Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

Các giải pháp nhằm tăng cường khả năng quản lý các dự án ODA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (370.38 KB, 81 trang )

LỜI GIỚI THIỆU
Lịch sử phát triển các nước trên thế giới đã chứng minh rất rõ:
Vốn đầu tư và hiệu quả vốn đầu tư là một trong những yếu tố quan
trọng nhất tác đọng đến sự phát triển nõi chung và tăng trưởng kinh
tế nói riêng của mỗi quốc gia. Vốn đầu tư bao gồm: vốn trong nước,
vốn thu hút từ nước ngoài chủ yếu dưới hình thức vốn ODA, đầu tư
trực tiếp, các khoản tín dụng nhập khẩu. Đối với những nước nghèo,
thu nhập thấp, khả năng tích luỹ vốn từ trong nước hạn chế thì nguồn
vốn nước ngoài có ý nghĩa quan trọng.
Ngoài tính chất ưu đãi của vốn ODA, một trong những đặc
điểm khác nhau giữa ba loạinguồn vốn trên là: ODA chỉ là sự chuyển
nhượng vốn mang tính chất trợ giúp từ các nước phát triển sang các
nước đang phát triển. Đặc điểm này cho thấy nguồn ODA là một
nhân tố quan trọng tạo nên các cơ hội phát triển cho các nước nghèo
và kém phát triển.
Tuy nhiên, ODA về thực chất cũng là một khoản nợ nước ngoài
mà các nước nhận tài trợ cần phải trả. Vì thế, việc quản lý và sử dụng
ODA sao cho có hiệu quả phù hợp với các mục tiêu và định hướng
phát triển của đất nước là một yêu cầu khách quan.
Chính vì vậy, trong thời gian thực tập tại Vụ Tổng Hợp - Bộ Kế
Hoạch và Đầu tư, em đã lựa chọn đề tài: "Các giải pháp nhằm tăng
cường khả năng quản lý các dự án ODA" với mục đích đóng góp
những hiểu biết của mình vào quá trình nghiên cứu và hoàn thiện
1
việc quản lý các dự án ODA. Tuy nhiên, do hiểu biết còn nhiều hạn
chế nên luận văn không thể tránh khỏi có những sai sót. Vì vậy, em
mong có được những nhận xét, đánh giá của các thầy, cô nhằm hoàn
thiện đề tài này.
2
CHƯƠNG I.
TỔNG QUAN VỀ QUY TRÌNH QUẢN LÝ SỬ DỤNG NGUỒN VỐN


HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN CHÍNH THỨC (ODA).
I. NGUỒN HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN CHÍNH THỨC (ODA).
1. Khái niệm.
Theo cách hiểu chung nhất: Vốn ODA hay còn gọi là vốn hỗ trợ phát
triển chính thức là các khoản viện trợ không hoàn lại hoặc vay vơí điều kiện
ưu đãi (vê lãi suất, thời gian ấn hạn và trẩ nợ) của Chính phủ của các nước
phát triển, các cơ quan chính thức thuộc tổ chức quốc tế, các tổ chức phi
chính phủ.
Ở Việt nam: Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) là một hình
thức hợp tác phát triển giữa Việt Nam và các tổ chức Chính phủ, các tổ chức
quốc tế (UNDP, ADB, WB, IMF...). Các tổ chức phi chính phủ (NGO
s
) gọi
chung là các đối tác viện trợ hay các nhà tài trợ nước ngoài. ODA được thực
hiện thông qua việc cung cấp từ phía các nhà tài trợ cho Chính phủ Việt Nam
các hoản viện trợ không hoàn lại, các khoản vay ưu đãi về lãi suất và thời hạn
thanh toán.
Trên thế giới, ODA đã được thực hiện từ nhiều thập kỷ gần đây, bắt
đầu từ kế hoạch MacSall của Mỹ cung cấp viện trợ cho Tây Âu sau chiến
tranh thế giới thứ 2. Tiếp đó là hội nghị Colombo năm 1955 hình thành những
ý tưởng và nguyên tắc đầu tiên về hợp tác phát triển. Sau khi thành lập, Tổ
chức Hợp tác kinh tế và phát triển (OECD) năm 1961 và Uỷ ban hỗ trợ phát
triển (DAC), các nhà tài trợ đã lập lại thành một cộng đồng nhằm phối hợp
với các hoạt động chung về hỗ trợ phát triển. Trong thời kỳ chiến tranh lạnh
và đối đầu Đông - Tây, thế giới tồn tại ba nguốn ODA chủ yếu:
- Liên Xô và Đông Âu.
- Các nước thuộc tổ chức Hợp tác kinh tế và phát triển.
- Các tổ chức quốc tế và phi Chính phủ.
3
Về thực chất, ODA là sự chuyên giao một phần GNP từ các nước phát

triển sang các nước đang phát triển. Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc kêu gọi các
nước phát triển dành 1% GDP để cung cấp ODA cho các nước đang phát triển
và chậm phát triển.
Quốc tế hoá đời sống kinh tế là một nhân tố quan trọng thúc đẩy sự
phân công lao động giữa các nước. Bản thân các nước phát triển nhìn thấy lợi
ích của mình trong việc hợp tác giúp đỡ các nước chậm phát triển để mở rộng
thị trường tiêu thu sản phẩm và thị trường đầu tư. Đi liền với sự quan tâm lợi
ích kinh tế đó, các nước phát triển nhất là đối với các nước lớn còn sử dụng
ODA như một công cụ chính trị để xác định vị trí và ảnh hưởng tại các nước
và khu vực tiếp cận ODA. Mặt khác, một số vấn đề quốc tế đang nổi lên như
AIDS/ HIV, các cuộc xung đột sắc tộc, tôn giáo,... đòi hỏi sự nỗ lực của cả
cộng đồng, quốc tế không phân biệt giàu nghèo.
Các nước đang phát triển đang thiếu vốn nghiêm trọng dễ phát triển
kinh tế xã hội. Vốn ODA là một trong các nguồn vốn ngoài nước có ý nghĩa
hết sức quan trọng. Tuy nhiên, ODA không thể thay thế được vốn trong nước
mà chỉ là chất xúc tác tạo điều kiện khai thác sử dụng các nguồn vốn đầu tư
trong và ngoài nước. ODA có hai mặt: Nếu sử dụng một cách phù hợp sẽ hỗ
trợ thật sự cho công cuộc phát triển kinh tế xã hội, nếu không đó sẽ là một
khoản nợ nước ngoài khó trả trong nhiều thế hệ. Hiệu quả sử dụng ODA phụ
thuộc vào nhiều yếu tố, mà một trong số đó là công tác quản lý và điều phối
nguồn vốn này. Nghị đinh 20/ CP khẳng định ODA cho Việt Nam là một
trong những nguồn quan trọng của ngân sách Nhà nước được sử dụng cho
những mục tiêu ưu tiên của công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế xã hội.
Tính chất ngân sách của ODA thể hiện ở chỗ nó được thông qua Chính phủ và
toàn dân được thụ hưởng lợi ích do các khoản ODA mang lại.
Việc cung ODA được thực hiện thông qua các kênh sau đây:
- Song phương:
+ Trực tiếp Chính phủ với Chính phủ.
4
+ Gián tiếp Chính phủ với Chính phủ thông qua các tổ chức phi chính

phủ hoặc tổ chức quốc tế.

- Đa phương:
Các tổ chức quốc tế cung cấp ODA trực tiếp cho Việt Nam.
- Các tổ chức phi chính phủ cung cấp ODA trực tiếp cho Việt Nam.
2. Các loại hình ODA.
2.1. Xét theo mục đích ODA gồm các hình thức chủ yếu sau:
- Hỗ trợ cán cân thanh toán:
Thương là hỗ trợ tài chính trực tiếp (chuyển giao tiền tệ nhưng đôi khi
là hiện vật hoặc hỗ trợ nhập khẩu. Ngoại tệ và hàng hoá chuyển trong nước
qua hình thức này được chuyển hoá thành hỗ trợ ngân sách.
- Hỗ trợ chương trình (còn gọi là viện trợ phi dự án) là viện trợ khi đạt
được một hiệp định với đối tác viện trợ nhằm cung cấp một khối lượng ODA
cho một mục đích tổng quát với thời hạn nhất định để thực hiện nhiều nội
dung khác nhau của một chương trình.
5
Chính phủ nước
ngoài
Chính phủ Việt
Nam
NGO
s
hoặc các tổ
chức quốc tế
NGO
s
hoặc các tổ
chức quốc tế
NGO
s

hoặc các tổ
chức quốc tế
NGO
s
hoặc các tổ
chức quốc tế
NGO
s
hoặc các tổ
chức quốc tế
Hỗ trợ dự án:
Là hình thức chủ yếu của hỗ trợ phát triển chính thức bao gồm hỗ trợ
cơ bản và hỗ trợ kỹ thuật. Trên thực tế có trường hợp một dự án kết hợp cả
hai loại hình hỗ trợ cơ bản và hỗ trợ kỹ thuật.
2.2. Xét theo hình thức tiếp nhận vốn, ODA được phân ra Viện trợ
không hoàn lại và viện trợ cho vay ưu đãi:
+ Đối với loại hình Viện trợ không hoàn lại thường là hỗ trợ kỹ thuật,
chủ yếu là chuyển giao công nghệ, kiến thức, kinh nghiệm thông qua các hoạt
động của chuyên gia quốc tế. Đôi khi viện trợ này là hoạt động nhân đạo như
lương thực, thuốc men hoặc các loại hàng hoá khác... nên chúng rất khó huy
động vào các mục đích đầu tư phát triển. Thêm vào đó các khoản viện trợ
không hoàn lại thương kèm theo một số điều kiện về tiếp nhận, về đơn giá...
mà nếu nước chu nhà có vốn chủ động sử dụng thì chưa chắc đã phải chấp
nhận những điều kiện như vậy hoặc không sử dụng với đơn giá thanh toán cao
gấp 2-3 lần. Do đó khi sử dụng các nguồn vốn ODA cho không, cần hết sức
thận trọng.
+Đối với các khoản vay ưu đãi ODA có thể sử dụng cho mục tiêu đầu
tư phát triển. Tính chất ưu đãi của khoản vay này thể hiện ở khía cạnh sau:
 Lãi suất thấp : chẳng hạn các khoản vay ODA được tính bằng hàng hoá
trị giá 45,5 tỷ yên nhật cho Việt Nam vay năm 1992 có lãi suất 1%

khoản vay ngân hàng thế giới cho dự án cải tạo quốc lộ 1A không lãi
chỉ có 0,75%.
 .Thời gian vay dài: nhật bản cho ta vay trong thời gian 30 năm WB cho
vay trong thời gian 40 năm.
 . Thời gian ấn hạn từ khi vay đến khi trả vốn gốc đầu tiên khá dài
thường khoảng 5-10 năm trở lên.
6
Thông thường các nước tiếp nhận ODA để đầu tư vào các dự án kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nhằm tạo ra điều kiện thuận lợi cho sản xuất và
đời sống, tạo môi trường hạ tầng cơ sở để tiếp tục thu hút vốn đầu tư.
3. Vai trò của ODA trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của các
nước đang phát triển.
Đối với tất cả các quốc gia tiến hành công nghiệp hoá đất nước thì vốn
là một yếu tố một điều kiện tiền đề không thể thiếu. Nhất là trong điều kiện
hiện nay, với những thành tựu mới của khoa học và công nghệ cho phép các
nước tiến hành công nghiệp hoá có thể rút ngắn lịch sử phát triển kinh tế khắc
phục tình trạng tụt hậu và vận dụng được tối đa của lợi thế đi sau.
Nhưng để làm được những điều đó thì nhu cầu về nguồn vốn là vô cùng
lớn trong khi đó ở giai đoạn đầu của thời kỳ công nghiệp hoá thì tất cả các
nước đều dựa vào nguồn vốn bên ngoài mà chủ yếu là ODA và FDI.
Trong đó ODA là nguồn vốn của các Chính phủ, các quốc gia phát triển
, các tổ chức quốc tế và các tổ chức phi Chính phủ hoạt động với mục tiêu trợ
giúp cho chiến lược phát triển của các nước đang và chậm phát triển. Do vậy
nguồn vốn này có những ưu đãi nhất định, do những ưu đãi này màcác nước
đang và chậm phát triển trong giai đoạn đầu của công cuộc công nghiệp hoá
đất nước thường coi ODA như là một giải pháp cứu cánh để vừa khắc phục
tình trạng thiếu vốn đầu tư tron gnước vừa tạo cơ sở vật chất ban đầu nhằm
tạo dựng một môi trường đầu tư thuận lợi để kêu gọi nguồn vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài FDI, đồng thời tạo điều kiện thúc đẩy đầu tư trong nước phát
triển. Như vậy, có thể nói nguồn vốn ODA có vai trò quan trọng trong chiến

lược phát triển kinh tế của các nước đang và chậm phát triển, điều đó thể hiện
rõ nét ở khía cạnh sau:
Thứ nhất: ODA có vai trò bổ sung cho nguồn vốn trong nước. Đối với
các nước đang phát triển các khoản viện trợ và cho vay theo điều kiện ODA là
nguồn tài chính quan trọng giữ vai trò bổ sung vốn cho quá trình phát triển.
7
Chẳng hạn trong thời kỳ đầu của các nước NIC
s
và ASEAN Viện trợ
nước ngoài có một tầm quan trọng đáng kể.
Đài loan: trong thời kỳ đầu thực hiện công nghiệp hoá đã dùng viện trợ
và nguồn vốn nước ngoài để thoả mãn gần 50% tổng khối lượng vốn đầu tư
trong nước. Sau khi nguồn tiết kiệm trong nước tăng lên, Đài loan mới giảm
sự lệ thuộc vào viện trợ.
Hàn Quốc: có mối quan hệ đặc biệt với Mỹ nên có được nguồn viện trợ
rất lớn chiếm 81,2% tổng viện trợ của nước này trong những nưm 70-72 nhờ
đó mà giảm được sự căng thẳng về nhu cầu đầu tư và có điều kiện thuận lợi
để thực hiện các mục tiêu kinh tế.
Còn ở hầu hết các nước Đông Nam Á sau khi giành được độc lập, đất
nước ở trong tình trạng nghèo nàn và lạc hậu, để phát triển cơ sở hạ tầng đòi
hỏi phải có nhiều vốn và khả năng tha năng thu hồi vốn chậm. Giải quyết vấn
đề này các nước đang phát triển nói chung và các nước Đông nam Á nói riêng
đã sử dụng nguồn vốn ODA.
Ở Việt Nam ODA đóng vai trò rất quan trọng trong chương trình đầu tư
công cộng, làm nền tảng cho hoạt động phát triển kinh tế - xã hội gần đây của
Việt Nam. Đầu tư phát triển kinh tế xã hội đã phát triển mạnh ở Việt Nam
trong thập kỷ qua nhờ công cuộc đổi mới với mức tăng trưởng GDP bình
quân đạt 7,5%/ năm. Đầu tư của Chính phủ và nguồn vốn nước ngoài đống
vai trò hết sức quan trọng. Tổng cam kết các nguồn vốn ODA đạt mức tương
đương khoảng 15 tỉ USD. Do vẫn là một nước trong những nước nghèo nhất

thế giới hoạt động quản lý kinh tế - xã hội ở Việt Nam cho thấy đất nước ta
tiếp cận rất tốt nguồn ODA ưu đãi dưới hình thức viện trợ không hoàn lại và
tín dụng có lãi suất thấp. Sự khan hiếm nguồn FDI hiện nay do cuộc khủng
hoảng tài chính Đông Nam Á đã cũng gây ra suy giảm trong tiến trình tiến
hành cải cách kinh tế ở Việt Nam, đã tạo thêm căng thẳng cho các nguồn lực
đầu tư công cộng hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng trong khi vẫn đảm bảo thúc đẩy
các dịch vụ xã hội. Do đó ODA ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc
8
tài trợ các chi tiêu phát triển của chính phủ. Kể từ khi cộng đồng tài trợ quốc
tế nối lại sự giúp đỡ của mình cho Việt Nam, mức giải ngân ODA hàng năm
đã tăng một cách vững chắc từ mức 272 triệu USD vào năm 1994 ( khoảng
26% chi tiêu xây dựng cơ bản của chính phủ) lên khoảng 1.120 triệu USD vào
năm 1998 (xấp xỉ 80%).
Trên thực tế do tính chất ưu đãi của vốn ODA mà các quốc gia sử dụng
nó thường e ngại về gánh nặng nợ nần nhưng thực tế thì đó là nỗi lo sợ của
với các nước quản lý và sử dụng nguồn vốn này không hiệu quả. Gánh nặng
nợ nần sẽ được giảm rất nhiều nếu biết quản lý để đem lại hiệu quả sử dụng
ODA cao.
Thứ hai: ODA dưới dạng viện trợ không hoàn lại giúp các nước nhận
viện trợ tiếp thu những thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại và phát triển
nguồn nhân lực. Những lợi ích quan trọng mà ODA mang lại cho các nước
nhận tài trợ là công nghệ, kỹ thuật hiện đại, kỹ xảo chuyên môn và trình độ
quản lý tiên tiến. Đông thời bằng nguồn vốn ODA các nhà tài trợ còn ưu tiên
đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực vì việc phát triển của một quốc gia có
quan hệ mật thiết với việc phát triển nguồn nhân lực.
Thứ ba: ODA giúp các nước đang phát triển hoàn thiện cơ cấu kinh tế.
Đối với các nước đang phát triển khó khăn kinh tế là điều kiện khôn tránh
khỏi. Trong đó nợ nước ngoài và thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế ngày
một gia tăng là tình trạng phổ biến. Để giải quyết vấn đề này các quốc gia cần
phải cố gắng hoàn thiện cơ cấu kinh tế bằng cách phối hợp vơí ngan hàng thế

giới, quỹ tiền tệ quốc tế và các tổ chức quốc tế khác tiến hành chính sách điều
chỉnh cơ cấu. Chính sách này dự đinh chuyển chính sách kinh tế Nhà nước
đóng vai trò trung tâm sang chính sách khuyến khích nền kinh tế phát triển
theo định hướng phát triển kinh tế khu vực tư nhân. Nhưng muốn thực hiện
được việc điều chỉnh này cần phải có một lượng vốn cho vay mà các chính
phủ lại phải dựa vào nguồn vốn ODA.
9
Thứ tư: Hỗ trợ phát triển chính thức tăng khả năng thu hút vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài và tạo điều kiện mở rộng đầu tư phát triển trong nước ở
các nước đang và chậm phát triển. Như chúng ta đã biết để có thể thu hút
được các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài bỏ vốn đầu tư vào một lĩnh vực nào
đó thì chính tại các quốc gia đó phải đảm baỏ cho họ có một môi trường đầu
tư tốt (cơ sở hạ tầng, hệ thống chính sách, pháp luật ...) đảm bảo đầu tư có lợi
với phí tổn đầu tư thấp, hiệu quả đầu tư cao muốn vậy đầu tư của Nhà nước
phải được tập trung vào việc nâng cấp, cải thiện và xây dựng cơ sở hạ tầng, hệ
thống tài chính, ngân hàng...
Nguồn vốn Nhà nước thực hiện đầu tư này là phải dựa vào ODA bổ
sung cho vốn đầu tư hạn hẹp thì ngân sách của Nhà nước. Môi trường đầu tư
một khi được cải thiện sẽ tăng sức hút đồng vốn nước ngoài. Mặt khác việc sử
dụng nguồn vốn ODA để đầu tư cải thiện cơ sở hạ tầng sẽ tạo điều kiện cho
các nhà đầu tư trong nước tập trung đầu tư vào các công trình sản xuất kinh
doanh có khả năng mang lại lợi nhuận.
4. Vài nét về quản lý và sử dụng ODA trên thế giới.
4.1 Các nhà tài trợ ODA chủ yếu trên thế giới.
Nói chung không có tiêu thức chung để phân lọai các nhà tài tạ ODA
tuy nhiên chúng ta có thể phân chia thành hai nhóm chính sau: nhóm các nước
và các nhà tổ chức quốc tế.
a. Các nhóm nước.
- Các nước thành viên của Uỷ ban hỗ trợ phát triển DAC thuộc tổ chức
OECD: tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển được thành lập từ năm 1961 có

tiền thân là tổ chức hợp tác kinh tế Châu Âu OEEC.
OECD có mục tiêu chủ yếu là:
+ Thúc đẩy phát triển kinh tế với nhịp độ cao và bền vững, nâng cao
mức sống của nhân dân các nước thành viên, duy trì nền tài chính ổn định và
nhờ vậy đóng góp vào sự phát triển kinh tế thế giới.
10
+ Góp phần mở rộng quá trình phát triển kinh tế ở cá nước thành viên
cũng như không phải thành viên.
+ Góp phần mở rộng thương mại quốc tế đa biên trên cơ sở không kỳ
thị và phù hợp với tập quán quốc tế.
- Nhật Bản: Đây là một quốc gia hàng năm cung cấp một lương vốn
ODA rất lớn đặc biệt là một trong những quốc gia đứng đầu trong danh sách
những nhà tài trợ cho Việt Nam.
b. Các tổ chức quốc tế.
- Ngân hàng phát triển Châu Á: ADB.
Được thành lập năm 1966 do 31 chính phủ thành viên nhằm xúc tiến
quá trình giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội trong khu vực Châu Á - Thái
Bình Dương. Trong hơn 33 năm qua các thành viên đã tăng lên rất nhiều
ADB chú trọng đến nhu cầu của các nước nhỏ và các nước kém phát triển và
ưu tiên đặc biệt đến chương trình và dự án khu vực, tiểu vùng và quốc gia.
- Các tổ chức tài chính quốc tế khác: WB, IMF, UNDP...
* Đối với Việt Nam theo số liệu 91- 2000. Các nhà tài trợ chính đó là
Ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật Bản (JBIC), Ngân hàng thế giới(WB), Ngân
hàng phát triển Châu Á (ADB) đã thiết lập các hoạt động của mình ở Việt
Nam trong 6-8 năm qua và đã nổi lên như 3 nhà tài trợ lớn nhất về nguồn hỗ
trợ phát triển chính thức ODA ở Việt Nam. Xu hướng gần đây nếu nghiên cứu
kỹ danh mục các chương trình sự án ODA của tổ chức này về mặt định lượng,
chiều hướng chung là tương đối khả quan với các mức tăng về giai rngân và
mức giảm về lượng tích tụ của các cam kết chưa được giải ngân.
Khi xem xét tổng mức của ba tổ chức này có thể quan sát thấy rằng các

cam kết hàng năm đạt mức cao nhất năm 1997 và từ thời điểm đó đến nay có
chiều hướng suy giảm. Mức giải ngân, tuy nhiên đã tăng một cách vững chắc
từ năm 1995 trở đi. Trong năm 1999 mức giải ngân tăng gấp 12 lần so với
năm 1997, mặc dù vậy tốc độ tăng nay (theo tỷ lệ %) đã giảm dần từ năm
11
1996. Không thấy có khuynh hướng chung rõ nét nào đối với tỷ lệ giải ngân
của ba tổ chức này. Phần cam kết chưa giải ngân liên tục tăng trong các năm
1994. Vì thế bức tranh chung là mức giải ngân đang được cải thiện và nếu
chiều hướng hiện nay vẫn như vậy thì giai đoạn đầu của hoạt động ODA của
ba tổ chức này, đặc trưng bởi số lượng dự án tăng và thực hiện dự án chậm, sẽ
được hoàn thiện trong một số giai đoạn ổn định hơn. Nếu tách từng tổ chức
một để xem xét thì bức tranh có khác đi đôi chút.
Nhật Bản tổng các khoản vay ODA luỹ kế dành cho Việt Nam hiện nay
vào khoảng 4,4 tỷ USD, chiếm 25 dự án phát triển và 4 khoản tín dụng hàng
hoá (khoảng 3,8 tỷ USD nếu không kể đến khoản tín dụng hàng hoá). Khoảng
24% tổng số các cam kết đã được giải ngân. Những dự án cơ sở hạ tầng lớn
đáng chú ý là trong các ngành giao thông và điện lực chiếm tỷ trọng lớn trong
danh mục dự án và những dự án này thường thực hiện chậm trong giai đoạn
đầu. Tuy nhiên tình hình thực hiện đã được cải thiện vững chắc một phần do
các cơ quan chủ quản đã quen hơn với công tác dự án. Trong năm 1999 cả
cma kết hàng năm và giải ngân đều đạt mức cao nhất từ trước đến nay. Tỷ lệ
giải ngân đã được cải thiện năm 1995, tiến độ thực hiện ngắn hơn so với tiêu
chuẩn của JBIC, tuy nhiên phần lớn các dự án đều chậm từ 1-2 năm so với kế
hoạch đặt ra ban đầu. Các nguyên nhân đã được xác định trong đó quá trình
phê duyệt nội bộ của phía Việt Nam đối với các quyết định, thay đổi hoặc
điều chỉnh của dự án thường kéo dài, đặc biệt những quyết định về đấu thầu
và chỉ định tư vấn. Mặt khác sự chậm trễ trong việc thanh toán theo tiến độ đã
được phần nào giảm bớt.
Ngân hàng thế giới WB: hiện có 21 dự án đang hoạt động và dự án đã
kết thúc thể hiện tổng mức các cam kết 2,25 tỷ USD tron gđó khoảng 35% đã

được giải ngân. Mức giải ngân từ tài khoá 1994 là rất hài lòng nhưng tốc độđã
giảm và mức thực hiện giờ đây thấp hơn mức trong khu vực. Hiện nay mới
chỉ đạt khoảng 70% tổng mức giải ngân dự kiến trong danh mục các dự án
đang hoạt động. Tổng mức cam kết đã giảm từ năm 1997 và tỷ lệ giải ngân
cho thấy chiều hướng giảm bắt đầu từ năm 1996. Có mức tăng về khối lượng
12
cam kết chưa được giải ngân mặc dù tốc độ tăng đã giảm dần. Ngoài các vấn
đề liên quan đến việc thực hiện dự án được mô tả dưới đây, một số nguyên
nhân xuất phát từ việc sửa đổi trong các quy định thực hiện của chính phủ đã
làm chậm quá trình thực hiện, ngoài ra còn do sự chuyển đổi về cơ cấu trong
danh mục dự án hiện nay. Số lượng những dự án có quy mô lớn, giải ngân
nhanh trong khi những dự án mới có xu hướng hoạt động phức tạp, phân tán,
phải trải qua giai đoạn khởi động lâu hơn so với dự kiến.
Ngân hàng phát triển Châu Á: (ADB) có 25 dự án đang thực hiện ở
Việt Nam trong đó có 21 dự án đầu tư đã có hiệu lực với tổng nợ ròng là 1,7
tỷ USD đã giải ngân được 30%. Trong khi cam kết hàng nưm giảm từ mức
cao nhất vào năm 1997, một phần chậm trễ trong việc xử lý các khoản vay dự
kiến, thì mức giải ngân và trao hợp đồng trong năm 1999 lại đứng ở mức cao
nhất kể từ khi ADB cung cấp các khoản vay ở Việt Nam. Tỷ lệ giải ngân đang
được cải thiện, nhưng vẫn thấp hơn mức trung bình trong khu vực và ADB
vẫn lo lắng về tình hình thực hiện này, bản chất của các vấn đề về thực hiện
các chương trình dự án dường như đã chuyển biến với sự hoàn chỉnh về danh
mục sự án. Các chậm trễ trong việc tuyển chọn và đưa tư vấn ào hoạt động,
trao hợp đồng và giải ngân đang trở thành vấn đề lo ngại nhất. ADB sẽ lấy
thực hiện dự án làm yếu tố quết định các khoản vay trong tương lai.
Bảng số liệu các dự án đầu tư của Nhật Bản, WB, ADB - tình hình giải
ngân 1994-1999 (triệu USD/ niên lịch
1994 1995 1996 1997 1998 1999
JBIC
Cam kết hàng năm 510 619 649 673 648 773

Giải ngân hàng năm 0 37 38 109 292 4526
Phần cam kết chưa giải ngân 510 1091 1703 2267 2623 2940
Tỉ lệ giải ngân (%) 0,1 3,2 2,3 5,2 11,8 13,9
13
WB
Cam kết hàng năm 228 314 508 389 392 318
Giải ngân hàng năm 65 17 129 181 220 189
Phần cam kết chưa giải ngân 228 164 460 840 1047 1219
Tỉ lệ giải ngân (%) 28 11 28 22 21 15
ADB
Cam kết hàng năm 61 233 217 360 284 220
Giải ngân hàng năm 3 48 29 149 128 191
Phần cam kết chưa giải ngân 320 545 732 1024 1180 1253
Tỉ lệ giải ngân (%) 1,1 8,4 4,8 15,8 14,8 16,0
Tổng
Cam kết hàng năm 779 1166 1374 1422 1324 1311
Giải ngân hàng năm 68 62 196 358 641 761
Giải ngân hàng năm, % thay đổi - - 10 215 82 79 19
Phần cam kết chưa giải ngân 1058 1800 2895 4131 4859 5412
Phần cam kết chưa giải ngân, %
thay đổi
- 70 61 43 18 11
4.2 Xu thế ODA trên thế giới.
Quá trình phát triển ODA trên thế giới hiện nay có các khuynh hướng
chủ yếu sau đây:
Một là: trong cơ cấu tổng thể ODA của thế giới tỷ trọng ODA song
phương có xu hướng tăng lên, ODA đa phương có xu thế giảm đi xu thế này
hình thành dưới sự tác động của hai nhân tố chủ yếu sau:
- Quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới và xu thế hội nhập đã
tạo điều kiện cho quan hệ về ODA trực tiếp giữa các quốc gia.

- Hiệu quả hoạt động của các tổ chức đa phươn gtỏ ra kém hiệu quả
làm cho một số nhà tài trợ ngần ngại đóng góp cho các tổ chức này.
14
Hai là: mức độ cạnh tranh thu hút ODA đã tăng lên giữa các nước đang
phát triển.Trên thế giới số nước dành được độc lập, bắt đầu xây dựng kinh tế
phát triển xã hội tăng lên đáng kể và có nhu cầu lớn về ODA. Ở Trung Quốc
đang cần một lượng vốn ODA lớn để xây dựng kinh tế, ở Đông Nam Á mặc
dù một số nước như Singapore, Malaixia, Thái Lan, đã giảm dần nguồn tiếp
nhận ODA song bên cạnh đó lại các quốc gia khác với nhu cầu ODA lớn hơn
như các nước Đông Dương, Myanma.
Ba là: triển vọng gia tăng nguồn ODA ít lạc quan. Mặc dù Đại hội đồng
Liên hiệp quốc đã khuyến nghị dành 1% GDP của các nước phát triển để cung
cấp ODA cho các nước đang phát triển song khả năng này rất ít thành hiện
thực (theo các số liệu mới nhất thì tỉ lệ này hiện nay chỉ đạt mức trung bình
vào khoảng 0,7%). Thực tế cho thấy các nước có khối lượng ODA lớn nhất
như Mỹ, Nhật Bản... thì tỉ lệ này chỉ đạt trên dưới 0,3% trong nhiều năm qua.
Tuy có một số nước như Thuỵ Điển, Nauy, Phần Lan, Đan Mạch... đã có tỷ lệ
ODA hơn 1% song khối lương ODA tuyệt đối của các nước này không lớn.
Thêm vào đó tình hình phục hồi kinh tế chậm ở các nước phát triển cũng là
một trở ngại gia tăang ODA.
Ngoài ra các nước phát triển đang phải đối đầu với hàng loạt vấn đề xã
hội trong nước và chịu sức ép của dư luận đòi giảm viện trợ cho nước ngoài
để tập chung giải quyết các vấn đè trong nước.
II. QUY TRÌNH QUẢN LÝ DỰ ÁN ODA.
Theo quy định chung về quản lý và sử dụng, một dự án ODA thường
bao gồm các bước sau:
- Xác định dự án.
- Chuẩn bị đầu tư.
- Thực hiện đầu tư.
- Nghiệm thu và đánh giá.

15
SƠ ĐỒ QUY TRÌNH QUẢN LÝ DỰ ÁN ODA.
1. Xác định dự án và đánh giá ban đầu.

2. Chuẩn bị và thiết kế dự án.
3. Thực hiện và theo dõi dự án.
16
Xác định
mục tiêu
chiến lược
quốc gia
Xem xét
đãnh giá
những đề
xuất chính
thức
Đưa ra
những đề
xuất chính
thức (dự
án đề
xuất)
Dự án đề
xuất được
giám đốc
quản lý
chương
trình quốc
gia xem
xét đánh

giá tiếp
Phê
duyệt
dự án
Xây dựng
báo cáo
nghiên
cứu tiền
khả thi
Dự thảo
văn kiện
thiết kế
dự án
Xây dựng
báo cáo
nghiên cứu
khả thi
Tuyển
chọn kí
kết với
nhà rhầu
thực hiện
dự án
Đàm phán
về bản ghi
nhớ
Triển
khai dự
án
Theo dõi dự

án vè tài
chính hiện
vật trong
quá trình
thực hiện
Nhà thầu
chuẩn bị
báo cáo
hoàn thành
dự án
Đánh giá
sau hoàn
thành đối
với một số
dự án được
lựa chọn
Rút ra bài
học kinh
nghiệm
4. Hoàn thành và đánh giá dự án.
1. Xác định dự án và đánh giá ban đầu:
Dự án đề xuất có thể được xác định theo nhiều cách. Việc xác định này
có thể thực hiện qua đánh giá ngành hoặc các đoàn chương trình, thông qua
cách tiếp cận chính thức đối với Đại sứ quán của nước tài trợ tại nước nhận
viện trợ, theo đề nghị của Chính phủ nước tiếp nhận viện trợ hoặc thông qua
các cách tiếp cận chính thức với các tổ chức khác.
Khi nhận được yêu cầu chính thức đề án sẽ được Văn phòng của nước
viện trợ đánh giá và xen xét xem của dự án đề xuất có nắm trong chiến lược
quốc gia nêu trong báo cáo quốc gia hay không. Nếu đề án phù hợp và đáp
ứng các yêu cầu thông tin tối thiểu đề án sẽ được trình lên giám đốc quản lý

chương trình quốc gia để đánh giá tiếp.
Nếu thấy rằng đề án này có thể phát triển được giám đốc chương trình
quản lý quốc gia sẽ đệ trình Chính phủ phê chuẩn việc sử dụng tiền ngân dách
cho dự án. Nếu được phê chuẩn sẽ chính thức hoá việc đưa dự án vào danh
mục chương trình quốc gia và cho phép tiến hành thiết kế chi tiết.
2. Chuẩn bị dự án và thiết kế:
Hầu hết các đề án đòi hỏi nhiều công sức mới biến thành một dự án
được thiết kế đầy đủ và có tính khả thi. Giai đoạn hoàn thiện đề án được gọi
là giai đoạn chuẩn bị. Giai đoạn chuẩn bị này bao gồm một số hoặc tất cả các
bước sau đây và kết thúc bằng việc Bộ trưởng hoặc Đại diện của Bộ Tài chính
phê duyệt cho phép thực hiện:
- Nghiên cứu tiền khả thi
- Nghiên cứu khả thi
- Dự thảo văn kiện thiết kế dự án
17
Văn kiện thiết kế dự án bao gồm kế hoạch chi tiết về chi phí, nguồn lực
và kế hoạch thực hiện. Tuy nhiên, phê chuẩn tài chính mới có thể thay cho
phe chuẩn đưa ra trước đây khi dự án lúc đó còn trong giai đoạn chuẩn bị và
thiết kế.
3. Thực hiện đầu tư và theo dõi dự án.
Bước đầu tiên của giai đoạn này là thảo luận để đi đến ký kết bản ghi
nhớ (MOU) thể hiện sự nhất trí giữa hai Chính phủ. MOU bao gồm các điều
khoản tiêu chuẩn, các phụ lục tham chiếu, trong đó mô tả dự án và định số
trách nhiệm của hai Chính phủ. Dự án sẽ chính thức được triển khai sau khi
MOU được ký kết và các nhà thầu đủ tiêu chuẩn được tuyển chọn. Nhiệm vụ
đầu tiên của nhà thầu chính thực hiện là chuẩn bị văn kiện thực hiện dự án
(PID).Quá trình này cho phép nhà thầu xác định những điều chỉnh cần thiết
cho dự án từ kinh nghiệm ban đầu khi triển khai dự án. Dự án sẽ được theo
dõi trong quá trình thực hiện. Qua công tác theo dõi các nhà tài trợ song
phương biết được tình hình thực hiện sự án có tốt không, nhà thầu thực hiện

so với hợp đồng ra sao, liệu có đạt được các mục tiêu đặt ra?
4. Hoàn thành và đánh giá dự án.
Giai đoạn này bao gồm: Việc chuẩn bị báo cáo hoàn thành dự án (PCR)
đối với tất cả các dự án và tiến hành đánh giá sau dự án đối với một số dự án
được lựa chọn. Nhà thầu thực hiện cần chuẩn bị PCR trước khi kết thúc dự án.
PCR mô tả thiết kế dự án từ khi xây dựng dự án giai đoạn chuẩn bị đến khi bổ
sung trong giai đoạn thực hiện. Sự chấp thuận báo cáo này của nhà tài trợ
song phương đánh dấu thời điểm kết thúc dự án.
Sau khi dự án kết thúc có thể phải tiến hành đánh giá sau dự án, mô tả
lịch sử của dự án, những thành công của dự án, những thiếu sót và xác định
những bài học đúc kết trong khâu thiết kế và thực hiện dự án phân tích độc
lập của nhà tài trợ song phương cùng các văn kiện dự án khác có thể rút ra
những bài học và đưa vào cơ sở dữ liệu về bài học kinh nghiệm của nhà tài
18
trợ, tạo cơ sở để phản hồi thông tin vào hoạch định chính sách và chuẩn bị các
dự án trong tương lai.
Trên đây là tóm tắt sơ lược chu kỳ quản lý một dự án ODA.
CHƯƠNG II.
TÌNH HÌNH HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG ODA CỦA NƯỚC TA
TRONG THỜI GIAN QUA.
I. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TIẾP NHẬN, ĐIỀU PHỐI VÀ SỬ
DỤNG ODA.
1. Tình hình quản lý và sử dụng ODA trong thời gian vừa qua.
Mặc dù nền kinh tế khu vực chịu ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng
hoảng tài chính tiền tệ, một số nhà tài trợ phải thắt chặt chi tiêu ngân sách để
đối phó với cơn suy thoái kinh tế kể cả giảm viện trợ cho nước ngoài. Song về
cơ bản các nước và các tổ chức quốc tế vẫn duy trì và tiếp tục thực hiện các
cam kết ODA cho Việt Nam. Tuy vậy có một vài trường hợp, do ảnh hưởng
của khủng hoảng tài chính tiền tệ nguồn vốn ODA đã cam kết bằng bản tệ đã
bị giảm nhiều do bị mất giá mạnh so với đô la Mỹ, gây khó khăn cho việc

triển khai một số dự án.
Trong thời gian qua Việt Nam tiếp tục đàm phán và ký kết thêm các
điều ước quốc tế về ODA đạt tổng trị giá 8,623 tỷ USD kể từ năm 1993 đến
hết tháng 9-1998 và bằng 80% tổng nguồn vốn ODA đã được cam kết trong
thời kỳ 1993-1997.
Trong số các hiệp định đã ký hết trong 9 tháng đầu năm 1998 có nhiều
dự án quan trọng, nhất là các dự án trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển
nông thôn như đa dạng hoá nông nghiệp, phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, y
tế, giáo dục đại học...
Giải ngân nguồn vốn ODA được coi là thước đo năng lực tiếp nhận và
sử dụng hỗ trợ phát triển chính thức, do vậy thường xuyên được Chính phủ
19
Việt Nam và các nhà tài trợ quan tâm. Năm 1996 giải ngân được 900 triệu
USD, năm 1997 con số này lên tới 1 tỷ USD và năm 1998 đạt 1.430 triệu
USD.
Như vậy trong thời kỳ trên mức giải ngân hàng năm bình quân đạt
1.110 triệu USD, bằng 74% mức giải ngân bình quân năm của kế hoạch 1996-
2000 (1.500 triệu USD/ năm). Xu thế giải ngân trong thời gian qua tiến bộ
điều này được các nhà tài trợ khẳng định.
Nhìn chung lại tình hình giải ngân vốn ODA trong năm 1998 tương đối
tốt đó là do về cơ bản các dự án ODA đã được bố trí đủ nguồn vốn đối ứng
đồng thời Chính phủ không điều chỉnh tiến độ xây dựng cơ bản đối với các dự
án ODA đã được cam kết với các nhà tài trợ. Cho đến nay nhiều nhà tài trợ đã
xây dựng hoặc cập nhật chiến lược quốc gia về hợp tác phát triển với Việt
Nam, đây là cơ sở quan trọng để tăng cường đối ngoại giữa Chính phủ Việt
Nam với các nhà tài trợ. Trong thời gian qua Chính phủ Việt Nam đã tiến
hành các cuộc đối thoại về hợp tác phát triển với một số nhà tài trợ như ngân
hàng thế giới (chiến lược hỗ trợ quốc gia của WB cho Việt Nam 1999 - 2002),
Nhật Bản (trao đổi ý kiến cấp cao về quan hệ kinh tế và hợp tác phát triển)...
Tại các cuộc trao đổi ý kiến nói trên, các nhà tài trợ đánh giá cao những nỗ

lực của Việt Nam duy trì đã tăng trưởng trong bối cảnh tình hình trong và
ngoài nước có nhiều khó khăn khẳng định tiếp tục cam kết hỗ trợ quá trình
phát triển của đất nước với những điều chỉnh cần thiết cho thích ứng với tình
hình mới trong đó sẽ chú trọng nhiều hơn đến nông nghiệp và ntông thôn, hỗ
trợ giải quyết những vấn đề xã hội trong quá trình đẩy mạnh cổ phần hoá, đào
tạo và phát triển nguồn nhân lực, đẩy mạnh những nỗ lực xoá đói giảm
nghèo...
Cộng đồng tài trợ quốc tế cũng nhấn mạnh yêu cầu tăng cường chất
lượng đầu vào của các cthương trình, dự án ODA, đó là công tác chuẩn bị
thẩm định và phê duyệt dự án cần được tổ chức chặt chẽ và chất lượng cao
hơn trên cơ sở phát triển quan hệ đối tác. Đồng thời các nhà tài trợ bày tỏ
20
mong muốn có sự phối hợp và điều phối ODA tốt hơn nữa giữa các cơ quan
Chính Phủ, giữa Chính Phủ và các nhà tài trợ cũng như giữa các nhà tài trợ.
* Tình hình cam kết và giải ngân của một số nhà tài trợ chủ yếu.
(1) Nhật Bản.
(triệu USD/ năm)
Năm 1994 1995 1996 1997 1998 1999
Cam kết hàng năm 510 619 649 673 648 773
Giải ngân hàng năm 0 37 38 109 292 456
% giải ngân / cam kết - 5,9 5,8 16,2 45 58,9
Nhìn vào các dự án đầu tư của Nhật Bản đối với Việt Nam ta thấy rằng
tình hình cam kết hàng năm và tình hình giải ngân tuy không đồng đều nhưng
nhìn chung đều có xu hướng tăn glên trong năm 1999 cả cam kết hàng năm và
giải ngân đều đạt mức cao nhất từ trước đến nay, tình hình giải ngân so với
cam kết hàng năm cùng có xu hướng tăng lên qua các năm như ta thấy năm
1994 số lượng giải ngân bằng 0 nhưng từ năm 1995 mức giải ngân so với cam
kết hàng năm được cải thiện và tỉ lệ này đạt cao nhất váo năm 1999 (58,9%).
(2) Ngân hàng thế giới (WB).
(triệu USD/ năm)

Năm 1994 1995 1996 1997 1998 1999
Cam kết hàng năm 228 314 508 389 392 318
Giải ngân hàng năm 65 17 129 181 220 189
% giải ngân / cam kết 28,5 5,4 25,3 46,5 56,1 59,4
Ta thấy rằng cam kết hàng năm đạt mức độ cao nhất vào năm 1996
(508 triệu USD) thấp nhất 1994 (228 triệu USD) nhìn vào đây ta thấy mức
21
cam kết đã giảm dần từ năm 1997 còn tình hình giải ngân mỗi năm một tăng
nhưng đạt cao nhất vào năm 1992 (220 triệu USD). Qua bảng trên ta thấy
được rằng tuy mức cam kết có giảm từ năm 1997 nhưng tỷ lệ giải ngân so với
mưchính sách cam kết vẫn có xu hướng tăng qua các năm.
(3) Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB).
(triệu USD/ năm)

Năm 1994 1995 1996 1997 1998 1999
Cam kết hàng năm 3 48 29 149 128 191
Giải ngân hàng năm 4,9 20,6 13,3 41,4 45,1 86,8
% giải ngân / cam kết 61 233 217 360 284 220
Mức cam kết tăng từ năm 1994 cao nhất vào năm 1997 (360 triệu USD)
và sau đó giảm dần vào các năm sau và mức giải ngân nhìn chung có xu
hướng tăng qua các năm và có đạt mức giải ngân cao nhất vào năm 1999 (191
triệu USD) còn phần trăm giải ngân so với cam kết nó chỉ giảm năm 1996
(13,3%) nhìn chung nó cũng có xu hướng tăng lên qua các năm và tỷ lệ này
đạt cao nhất vào năm 1999 (86,8%).
(4) Tổng thể của 3 nước này.
(triệu USD/ năm)
Năm 1994 1995 1996 1997 1998 1999
Cam kết hàng năm 799 1166 1374 1422 1324 1311
Giải ngân hàng năm 68 62 196 358 641 761
% giải ngân / cam kết 8,5 5,3 14,2 25,2 48,4 58

Nhìn vào đây ta thấy các cam kết đạt mức cao nhất vào năm 1997
(1422 Triệu USD) và từ thời điểm đó đến nay có nhiều chiều hướng suy giảm.
22
Mức giải ngân tuy đã tăng một cách vững chắc từ năm 1995 trở đi. Tron
gnăm 1999 mức giải ngân gấp 12 lần so với năm 1995 và gấp trên 2 lần năm
1997 và tỷ lệ giải ngân so với cam kết cũng tăng đều từ năm 1995 trở đi con
số này cho thấy nhìn tổng tỷ lệ thì tốt.
Những số liệu ở phần trên cho thấy nguồn viện trợ nước ngoài khá
phong phú và đa dạng song công tác quản lý và sử dụng còn rất nhiều hạn
chế.
- Mặc dù trong các năm qua Đảng và Nhà nước đã rất chú trọng quan
tâm đến vấn đề quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn viện trợ, đã ban
hành nhiều quyết định liên quan đến lĩnh vực này song cũng có lúc quy chế ra
không kịp thời. Việc vận hành cơ chế quản lý và sử dụng các nguồn viện trợ
còn nhiều điểm chồng chéo, chậm, thủ tục rườm rà.
- Chính sách quản lý các nguồn viện trợ không thống nhất. Lẽ ra Bộ
KH & ĐT là cơ quan đầu mối cho cơ quan đầu mối trong đàm phán thu hút,
Bộ tài chính phải là đầu mối trong cơ chế tài chính, trực tiếp ký vay, trả tiếp
nhận viện trợ, thế nhưng hiện nay Bộ KH & ĐT gần như thực hiện luôn cả hai
chức năng này.Từng hiệp định cụ thể thì do rất nhiều bộ, ngành ký. Bộ tài
chính không theo dõi chung được các nguồn vay và viện trợ cũng như nội
dung sử dụng của từng nguồn. Hơn nữa ngay trong bộ, giữa các ban quản lý
và các khu tài chính ngành không có sự phối hợp và quản lý tốt hơn các
nguồn tài chính quốc gia.
- Nhìn vào từng dự án nhiều sự án có hiệu quả đã đem lại những lợi ích
kinh tế, xã hội nhất định, kể cả chất xám cho đất nước ta. Tuy nhiên nhìn một
cách toàn diện thì chúng ta chưa có chiến lược lâu dài trong việc sử dụng
nguồn viện trợ không hoàn lại. Nguồn viện trợ bị phân tán dàn trải quá nhiều
chưa tập trung vào một số lĩnh vực có lợi thế tương đối và có khả năng tác
động thúc đẩy sự phát triển các ngành khác của nền kinh tế. Trong năm 1996

ta tiếp nhận 143 triệu USD của gần 300 chương trình, dự án viện trợ. Nguồn
viện trợ dàn trải làm cho nguồn trong nước cũng dàn trải theo.
23
- Tư tưởng coi viện trợ là của trời cho vẫn còn nặng, các bộ, các ngành,
địa phương chưa nhận thức được rằng mọi nguồn viện trợ dù là không hoàn
lại, là một nguồn thu ngân sách Nhà nước và phải được quản lý và sử dụng
như các nguồn thu khác cấp ra từ ngân sách Nhà nước. Vì vậy việc quản lý và
sử dụng ODA thường không đảm bảo đúng chế độ tài chính thậm chí hết sức
lãng phí và phát sinh tiêu cực.
- Cho đến nay bộ máy quản lý viện trợ ở các bộ, ngành, địa phương
chưa có sự thống nhất từ khâu xác định dự án, xây dựng tổng hợp trình các
cấp có thẩm quyền phê duyệt ký kết, tiếp nhận và sử dụng đến thanh tra, kiểm
tra, báo cáo ở hầu hết các bộ, vụ tài vụ kế toán không nắm được nguồn viện
trợ đã tiếp nhận và sử dụng ở bộ mình, các sở tài chính không nấm được
nguồn viện trợ đã được sử dụng ở địa phương mình, chưa nói đến thực hiện
công tác quản lý tài chính. Việc không tập chung thống nhất quản lý nguồn tài
chính viện trợ cộng đến trình độ, năng lực và số lượng cán bộ quản lý các
nguồn viện trợ còn yếu là một trong những nguyên nhân cơ bản làm cho công
tác quản lý và sử dụng viện trợ kém hiệu quả, có nơi lãng phí, tiêu cực.
2. Kế hoạch hoá nguồn vốn ODA.
Kế hoạch hoá ODA là kế hoạch hoá một nguồn vốn ngân sách chủ yếu
dùng để đầu tư phát triển quốc gia. Theo các quy định hiện hành một dự án
ODA được kế hoạch hoá ở cả ba phương diện: nhu cầu vốn, đầu tư xây dựng
và quản lý dự án.
2.1 Kế hoạch hoá nguồn vốn ODA.
Xét về khía cạnh nhu cầu vốn công tác kế hoạch hoá vốn ODA cấp
quốc gia do Bộ KH và ĐT chỉ đạo và được tiến hành như sau:
- Dựa trên chiến lược phát triển kinh tế xã hội, quy hoach đầu tư của cả
nước các kế hoạch hàng năm và 5 năm của Chính phủ, Bộ KH và ĐT dự thảo
một quy hoạch tổng thể về định hướng khai thác và sử dụng ODA để trình

Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
24
- Các ngành, các địa phương xác định nhu cầu vốn trên cơ sở kế hoạch
phát triển kinh tế xã hội thuộc phạm vi phụ trách và phù hợp với quy hoạch
định hướng ODA.
- Bộ KH và ĐT phối hợp với các cơ quan liên quan chuẩn bị danh mục
các chương trình và dự án đầu tư bằng vốn ODA phân theo các nhà tài trợ để
trình Thủ tướng phê duyệt.
- Sau khi được phê duyệt, danh mục này sẽ được Bộ KH và ĐT, Bộ
ngoại giao gửi đến các nhà tài trợ để vận động nguồn vốn ODA.
2.2 Kế hoạch hoá Đầu tư Xây dựng.
- Kế hoạch chuẩn bị đầu tư bao hàm các công việc lập dự án thẩm định
dự án và ra quyết định đầu tư.
Sau khi được bên nước ngoài cam kết tài trợ dự án ODA được ghi vào
kế hoạch chuẩn bị đầu tư.
- Kế hoạch chuẩn bị thực hiện dự án bao gồm các hoạt động: kế
hoạchảo sát thiết kế mỹ thuật, lập tổng dự toán, giải phóng mặt bằng, tổ chức
đấu thầu.
Một dự án chỉ được ghi vào kế hoạch chuẩn bị thực hiện khi báo cáo
nghiên cứu tiền khả thi, báo cáo nghiên cứu tiền khả thi đã được thẩm định,
đã đàm phán, ký kết được hiệp định với bên tài trợ và đã được cấp có thẩm
quyền ra quyết định đầu tư.
- Kế hoạch thực hiện dự án bao gồm các hoạt động xây dựng, mua sắm
và lắp đặt máy móc, thiết bị đoà tạo, chạy thử có tải, bàn giao dự án đưa váo
sử dụng.
Điều kiện để được đưa vào kế hoạch thực hiện là dự án phải được thiết
kế và tổng dự toán được duyệt. Đối với dự án đầu tư lớn có nhiều công trình
hoặc có phân đoạn thi công trình hạng mục nào khởi công trong kế hoạch
phải có thiết kế và dự toán được duyệt.
25

×