử dụng rừng theo hướng bền vững. Từ đó sữ dụng
một cách hợp lý nguồn tài nguyên trong sự phát triển kinh tế- xã hội.
Cung cấp phương pháp luận trong tổ chức thực hiện điều tra, theo dõi
diễn biến tài nguyên rừng ở các cấp đối tượng, cấp quản lý tài nguyên rừng khác
nhau.


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đo tính các nhân tố điều tra trên một lâm phần rừng gỗ. Các nhân tố điều
tra cơ bản như tuổi, đường kính bình quân, chiều cao bình quân, tiết diện ngang,
trữ lượng, độ tàn che, độ che phủ…vv.
Phạm vi nghiên cứu trên một lâm phần rừng gỗ.
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu

5. Đóng góp chính


Phần 2
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
2.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
2.1.1 Trên thế giới
2.1.1.1 Nghiên cứu cấu trúc rừng
- Về hình thái của cấu trúc rừng mưa
Richards P.W (1952) đã phân biệt tổ thành thực vật rừng mưa thành hai
loại, đó là rừng mưa có tổ thành lồi cây rất phức tạp và rừng mưa đơn ưu có tổ
thành loài cây đơn giản, trong những trường hợp đặc biệt thì rừng mưa đơn ưu
chỉ bao gồm một vài lồi cây.
Richards P.W (1952), Catinot.R (1965), Plaudy J đã biểu diễn hình thái
cấu trúc rừng bằng những phẫu diện đồ ngang và đứng.
- Nghiên cứu định lượng cấu trúc rừng
+ Về phân bố số cây theo cỡ đường kính
Phân bố số cây theo cỡ đường kính là quy luật kết cấu cơ bản của lâm
phần và được nhiều tác giả quan tâm. Meyer (1934) đã mô tả phân bố N-D1.3
bằng phương trình tốn học có dạng đường cong giảm liên tục và được gọi là
hàm Meyer. Tiếp đó, nhiều tác giả dùng phương pháp giải tích để tìm phương
trình đường cong phân bố. Prodan . M và Patatscase (1964), Bill và Kem K.A
(1964) tiếp cận phân bố bằng phương trình logarit chính thái. Diatchenko Z.N sử

dụng phân bố Gamma biểu thị phân bố số cây theo đường kính lâm phần Thơng
ơn đới. Đặc biệt để tăng tính mềm dẻo một số tác giả dùng các hàm khác, như
Loetsch (1973) dùng hàm Beta để nắn các phân bố thực nghiệm. Tuỳ theo đối
tượng nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu mà các tác giả khác dùng hàm
Hyperbol, Poison, Charlier, hàm mũ…
+ Về phân bố số cây theo chiều cao
Phần lớn các tác giả khi nghiên cứu cấu trúc lâm phần theo chiều thẳng
đứng đã dựa vào phân bố số cây theo chiều cao. Phương pháp kinh điển nghiên
cứu cấu trúc rừng tự nhiên là vẽ các phẫu diện đồ đứng với các kích thước khác
nhau. Các phẫu đồ đã mang lại hình ảnh khái quát về cấu trúc tầng tán, phân bố
số cây theo chiều thẳng đứng, từ đó rút ra các nhận xét và đề xuất ứng dụng thực tế.


2.1.1.2 Nghiên cứu tái sinh rừng
Tái sinh rừng theo nghĩa rộng là sự tái sinh của một hệ sinh thái; theo
nghĩa hẹp là quá trình phục hồi lại thành phần cơ bản của rừng, chủ yếu là tầng
cây gỗ.
P.W Richard tổng kết quá trình nghiên cứu tái sinh cho thấy, cây tái sinh
có dạng phân bố cụm, một số có dạng phân bố Poisson. Đánh giá tái sinh tự
nhiên trong rừng nhiệt đới M.Loeschau (1977) đã đưa ra một số đề nghị áp dụng
phương pháp điều tra ngẫu nhiên, trừ trường hợp đặc biệt có thể dựa vào những
nhận xét tổng quát về mật độ tái sinh như nơi có lượng cây tái sinh rất lớn. Từ
những tính tốn về sai số cũng như về mặt tổ chức thực hiện thì các ơ được chọn
là những ơ hình vng có diện tích là 25m2 dễ dàng xác lập bằng gậy tre. Các ơ
đo đếm được xác lập theo từng nhóm, mỗi nhóm gồm 4 ơ bố trí liên
tiếp theo kiểu phân bố hệ thống không đồng đều.
2.1.2 Ở Việt Nam
2.1.2.1 Nghiên cứu cấu trúc rừng
Nghiên cứu phân bố số cây theo chiều cao N/H các tác giả Bảo Huy
(1993), Đào Công Khanh (1996), Lê sáu (1996), Trần Cẩm Tú (1996) đều đi đến

nhận xét chung là: Phân bố N/H có dạng một đỉnh, nhiều đỉnh phụ hình răng cưa
và mơ tả thích hợp bằng hàm Weibull.
Thái Văn Trừng (1978) khi nghiên cứu kiểu rừng kín thường xanh mưa
ẩm nhiệt đới nước ta, đã đưa ra mơ hình cấu trúc tầng: tầng vượt tán, tầng ưu thế
sinh thái, tầng dưới tán, tầng cây bụi và tầng cỏ quyết.
2.1.2.2 Nghiên cứu tái sinh rừng
Năm 1962 - 1967 Viện điều tra quy hoach rừng đã điều tra tái sinh tự
nhiên trên cơ sở ÔTC diện tích 2000 m2, diện tích đo đếm tái sinh 100 - 125 m 2
kết hợp điều tra theo tuyến. Thái Văn Trừng (1978) cho rằng : ánh sáng là nhân
tố sinh thái khống chế và điều khiển quá trình tái sinh tự nhiên ở cả rừng nguyên
sinh và rừng thứ sinh.
Vũ Tiến Hinh (1991) nghiên cứu đặc điểm tái sinh rừng tự nhiên ở Hữu
Lũng - Lạng Sơn và vùng Ba Chẽ - Quảng Ninh đã nhận xét: Hệ số tổ thành tính
theo phần trăm số cây của tầng tái sinh và tầng cây cao có quan hệ chặt chẽ với


nhau. Đa phần các lồi có hệ số tổ thành tầng cây cao chiếm tỷ trọng lớn thì hệ
số tổ thành tầng tái sinh cũng lớn.
Đinh Quang Diệp (1993) nghiên cứu quá trình tái sinh tự nhiên dưới tán
rừng Khộp tại Easoup - Đăk Lăk đã kết luận: độ tàn che của rừng, thảm mục, độ
dày đặc của thảm tươi, điều kiện lập địa, lửa rừng là những nhân tố có ảnh
hưởng sâu sắc đến số lượng và chất lượng cây con tái sinh dưới tán rừng. Về
quy luật phân bố cây trên mặt đất, tác giả nhận định, khi tăng diện tích lên thì
lớp cây tái sinh có phân bố theo cụm.
Trần Xuân Thiệp (1996) cho thấy: ở vựng Tây Bắc, dự vùng thấp hay
vùng cao tái sinh tự nhiên khá tốt. Diễn thế ở nhiều vùng xuất hiện những cây ưa
sáng chịu hạn hoặc rụng lá. Vùng trung tâm tác giả cho biết sự nghèo kiệt nhanh
chóng của rừng đưa đến số lượng và chất lượng tái sinh tự nhiên thấp. Vùng
Đông Bắc khả năng tái sinh tự nhiên tốt.
2.2. Điều tra đo tính các nhân tố điều tra lâm phần rừng gỗ

Đo tính các nhân tố trong lâm phần cần tiến hành lập ô tiêu chuẩn. Trong
mỗi trạng thái rừng, tiến hành lập ô tiêu chuẩn, tùy vào mục đích của cơng tác
điều tra mà các ơ tiêu chuẩn được bố trí theo phương pháp mạng lưới ơ vng
hay lập ơ tiêu chuẩn điển hình. Diện tích ô tiêu chuẩn đối với rừng tự nhiên
thường biến động từ 1000 – 2000m2, đối với rừng trồng thường từ 500 –
1000m2.
Một cạnh của ô được lập song song với đường đồng mức và một cạnh
vng góc với đường đồng mức. Xác định góc vng và khép kín ơ tiêu chuẩn
theo định lý Pitago với cạnh góc vng 3x4x5 (m). Trong ô tiêu chuẩn mô tả các
chỉ tiêu như vị trí, độ dốc, hướng phơi, ... Đánh số tồn bộ cây trong ơ tiêu
chuẩn có đường kính ≥ 6 cm sau đó tiến hành điều tra các chỉ tiêu như: nguồn
gốc, mật độ, tổ thành, tuổi, đường kính ngang ngực (D1.3), đường kính tán(Dt),
chiều cao vút ngọn(Hvn), chiều cao dưới cành(Hdc), tình hình sinh trưởng.
2.2.1. Nguồn gốc lâm phần
Nguồn gốc lâm phần là chỉ tiêu phản ánh nguyên nhân phát sinh của lâm
phần. Các lâm phần có nguồn gốc khác nhau có những đặc trưng kết cấu, giá trị
kinh tế và mục đích kinh doanh khác nhau.


Điều tra phân loại: Lâm phần tự nhiên hay lâm phần nhân tạo, lâm phần
chồi hay lâm phần hạt. Mỗi lâm phần tự nhiên hay nhân tạo đều được hình thành
từ một trong các nguồn gốc: hạt, chồi và chồi hạt. Đa số các lâm phần tự nhiên
có nguồn gốc hạt, chồi hạt mà ít gặp những lâm phần có nguồn gốc hoàn toàn
chồi.
2.2.2. Mật độ lâm phần
Mật độ lâm phần được biểu thị bằng số cây trên ha, là một trong những
chỉ tiêu phản ánh mức độ đậm đặc của lâm phần. Để xác định mật độ, điều tra
rừng thường sử dụng các biện pháp sau:
- Xác định trực tiếp trên ô mẫu: Đếm số cây trong ô (Nô), tính số cây trên
ha N/ha = Nơ x104/Sơ (Sơ: diện tích ơ tiêu chuẩn).

- Ước lượng gián tiếp thơng qua khoảng cách giữa các cây hoặc giữa các
điểm với các cây trong lâm phần: N/ha = 104/dtb2
Xác định mật độ trực tiếp trên các ô điều tra là phương pháp chính xác
nhất. Tính thơng dụng của phương pháp này cịn do khi điều tra lâm phần,
không chỉ xác định mật độ, mà còn xác định hàng loạt các nhân tố khác nữa,
đồng thời thơng qua mật độ, mới có cơ sở tính tốn một số chỉ tiêu cần thiết.
Phương pháp xác định mật độ thông qua khoảng cách giữa các cây hoặc
giữa các điểm ít được vận dụng trong điều tra lâm phần, mà thường được vận
dụng trong thống kê tài nguyên rừng.
2.2.3. Tổ thành
Tổ thành là nhân tố biểu thị tỷ trọng của lồi cây hay nhóm lồi cây nào
đó chiếm trong lâm phần. Tùy theo số lượng lồi cây có mặt trong lâm phần mà
phân chia thành lâm phần thuần loại hay lâm phần hỗn giao. Lâm phần thuần
loại thường chỉ có một lồi cây duy nhất hoặc chiếm tỷ lệ từ 90% trở lên, cịn
lâm phần có từ hai loài cây trở lên được gọi là lâm phần hỗn giao.
Để biểu thị tổ thành rừng người ta dùng công thức tổ thành. Công thức
biểu thị hệ số tổ thành của các loài cây trong lâm phần được gọi là cơng thức tổ
thành. Nó bao gồm chữ cái viết tắt của tên loài và hệ số phần mười trữ lượng
hay tổng diện ngang của chúng.
Xác định hệ số tổ thành của từng lồi theo cơng thức.


Trong đó:

Ki là hệ số tổ thành của lồi i
Xi là số lượng cá thể của loài i
N là tổng số lượng của các lồi.

Với cách tính này có ưu điểm là đơn giản, dễ xác định, tuy nhiên có nhược
điểm là khơng nói lên được vai trị của lồi cây trong lâm phần (về trữ lượng).

Do vậy, có thể sử dụng hệ số tổ thành theo tiết diện ngang và đây là cách
biểu thị thông dụng trong điều tra rừng.
G% = Gj/G x100
Trong đó:
Gj% là hệ số tổ thành theo tiết diện
Gj là tổng tiết diện ngang của loài hay nhóm lồi j trong lâm phần. G là
tổng tiết diện ngang toàn lâm phần.
Ưu điểm của phương pháp này là đơn giản, dễ xác định, độ chính xác cao.
2.2.4. Tuổi lâm phần
Tuổi là nhân tố chỉ thời gian, phản ánh giai đoạn sinh trưởng phát triển
của lâm phần. Căn cứ vào mức độ chênh lệch về tuổi của các bộ phận cây trong
lâm phần, mà phân chia thành lâm phần đều tuổi và khác tuổi. Những lâm phần
mà các cây trong đó chênh lệch khơng q một cấp được coi là lâm phần đều
tuổi và ngược lại gọi là lâm phần khác tuổi. Đối với các lâm phần khác tuổi, mỗi
bộ phận cây rừng có cùng cấp tuổi được coi là đơn vị thống kê các nhân tố điều
tra.
Ở nước ta, tạm thời quy định, với rừng gỗ nhỏ mọc nhanh 3 đến 5 năm
một cấp tuổi, gỗ lớn mọc nhanh 10 năm một cấp tuổi và gỗ lớn mọc chậm mỗi
cấp tuổi hơn kém nhau 20 năm.
Việc thống kê và phân chia cấp tuổi thường áp dụng cho những lâm phần
nhân tạo. Với các lâm phần có nguồn gốc tự nhiên ở nước ta thường bao gồm rất
nhiều loại, mỗi lồi lại gồm nhiều cá thể có giai đoạn phát triển khác nhau, hơn


nữa do nắm vững quy luật biến đổi vòng năm của chúng, nên việc xác định tuổi
cho đối tượng này khơng phải đơn giản. Từ thực tế đó, chúng ta thống kê các
lâm phần tự nhiên theo độ thành thục. Độ thành thục của lâm phần được căn cứ
vào phần trăn trữ lượng của những cây có đường kính lớn hơn đường kính khai
thác.
Với những lâm phần nhân tạo, khi điều tra tuổi thường căn cứ vào năm

trồng, cùng lắm mới chặt ngã cây xác định tuổi trên cơ sở đếm số vịng năm ở
thớt gốc. Khơng cần thiết phải tính tuổi bình qn cho các lâm phần khác tuổi,
vì những lâm phần này các nhân tố điều tra đều được thống kê theo cấp tuổi.
2.2.5. Đường kính ngang ngực
Điều tra rừng thống nhất trên phạm vị quốc tế lấy vị trí ở độ cao 1,3m kể
từ mặt đất làm vị trí đo đường kính cây đứng. Tại vị trí này, thao tác thuận lợi và
hình dạng tiết diện ngang đã tương đối ổn định. Độ cao 1,3m tương ứng với tầm
cao ngang ngực. Vì vậy, độ cao này cịn được gọi là độ cao ngang ngực và
đường kính tương ứng được gọi là đường kính ngang ngực, đồng thời được ký
hiệu là d1,3 (đôi khi viết tắ là d).
2.2.5.1. Xác định phân bố số cây theo đường kính
Phân bố số cây theo đường kính là cơ sở xác định trữ lượng, đặc biệt là
trữ lượng sản phẩm. Từ phân bố số cây theo đường kính lâm phần, việc xác định
trữ lượng lâm phần thơng qua biểu thể tích đơn giản rất nhiều so với tính tốn
từng cây, đồng thời tiện cho việc xác định tổng diện ngang cũng như các giá trị
đường kính bình qn lâm phần.
Những lâm phần tự nhiên kích thước thân cây và phạm vi biến động
đường kính thường lớn, nên các biểu thể tích thường được lập theo các cỡ kích
4cm, cịn có những lâm phần nhân tạo, cự ly này thường là 2cm. Tuy nhiên, cỡ
kính phân chia càng nhỏ thì thống kê các nhân tố điều tra lâm phần càng chính
xác. Mặc dù vậy, qua nhiều nghiên cứu cho thấy, không cần thiết phải chia cỡ
kính với cự ly quá nhỏ. Với những lâm phần mà đường kính bình qn lớn hơn
20cm, nên lấy cự ky giữa các cỡ kính là 4cm, dưới mức đó thì lấy bằng 2cm.
Khi phân chia cỡ kính, sai số về đường kính ở mỗi cỡ lớn nhất bằng ± K/2
(K là cự ly cỡ), từ đó dẫn đến sai số về thể tích. Tuy nhiên, sai số này sẽ được
loại trừ, khi số cây trong mỗi cỡ đủ lớn.


Để đơn giản cho việc ghi chép và tính tốn, khi điều tra nên đọc ln cỡ
kính, mà khơng cần thiết phải đọc giá trị cụ thể.

2.2.5.2. Đường kính bình qn lâm phần
Đường kính bình qn lâm phần là chỉ tiêu biểu thị mức độ to, nhỏ khác
nhau của các cây rừng trong lâm phần. Để đo đường kính cây rừng có thể dùng
thước dây hoặc thước kẹp kính có độ chính xác đến 1mm, đo tại vị trí 1,3m theo
hai chiều vng góc rồi tính giá trị bình qn. Khi điều tra lâm phần, người ta
thường xác định một số giá trị đường kính bình qn khác nhau và mỗi giá trị
này có ý nghĩa lý luận và thực tiễn riêng của nó.
- Đường kính bình qn cộng: d
Giả sử d1, d2,….dk là giá trị giữa các cỡ kính và n1, n2,…nn là số cây tương
ứng, đường kính bình quân cộng được xác định theo công thức sau:
d

n1.d1  n2 .d 2  ...  nk .d k 1 n
 . ni .di
n1  n2  ...  nk
N i 1

- Đường kính bình qn qn phương: dg
Từ phân bố đường kính lâm phần, đường kính bình qn qn phương
được xác định như sau:
dg 

1 n
. ni .di2
N i 1

`
Nếu bình phương dg và nhân với л/4 sẽ được tiết diện ngang bình qn
lâm phần. Vì vậy, dg cịn được gọi là đường kính bình qn theo tiết diện hay
đường kính cây có tiết diện bình qn. Cây có đường kính như vậy được gọi là

cây bình qn về tiết diện.
Nếu gọi g là tiết diện bình quân, thì từ quan hệ:
 2
.d g g
4

Suy ra:
(2.3)

dg 

4
.g 1,1286. g



Trong hai giá trị đường kính bình qn trên thì đường kính bình qn
cộng khơng có ý nghĩa trong việc xác định tổng tiết diện ngang lâm phần, vì nó
khơng đại diện cho cây bình quân về tiết diện ngang hay thể tích lâm phần.
2.2.6. Chiều cao lâm phần
2.2.6.1. Xác định phân bố số cây theo chiều cao
Phân bố số cây theo chiều cao cũng là cơ sở xác định trữ lượng. Từ phân
bố số cây theo chiều cao lâm phần, việc xác định trữ lượng lâm phần thông qua
biểu thể tích đơn giản rất nhiều so với tính tốn từng cây,
Những lâm phần tự nhiên kích thước thân cây và phạm vi biến động chiều
cao thường lớn, nên các biểu thể tích thường được lập theo các cỡ 1m, cịn có
những lâm phần nhân tạo, cự ly này thường là 0,5m. Tuy nhiên, cỡ chiều cao
phân chia càng nhỏ thì thống kê các nhân tố điều tra lâm phần càng chính xác.
Mặc dù vậy, qua nhiều nghiên cứu cho thấy, không cần thiết phải chia cỡ với cự
ly quá nhỏ.

2.2.6.2. Chiều cao bình quân lâm phần
Chiều cao bình quân là chỉ tiêu biểu thị mức độ cao thấp khác nhau của
các cây rừng trong lâm phần. Trong điều tra rừng, chiều cao bình quân là một
trong những nhân tố cấu thành trữ lượng lâm phần, vì vậy nó cũng là một trong
các nhân tố điều tra chủ yếu.
Tùy theo cách tính và ý nghĩa sử dụng có các loại chiều cao khác nhau.
- Chiều cao bình quân cộng: h
Khi các giá trị chiều cao từng cây được chỉnh lý theo cỡ kính, chiều cao
bình qn cộng được tính theo cơng thức:
h

1 n
. ni .hi
N i 1

Trong đó, ni và hi lần lượt là số cây và trị số giữa cỡ chiều cao thứ i.
- Chiều cao cây có tiết diện bình qn: hg
Chiều cao cây có tiết diện bình quân được xác định từ đường cong chiều
cao thông qua dg hoặc có thể xác định từ chiều cao của những cây thuộc cỡ kính
có chứa dg.
2.2.7. Độ đầy lâm phần


Chỉ tiêu biểu thị mức độ lợi dụng không gian dinh dưỡng của các cây
rừng trong lâm phần được gọi là độ đầy. Với từng loài cây, ở từng cấp tuổi trong
phạm vi nhất định, thường chọn những lâm phần hoàn hảo nhất và lấy tổng tiết
diện ngang của chúng làm tiêu chuẩn để xác định độ đầy cho các lâm phần
khác.
Như vậy, độ đầy là tỷ số giữa tổng tiết diện ngang của lâm phần điều tra
với tổng tiết diện ngang của lâm phần chuẩn có điều kiện hồn cảnh giống nhau.

Độ đầy là chỉ tiêu tương đối và được biểu thị bằng cơng thức:
P = G/G0
Trong đó, G là tiết diện của lâm phần điều tra, G0 là tiết diện của lâm phần
trong điều kiện tương tự, nhưng mức độ lợi dụng khơng gian dinh dưỡng của nó
cao nhất. Những lâm phần như vậy gọi là lâm phần chuẩn. Có một số biểu lập
sẵn để tra G0 như biểu quá trình sinh trưởng hoặc biểu lập riêng gọi là biểu độ
đầy hay biểu tiêu chuẩn. Cũng vì thế mà G0 còn được gọi là Gbiểu. Với rừng tự
nhiên, biểu tra G0 được lập theo chiều cao bình quân, như biểu tiêu chuẩn Sông
Hiếu.
2.2.8. Trữ lượng lâm phần
2.2.8.1. Khái niệm
Trữ lượng lâm phần là tổng thể tích các cây trong lâm phần trên một đơn
vị diện tích. Trong điều tra rừng quy ước đo tính các cây có đường kính từ 6 cm
trở lên và thường tính theo đơn vị m3/ha.
Trữ lượng là chỉ tiêu phản ánh rõ nét nhất sức sản xuất của lâm phần trên
một điều kiện lập địa. Trữ lượng càng lớn thì sức sản xuất của lâm phần càng
cao. Trữ lượng là thước đo hiệu quả của các biện pháp kỹ thuật lâm sinh. Trong
kinh doanh rừng, trữ lượng là chỉ tiêu cơ bản để tính tốn lượng khai thác hàng
năm, là căn cứ để tổ chức sản xuất theo luân kỳ. Vì thế, nghiên cứu phương
pháp xác định trữ lượng là một trong những nhiệm vụ cơ bản của điều tra rừng.
2.2.8.2. Các phương pháp xác định trữ lượng lâm phần
a. Phương pháp cây tiêu chuẩn
Căn cứ vào thể tích của cây tiêu chuẩn để tính tốn trữ lượng của lâm
phần gọi là phương pháp xác định trữ lượng bằng cây tiêu chuẩn.


Cây có d, h, f1.3, v bằng hoặc gần bằng với D , H , F1.3 , V của lâm phần
được gọi là cây tiêu chuẩn hay cây bình quân (về thể tích).
Trình tự nội dung của phương pháp như sau:
- Thành lập ơ tiêu chuẩn điển hình, đo đếm tính tốn các nhân tố D , H ,

F1.3

của ơ tiêu chuẩn. Lựa chọn cây tiêu chuẩn, chặt ngả và tính thể

tính của cây tiêu chuẩn.
- Tính tốn trữ lượng lâm phần theo cơng thức:
Mơ = N. V
Trong đó:

N là tổng số cây của ơ tiêu chuẩn
V là thể tích bình quân của cây tiêu chuẩn.

b. Phương pháp dùng biểu thể tích
* Khái niệm biểu thể tích:
Dùng cây tiêu chuẩn xác định trữ lượng lâm phần có nhược điểm là tốn
kém và phá hoại đối tượng, vì vậy phạm vi ứng dụng rất hạn chế. Để khắc phục
nhược điểm này, người ta thường sử dụng các bảng biểu để tra thể tích từng cây
đại diện cho những bộ phận cây rừng có cùng một đặc điểm nào đó như cùng d,
cùng d và h, cùng d, h và hình dạng. Những biểu này được gọi là biểu thể tích.
Như vậy, biểu thể tích là biểu ghi thể tích bình qn của những cây rừng có
cùng kích thước và hình dạng được sắp xếp theo một trình tự nhất định. Tuy
nhiên khi lập biểu thể tích thường phải nghiên cứu các quy luật tương quan giữa
thể tích với các nhân tố cấu thành thể tích, do đó có thể coi biểu thể tích là biểu
ghi bằng số liệu các quy luật tương quan giữa thể tích với các nhân tố cấu thành
thể tích như d, h và hình dạng.
* Phân loại biểu thể tích
Biểu thể tích được phân loại trên cơ sở phạm vi ứng dụng biểu và các
nhân tố cấu thành biểu.
Căn cứ vào phạm vi sử dụng, có biểu địa phương và biểu chung. Biểu địa
phương là loại biểu lập cho một lồi nào đó, được sử dụng trong phạm vi nhất

định. Phạm vi sử dụng biểu rộng hay hẹp tùy thuộc vào mức độ thuần nhất về
hình dạng thân cây giữa các vùng trong phạm vi từng loài hoặc giữa các lồi với
nhau. Khi một lồi hay nhóm lồi cây nào đó có hình dạng thuần nhất và không


thay đổi từ địa phương này đến địa phương khác trong tồn quốc, sẽ có biểu thể
tích chung. Như vậy, việc lập biểu thể tích chung hay riêng tùy thuộc vào mức
độ thuần nhất về hình dạng của những lồi cây lập biểu rộng hay hẹp.
Căn cứ vào các nhân tố lập biểu có biểu thể tích một nhân tố, biểu thể tích
hai nhân tố và biểu thể tích ba nhân tố.
Biểu thể tích một nhân tố là biểu được thiết lập trên cơ sở mối quan hệ
giữa thể tích và đường kính. Trong biểu ghi thể tích bình qn một cây ứng với
từng cỡ kính. Loại biểu này sử dụng đơn giản, độ chính xác thấp. Biểu thể tích
một nhân tố chỉ chính xác khi giữa các lâm phần, tương ứng với từng cỡ đường
kính chiều cao tương đối ổn định. Thế nhưng, trên thực tế, giữa các lâm phần
khác nhau đường cong chiều cao lại không đồng nhất, thậm chí trong một lâm
phần đường cong chiều cao cũng thay đổi tùy theo tuổi. Vì vậy, để tăng độ chính
xác của biểu một nhân tố, người ta đã lập biểu thể tích cấp chiều cao. Thực chất,
đó là biểu một nhân tố theo từng cấp chiều cao.
Biểu thể tích hai nhân tố là biểu được thiết lập trên cơ sở mối quan hệ
giữa thể tích với hai nhân tố đường kính và chiều cao, độ chính xác cao hơn biểu
thể tích một nhân tố.
* Một số loại biểu đang được sử dụng hiện nay ở Việt Nam:
- Biểu thể tích cấp chiều cao:
Bảng biểu thể tích cấp chiều cao
CẤP CHIỀU CAO

Cấp
đường
kính


H

(cm)

(m)

I



Thể tích (m3)
Cả vỏ

Khơng
vỏ

VI
H
(m)

Thể tích (m3)
Cả vỏ

Khơng
vỏ

Khi sử dụng biểu thể tích cấp chiều cao xác định trữ lượng lâm phần , cần
tiến hành các bước công việc như sau:
+ Đo d1.3 toàn bộ các cây trong lâm phần hoặc trong ơ tiêu chuẩn rồi chỉnh

lý theo cỡ kính.
+ Đo chiều cao khoảng 30 cây và xác lập quan hệ H-D.


+ Tính dg và hg.
+ Từ dg và hg xác định cấp chiều cao và chọn phần biểu thích hợp để sử
dụng.
+ Tương ứng từng cỡ kính tra biểu thể tích được thể tích bình qn một
cây.
+ Tính thể tích của từng cỡ kính: ni.vi
+ Thể tích của lâm phần hay ô tiêu chuẩn:

M0TC =

 n .v
i

i

(m3)

104
.M 0TC (m3/ha).
+ Trữ lượng trên ha là : M/ha =


- Biểu thể tích hai nhân tố:
Bảng biểu thể tích hai nhân tố
Cỡ h


12

14

16

18

20

….

Cỡ d
16

0,128

20

0,213

24
……
Sử dụng biểu thể tích hai nhân tố để xác định trữ lượng lâm phần cần tiến
hành các bước công việc như sau:
+ Đo d1.3 của toàn bộ các cây trong lâm phần hoặc trong ô tiêu chuẩn.
+ Đo chiều cao khoảng 30 cây.
+ Chỉnh lý số liệu theo cỡ kính.
+ Xác định tương quan H-D hoặc đường cong chiều cao.
+ Xác định chiều cao từng cỡ kính từ tương quan H-D hoặc đường cong h

+ Từ d, h tra biểu được thể tích cây bình qn từng cỡ kính.
c. Xác định nhanh trữ lượng lâm phần
Trong trường hợp cần xác định nhanh trữ lượng rừng với độ chính xác
thấp người ta có thể ước đốn trữ lượng rừng.
Có rất nhiều cách ước đoán trữ lượng rừng khác nhau, song phương pháp
phổ biến nhất là ước đoán các nhân tố thành phần của cơng thức tính trữ lượng
rừng.


M/ha = G / ha.H . f1.3
Dựa trên công thức tiến hành như sau:
- H : Ước đoán chiều cao cây cao nhất rồi dùng công thức kinh nghiệm H
=0,8.Hmax.
- f1.3: Mục trắc dựa vào biểu hình số (mục trắc D1.3 để tra biểu).
- G / ha : Có thể đo nhanh bằng thước Bitterlich (có thể dùng cánh tay thay
cho thước) hoặc phương pháp ô mẫu 6 cây.
* Phương pháp thước Bititerlich:
Tổng diện ngang lâm phần được đo nhanh trên cơ sở thước Bitterlich.
Phương pháp này có ưu điểm là nhanh chóng xác định G / ha mà khơng cần đo
đường kính từng cây, cũng như khơng phải bố trí ơ tiêu chuẩn như các phương
pháp thơng thường. Để đo G / ha theo phương pháp Bitterlich cần sử dụng một
dụng cụ đặc biệt gọi là thước Bitterlich.
Thước có cấu tạo đơn giản, gồm một thân thước thẳng bằng gỗ hoặc hợp
kim nhẹ có chiều dài L. Một đầu thân thước có gắn một khe ngắm bằng kim loại
gọi là cửa sổ có bề rộng là b.
Từ một điểm xác định, đưa thước ngang tầm mắt, mắt đặt vào đầu ngắm,
thông qua cửa sổ ngắm tất cả các cây xung quanh tạo thành một vịng trịn khép
kín (ngắm tại vị trí 1,3m) mà vị trí đứng là tâm vịng trịn.
Khi đo có 3 trường hợp xảy ra:
+ Trường hợp 1: Nhìn thấy một phần thân cây qua cửa sổ, gọi là cây cắt.

+ Trường hợp 2: Nhìn thấy thân cây vừa tiếp tuyến với góc nhìn, gọi là cây tiếp
tuyến.
+ Trường hợp 3: Nhìn thấy thân cây lọt trong cửa sổ, gọi là cây lọt.
Sau khi quay hết một vịng từ cây đầu đến cây cuối ta tính được G / ha của
lâm phần như sau:
G / ha = K.N

Trong đó:

K: hệ số của thước và phụ thuộc vào đối tượng điều tra.
N: số cây hợp tiêu chuẩn quy ra cây cắt.


Nguyên lý đo của thước Bitterlich được chứng minh nhau:
Giả sử một cây có đường kính d, cắt hai tia ngắm của thước, thì tiết diện
ngang của nó bằng π d2/4. Tiết diện này tương ứng với ô mẫu lý thuyết (ơ dạng
bản hay ơ ảo) có diện tích là πR2 (bất kỳ cây cắt hai tia ngắm ở vị trí nào, thì bán
kính ơ mẫu (R) tương ứng sẽ bằng khoảng cách từ điểm ngắm đến tâm của cây
tại vị trí d1.3 tiếp tuyến với hai tia ngắm, và do đó khi chứng minh nguyên lý cây
cắt được đưa tới vị trí tiếp tuyến.
Tiết diện ngang của một cây cắt tương ứng trên 1 m2 của ô mẫu sẽ là:
 2
2
.d
G
1 d
4


.

 
m2  R 2 4  R 

(m2)

Theo ngun lý hình học ta có:
b d

L R

L
b



R= .d

Thay vào cơng thức và qua biến đổi sẽ có:
G 1 b
 . 
m2 4  L 

2

(m2)

Từ đó, tổng tiết diện ngang của một cây cắt trên ha sẽ bằng:
2

G 104  b 

b

.   = 2500.  
2
m
4  L
 L

2

(m2)

Nếu tại mỗi điểm quay có N cây cắt 2 tia ngắm thì:
2

G
b
2500.   .N
ha
 L

(m2)

Như vậy, G/ha tỷ lệ với số cây có d1.3 cắt hai tia ngắm của thước và có hệ
số tỷ lệ K bằng 2500(b/L)2. Hệ số K chỉ phụ thuộc vào tỷ số giữa bề rộng khe
ngắm và chiều dài của thước (hay góc ngắm α = b/L). Tỷ số này càng lớn thì hệ
số K càng lớn.
Hệ số K phụ thuộc vào b và L. Tuy nhiên, có thể cố định một trong hai
nhân tố này, vẫn có thể đạt được giá trị của K mong muốn, tức là có thể thay đổi
b và cố định L hoặc ngược lại. Thực tế điều tra rừng cho thấy, việc thay đổi L

phức tạp hơn nhiều so với thay đổi b. Vì vậy, thông thường L được cố định
trước và thay đổi bề rộng khe ngắm sao cho phù hợp với đối tượng điều tra.


Hiện nay, điều tra rừng thường sử dụng thước có hai chiều dài khác nhau, đó là
loại thước 1m và loại thước 0,5m. Còn bề rộng khe ngắm sẽ được điều chỉnh với
từng lâm phần điều tra cụ thể.
Ở những lâm phần non (đường kính cây nhỏ), nếu dùng thước có bề rộng
khe ngắm lớn, thì bán kính vịng trịn dạng bản R sẽ nhỏ, dễ bỏ qua những cây
cần phải thống kê. Ngược lại, với những lâm phần đường kính cây tương đối
lớn, nếu dùng thước có bề rộng khe ngắm nhỏ, tức là R lớn, sẽ khó phân biệt
được chính xác những cây ở xa cắt hay tiếp tuyến hoặc lọt qua khe ngắm. Vì thế,
với đối tượng này nên dùng thước có b lớn. Những lâm phần có nhiều dây leo,
bụi rậm hạn chế tầm nhìn xa, khi điều tra cũng nên dùng thước có bề rộng khe
ngắm lớn để giảm bớt bán kính vịng trịn ơ mẫu.
Qua kinh nghiệm điều tra ở nước ta cho thấy, hệ số K nên điều chỉnh theo
các đối tượng điều tra như dưới đây là hợp lý:
Đối tượng điều tra

đường kính

K

Lâm phần non

Nhỏ

0,5

Lâm phần trung niên


Vừa

1,0

Lâm phần thành thục

Lớn

2,0

Tương ứng với các giá trị khác nhau của hệ số K, bề rộng khe ngắm được
tính cho các loại thước có chiều dài khác nhau như sau:
K

0,5

1,0

2,0

b (L=0,5m)

0,71cm

1cm

1,41cm

b (L=1m)


1,42cm

2cm

2,82cm

Tại mỗi vị trí cố định, dùng thước ngắm ở độ cao 1,3m những cây trong
lâm phần một góc 3600, được gọi là mỗi điểm quay hay điểm đo Bitterlich. Tại
mỗi điểm quay, cần thống kê số lượng cây cắt và cây tiếp tuyến (cứ hai cây tiếp
tuyến quy thành một cây cắt, vì những cây này gần như ½ tiết diện nằm ngồi
vịng trịn dạng bản), sau đó dựa vào hệ số K thông qua bề rộng khe ngắm (L
cho trước) để tính G/ha cho điểm quay đó. Nếu trên đất dốc, cần tính kết quả đo
thơng qua độ dốc θ theo công thức:
G / ha = K.N.Secθ


Secθ: Hệ số điều chỉnh khi đo ở đất dốc. Để dễ dàng cho việc tính tốn trị
số Secθ người ta lập biểu tra trị số điều chỉnh theo độ dốc.
Khi cần tính tổng tiết diện ngang theo lồi cây, thì phải xác định tên lồi
cho các cây cắt và cây tiếp tuyến.
Thước Bitterlich xác định G / ha là phương pháp đơn giản và khoa học.
Tuy nhiên, nó có nhược điểm là sai số thường lớn và thường mang dấu âm, do
bỏ sót những cây che khuất. Vì vậy, chỉ nên sử dụng khi điều tra nhanh.
* Phương pháp ô mẫu 6 cây:
Phương pháp ô mẫu 6 cây là trường hợp riêng của phương pháp ơ m cây.
Diện tích và bán kính của ơ phụ thuộc vào khoảng cách từ tâm ô đến tâm cây
thứ m (m là số cây định trước và bằng 1,2,3…, thứ tự của mỗi cây được đánh số
từ gần đến xa).
Để ước lượng tổng diện ngang trên ha cần thu thập các số liệu sau:

- Khoảng cách từ tâm điểm đến cây thứ 6 (bán kính vịng trịn quay).
- Đường kính ngang ngực của tất cả các cây trong vòng tròn quay.
Tổng diện ngang của các cây trong vịng trịn quay là:

1
G ơ  .(d12  d 22  d32  d 42  d52  d 62 )
4
2

Trong đó:

R6: bán kính vịng trịn quay.

d1, d2, d3, d4, d5, d6: đường kính của các cây lần
lượt từ cây gần tâm nhất đến cây thứ 6.
Tổng diện ngang của các cây ứng với diện tích 1m2 là:
G
G /1m 2  ô 2
R

Hay:

 2
1
(d1  d 22  d 32  d 42  d52  d 62 )
2
G /1m 2  4
2
 .R
G /1m 2 


1
1
.( d12  d 22  d 32  d 42  d52  d 62 )
2
4.R
2

Tổng tiết diện ngang trên ha là:


G / ha 

2500 2
1
.( d1  d 22  d32  d 42  d52  d62 )
2
R
2

Phương pháp này thường áp dụng cho các đối tượng rừng có mật độ cây
phân bố tương đối đều đặn, nhất là rừng trồng sẽ đạt độ tin cậy.
2.2.9. Đo tính đường kính tán và xác định tình hinh sinh trưởng của
cây
- Đo đường kính tán (Dt) thơng qua hình chiếu của nó bằng thước sào theo
hai chiều vng góc rồi lấy giá trị bình qn, thước có độ chính xác đến 0,1m.
- Tình hình sinh trưởng của cây được đánh giá theo 3 cấp chất lượng là A,
B, C. Trong đó: Cây chất lượng A là cây sinh trưởng và phát triển tốt, cành phát
triển đều, thân thẳng tròn, chiều cao dưới cành bằng hoặc lớn hơn nửa chiều cao
cây. Cây chất lượng B là cây sinh trưởng và phát triển trung bình, có chiều cao

dưới cành giống cây loại A nhưng bị cong, khuyết tật nhưng không ảnh hưởng
lớn đến tỷ lệ lợi dụng gỗ. Cây chất lượng C là cây sinh trưởng và phát triển kém,
có chiều cao dưới cành cong, khuyết tật, ảnh hưởng đến chất lượng gỗ dẫn tới tỉ
lệ lợi dụng gỗ thấp.
Kết quả điều tra về chiều cao, đường kính và chất lượng cây của tầng cây
cao ghi vào biểu sau:
Biểu điều tra tầng cây cao
Tiều khu:
Người điều tra:
Khoảnh:
Ngày điều tra:
Lơ:
Độ dốc:
Diện tích OTC:
Hướng phơi:
Loại hình rừng:
Loại đất:
TT
Lồi
D1.3
HVN HDC
Dt
Chất
Ghi
(m) (m)
lượng
chú
(cm)
(m)
Đt NB TB

Đt NB TB A B C
2.2.9. Điều tra độ tàn che, cây tái sinh và cây bụi thảm tươi
2.2.9.1 Điều tra độ tàn che
Tiến hành xác định độ tàn che bằng phương pháp ngẫu nhiên hệ thống,
điều tra mạng lưới điểm (30 điểm) sao cho các điểm điều tra bố trí đều trong các


ô tiêu chuẩn. Dùng một cây gậy nhỏ chiếu thẳng tán nếu gặp tán thì ghi số 1,
khơng nhìn thấy tán thì ghi số 0, lúc nhìn thấy, lúc khơng nhìn thấy mép tán lá
thì ghi 0,5. Kết quả điều tra ghi vào biểu sau:
Biểu điều tra độ tàn che
Tiều khu:
Khoảnh:
Lơ:
Diện tích OTC:
Loại hình rừng:

Người điều tra:
Ngày điều tra:
Độ dốc:
Hướng phơi:
Loại đất:

Điểm
Độ tàn che
2.2.9.2 Điều tra cây tái sinh và cây bụi thảm tươi
Trong mỗi OTC, bố trí 5 ơ dạng bản, với diện tích mỗi ơ là 25 m 2 (5x5m).
Các ơ dạng bản được bố trí như sau: 4 ơ ở bốn góc và 1 ơ ở giữa của OTC.
ODB


ODB
ODB
ODB

ODB
a. Điều tra cây tái sinh

- Đo chiều cao cây tái sinh bằng thước sào, độ chính xác đạt đến 0,1m.
- Chất lượng cây tái sinh được phân theo 3 cấp: Cây tốt (A) là những cây có
tán lá phát triển đều, trịn, xanh biếc, thân trịn thẳng, khơng bị khuyết tật, khơng
bị sâu bệnh. Cây trung bình (B) là những cây sinh trưởng kém hơn cây tốt, không
cong queo sâu bệnh, cụt ngọn, ít khuyết tật. Cây xấu (C) là những cây có tán lá
lệch, lá tập trung ở ngọn, sinh trưởng kém, khuyết tật nhiều, bị sâu bệnh.
- Xác định nguồn gốc cây tái sinh: Chồi, hạt.
Kết quả điều tra về loài cây, nguồn gốc, chiều cao và chất lượng cây tái sinh
ghi vào biểu sau:
Biểu điều tra cây tái sinh
Tiều khu:

Người điều tra:



×