Tải bản đầy đủ (.doc) (74 trang)

Phát triển hoạt động phõn tớch ngành ở Chi nhỏnh Trần Bỡnh Trọng Cty Cổ phần CK Sài Gòn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (501.99 KB, 74 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Phân tích ngành là một nghiệp vụ chính trong phòng phân tích. Nó
giúp cho quá trình ra quyết định đầu tư được chuẩn xác và đầy đủ thông tin.
Tuy nhiên đây lại là một mảng mà nhiều công ty chứng khoán hiện nay chưa
thực sự chú trọng hoặc chưa triển khai do còn thiếu nhiều về nhân lực đặc
biệt là thiếu thông tin tổng quát về nền kinh tế, ngành.
Mặt khác, với sự phát triển và phổ biến mạnh mẽ của TTCK, nhu cầu
của các nhà đầu tư, các công ty, các tổ chức về thông tin tổng quan ngành
ngày càng nhiều. Do đó, các công ty chứng khoán, với tư cách là một trong
những nguồn cung cấp thông tin quan trọng cho nhà đầu tư, đang cần nhanh
chóng hoàn thiện nghiệp vụ phân tích này. Đặc biệt là trong thời điểm hiện
tại, khi nền kinh tế vĩ mô có những thay đổi mạnh mẽ: lạm phát cao, lãi suất
tăng, USD mất giá, nền kinh tế Mỹ đứng trước nguy cơ suy thoái; mặt khác
TTCK phản ứng thoái quá với các thông tin, hầu hết các chứng khoán đều bị
kéo theo xu hướng chung của thị trường mà không phân biệt tốt xấu, việc
xác định các nghành thực sự bị ảnh hưởng của các yếu tố phát sinh và các
ngành ít bị ảnh hưởng hơn sẽ là những thông tin rất bổ ích cho nhà đầu tư
khi họ đưa ra quyết định.
Qua thời gian thực tập tại Chi nhánh Trần Bình Trọng Công ty Cổ
Phần chứng khoán Sài Gòn SSI em nhận thấy hoạt động phân tích ngành của
công ty đang còn tồn tại những khó khăn cần được khắc phục kịp thời, do
vậy em chọn đề tài “ phát triển hoạt động phân tích ngành ở Chi nhánh
Trần Bình Trọng Công ty Cổ phần Chứng khoán Sài Gòn” nhằm đưa ra
một số ý kiến chủ quan về tính cấp thiết và những điểm cần khắc phục của
công ty trong hoạt động phân tích ngành đồng thời đưa ra một số phương án
phát triển hoạt động này.
1
Chuyên đề của em gồm 3 chương.
Chương 1: Hoạt động phân tích ngành tại các công ty chứng khoán.
Chương 2: Thực trạng của hoạt động phân tích ngành tại Chi nhánh
Trần Bình Trọng Công ty Cổ phần chứng khoán Sài Gòn.


Chương 3: Giải pháp góp phần phát triển hoạt động phân tích ngành
tại chi nhánh Trần Bình Trọng Công ty Cổ Phần chứng khoán Sài Gòn và
thử nghiệm phân tích ngành Cao su Việt Nam.
2
CHƯƠNG 1: HOẠT ĐỘNG PHÂN TÍCH NGÀNH CỦA
CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1.1 MÔ HÌNH TỔ CHỨC CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1.1.1. Định nghĩa về công ty chứng khoán
Để hình và phát triển TTCK có hiệu quả, một yếu tố không thể thiếu
được là các chủ thể tham gia kinh doanh trên TTCK. Mục tiêu của việc hình
thành TTCK là thu hút vốn đầu tư dài hạn cho việc phát triển kinh tế và tạo
ra tính thanh khoản cho các loại chứng khoán. Do vậy để thúc đẩy TTCK
hoạt động một cách có trật tự, công bằng và có hiệu quả phải có sự ra đời và
hoạt động của các CTCK. Lịch sử hình thành và phát triển của TTCK trên
thế giới cho thấy tiền sử của TTCK, các nhà môi giới hoạt động cá nhân độc
lập với nhau. Sau này cùng với sự phát triển của TTCK, chức năng và qui
mô hoạt động giao dịch của các nhà môi giới tăng lên đòi hỏi sự ra đời của
các CTCK là sự tập hợp có tổ chức của các nhà môi giới bán lẻ.
Hiện nay vẫn chưa thực sự có một định nghĩa nào thật sự rõ ràng
về công ty chứng khoán, nhưng có một định nghĩa được xem là chấp nhận
rộng rãi và phổ biến nhất có lẽ là
“Công ty chứng khoán là một định chế tài chính trung gian thực
hiện các nghiệp vụ trên thị trường chứng khoán”
1.1.2 Mô hình của công ty chứng khoán
Hoạt động của các CTCK rất đa dạng và phức tạp, khác hẳn với các
doanh nghiệp sản xuất hay thương mại thông thưòng vì CTCK là một loại
hình định chế tài chính đặc biệt nên vấn đề xác định mô hình tổ chức kinh
doanh của nó cũng có nhiều điểm khác nhau ở các nước. Mô hình tổ chức
kinh doanh của CTCK ở mỗi nước đều có những đặc điểm riêng tùy theo
đặc điểm của hệ thống tài chính và sự cân nhắc lợi hại của những người làm

3
công tác quản lý nhà nước. Tuy nhiên ta có thể khái quát được hai mô hình
phổ biến hiện nay là:
• Mô hình chuyên doanh kinh doanh chứng khoán: Theo mô hình
này công ty chứng khoán chỉ thực hiện 2 loại dịch vụ duy nhất là thực hiện
lệnh và thanh toán khi lệnh mua/bán của nhà đầu tư đã được "khớp" với 1
hoặc nhiều lệnh khác. Một trong những ưu điểm chính của các công ty
"chuyên doanh" là phí hoa hồng sẽ thấp hơn khoảng từ 1/2 cho đến 2/3 so
với trường hợp các công ty đa năng kinh doanh chứng khoán. Nhà đầu tư chỉ
nên sử dụng dịch vụ của các công ty này khi bạn là một nhà đầu tư nhạy
bén, có khả năng nắm bắt cũng như phân tích thông tin một cách nhanh nhạy
và chính xác và tự mình ra quyết định đầu tư mà không cần sự tư vấn nào
của các chuyên gia cả
• Mô hình đa năng kinh doanh chứng khoán: Ngoài việc cung cấp
2 loại dịch vụ kể trên, còn cung cấp các dịch vụ khác như: phát hành các bản
nghiên cứu tình hình đầu tư do các chuyên viên phân tích của phòng nghiên
cứu soạn thảo, cung cấp dịch vụ quản lý tài sản , tư vấn đầu tư , giúp lập các
dự toán tài chính , tư vấn các biện pháp giảm hoặc tránh thuế, … cho khách
hàng, tự doanh cho chính mình…. Ngày nay, cụm từ "dịch vụ môi giới"
đang dần dần được thay bằng thuật ngữ "các dịch vụ tài chính" do các dịch
vụ mà nhà môi giới cung cấp cho khách hàng ngày càng được mở rộng. Như
vậy mô hình đa năng kinh doanh chứng khoán là mô hình cung cấp cho
khách hành không chỉ những dịch vụ mua, bán thanh toán cho khách hàng
mà còn hỗ trợ cho khách hàng về các dịch vụ tư vấn, ngoài ra công ty cũng
có thể tự kinh doanh cho chính mình. Mô hình này đang được áp dụng phổ
biến tại Việt Nam.
4
1.1.3. Cơ cấu tổ chức của công ty chứng khoán
1.1.3.1 Tổ chức của các công ty chứng khoán
Có 3 loại hình tổ chức của CTCK cơ bản là : Công ty hợp danh, Công

ty TNHH và công ty cổ phần
• Công ty hợp danh
- Là loại hình kinh doanh từ hai chủ sở hữu trở lên
- Thành viên tham gia vào quá trình ra quyết định quản lý công ty gọi
là thành viên hợp danh. Các thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm vô
hạn, tức là phải chịu trách nhiệm với những khoản nợ của công ty hợp danh
bằng toàn bộ tài sản của mình. Ngược lại các thành viên không tham gia
điều hành công ty được gọi là thành viên góp vốn, họ chỉ chịu với những
khoản nợ của công ty giới hạn trong số vốn họ góp của họ.
- Thông thường khả năng huy động vốn của công ty hợp danh bị giới
hạn trong số vốn mà các hội viên có thể đóng góp.
• Công ty trách nhiệm hữu hạn
- Đây là công ty đòi hỏi trách nhiệm của những thành viên giới hạn
trong số vốn mà họ đã góp. Vì vậy điều này sẽ làm giảm áp lực với người
đầu tư
- Mặt khác, về phương diện huy động vốn, cũng đơn giản và linh hoạt
hơn so với công ty hợp danh. Đồng thời, vấn đề tuyển đội ngũ quản lý cũng
năng động hơn, không bị bó hẹp trong một số đối tác như công ty hợp danh.
Vì những lý do trên nên rất nhiều CTCK hiện nay hoạt động dưới
hình thức Công ty TNHH
• Công ty cổ phần
- Công ty cổ phần là một pháp nhân độc lập, với các chủ sở hữu là
các cổ đông.
- Đại hội cổ đông có quyền bầu hội đồng quản trị. Hội đồng quản trị
này sẽ ra các chính sách, quyết định của công ty và chỉ định giám đốc cùng
5
các chức vụ quản lý khác để điều hành công ty theo các chiến lược công ty
đã đề ra.
- Giấy chứng nhận cổ phiếu không thể hiện một món nợ của công ty,
mà thể hiện quyền lợi của người sở hữu đối với tài sản của công ty.

- Công ty vẫn tồn tại khi mà quyền sở hữu của công ty thay đổi.
Công ty cổ phần có một số ưu điểm hơn các mô hình công ty trên là:
+ Đây là một loại hình công ty tồn tại liên tục không phụ thuộc vào
việc thay đổi cổ đông hoặc cổ đông nghỉ hưu hay qua đời.
+ Rủi ro mà chủ sở hữu của công ty phải chịu được hạn chế ở mức
nhất định. Nếu như công ty thua lỗ và phá sản, cổ đông chỉ bị thiệt hại ở
mức vốn đầu tư cho công ty.
+ Quyền sở hữu được chuyển đổi dễ dàng thông qua việc
mua bán cổ phiếu.
+ Ngoài ra, đối với CTCK , nếu tổ chức theo hình thức công ty cổ
phần được niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán thì coi như họ đã được
miễn phí quảng cáo
+ Hình thức tổ chức quản lý, chế độ báo cáo và công bố thông tin
tốt hơn hai hình thức trên.
Do có rất nhiều ưu điểm như vậy, nên ngày nay các CTCK chủ yếu
tồn tại dưới hình thức công ty cổ phần (như Hàn Quốc chẳng hạn) còn qui
định CTCK là công ty cổ phần.
1.1.3.2 Cơ cấu tổ chức của Công ty chứng khoán
Cơ cấu tổ chức của CTCK phụ thuộc vào loại hình nghiệp vụ chứng
khoán mà công ty thực hiện cũng như qui mô hoạt động kinh doanh của nó.
Tuy nhiên, chúng đều có đặc điểm chung là hệ thống các phòng ban chức
năng được chia ra làm hai khối tương ứng với hai khối công việc mà CTCK
đảm nhận:
6
• Khối nghiệp vụ (front office): Là khối thực hiện các giao dịch kinh
doanh và dịch vụ chứng khoán. Khối này đem lại thu nhập cho công ty bằng
cách đáp ứng nhu cầu của khách hàng và tạo ra các sản phẩm phù hợp với
các nhu cầu đó. Khối này thường do một phó giám đốc trực tiếp phụ trách.
Tương ứng với các nghiệp vụ của khối này sẽ có những bộ phận phòng ban
nhất định:

+ Phòng môi giới
+ Phòng tự doanh
+ phòng bảo lãnh phát hành
+ phòng quản lý danh mục đầu tư và quỹ đầu tư
+ Phòng tư vấn đầu tư
+ Phòng tư vấn tài chính cho công ty
7
Bảng 1.1: Sơ đồ khối sự nghiệp
8
Phó giám đốc điều hành khối 1
Phòng
Môi
gíơi
Phòng
Tự
doanh
Phòng
Bão
lãnh
phát
hành
Phòng

vấn
đầu

Phong
Quản

quĩ

đầu

Phòng

vấn
tài
chính
công
ty
Phòng
Thanh
toán

lưu trữ
chứng
khoán
Phòng
quản lý
thu
nhập
chứng
khoán
Phòng
ủy
quyền
Phòng
cho vay
chứng
khoán
• Khối phụ trợ (back office): Là khối không trực tiếp thực hiện các

nghiệp vụ kinh doanh, nhưng nó không thể thiếu được trong vận hành của
CTCK vì hoạt động của nó mang tính chất trợ giúp cho khối nghiệp vụ.
Khối này cũng do một giám đốc phụ trách, thực hiện các công việc yểm trợ
cho khối 1
Bảng 1.2: Sơ đồi khối phụ trợ
(bảng 2)
(Các phòng có mũi tên liền nét chỉ những phòng không thể thiếu trong
công ty chứng khoán. Các phòng có mũi tên nét rời là các phòng phụ trợ, có
thể có hoặc không thể có tuy từng CTCK )
Ngoài sự phân biệt rõ ràng như vậy, do mức độ phát triển của CTCK
và TTCK mà có thể có thêm các bộ phận khác như: mạng lưới chi nhánh,
văn phòng trong và ngoài nước, văn phòng đại lý…
9
Phó giám đốc điều hành khối 2
Phòng
nghiên
cứu
phát
triển
Phòng
hành
chính
và tổ
chức
Phòng
thông
tin và
phân
tích
chứng

khoán
Phòng
ngân
quĩ
Phòng
kế toán
Phòng

quĩ( quả
n lý tài
khoản
vay
mua)
Phòng
hạch
toán tín
dụng
Phòng
kế
hoạch
kinh
doanh
Phòng
phát
triển
sản
phẩm
mới
Phòng
máy

tính tin
học
Phòng
pháp
chế
1.1.4 Hoạt động của các công ty chứng khoán
1.1.4.1 Hoạt động nghiệp vụ
• Nghiệp vụ môi giới chứng khoán: Môi giới chứng khoán là hoạt
động kinh doanh chứng khoán trong đó CTCK đại diện cho khách hàng giao
dịch thông qua cơ chế giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán hay thị trường
OTC mà chính khách hàng phải chịu trách nhiệm đối với hậu quả kinh tế
của việc giao dịch ấy.
Nghiệp vụ môi giới có 2 nhiệm vụ chính là:
+ Nối liền khách hàng với bộ phận nghiên cứu đầu tư, cung cấp cho
khách hàng các báo cáo nghiên cứu và các kiến nghị đầu tư
+ Nối liền những người bán và những người mua: Đem đến cho
khách hàng tất cả các loại sản phẩm và dịch vụ tài chính.
• Nghiệp vụ tự doanh: tự doanh là việc CTCK tự tiến hành các giao
dịch mua bán chứng khoán cho chính mình.
Hoạt động tự doanh của CTCK có thể thực hiện trên các thị trường
giao dịch tập trung (trung tâm giao dịch chứng khoán, Sở giao dịch chứng
khoán), hoặc trên thị trường OTC,…Trên thị trường giao dịch tập trung,
lệnh giao dịch của CTCK được đưa vào hệ thống và thực hiện như lệnh giao
dịch của khách hàng. Trên thị trường OTC các hoạt động này có thể được
giao dịch trực tiếp giữa công ty với đối tác hoặc qua hệ thống mạng thông
tin. Tại một số nước, hoạt động tự doanh của các CTCK còn được thực hiện
thông qua hoạt động tạo lập thị trường (như Mỹ). Trong hoạt động này,
CTCK đóng vai nhà tạo lập thị trường, nắm giữ một số lượng nhất định của
một số loại chứng khoán và thực hiện mua bán với khách hàng nhằm hưởng
phí giao dịch và chênh lệch giá.

• Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành: Để thực hiện các đợt chào bán
chứng khoán ra công chúng đòi hỏi tổ chức phát hành phải cần đến các
CTCK tư vấn cho đợt phát hành và thực hiện bảo lãnh, phân phối chứng
10
khoán ra công chúng. Đây chính là nghiệp vụ bảo lãnh phát hành của các
CTCK và là nghiệp vụ chiếm doanh thu khá cao trong tổng doanh thu của
công ty chứng khoán.
Nghiệp vụ bão lãnh là việc CTCK có chức năng bảo lãnh giúp tổ chức
phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, tổ chức
việc phân phối chứng khoán và giúp bình ổn giá chứng khoán trong giai
đoạn đầu phát hành. Trên TTCK, tổ chức bảo lãnh phát hành không chỉ có
CTCK mà còn bao gồm các định chế tài chính khác như Ngân hàng đầu tư,
những thông thường việc CTCK nhận bảo lãnh phát hành kiêm luôn việc
phân phối chứng khoán, còn các Ngân hàng đứng ra nhận bảo lãnh phát
hành (hoặc thành lập tổ chức bảo lãnh phát hành) sau đó chuyển phân phối
chứng khoán cho các CTCK tự doanh hoặc các thành viên khác
• Nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư: Đây là nghiệp vụ quản lý
vốn ủy thác của khách hàng để đầu tư vào chứng khoán thông qua danh mục
đầu tư nhằm sinh lợi cho khách hàng. Quản lý danh mục đầu tư là một dạng
nghiệp vụ tư vấn mang tính chất tổng hợp có kèm theo đầu tư, khách hàng
ủy thác tiền cho CTCK thay mình quyết định đầu tư theo một chiến lược
hay một nguyên tắc đã được khách chấp thuận hoặc yêu cầu (mức lợi nhuận
kỳ vọng; rủi ro có thể chấp nhận…)
• Nghiệp vụ tư vấn đầu tư chứng khoán: Cũng như các loại hình
tư vấn khác, tư vấn đầu tư chứng khoán là công việc CTCK thông qua hoạt
động phân tích để đưa ra các lời khuyên, phân tích các tình huống và có thể
thực hiện một số công việc dịch vụ khác liên quan tới phát hành, đầu tư và
cơ cấu tài chính cho khách hàng. Hoạt động tư vấn chứng khoán có thể được
phân loại theo các chỉ tiêu sau:
+ theo hình thức của hoạt dộng tư vấn: bao gồm tư vấn trực tiếp

(gặp gỡ khách hàng trực tiếp hoặc thông qua thư tư, điện thoại) tư vấn gián
tiếp (thông qua các ấn phẩm, sách báo) để tư vấn cho khách hàng
11
+ theo mức độ ủy quyền của tư vấn: Bao gồm tư vấn gợi ý (gợi ý
cho khách hàng về phương cách đầu tư hợp lý, quyết định đầu tư của khách
hàng) và tư vấn ủy quyền (vừa tư vấn vừa quyết định theo sự phân cấp, ủy
quyền thực hiện của khách hàng).
+ Theo đối tượng của hoạt động tư vấn: Bao gồm tư vấn cho người
phát hành (tư vấn cho tổ chức dự kiến phát hành: cách thức, hình thức phát
hành, xậy dựng hồ sơ, bản cáo bạch…Và giúp cho tổ chức phát hành trong
việc tổ chức bão lãnh, phân phối chứng khoán) và tư vấn đầu tư (tư vấn cho
khách hàng đầu tư chứng khoán trên thị trường thứ cấp về giá, thời hạn, định
hướng đầu tư vào các loại chứng khoán ..
• Các nghiệp vụ phụ trợ
+ Lưu kí chứng khoán: Là việc lưu giữ, bão quản chứng khoán của
khách hàng thông qua các tài khoản lưu ký chứng khoán. Khi thực hiện dịch
vụ lưu ký chứng khoán cho khách hàng, CTCK sẽ nhận được các khoản thu
phí lưu kí chứng khoán, phí gửi, phí rút và phí chuyển nhượng chứng khoán.
+ Quản lý thu nhập của khách hàng (quản lý cổ tức): Xuất việc từ
việc lưu kí chứng khoán cho khách hàng, công ty chứng khoán sẽ theo dõi
tình hình thu lãi, cổ tức của chứng khoán và đứng ra làm dịch vụ thu nhận
và chi trả cổ tức cho khách hàng thông qua tài khoản mở của khách hàng.
+ Nghiệp vụ tín dụng: Đối với các thị trường chứng khoán phát triển,
bên cạnh nghiệp vụ môi giới chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa
hồng, CTCK còn triển khai dịch vụ cho vay chứng khoán để khách hàng
thực hiện giao dịch bán khống (short sale) hoặc cho khách hàng vay tiền để
khách hàng thực hiện nghiệp vụ mua ký quĩ.
+ Nghiệp vụ quản lý quỹ: ở một số TTCK, pháp luật còn cho phép
CTCK được quản lý được thực hiện nghiệp vụ quản lý quĩ đầu tư. Theo đó,
CTCK cử đại diện của mình để quản lý quĩ đầu tư. Theo đó, CTCK cử đại

diện của mình để quản lý quĩ và sử dụng vốn và sử tài sản của quĩ để đầu tư
để đầu tư . CTCK được thu phí dịch vụ quản lý quĩ đầu tư
12
1.1.4.2 Hoạt động tài chính
Giống như các công ty khác, hoạt động tài chính của công ty chứng
khoán cũng bao gồm việc xác định kinh doanh cái gì để thu lợi nhuận, sử
dụng các loại tài sản cố định gì; lấy nguồn tài chính dài hạn nào để chi phí
cho khoản đầu tư của mình (đi vay hay gọi thêm cổ đông), quản lý các hoạt
động thu chi, thanh toán cho khách hàng như thế nào. Hoạt động tài chính
có quan trọng mật thiết với hoạt động nghiệp vụ. Số lượng nghiệp vụ và qui
mô kinh doanh lớn thế nào thì ứng với nó là mảng tài chính công ty như vậy.
Hoạt đông tài chính của công ty bao gồm các hoạt động chính như sau:
• Vốn của CTCK : Vốn của CTCK nhiều hay ít phụ thuộc vào tài sản
cần tài trợ, mà các tài sản này được quyết định bởi nghiệp vụ mà nó thực
hiện ,như bảo lãnh phát hành, tự doanh chứng khoán là hình thức kinh
doanh rất cần nhiều vốn, bởi vì CTCK cần phải duy trì số lượng các các loại
chứng khoán mà bản thân giá của các công cụ thị trường vốn (cổ phiếu, trái
phiếu) thì luôn biến động mạnh, còn hoạt động môi giới, thực hiện quản lý
tiền, tư vấn… thì không cần vốn lớn. Vì vậy hoạt động tài chính vốn CTCK
là làm thể nào có một cơ cấu vốn hợp lý (tỷ lệ nợ và vốn chủ hợp lý…) và
tìm kiếm các nguồn tài trợ cho vốn của công ty (phát hành cổ phiếu, trái
phiếu, chứng chỉ quĩ …).
• Quản lý vốn và hạn mức kinh doanh: Trong quản lý vốn của công
ty ngoài việc xác định tỷ lệ cơ cấu vốn như trên, các CTCK cần phải duy trì
một mức vốn khả dụng để dảm bảo khả năng thanh toán cho nhà đầu tư.
Ngoài ra công ty còn phải trích thêm phần trăm lãi ròng hàng năm lập quĩ bổ
sung vốn điều lệ cho tới khi bằng một mức phần trăm nào đó của vốn điều
lệ. Quỹ này sẽ được bù đắp các thâm hụt trong tương lai.
Hạn mức kinh doanh là tỷ lệ tối đa vốn của công ty muốn đầu tư vào
một loai tài sản tài chính nào đó (ví dụ như ở Hàn quốc các CTCK không

được: đầu tư sử dụng quá 60% giá trị tài sản ròng để mua cổ phiếu niêm yết,
đầu tư quá 5% tổng số cổ phiếu của một công ty được niêm yết…)
13
• Kế toán công ty: Kế toán công ty là một hệ thống chức năng cung
cấp các thông tin tài chính hữu hiệu cho việc ra các quyết định kinh doanh
và kinh tế, thông qua việc ghi chép, sắp xếp hệ thống, chuyển giao các hoạt
động tài chính của một công ty.
1.1.5 Chức năng và vai trò của công ty chứng khoán
Hoạt động của TTCK trước hết cần những người môi giới trung gian,
đó là các CTCK - một định chế tài chính trên TTCK , có nghiệp vụ chuyên
môn, đội ngũ nhân viên lành nghề và bộ máy tổ chức phù hợp để thực hiện
vai trò trung gian môi giới mua – bán chứng khoán, tư vấn đầu tư và thực
hiện một số dịch vụ khác cho cả người đầu tư lẫn tổ chức phát hành.
CTCK là các tác nhân quan trọng thúc đẩy sự phát triển của nền kinh
tế nói chung và TTCK nói riêng. Nhờ các CTCK mà chứng khoán được lưu
thông từ nhà phát hành với người đầu tư và có tính thanh khoản, qua đấy thì
có thể huy động nguồn vốn từ nơi nhàn rỗi để phân bổ vào những nơi sử
dụng có hiệu quả.
1.1.5.1 Chức năng cơ bản của công ty chứng khoán
• Tạo ra cơ chế huy động vốn linh hoạt giữa người có tiền nhàn rỗi
đến người sử dụng vốn (thông qua cơ chế phát hành và bảo lãnh phát hành)
• Cung cấp cơ chế giá cho giao dịch (thông qua hệ thống khớp giá
hoặc khớp lệnh)
• Tạo tính thanh khoản cho chứng khoán (hoán chuyển từ chứng
khoán ra tiền mặt, và ngược lại từ tiền mặt ra chứng khoán một cách dễ
dàng)
• Góp phần điều tiết và bình ổn thị trường (thông qua hoạt động tự
doanh hoặc vai trò tạo lập thị trường ).
14
1.1.5.2 Vai trò của các công ty chứng khoán

Với những chức năng cơ bản như trên, CTCK có vai trò quan trọng
đối với những chủ thể khác nhau trên TTCK.
• Đối với các tổ chức phát hành: Mục tiêu tham gia của TTCK của
các tổ chức phát hành là huy động vốn thông qua việc phát hành các chứng
khoán.Vì vậy, thông qua các đại lý phát hành, bảo lãnh phát hành, các công
ty chứng khoán có vai trò tạo ra cơ chế huy động vốn phục vụ các nhà phát
hành. Một trong những nguyên tắc hoạt động của TTCK là nguyên tắc trung
gian. Nguyên tắc này yêu cầu những nhà đầu tư và những nhà phát hành
không được mua bán trực tiếp chứng khoán mà phải thông qua các trung
gian mua bán. Các CTCK sẽ thực hiện vai trò trung gian cho cả nhà đầu tư
và nhà phát hành. Khi thực hiện công việc này, CTCK đã tạo ra cơ chế huy
động vốn cho nền kinh tế thông qua TTCK.
Đối với các nhà đầu tư: Thông qua các hoạt động như môi giới, tư vấn
đầu tư, CTCK có vai trò làm giảm chi phí và thời gian giao dịch, do đó nâng
cao hiệu quả đầu tư. Đối với hàng hóa thông thường, mua bán qua trung
gian sẽ làm tăng chi phí cho người mua và người bán. Tuy nhiên, đối với
TTCK, sự biến động thường xuyên của biến động giá cả chứng khoán cũng
như mức rủi ro cao sẽ làm cho nhà đầu tư tốn kém chi phí, công sức và thời
gian tìm hiểu thông tin trước khi quyết định đầu tư. Nhưng nếu được thông
qua các công ty chứng khoán, với trình độ chuyên môn cao và uy tín nghề
nghiệp sẽ giúp cho các nhà đầu tư thực hiện các khoản đầu tư một cách hiệu
quả.
• Đối với TTCK thì công ty chứng khoán có hai vai trò chính:
 Góp phần tạo lập giá cả, điều tiết thị trường. Giá cả chứng khoán là
do thị trường quyết định. Tuy nhiên, để đưa ra mức giá cuối cùng, người
mua và bán phải thông qua các CTCK vì họ không được trực tiếp tham gia
vào quá trình mua bán. Các CTCK là những thành viên của thị trường, do
vậy họ cũng góp phần tạo lập giá cả của thị trường thông qua đấu giá. Trên
15
thị trường sơ cấp, các CTCK cùng với nhà phát hành cùng với nhà phát hành

là những người đưa ra mức giá đầu tiên. Chính vì vậy giá của mỗi loại
chứng khoán giao dịch đều có sự tham gia định giá của các CTCK . Các
CTCK còn thể hiện vai trò lớn khi tham gia điều tiết thị trường. Để bảo vệ
khoản đầu tư của khách hàng và bảo vệ lợi ích cho chính mình, nhiều công
ty chứng khoán đã dành một tỷ lệ nhất định các giao dịch để thực hiện vai
trò bình ổn thị trường .
 Góp phần làm tăng tính thanh khoản của các tài sản tài chính.
TTCK có vai trò là môi trường làm tăng tính thanh khoản của các tài
sản tài chính. Nhưng các CTCK mới là người thực hiện tốt vai trò đó bởi vì
CTCK tạo tạo ra cơ chế giao dịch trên thị trường. Trên thị trường cấp 1, do
thực hiện các hoạt động như bảo lãnh phát hành, chứng khoán hóa, các
CTCK không những huy động một lượng vốn lớn đưa vào sản xuất kinh
doanh cho nhà phát hành mà còn làm tăng tính thanh khoản của các tài sản
tài chính được đầu tư vì các chứng khoán qua các đợt phát hành sẽ được
mua bán trên thị trường cấp 2, do thực hiện các giao dịch mua và bán các
CTCK sẽ giúp người đầu tư chuyển đổi chứng khoán thành tiền mặt và
ngược lại. Những hoạt động đó có thể làm tăng tính thanh khoản của những
tài sản tài chính.
• Đối với các cơ quan quản lý thị trường. CTCK có vai trò cung cấp
thông tin về TTCK cho các cơ quan quản lý thị trường. Các công ty chứng
khoán có thể thực hiện vai trò này bởi vì họ vừa là người bảo lãnh phát hành
cho các chứng khoán mới, vừa là trung gian mua bán chứng khoán và thực
hiện các giao dịch trên thị trường. Một trong những yêu cầu của TTCK là
các thông tin cần phải được công khai hóa dưới sự giám sát của các cơ quan
quản lý thị trường. Việc cung cấp các thông tin vừa là qui định của hệ thống
luật pháp, vừa là nguyên tắc nghề nghiệp của các CTCK vì CTCK cần phải
minh bạch và công khai trong hoạt động. Các thông tin công ty chứng khoán
cùng cấp có thể bao gồm thông tin về các giao dịch mua và bán trên thị
16
trường, thông tin về các cổ phiếu, trái phiếu và tổ chức phát hành, thông tin

về các nhà đầu tư…Nhờ các thông tin này, các cơ quan quản lý thị trường có
thể kiểm soát và chống hiện tượng thao túng, lũng đoạn bóp méo thị trường .
Tóm lại CTCK là một tổ chức chuyên nghiệp trên TTCK, có vai trò
cần thiết và quan trọng đối với các nhà đầu tư, các nhà phát hành đối với các
cơ quan quản lý thị trường và đối với TTCK nói chung.
1.2 HOẠT ĐỘNG PHÂN TÍCH NGÀNH CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1.2.1 Khái niệm phân tích ngành
Trên thực tế, có 3 phương pháp để phân tích các xu hướng biến động
của thị trường bao gồm: Phương pháp phân tích dựa vào các yếu tố vĩ mô
như lãi suất, lạm phát…; Phương pháp phân tích dựa vào các mô hình (hay
còn gọi là phân tích vi mô); Phương pháp phân tích kỳ thuật. Tuy nhiên,
trong thực tế, các nhà kinh tế vẫn sử dụng kết hợp cả ba phương pháp, bởi
mỗi phương pháp lại có những ưu, nhược điểm khác nhau.
Phân tích ngành là việc sử dụng các mô hình để phân tích sự ảnh
hưởng của mỗi ngành nghề đến những biến động của thị trường, hay của nền
kinh tế. Đây là bước phân tích để chúng ta tiến tới có thể đưa ra những lựa
chọn công ty, hay loại cổ phiếu nhất định cho một danh mục đầu tư an toàn
mà vẫn đảm bảo khả năng sinh lời
1.2.2 Vị trí và mục đích phân tích ngành của công ty chứng khoán
1.2.2.1 Vị trí của hoạt động phân tích ngành trong công ty chứng
khoán
Phân tích ngành là một nghiệp vụ chính trong phòng phân tích và
nghiên cứu trong công ty chứng khoán. Đây là một bộ phận của kế hoạch ba
bước phân tích thiết yếu đã được xác lập. Phân tích ngành là bước thứ hai để
chúng ta tiến tới lựa chọn các công ty nhất định và những cổ phiếu nhất định
cho danh mục đầu tư của chúng ta.
Phân tích ngành không phải một nghiệp vụ trực tiếp đem lại doanh
thu cho các công ty chứng khoán. Nó cũng không có vị trí quan trọng tới
17
mức các công ty chứng khoán không thể không thực hiện nghiệp vụ này.

Phân tích ngành đơn giản là một nghiệp vụ phân tích bổ trợ hỗ trợ cho các
hoạt động nghiệp vụ doanh thu khác được tốt hơn.
1.2.2.2 Mục đích của hoạt động phân tích ngành trong công ty
chứng khoán
• Đối với hoạt động tự doanh: Giao dịch tự doanh là các giao dịch
bằng chính nguồn vốn kinh doanh của công ty nhằm phục vụ mục đích đầu
tư kinh doanh thu lợi cho chính mình. Có thể nói, khi thực hiện hoạt động tự
doanh thì các công ty chứng khoán cũng đóng vai trò của nhà đầu tư mua
bán cổ phiếu nhằm mục đích kiếm lời. Do đó họ cũng cần có nhiều thông tin
để ra quyết định. Thông tin ngành là một trong những thông tin quan trọng.
Việc phát triển hoạt động phân tích ngành sẽ giúp công ty có nhiều thông tin
để ra quyết định hơn.
• Đối với động môi giới: Hoạt động phân tích ngành giúp cung cấp
thông tin cho các nhân viện môi giới để họ có thể có sự tư vấn đầy đủ thông
tin hơn đến khách hàng. Những khách hàng đến với công ty chứng khoán
không chỉ vì mục đích giao dịch, họ còn có nhu cầu được tư vấn. Những
nhóm khách hàng lai thường rất khác nhau về phương thức đầu tư cũng như
mức độ ưa thích rủi ro. Những bài bình luận cũng như các thông tin truyền
thông khác không đủ để họ có được quyết định đầy đủ thông tin nhất. không
kể đến điều kiện khả năng cập nhật và tổng hợp thông tin của họ. Do đó một
công ty cung cấp hoạt động môi giới tốt hơn sẽ có khả năng lôi kéo khách
hàng lớn hơn.Việc phân tích ngành nhằm mục đích cung cấp thông tin để
nâng cao chất lượng môi giới của công ty chứng khoán.
• Đối với hoạt động quản lý danh mục đầu tư: Hoạt động phân tích
ngành cũng không có mục địch khác ngoài giúp cung cấp thông tin cho hoạt
động này hoạt động hiệu quả hơn
18
1.2.3 Quá trình phân tích ngành
Quá trình này bao gồm:
• Phân tích tổng quát ngành: Việc này giúp ta nhận biết được chu kỳ

kinh doanh và yếu tố thị trường có tác động như thế nào tới sự phát triển hay
thất bại của ngành
• Phân tích vi mô ngành: Việc phân tích dựa vào các mô hình và số
liệu trong ngành
1.2.3.1 Phân tích tổng quan ngành
Bao gồm phân tích các nhân tố:
a. Chu kỳ kinh doanh và các bộ phận của ngành
b. Những thay đổi trong cấu trúc nền kinh tế và các ngành khác nhau
c. Xác định chu kỳ sống của ngành
d. Phân tích môi trường cạnh tranh trong một ngành
e. Chu kỳ kinh doanh và các bộ phận của ngành
f. Khuynh hướng thị trường có thể có hai dạng chính: Chu kỳ thay đổi
và Cấu trúc thay đổi
a. Chu kỳ kinh doanh bao giờ cũng có tính chất chung, đi lên tới
đỉnh và đi xuống ở cuối chu kỳ. Khi nền kinh tế phục hồi, các ngành sản
xuất hàng tiêu dùng như ôtô, máy tính… sẽ được quan tâm hơn, vì nền kinh
tế phục hồi sẽ làm tăng tiêu dùng cá nhân, và thu nhập cá nhân. Và thông
thường, khi lên phía đỉnh của chu kỳ kinh doanh, lạm phát bắt đầu có xu
hướng tăng mạnh, do cầu bắt đầu lớn hơn cung. Và các ngành nguyên liệu
cơ bản như dầu khí, thép… sẽ trở thành những ngành thu hút đầu tư. Trong
khi đó, khi nền kinh tế rơi vào khủng hoảng hoặc suy thoái, những ngành
như thực phẩm, dược phẩm lại là những ngành được chú trọng đầu tư, bởi,
cho dù toàn bộ tiêu dùng có giảm sút thì người dân vẫn phải chi tiêu cho nhu
cầu thiết yếu của cuộc sống. Và tương tự như vậy, nếu nền kinh tế nội địa
yếu kém sẽ làm đồng tiền mất giá, những ngành với thành phần xuất khẩu
19
chiếm tỷ trọng lớn, bởi hàng hoá nội địa giảm giá một cách tương đối với
hàng hoá nước ngoài.
Như vậy, chúng ta có thể nhận ra những ngành hàng hấp dẫn các nhà
đầu tư thông qua sự biến động của từng chu kỳ kinh doanh. Và việc dự đoán

được những thay đổi của những yếu tố kinh tế quan trọng tối thiểu từ 3 đến
6 tháng trong tương lai là rất cần thiết trong hoạt động đầu tư.
b. Những thay đổi trong cấu trúc kinh tế và các ngành khác nhau
Sự thay đổi trong công nghệ, chính trị, môi trường pháp lý là những
yếu tố sẽ ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ dòng tiền và rủi ro tiềm năng của
mỗi ngành trong nền kinh tế.
 Thành phần lao động
 Phong tục của người dân
 Sự phát triển của công nghệ
 Tính ổn định của Chính trị và Luật pháp
c. Xác định chu kỳ sống của ngành
Khi dự đoán doanh thu và lợi nhuân ngành bắt buộc phải phân chia sự
phát triển của chu kỳ sống của ngành thành những giai đoạn khác nhau, từ
khi hình thành đến khi kết thúc. Thường, một chu kỳ sống của ngành được
phân chia thành 5 giai đoạn khác nhau:
 Giai đoạn bắt đầu phát triển
 Giai đoạn tăng trưởng nhanh
 Giai đoạn bắt đầu tăng trưởng chín muồi
 Giai đoạn ổn định và tăng trưởng chín muồi
 Giai đoạn tăng trưởng giảm
Đồng thời, việc phân tích chu kỳ sống của ngành cũng có thể cung
cấp một số dấu hiệu liên quan đến lợi ích biên và tỷ lệ tăng trưởng thu nhập.
Giai đoạn 1, Giai đoạn bắt đầu phát triển: trong thời kỳ này, ngành
đã trải qua thời kỳ tăng trưởng doanh số bán ra bình thường, và thường rất
20
nhỏ và không có lợi ích biên. Bởi, sản phẩm trong giai đoạn này còn mới,
thị trường tiêu thụ nhỏ và các công ty phải gánh chịu chi phí lớn.
Giai đoạn 2, Giai đoạn tăng trưởng chín muồi: Thị trường bắt đầu
biết tới ngành hàng. Lợi ích biên là rất cao, mức doanh số bán ra cao và mức
lợi ích biên cao đã làm cho các công ty hoạt động hiệu quả hơn. Trong thời

kỳ này, lợi nhuận có thể tăng trưởng vượt qua 100%.
Giai đoạn 3, Giai đoạn tăng trưởng chín muồi: Sự thành công của
giai đoạn 2 thoả mãn phần lớn nhu cầu đối với hàng hoá dịch vụ ngành. Và
tăng trưởng trong tương lai với doanh số bán ra có thể vượt qua mức bình
thường, nhưng không thể duy trì trong giai đoạn dài. Ví dụ, nếu nền kinh tế
tăng trưởng 8%/năm, doanh số bán của ngành có thể tăng trưởng 15-20%
/năm. Và lợi nhuận cao đã thu hút đối thủ cạnh tranh của các ngành đó, và
đó là nguyên nhân làm tăng cung và giảm giá, lợi ích cận biên bắt đầu giảm
trở về mức độ bình thường.
Giai đoạn 4, giai đoạn ổn định và tăng trưởng chín muồi: Mặc dù
doanh số bán hàng vẫn tăng trưởng đều so với nền kinh tế, nhưng tại giai
đoạn này, thị trường đã bắt đầu chững lại. Lợi nhuận tăng đến một mức độ
nào đó rồi dừng lại và không thể tăng thêm được nữa. Thời gian này dài hay
ngắn tuy thuộc vào trình độ quản lỳ và phát triển ngành.
Giai đoạn 5, Giai đoạn tăng trưởng giảm: Giai đoạn này, mức tăng
trưởng đã giảm bớt bởi sự dịch chuyển cầu hoặc sự tăng trưởng của sản
phẩm thay thế. Lợi ích biên tiếp tục bị sức ép và một số công ty trong ngành
phải đối mặt với lợi nhuận thấp, hoặc không có. Cuối cùng, các công ty
trong ngành buộc phải đối mặt với việc thay đổi cách sử dụng vốn.
Sau khi phân tích các yếu tố vĩ mô ta sử dụng các yếu tố môi trường
vĩ mô này xem xét ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh
• Môi trường kinh doanh: Môi trường kinh doanh là tổng thể các yếu
tố, điều kiện kinh tế, chính trị pháp luật, công nghệ, văn hoá xã hội, chính
sách chế độ, thông lệ, phong tục sống tại mỗi quốc gia…và cả những điều
21
kiện, yếu tố của ngành và nội bộ từng doanh nghiệp đang tác động vào hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp đó. Môi trường kinh doanh là một yếu tố
quan trọng và luôn thay đổi, buộc các doanh nghiệp phải không ngừng cải
thiện để thích nghi. Có thể chia môi trường kinh doanh thành hai nhóm: Vĩ
mô và vi mô (hay còn gọi là tổng quát và đặc thù).

Môi trường vĩ mô ảnh hưởng đến tất cả các ngành kinh doanh, nhưng
không nhất thiết phải theo một cách xác định. Còn môi trường vi mô là
những yếu tố ảnh hưởng tới một ngành cụ thể trong nền kinh tế.
Có hai yếu tố cần được biết đê có sự phân tích chuẩn xác:
 Thứ nhất: tính phức tạp của môi trường được đặc trưng bởi một
loạt các yếu tố các ảnh hưởng đến nỗ lực của tổ chức. Môi trường càng phức
tạp thì càng khó đưa ra những quy định hữu hiệu
 Thú hai: tính năng động của môi trường bao hàm mức độ biến đổi
trong điều kiện môi trường liên quan. Trong một môi trường ổn định, mức
độ biến động tương đối thấp và có thể dự đoán được. Môi trường năng động
đặc trưng bởi những thay đổi diên ra nhanh chóng và kho dự báo trước. Tính
phức tạp và biến động đặc biệt khi tiến hành phân tích các điều kiện môi
trường vĩ mô và vi mô, cả hai yếu tố này đều là yếu tố bên ngoài của doanh
nghiệp.
• Các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô
Các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô bao gồm:
 Yếu tố kinh tế :Đó là những tác động chung trong nền kinh tế, được
đo bởi các chỉ tiêu: tốc độ phát triển kinh tế, mức độ thu nhập, lạm phát, lãi
suất… thậm chí, bao gồm cả những yếu tố như thu chi ngân sách của chính
phủ muốn tạo điều kiện phát triển hay hạn chế tăng trưởng ngành.
 Yếu tố chính trị: Yếu tố này có vai trò định hướng, chi phối toàn bộ
hoạt động trong đó có hoạt động kinh doanh. Một môi trường chính trị ổn
định, khuyến khích tăng trưởng ngành sẽ là một điều kiện thuận lợi cho
ngành nghề đó. Nhưng một quốc gia có nền chính trị không ổn định, tranh
22
chấp hoặc chiến tranh xảy ra thường xuyên, thì mục tiêu phát triển nền kinh
tế trở thành thứ yếu, mọi nguồn lực tập trung để ổn đinh quốc gia, như vậy,
không có nhiều cơ hội để ngành nghề có thể phát triển, ngoại trừ những
ngành có ích cho hoạt động bình ổn đó.
 Yếu tố pháp luật và chính phủ

 Yếu tố văn hoá – xã hội: Các giá trị chung như phong tục tập quán,
tư tưởng tôn giáo, cơ cấu dân số, thu nhập… đều tác động đến doanh
nghiệp. Bởi, ngày nay, hoạt động của các doanh nghiệp không chỉ bó hẹp
trong một nước, mà nó phát triển rộng khắp trên toàn thế giới. Vì vậy, nắm
vững các giá trị căn hoá, xã hội của từng vùng miền tạo cho doanh nghiệp
có những hướng phát triển cụ thể trong từng khu vực khác nhau.
 Yếu tố tự nhiên: Nguồn tài nguyên, tình trạng môi trường, nguồn
năng lượng…là những mối quan tâm hàng đầu của xã hội. Yếu tố môi
trường mà mỗi ngành nghề kinh doanh quan tâm, bao gồm: Tài nguyên và
chi phí khai thác; Hiện tượng thiếu hụt năng lượng cho tiêu dùng sản xuất;
Môi trường, nước; Rác thải công nghiệp cần xử lý; Thời tiết, khí hậu…Và
khi phân tích các yếu tố tự nhiên, các ngành đều tìm hiểu những ảnh hưởng,
thay đổi của những yếu tố này có tác động tích cực, hay tiêu cực tới doanh
nghiệp mình.
 Yếu tố dân số, địa lý: Đây là những yếu tố ảnh hưởng đến nguồn
nhân lực, khách hàng của doanh nghiệp. Trước quyết định đầu tư phát triển
thị trường cần nghiên cứu những chỉ tiêu cụ thế như: quy mô, cơ cấu, thành
phần lao động, tỷ lệ phát triển dân số, trình độ học vấn… Và cả những yếu
tố địa lý như xây dựng cơ sở doanh nghiệp ở đâu thì thuân lợi choviệc phân
phối, quảng cáo, sản xuất,…
 Yếu tố ký thuật công nghệ: Với sự phát triển của khoa học, kỹ
thuật, công nghệ giúp các doanh nghiệp có những phát triển nhanh gấp
nhiều lần so với việc không sử dụng công nghệ mới. Tuy nhiên, công nghệ
mới làm đẩy nhanh chu kỳ sống của sản phẩm, khiến sản phẩm nhanh trở
23
nên bão hoà trên thị trường. Tuỳ từng loại công nghệ có ảnh hưởng tích cực
và tiêu cực tới ngành hoặc từng doanh nghiệp cụ thể: Công nghệ giúp tạo
sản phẩm mới, thị trường mới, giảm chi phí và chất lượng sản phẩm tăng…;
Công nghệ có thể đẩy doanh nghiệp tới nguy cơ sản xuất các sản phẩm lạc
hậu, chi phí đầu tư mới tăng, quản lý tăng… Do vậy, cần nhanh chóng tận

dụng cơ hội phát huy lợi thế công nghệ mới, và ngăn ngừa nguy cơ do công
nghệ gây nên…
Sử dụng mô hình năm nhân tố cuar Porter về phân tích ngành
Để tạo ra một chiến lược cạnh tranh thuận lợi, các doanh nghiệp phải
kiểm tra cấu trúc cạnh tranh cơ bản của chính mình bởi vì lơi nhuận tiềm
năng của một công ty bị ảnh hưởng lớn bởi lợi nhuận cạnh tranh của ngành.
Theo Porter, ông tin rằng, môi trường cạnh tranh của một ngành bao giờ
cũng bị ảnh hưởng bởi 5 yếu tố chính, và 5 lực lượng này trong cạnh
tranhlớn này định ra mức độ mạnh của sự cạnh tranh và ảnh hưởng của mỗi
nhân tố có thể thay đổi đột ngột trong số các ngành. Bao gồm:
 Đối thủ tiềm năng tham gia vào ngành
 Tác động của người mua
 Tác động của người bán
 Các đối thủ cạnh tranh lẫn nhau hiện tại trong ngành
 Sản phẩm thay thế
Trong 5 nhân tố trên, thì nhân tố mạnh nhất sẽ trở thành nhân tố thống
trị và trở thành trọng yếu theo quan điểm chiến lược. Khi xác định được ảnh
hưởng của các lực lượng cạnh tranh này, nhiệm vụ của các doanh nghiệp là
xác định điểm mạnh, yếu của mình trong mối tương quan ngành, và qua đó,
xác định chiến lược cạnh tranh là tìm được vị trí của ngành.
Các yếu tố trong và ngoài ngành có tác động quyết định đến tính chất
và mức độ cạnh tranh trong ngành sản xuất kinh doanh và môi trường nội bộ
doanh nghiệp. Sự am hiểu các yếu tố này giúp doanh nghiệp nhận ra mặt
24
mạnh, mặt yếu của lình, từ đó xác định các cơ hội, nguy cơ mà ngành kinh
doanh đó sẽ gặp phải.
1.2.3.2 Phân tích mô hình ngành
Quy trình phân tích
• Bước1: Xác định hệ số rủi ro bêta của ngành, từ đó tính toán lợi
suất yêu cầu theo công thức CAPM : E(R) = Rf + beta*(Rm – Rf)

Trong đó:
E(R) : lợi tức yêu cầu của ngành
Rf: Lợi tức phi rủi ro
Rm: Lợi tức trung bình của thị trường
• Bước 2: Phân tích chỉ số P/E của toàn ngành
Ta có thể phân tích từ hai góc độ: Xem xét mối quan hệ của P/E
ngành với P/E tổng thể thị trường hay Xem xét các nhân tố cơ bản của
ngành gây tác động trực tiếp tới P/E ngành như hệ số trả cổ tức, lợi suất yêu
cầu r và tỷ lệ tăng trưởng cổ tức
• Bước 3: ước tính thu nhập trên cố phiếu (EPS)
Việc ước tính này dựa trên phương pháp chủ yếu như phân tích chu
kỳ kinh doanh, phân tích đầu vào – ra, phân tích mối quan hệ giữa ngành và
trong nền kinh tế tổng thế.
• Bước 4: Tính giá trị của chỉ số ngành bằng cách nhân hệ số P/E
cuối kỳ tính toán được với ước tính thu nhập đầu cổ phiếu:
r =(giá trị chỉ số cuối kỳ- giá trị đầu kỳ+ cổ tức nhận trong kỳ)/giá trị đầu kỳ
• Bước 5: so sánh lợi suất đạt được r với lợi suất yêu cầu E(R).
Thông thường, nếu r>E(R) thì nên đầu tư vào ngành này.
Việc thực hiện đầy đủ quy trình trên sẽ rất thuận lợi nếu có sẵn số liệu
thống kê. Tuy nhiên, trong thực tế, việc có được đầy đủ các chỉ số một cách
chính xác là điều không tưởng. Tuy vậy, chúng ta có thể bắt đầu phân tích
mô hình DDM với 2 giai đoạn tăng trưởng cho ngành, sau đó, sẽ phân tích
25

×