Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

MÔN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN ĐỀ TÀI: TỪ VIỆC TÌM HIỂU QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC LÊNIN VỀ DÂN TỘC LÀM RÕ SỰ HÌNH THÀNH DÂN TỘC VIỆT NAM.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (515.14 KB, 34 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TPHCM
KHOA ĐẠO TẠO CHẤT LƯỢNG CAO

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
MƠN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN

ĐỀ TÀI:
TỪ VIỆC TÌM HIỂU QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC LÊNIN
VỀ DÂN TỘC LÀM RÕ SỰ HÌNH THÀNH DÂN TỘC VIỆT NAM

MÃ SỐ LỚP HP
GVHD
THỰC HIỆN
HỌC KÌ 1

:
:
:
:

LLCT130105_19CLC
Trần Thị Thảo
NHĨM 2
NĂM HỌC: 2021 - 2022

Tp. Thủ Đức, tháng 12 năm 2021


DANH SÁCH THÀNH VIÊN THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN
HỌC KÌ I NĂM HỌC 2021 – 2022


Nhóm: 02 – Lớp: LLCT130105_19CLC
Tên đề tài: Từ việc tìm hiểu quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân tộc
làm rõ sự hình thành dân tộc Việt Nam
STT

Họ & TÊN SV

MSSV

% HOÀN THÀNH

1

Cao Văn Vinh

21161386

100%

2

Đinh Lê Hải Dương

21161294

100%

3

Nguyễn Phạm Minh Đức


21161303

100%

4

Hoàng Đặng Hùng

21161055

100%

5

Nguyễn Hữu Kiệt

21161329

100%

6

Nguyễn Lê Bích Ngọc

21161339

100%

7


Bùi Hồng Nhớ

21161345

100%

8

Võ Cơng Phúc

21161395

100%

9

Phu Huỳnh Mạnh Triển

21161377

100%

Ghi chú:
- Tỷ lệ % = 100%: Mức độ phần trăm của từng sinh viên tham gia.
- Trưởng nhóm: Phu Huỳnh Mạnh Triển - SĐT: 0926.502.726
Điểm số: ..........................................................................................................
Nhận xét của giáo viên:
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................

...........................................................................................................................
TP. Thủ Đức, ngày 20 tháng 12 năm 2021
Ký xác nhận của giảng viên


MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................. 1
1.

Lý do chọn đề tài ..................................................................................... 1

2.

Đối tượng nghiên cứu: ............................................................................ 1

3.

Phương pháp nghiên cứu: ...................................................................... 1

B. PHẦN NỘI DUNG.......................................................................................... 3
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG VỀ VẤN ĐỀ DÂN
TỘC ...................................................................................................................... 3
1.1 Các hình thức cộng đồng người trước khi hình thành dân tộc ............ 3
1.1.1 Thị tộc .................................................................................................. 3
1.1.2 Bộ lạc ................................................................................................... 3
1.1.3 Bộ tộc ................................................................................................... 4
1.2 Dân tộc – hình thức cộng đồng người phổ biến hiện nay ...................... 5
1.3 Quá trình hình thành các dân tộc ở châu Âu ....................................... 14
1.4 Tính đặc thù của q trình hình thành dân tộc ở châu Á................... 15
1.4.1 Vài nét về sự hình thành dân tộc ở châu Á .................................... 15

1.4.2 Tính đặc thù của sự hình thành dân tộc ở châu Á ........................ 15
1.5 Mối quan hệ giữa giai cấp, dân tộc và nhân loại .................................. 15
1.5.1 Quan hệ giai cấp và dân tộc: ........................................................... 16
1.5.2 Giai cấp, nhân loại: .......................................................................... 18
CHƯƠNG 2: SỰ HÌNH THÀNH DÂN TỘC VIỆT NAM ........................... 20
2.1 Lịch sử và tính đặc thù của sự hình thành dân tộc Việt Nam ......... 20
2.1.1 Lịch sử ............................................................................................... 20
2.1.2 Tính đặc thù:..................................................................................... 24
2.2 Một số vấn đề dân tộc Việt Nam hiện nay ............................................ 25
2.2.1 Những tác động của tồn cầu hóa đến các quốc gia dân tộc........ 25
2.2.2 Phương hướng giải quyết vấn đề hiện tại ...................................... 26
2.2.3 Quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước ta về giải quyết vấn đề
dân tộc ........................................................................................................ 26
C. PHẦN KẾT LUẬN ....................................................................................... 30
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 31

3


A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quan hệ giữa các dân tộc là mối quan hệ cơ bản, có ảnh hưởng trực tiếp tới
bản thân con người nói riêng và của tồn xã hội nói chung. Chủ nghĩa Mác-Lênin
và tử tưởng Hồ Chí Minh nghiên cứu vấn đề dân tộc một cách rất chi tiết, có khoa
học, có hệ thống và được ứng dụng vào việc xây dựng xã hội chủ nghĩa. Do đó
mà trong q trình nghiên cứu các vấn đề liên quan thì giai cấp, dân tộc và mối
quan hệ giữa chúng là điều hết sức cần thiết.
Việc nghiên cứu vấn đề dân tộc giúp chúng ta hiểu rõ về nguồn gốc, quá trình
hình thành, tồn tại cũng như là sự phát triển của cộng đồng các dân tộc trên thế
giới, đồng thời tìm hiểu bản chất, nguyên nhân cơ bản dẫn đến sư phát sinh của

sự biến đổi và phát triển quan hệ giai cấp nội tại trong mỗi quốc gia, dân tộc. Từ
đó nhìn thấy được mối quan hệ biện chứng, gắn bó mật thiết giữa giai cấp và dân
tộc.
Nhìn lại lịch sử dân tộc Việt Nam thế kỷ XX, một thế kỷ phát triển nhanh
chóng và vơ cùng phức tạp của tình hình quốc tế, chúng ta càng dễ dàng nhận thấy
sự đúng đắn, sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giai cấp.
Vấn đề đó đã được kiểm nghiệm trên thực tế.
Và đó cũng chính là những lý do mà nhóm chúng em quyết định chọn, tìm
hiểu rõ nội dung và thuyết trình đề tài: “Từ việc tìm hiểu quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin về dân tộc làm rõ sự hình thành dân tộc Việt Nam”. Mặc dù chúng
em đã cố gắng tận dụng hết khả năng của bản thân, nhưng do trình độ kiến thức
và kinh nghiệm làm tiểu luận còn hạn chế nên khơng thể tránh khỏi những sơ sót.
Chúng em rất mong được nhận lời nhận xét, đánh giá, góp ý của cơ để bài của
chúng em có thể hồn thiện hơn.
2. Đối tượng nghiên cứu:
Sinh viên
3. Phương pháp nghiên cứu:
- Tài liệu, sách, giáo trình cùng với nội dung giảng dạy.
1


- Tham gia thảo luận cùng với các thành viên trong nhóm để làm rõ nội dung
vấn đề của đề tài, cơ đọng lại và trình bày tiểu luận.
- Dựa vào qua các sách báo, thông tin trên mạng Internet.
- Tham khảo một vài bài tiểu luận có một số vấn đề liên quan, từ đó góp phần
làm sáng tỏ nội dung của bài tiểu luận của nhóm.

2



B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC
1.1 Các hình thức cộng đồng người trước khi hình thành dân tộc
− Để tồn tại và phát triển con người sống thành những cộng đồng nhất định
− Trải qua các thời kỳ lịch sử xã hội khác nhau, sự phát triển của các hình thức
cộng đồng người theo mức độ tăng tiến: thị tộc, bộ lạc, bộ tộc và dân tộc
1.1.1 Thị tộc
− Từ những “bầy người nguyên thủy” sống theo "bầy”, tập đoàn qua quá trình
biến đổi phát triển thành thị tộc.
− Thị tộc vừa là thiết chế xã hội đầu tiên, vừa là hình thức cộng đồng người
tiền thân của lồi người.
− Thị tộc có khoảng vài trăm người cùng huyết thống với nhau.
− Do sản xuất chưa phát triển chủ yếu là trồng trọt chăn n, do đó người phụ
nữ có vai trò vô cùng quan trọng.
− Theo thời gian, lực lượng sản xuất từng bước phát triển dẫn đến hình thức
thị tộc phụ quyền ra đời thay thế hình thức thị tộc mẫu quyền.
− Các thành viên trong thị tộc đều có cùng tổ tiên, tiếng nói, những thói quen,
tín ngưỡng, lao động chung. Ngồi những yếu tố văn hóa trên, mỗi thị tộc có
một tên gọi riêng.
− Về tổ chức xã hội, tù trưởng, tộc trưởng, lãnh tụ quân sự được người trong
thị tộc bầu ra để điều hành cơng việc chung và có thể bị bãi nhiệm nếu khơng
làm tròn trách nhiệm của mình.
− Mọi thành viên trong thị tộc đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ.
1.1.2 Bộ lạc
− Bộ lạc là hình thức cộng đồng người phát triển từ sự liên kết của nhiều thị
tộc có cùng huyết thống tạo thành, hoặc có quan hệ hơn nhân liên kết với
nhau
− Bộ lạc có những đặc điểm cơ bản giống với thị tộc, song có cơ sở kinh tế là
chế độ công hữu về đất đai và công cụ sản xuất.
3



− Một đặc trưng mới của bộ lạc so với thị tộc là sự ổn định hơn về mặt lãnh
thổ.
− Bộ lạc có các hình thức sở hữu khác cao hơn thị tộc như vùng lãnh thổ, nơi
trồng trọt, săn bắt,...
− Về tổ chức xã hội, đứng đầu là một hội đồng gồm các tù trưởng của các thị
tộc và một vị thủ lĩnh tối cao. Trong quá trình phát triển, một bộ lạc có thể
được tách ra thành các bộ lạc khác nhau, hoặc là có sự hợp nhất tạo thành
liên minh các bộ lạc.
1.1.3 Bộ tộc
− Bộ tộc là hình thức cộng đồng người hình thành khi xã hội có sự phân chia
giai cấp, từ sự liên kết của nhiều bộ lạc sống trên một lãnh thổ nhất định.
− Bộ tộc hình thành cùng với chế độ chiếm hữu nơ lệ, chế độ phong kiến.
− Sự hình thành và phát triển của bộ tộc phức tạp hơn thị tộc và bộ lạc. Và có
những nét đặc thù riêng ở những nước khác nhau, những thời đại khác nhau.
− Bộ tộc đông đảo hơn bộ lạc. Mỗi bộ tộc có tên gọi riêng; có lãnh thổ riêng
mang tính ổn định hơn so với thị tộc và bộ lạc; có một ngơn ngữ thống nhất,
tiếng nói chung nhưng chưa thực sự vững chắc, thêm vào đó là thổ ngữ được
sử dụng rộng rãi. Xuất hiện thêm những yếu tố chung về tâm lý, văn hố.
− Khơng chỉ vậy, bộ tộc còn có dân cư đa dạng và đang xen, đa ngơn ngữ cũng
như văn hóa, trong đó ngơn ngữ nào chiếm lĩnh vị trí giao lưu và phát triển
kinh tế thì trở thành ngơn ngữ chung của bộ tộc.
− Về tổ chức xã hội, nhà nước điều hành công việc xã hội, là công cụ do giai
cấp thống trị tổ chức ra và phục vụ lợi ích cho giai cấp đó.
 Với sự ra đời của bộ tộc, là cột mốc đánh dấu sự tan rã hoàn toàn của xã
hội cơng xã ngun thủy, hình thành một hình thức cộng đồng người dựa
trên những mối liên hệ về kinh tế, lãnh thổ và văn hoá mặc dù những mối
liên hệ đó còn chưa thực sự phát triển. Nhà nước, tổ chức chính trị xã hội
có giai cấp đầu tiên được hình thành.


4


1.2 Dân tộc – hình thức cộng đồng người phổ biến hiện nay
Dân tộc (tộc người) là hình thức cụ thể của một tập hợp nhóm đồn người,
xuất hiện có mặt trong lịch sử q trình tiến hóa phát triển của tự nhiên và xã hội,
được phân chia khác biệt rõ ràng bởi ba đặc trưng phổ biến cơ bản đó là ngơn ngữ,
văn hố và ý thức trách nhiệm độc lập tự giác về một cộng đồng phổ biến nhất hiện
nay, mang tính bền vững tồn tại lâu dài khơng bị phai nhịa theo thời gian qua hàng
nghìn năm lịch sử chiến tranh trong nhiều thế kỉ trước; ví dụ: dân tộc Việt, dân tộc
Tày, dân tộc Khơ Me... Hình thức và trình độ nhận thức phát triển của tộc người
còn bị ảnh hưởng phụ thuộc vào các chế độ thể chế xã hội tương ứng với một số
các phương thức hình thức của sản xuất. Dân tộc là hình thái cộng đồng phát triển
tiến hóa cao nhất của trong các loại tộc người, đã xuất hiện có mặt trong những
năm xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa (hình thái nhận biết của tộc người
trong xã hội thời nguyên thủy là bộ lạc, trong xã hội thời những năm nô lệ và xã
hội thời phong kiến là bộ tộc). Dân tộc bây giờ hiện nay được đặc trưng bởi sự cộng
đồng bền vững, vững vàng và chặt chẽ hơn nhiều bởi vì cịn có thêm về mặt kinh
tế, ngôn ngữ, lãnh thổ, các đặc điểm về văn hóa và ý thức tự giác về tộc người. Dân
tộc là một cộng đồng chính trị - xã hội, được hình thành do nhờ sự tập hợp tập trung
của nhiều tộc người có kỹ năng trình độ tư duy về phát triển kinh tế - xã hội khác
biệt nhau cùng chung sống trên một lãnh thổ quốc gia đất nước nhất định và được
quan tâm, quản lí thống nhất, có sự phù hợp, nhất trí với nhau, khơng mâu thuẫn
nhau, hợp lại thành một khối bởi một nhà nước. Kết cấu mang lại trạng thái cân
bằng của cộng đồng quốc gia dân tộc rất là đa dạng, khác biệt, vô hạn, phong phú
của những thứ khác nhau, không giống nhau, chênh lệch phụ thuộc cần được giúp
đỡ mới có thể tồn tại nhưng đồng thời lại bị ràng buộc bằng những điều kiện thiệt
cho mình vào điều kiện lịch sử, hồn cảnh kinh tế, văn hóa, xã hội của từng nước.
Một quốc gia dân tộc có tộc người đa số đông dân cư và các tộc người thiểu số hạn

chế dân cư. Có tộc người đã đạt đến mức trình độ mức, khả năng hiểu biết dân tộc,
song nhiều tộc người ở trình độ của bộ tộc. Với cơ cấu tộc người như thế, mối quan
hệ giữa các dân tộc tộc người rất đa dạng phổ biến và phức tạp khơng đơn giản; rắc
rối khó khăn, có nhiều thành phần hoặc nhiều mặt kết hợp, đan xen với nhau, khó
5


mà tách bạch ra được, có nhiều sự rắc rối khó hiểu, khó nắm bắt, khó giải quyết.
Nhà nước một tổ chức xã hội đặc biệt của quyền lực chính trị được giai cấp thống
trị thành lập nhằm thực hiện quyền lực chính trị của mình phải ban hành những luật
đem lại quyền lợi cấp bách nhất chính sách dân tộc để duy trì ổn áp sự ổn định và
phát triển của các dân tộc, tộc người, sự ổn định và phát triển của đất nước lãnh thổ
quốc gia. Đôi khi cũng có một số các trường hợp khác, một quốc gia dân tộc chỉ
gồm một tộc người (ví dụ như Triều Tiên). Tuy nhiên mặt khác ngoài những nét
tương đồng giống nhau như trên, mối quan hệ giữa dân tộc tư bản chủ nghĩa và đối
với dân tộc xã hội chủ nghĩa lại có những nét khác biệt khơng giống gì nhau, bởi
vì do đặc điểm của những phương thức sản xuất và những thể chế xã hội. Trong ở
mỗi của dân tộc tư bản chủ nghĩa, xã hội lại phân chia rõ ràng đối kháng giai cấp
giữa tư sản và giữa vơ sản, nhà nước thì là của giai cấp tư sản, bảo vệ che chở quyền
lợi chủ quyền cho của giai cấp tư sản. Còn lại ở người dân tộc xã hội chủ nghĩa, thì
xã hội đã không còn là đối kháng giai cấp, mà quyền lực nhà nước lại thuộc về giai
cấp công nhân và người nhân dân lao động thời tư sản. Cho đến ngày nay bây giờ,
khái niệm hình thức của tư duy trừu tượng cùng với phản ánh những đối tượng
trong hiện thực về dân tộc được hiểu theo rất là nhiều nghĩa khơng giống nhau, mà
trong số khái niệm định nghĩa đó thì lại có hai nghĩa lại được dùng phổ biến nhất
đến hiện nay. Thứ nhất là, dân tộc chỉ sự một cộng đồng người có mối liên hệ chặt
chẽ vững mạnh và liên kết bền vững, có sinh hoạt kinh tế chung, nhưng lại có ngơn
ngữ riêng và những nét văn hóa đặc thù, xuất hiện sau bộ lạc, bộ tộc nhưng cực kì
rất phát triển. Với nghĩa như thế này suy ra dân tộc là một bộ phận của quốc gia mà
quốc gia lại có nhiều thành phần dân tộc.Ý nghĩa thứ hai là dân tộc chỉ ra một cộng

đồng người ổn định n bình hịa bình mất đi khả năng thay đổi cho dù sự thay đổi
này là tốt hay xấu đã hợp thành nên nhân dân của một nước, có lãnh thổ, quốc gia,
nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ ngơn ngữ chung và có ý thức nhận thức về sự
thống nhất của quốc gia tổ quốc của mình, gắn bó thân thiết với nhau bởi vì sự lợi
ích của chính trị, của kinh tế, của truyền thống, của văn hóa và truyền thống đấu
tranh chiến đấu bảo vệ anh dũng chung trong suốt toàn bộ quá trình thời kì lịch sử
lâu dài dựng nước và giữ nước để được thành quả như bây giờ.Đối với nghĩa như
6


thế này khẳng định chắc chắn dân tộc là toàn bộ nhân dân của quốc gia đó – quốc
gia dân tộc.Khái niệm “dân tộc” thông thường được dùng phổ biến để chỉ hầu như
tất cả các hình thức cộng đồng người (bộ lạc, bộ tộc, tộc người, dân tộc). Dân tộc
là hình thức cộng đồng người phát triển tiến hóa vượt bậc nhất cao nhất từ trước
cho đến ngày nay. Dân tộc đa số thường hay dùng để chỉ các quốc gia (ví dụ Việt
Nam, Campuchia, Anh, Pháp...)mà dân tộc còn dùng để chỉ rõ các dân tộc đa số và
các dân tộc thiểu số trong một quốc gia (ví dụ dân tộc Kinh, Tày, Nùng, Hmông,
Vân Kiều, Êđê, Khme...) . So với thời bộ tộc thời phong kiến, dân tộc trong quá
trình thời kì phát triển của tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa có lãnh thổ quốc
gia ổn định, tình trạng cát cứ đã được xố bỏ, có nền kinh tế hàng hóa đang phát
triển dần dần, thị trường quốc gia thống nhất ổn định, xóa bỏ cách phát âm và
phương ngữ, coi ngôn ngữ vốn là chuẩn mực. và ảnh hưởng của nó ngày càng được
mở rộng. Hình thức cộng đồng người khác với các hình thức cộng đồng trước đây,
bao gồm cả bộ lạc. Giống như các bộ lạc, một quốc gia là một cộng đồng người có
liên quan đến xã hội, với các giai cấp, quốc gia và hệ thống chính trị. Một dân tộc
có thể phát triển từ một bộ tộc, nhưng hầu hết các tình huống đều được hình thành
trên cơ sở hợp nhất của nhiều bộ tộc và dân tộc. Từ cộng đồng hình thành trước
dân tộc, sự phát triển lên dân tộc là một q trình vừa có tính liên tục vừa có những
bước phát triển nhảy vọt. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, sự phân biệt giữa dân
tộc và bộ lạc không phải là điều dễ dàng đối với khoa học lịch sử. Điều đầu tiên

cần lưu ý là nếu trong bộ tộc còn tồn tại mối quan hệ cộng đồng, nếu tộc người
tương đối yếu và lỏng lẻo thì tộc người càng thống nhất. Sở dĩ như vậy bởi đất nước
này đã được hình thành từ rất lâu đời và trải qua nhiều thử thách lịch sử. Mặt khác,
do đất nước được hình thành và củng cố trên cơ sở mới, tức là các quan hệ kinh tế
được hình thành trên một thị trường rộng lớn và thống nhất: thị trường dân tộc. Các
thể chế chính trị mới và các nhà nước tập trung đã củng cố sự thống nhất kinh tế
của cộng đồng. Các quốc gia hiện đại là các quốc gia dân tộc. Các Mác,
Ph.Ăngghen và V.I.Lênin tuy chưa đưa ra được định nghĩa đầy đủ về dân tộc,
nhưng họ đã vạch ra những đặc điểm cơ bản của dân tộc, phân tích một cách khoa
học sự hình thành và phát triển của dân tộc, tính dân tộc, làm rõ quan điểm của giai
7


cấp vô sản đối với các vấn đề dân tộc. . Trong "Tuyên ngôn cộng sản", hai ông tin
rằng giai cấp tư sản đã từng bước xóa bỏ tình trạng phân tán tư liệu sản xuất, tài
sản và dân cư, tạo ra "một dân tộc thống nhất, một chính phủ, luật pháp, lợi ích giai
cấp của quốc gia và hàng rào thuế quan". Ơng đã có những đóng góp quan trọng
trong việc phát triển lý thuyết về các vấn đề dân tộc: “Dân tộc là một khối cộng
đồng người ổn định được thành lập trong lịch sử, dựa trên cơ sở cộng đồng về tiếng
nói, lãnh thổ, sinh hoạt kinh tế và tâm lý, biểu hiện trong cộng đồng văn hoá”. Các
nhà kinh điển gọi các quốc gia là quốc gia - dân tộc, nhấn mạnh các yếu tố thống
nhất và ổn định trong một cộng đồng quốc gia. Dưới góc độ của các nhà kinh điển,
có thể tóm tắt là: quốc gia là một dân tộc ổn định được hình thành trên cơ sở một
lãnh thổ thống nhất, một ngôn ngữ thống nhất, nền kinh tế thống nhất và đất nước
thống nhất trong lịch sử. Tính cộng đồng. Văn hóa và trí lực, nhân cách thống nhất,
đất nước và luật pháp thống nhất. Vì vậy, một quốc gia là một cộng đồng dân cư
ổn định, được hình thành trong lịch sử, tạo nên một quốc gia, dựa trên cơ sở cộng
đồng bền vững: lãnh thổ quốc gia, kinh tế, ngơn ngữ, truyền thống, văn hóa, đặc
điểm tâm lý, ý thức dân tộc và ý thức dân tộc Tên quốc gia. Các thành viên trong
cùng một dân tộc sử dụng chung một ngôn ngữ (tiếng mẹ đẻ) để giao tiếp trong

nước. Các thành viên có đặc điểm chung về vật chất, văn hoá, tinh thần và văn hoá,
tạo nên bản sắc văn hoá dân tộc. Dân tộc là cộng đồng chính trị xã hội hiểu theo
nghĩa là cộng đồng dân tộc quốc gia, cộng đồng chính trị xã hội do nhà nước lãnh
đạo và được thành lập trên một lãnh thổ chung, như dân tộc Việt Nam và dân tộc
Hoa. Chủng tộc là một cộng đồng người ổn định về mặt lịch sử, dựa trên một cộng
đồng ngôn ngữ, lãnh thổ, kinh tế và tâm lý, và thể hiện trong một cộng đồng văn
hóa. Quốc gia là sản phẩm của q trình phát triển của xã hội lồi người từ thị tộc,
bộ lạc, bộ lạc này sang quốc gia khác. Một quốc gia là một cộng đồng người có
mối quan hệ chặt chẽ và lâu dài, hoạt động kinh tế chung, ngơn ngữ và đặc điểm
văn hóa, hay đơn giản là một cộng đồng ổn định tạo thành người dân của một quốc
gia. Nhận thức rõ về đoàn kết dân tộc, sự thống nhất về lợi ích chính trị, kinh tế,
văn hóa, truyền thống đồn kết đấu tranh trong suốt lịch sử dựng nước và giữ nước
lâu dài của dân tộc. Dân tộc là sản phẩm của quá trình vận động Phát triển của xã
8


hội loài người từ thị tộc, bộ lạc, bộ tộc và các dân tộc. Các đặc điểm chính của tộc
người là:
Trước hết, dân tộc là một cộng đồng ngôn ngữ. Ngôn ngữ là đặc trưng cơ
bản của dân tộc. Ngôn ngữ vừa là công cụ giao tiếp gắn kết các thành viên trong
cộng đồng dân tộc, vừa là phương tiện giao tiếp. Các thành viên của một nhóm dân
tộc có thể giao tiếp với nhau bằng nhiều ngơn ngữ, ví dụ ở Thụy Sĩ bằng tiếng Đức,
tiếng Pháp và tiếng Ý. Ngồi ra cịn có một số ngơn ngữ được sử dụng bởi nhiều
dân tộc, chẳng hạn như tiếng Anh và tiếng Việt. Tiếng Tây Ban Nha, tiếng Pháp…
Tuy nhiên, điều quan trọng nhất là mỗi dân tộc đều có một ngôn ngữ chung thống
nhất mà người dân tộc coi là tiếng mẹ đẻ. Tiếng Việt được chọn làm ngôn ngữ
chung cho các dân tộc. Trong hệ thống giáo dục từ mẫu giáo đến đại học, tiếng Việt
là ngôn ngữ chung và là công cụ truyền đạt kiến thức; đồng thời là công cụ giao
tiếp và quản lý nhà nước của các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam. Giao lưu văn hóa
giữa các dân tộc với nhau để trở thành cộng đồng dân tộc vững chắc hơn nhiều. Bất

kỳ thành viên của một nhóm dân tộc nào cũng có thể sử dụng nhiều ngôn ngữ để
giao tiếp. Nhưng ở mỗi dân tộc đều có một ngơn ngữ chung và thống nhất của dân
tộc này. Tính thống nhất trong ngơn ngữ Tính dân tộc thể hiện ở sự thống nhất giữa
cấu trúc ngữ pháp và vốn từ vựng cơ bản. Quốc ngữ là ngôn ngữ phát triển. Sự
thống nhất về ngôn ngữ là một trong những đặc trưng chủ yếu của dân tộc. Ngày
nay, khi sự giao lưu và hội nhập quốc tế được mở rộng, ngôn ngữ của một quốc gia
có thể được nhiều quốc gia sử dụng, nhưng ngôn ngữ này vẫn được xác định (tiếng
mẹ đẻ) là ngơn ngữ chính của nhân dân, hơn hết là ngơn ngữ là công cụ giao tiếp
xã hội, một công cụ giao tiếp trong cộng đồng (thị tộc, bộ lạc, bộ tộc, quốc gia).
Các thành viên của một nhóm dân tộc có thể giao tiếp với nhau bằng nhiều ngơn
ngữ. Có một số ngôn ngữ được sử dụng bởi nhiều dân tộc. Điều quan trọng là mỗi
dân tộc đều có một ngôn ngữ chung, mà các thành viên của dân tộc đó coi đó là
tiếng mẹ đẻ, tính thống nhất của ngôn ngữ dân tộc được thể hiện trước hết bằng sự
thống nhất của cấu trúc ngôn ngữ của một dân tộc thể hiện những đặc điểm chính
của dân tộc đó.
9


Thứ hai, dân tộc là một cộng đồng lãnh thổ. Mỗi dân tộc đều có lãnh thổ
riêng và khơng bị chia cắt. Lãnh thổ của dân tộc bao gồm đất liền, vùng trời, vùng
biển và hải đảo là một bộ phận thuộc chủ quyền của quốc gia. Nhà nước quốc gia.
Chủ quyền quốc gia đối với lãnh thổ là một thuật ngữ định nghĩa thường được thể
chế hóa trong luật quốc gia và quốc tế. Chủ quyền quốc gia là một thuật ngữ định
nghĩa thường được thể chế hóa trong luật quốc gia và quốc tế. Một thực tế lịch sử
là các lãnh thổ dân tộc đã bị chia đôi, nhưng khơng thể nhanh chóng cho rằng cộng
đồng bị chia thành hai. hoặc nhiều tộc người Tất nhiên, sự phân chia là bằng chứng
về tính bền vững của cộng đồng tộc người. Thực tế lịch sử là trường hợp của một
sự phân chia trong thời gian, nhưng nó khơng thể được chứng minh cụ thể một cách
rõ ràng nhất. Cộng đồng dân tộc (tộc người) được cho là đã phân chia, chia tách,
tách ra thành hai hoặc rất nhiều nhóm dân tộc hồn tồn khác nhau. Điều đó là điều

dĩ nhiên, tất nhiên sự phân chia như thế này chính là một phép thử nghiệm để chứng
minh cho sự bền vững của một cộng đồng dân tộc. Cộng đồng lãnh thổ là một đặc
trưng cực kì quan trọng, cái tầm quan trọng như vầy là một điều không bao giờ thể
thiếu của cộng đồng quốc gia dân tộc. Lãnh thổ là không gian tồn tại và phát triển
của quốc gia, nếu khơng có lãnh thổ thì sẽ khơng bao giờ có được khái niệm quê
hương, tổ quốc, quốc gia của tộc người. Lãnh thổ là không gian tồn tại và phát triển
của dân tộc, là nơi hình thành ổn định các cộng đồng người trong suốt chiều dài
lịch sử. Mỗi dân tộc có lãnh thổ thống nhất của riêng mình mà không được chia sẻ
thông qua giáo dục. Đồng thời, sự thống nhất của lãnh thổ cũng được củng cố bởi
sự liên hiệp của các yếu tố kinh tế và chính trị khác. Lãnh thổ thuộc chủ quyền của
mọi quốc gia, dân tộc. Nếu khơng có lãnh thổ thì khơng có khái niệm về quê hương,
về quốc gia. Nếu trong bộ tộc mà lãnh thổ vẫn do chủ nhân phân chia… thì lãnh
thổ của quốc gia khơng cịn bị phân chia và ổn định. nhiều hơn nữa. Cộng đồng
lãnh thổ là đặc trưng tất yếu và quan trọng của dân tộc. Mọi quốc gia, dân tộc đều
có một lãnh thổ xác định và lãnh thổ này được coi là thánh địa mà các thành phần
dân tộc có trách nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ bằng mọi giá. Lãnh thổ của một quốc
gia ngày nay không chỉ được hiểu là một lục địa mà còn biển và khu vực là một
trong số đó. Bầu trời, hải đảo và thềm lục địa ...được thể chế hóa bằng luật pháp
10


quốc gia và quốc tế Chủ quyền quốc gia luôn là chủ thể thiêng liêng của mọi dân
tộc.
Thứ ba, dân tộc là một cộng đồng kinh tế. Khoa học đã chứng minh chỉ ra
rằng từ việc phát triển nên một cộng đồng thị tộc sang các hình thức thị tộc và bộ
lạc thì yếu tố quan trọng là liên kết với nhau giữa các thành viên trong cộng đồng
theo dòng họ giảm dần thấp đi với vai trò của yếu tố kinh tế càng ngày càng được
tập trung đẩy mạnh tăng cường phát triển lên.Ảnh hưởng đối với các dân tộc, vai
trò tác dụng chức năng của trong các yếu tố bộ phận cấu thành nhân tố kinh tế trở
nên rất mạnh mẽ với nhiều sức, một lực lượng lớn hoặc với ý chí cao. Tuy nhiên,

đối với các nhóm dân tộc, ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế - xã hội là rất mạnh
mẽ. Marx và Engels đã chỉ ra rằng tác nhân cơ bản dẫn đến sự biến đổi hình thức
từ cộng đồng thành con người. Dân tộc là một yếu tố kinh tế. Nền kinh tế là một
cách sống, lối sống, những nét điển hình, được lặp đi lặp lại và định hình thành
phong cách, thói quen trong đời sống của dân tộc, cộng đồng người, tộc người.
Cuộc sống tất cả những gì tồn tại trên thế giới này của người dân gắn kết các dân
tộc với cộng đồng các dân tộc với nhau. Tuy nhiên, khi một quốc gia dân tộc được
hình thành thì nền kinh tế được hiểu là nền kinh tế thống nhất của một quốc gia độc
lập và tự quản. Ph. Ăngghen đã nêu rõ và chỉ ra rõ ràng rằng là những nhân tố cơ
bản nền gốc chung nhất len lụy ảnh hưởng dẫn đến sự thay đổi chuyển hoá từ một
hình thức cộng đồng có trước dân tộc thành một cộng đồng dân tộc chủ yếu nhất là
do tác nhân của kinh tế. Các quan hệ kinh tế diễn ra thường xuyên và mạnh mẽ, cụ
thể là quan hệ thị trường. Trường học đã làm tăng tính thống nhất, ổn định và bền
vững của cộng đồng lớn sống trên một vùng đất rộng lớn. Dân tộc tiêu biểu là dân
tộc tư sản bao gồm các giai cấp, tầng lớp xã hội rất đa dạng. Các giai cấp, tầng lớp
xã hội này có quan hệ kinh tế chặt chẽ với nhau trong một hệ thống kinh tế thống
nhất được hình thành trên địa bàn của dân tộc, đó là hệ thống kinh tế tư bản chủ
nghĩa. Trong thế giới hiện đại, có một hội nhập kinh tế quốc tế sâu sắc, nhưng mỗi
quốc gia luôn luôn là nền kinh tế độc lập, bất kể nền kinh tế độc lập, bất kể các dân
tộc khác.
11


Thứ tư, dân tộc là một cộng đồng trong văn hóa, tâm lý học, tính cách. Văn
hóa dân tộc mang nhiều sắc thái của địa danh, dân tộc, ... nhưng vẫn là nền văn
hóa thống nhất, có những đặc điểm chung, ổn định. Sự thống nhất trong đa dạng là
một nét đặc trưng của văn hóa dân tộc. Mỗi dân tộc đều có những nét văn hóa đặc
trưng riêng quy định bản sắc văn hóa của dân tộc. Ngồi những yếu tố văn hoá khác
nhau của mọi giai cấp, mọi tầng lớp xã hội trong cộng đồng dân tộc ... thì mọi thành
viên trong cộng đồng đều tham gia vào các hoạt động văn hoá chung của dân tộc.

Đặc trưng văn hóa của dân tộc thể hiện trong phong tục, tập qn, tín ngưỡng và
các hoạt động văn hóa khác. Do quá trình hình thành và phát triển lâu đời nên văn
hóa dân tộc khơng dễ bị đồng hóa. Xã hội càng phát triển, sự giao lưu văn hóa và
nhu cầu văn hóa ngày càng mạnh mẽ. Càng lên cao, càng có sự giao hòa văn hóa
nhưng hầu hết các dân tộc vẫn giữ được những sắc thái văn hóa riêng. Ngồi ra,
văn hóa còn là nền tảng tinh thần, là động lực của sự phát triển và là động lực của
sự phát triển. công cụ bảo vệ độc lập, chủ quyền của mỗi quốc gia. Lịch sử đấu
tranh bảo vệ độc lập dân tộc luôn gắn liền với cuộc đấu tranh giữ gìn bản sắc văn
hóa trước nguy cơ đồng hóa văn hóa. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay,
các gia đình dân tộc hiện đại ý thức được rằng phải hội nhập để bảo vệ và phát triển
văn hóa dân tộc, nhưng khơng thể “hòa tan”. Mỗi dân tộc cũng có tâm lý, tính cách
riêng và được thể hiện trong đó. Các hoạt động vật chất và tinh thần của dân tộc
này, cụ thể là thông qua phong tục, tập quán, tín ngưỡng và đời sống văn hóa.
Những cái này chính là một đặc điểm cực kì quan trọng của bất kỳ quốc gia dân
tộc nào. Yếu tố này được hình thành tạo ra theo những đặc điểm đặc trưng của một
quần xã đoàn người. Đây chính là nơi tập hợp hội tụ đầy đủ tất cả hầu hết các yếu
tố suy nghĩ chung, ý thức chung, nhận thức chung nhất và xã hội của các dân tộc.
Nó trở thành lương tâm của mỗi người trong cộng đồng dân tộc ở chỗ các bạn cũng
đã rời bỏ lãnh thổ quốc gia để đến sống trong một cộng đồng hồn tồn khác, nhưng
những nét văn hóa và tính cách của họ vẫn được lưu giữ lâu dài.
Cuối cùng, dân tộc là cộng đồng người có nhà nước và pháp luật thống nhất.
Đây là đặc điểm của quốc gia dân tộc để phân biệt với quốc gia về dân tộc (đa số
hay thiểu số). Ngay từ đầu, Marx và Engels đã chú ý đến yếu tố này và đã phân tích
12


nó trong tác phẩm “Tun ngơn của Đảng Cộng sản”. Từ động lực của sự phát triển
kinh tế, với vai trị tích cực của giai cấp tư sản trong sự phát triển kinh tế. Trong
thời đại của chủ nghĩa tư bản, các quốc gia-nhà nước đã được hình thành ở hầu hết
các khu vực của Châu Âu. Do nhu cầu của thị trường và sự phát triển của vận động

hàng hố, giai cấp tư sản đã xố bỏ tình trạng manh mún, “cơ sở kinh tế chính trị”,
hình thành “liên minh lợi ích” và dẫn đến hình thành “chính phủ”, “pháp luật. ","
một nhiệm vụ hải quan ". Do đó sự thống nhất giữa nhà nước và pháp luật là đặc
trưng của dân tộc và ngày nay cũng là quan niệm chung trên thế giới. Quốc gia dân tộc - nhà nước là một khối bền bỉ vững vàng, liên kết phối hợp chặt chẽ với
nhau, không thể tách rời. Đi ra ngồi. Mỗi dân tộc có một nhà nước riêng và mỗi
nhà nước thuộc về một dân tộc cụ thể, những đặc điểm của dân tộc đã cho thấy dân
tộc đó hồn tồn khác với các hình thức cộng đồng lồi người đã hình thành trước
khi xã hội có các giai cấp như bộ lạc, một hình thức cộng đồng. đã phổ biến ở
phương Tây trước khi quốc gia này được thành lập Dân tộc có thể từ một bộ tộc
phát triển lên và cũng có thể do nhiều bộ tộc hợp lại.Tuy nhiên, các mối liên hệ
giữa các thành viên trong bộ tộc còn lỏng lẻo yếu ớt, còn ở các dân tộc các mối liên
hệ trong cộng đồng ổn định và bền vững hơn.Tính cộng đồng bền vững này tạo nên
sức mạnh của mỗi dân tộc và đảm bảo cho một dân tộc có thể tồn tại, phát triển
trong những điều kiện lịch sử khác nhau kể cả trong điều kiện có giặc ngoại xâm
hoặc có sự giao lưu quốc tế mở rơng.Tổng hồ các đặc trưng cơ bản về lãnh thổ,
ngơn ngữ, kinh tế, văn hố, tâm lý, tính cách, nhà nước và pháp luật thống nhất làm
cho cộng đồng dân tộc trở nên hình thức phát triển nhất và bền vững hơn bất cứ
hình thức cộng đồng nào trong lịch sử.Trong tương lai, dân tộc sẽ tồn tại lâu dài,
kể cả sau khi các giai cấp khơng cịn trong lịch sử.Những đặc trưng trên có quan
hệ biện chứng tác động qua lại lẫn nhau, kết hợp với nhau một cách chặt chẽ trong
lịch sử hình thành, phát triển cộng đồng dân tộc.Trong đó cộng đồng về kinh tế có
vai trị quyết định đối với dân tộc.Các đặc trưng khác có vai trò nhất định đối với
quá trình hình thành, phát triển dân tộc.Nghiên cứu vấn đề dân tộc hiện nay có vai
trị to lớn đối với sự phát triển của con người, của mỗi quốc gia dân tộc.Dân tộc
không chỉ là sản phẩm của sự phát triển kinh tế, văn hóa xã hội mà còn là động lực
13


của sự phát triển của mỗi quốc gia trong thời đại ngày nay, thời đại quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.Hợp tác và hội nhập là xu thế khách quan của tất

cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới, nhưng khơng có nghĩa là đánh mất bản sắc
với những đặc trưng phong phú của nó. Theo nghĩa này, sự hiểu biết sâu sắc. Quan
điểm của Đảng ta về việc xây dựng quan hệ hữu nghị giữa các quốc gia trên thế
giới và duy trì bản sắc của các quốc gia hiện nay có tầm quan trọng hàng đầu đối
với bất kỳ quốc gia nào. Cộng đồng các dân tộc Việt Nam ngày nay là kết quả của
quá trình giáo dục và đào tạo lâu đời.
1.3 Quá trình hình thành các dân tộc ở châu Âu
- Quá trình hình thành nên dân tộc của các nước Châu Âu ln ln gắn liền với sự
hình thành và phát triển của các thế lực tư bản chủ nghĩa.
- Quá trình hình thành dân tộc ở Châu Âu cũng được phân chia khá rõ ràng, dựa
theo lịch sử phát triển và địa lý lãnh thổ của các quốc gia với nhau mà hướng hình
thành dân tộc cũng khác nhau. Với những chọn lọc và kết luận dựa theo những gì
đã có, ta đưa ra được hai phương hướng chính:
*Phương hướng thứ nhất:
+ Trong mỗi một quốc gia, các bộ tộc khác nhau được liên kết lại với nhau để hình
thành nên một dân tộc chính cho cả một đất nước.
+ Quá trình hình thành dân tộc ở những nước này được diễn ra đồng thời, vừa là
quá trình thống nhất lãnh thổ của các bộ tộc ,thống nhất thị trường của cả đất nước
đó và cũng là quá trình đồng hóa các bộ tộc với nhau làm thành nên một dân tộc
duy nhất, dân tộc đó được đại diện cho cả một quốc gia.
+ Ví dụ như các nước: Đức, Ý, Pháp, (Tây Âu),vv…
*Phương hướng thứ hai:
+ Do chế độ phong kiến vẫn còn tồn tại và chủ nghĩa tư bản chưa chiếm lính cũng
như phát triển cịn rất yếu, vì thế các dân tộc ở đây được hình thành rất khác biệt
so với phương hướng thứ nhất. Dân tộc ở những nước này được hình thành từ một
bộ tộc chính.

14



+ Ở đây q trình đồng hóa các bộ tộc không diễn ra mà chỉ chủ yêu thống nhất
các lãnh thổ với nhau thành một quốc gia. Trong đó,mỗi một quốc gia có rất nhiều
dân tộc khác nhau cùng sinh sống trên một lãnh thổ và đồng thời mỗi dân tộc là đại
diện cho một bộ tộc.
Ví dụ như các nước: Nga, Hung, Áo,(Đơng Âu),vv…
- Vậy qua đó cho thấy quá trình hình thành và phát triển dân tộc diễn ra cực kỳ đa
dạng, phức tạp và trải qua hết sức lâu dài. Sự hình thành và phát triển dân tộc của
các nước Châu Âu phải trải qua các thời kỳ phát triển chính như: gắn liền với cuộc
cách mạng tư sản do giai cấp tư sản lãnh đạo cùng với phong trào đấu tranh chống
chủ nghĩa đế quốc để giải phóng dân tộc và thời kỳ các dân tộc xã hội chủ nghĩa
được ra đời do giai cấp vô sản lãnh đạo.
1.4 Tính đặc thù của q trình hình thành dân tộc ở châu Á
1.4.1 Vài nét về sự hình thành dân tộc ở châu Á
- Châu Á là lục địa đa sắc dân tộc, tơn giáo và tín ngưỡng lớn nhất thế giới
- Đây là nơi sinh ra ba trong bốn nền văn minh lớn của nhân loại: văn minh Lưỡng
Hà, lưu vực sông Indus và lưu vực sơng Hồng HÀ
- Dưới một nền tảng phát triển như vậy, châu Á đã sản sinh ra một di sản văn hố
lớn của nhân loại và hình thành nên nhiều ranh giới tốn giáo lớn
1.4.2 Tính đặc thù của sự hình thành dân tộc ở châu Á
-Quá tình hình thành nên dân tộc ở các nước Châu Á có tính đặc thù riêng.
-Qua thực tiễn lịch sử, cho ta thấy các quốc gia như: Trung Quốc, VIệt Nam,Ấn
Độ,vv...các quốc gia này có một nền dân tộc hình thành lâu dài gắn liền với điều
kiện lịch sử về chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, đồng thời xuất hiện trước khi có
chủ nghĩa tư bản.

1.5 Mối quan hệ giữa giai cấp, dân tộc và nhân loại
• Khái niệm
– Giai cấp: Theo Marx và Lenin, giai cấp là những tập đoàn người to lớn, khác
nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử,
15



khác nhau về quan hệ của họ (thường thì những quan hệ này được pháp luật quy
định và thừa nhận) đối với tư liệu sản xuất và phân công lao động, về vai trò của
họ trong những tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức
hưởng thụ và về phần của cải ít hoặc nhiều mà họ được hưởng.
– Dân tộc: là khái niệm chỉ hầu như tất cả các hình thức cộng đồng người trong lịch
sử.
– Nhân loại: là toàn bộ cộng đồng người sống trên trái đất hàng triệu năm.
1.5.1 Quan hệ giai cấp và dân tộc:
- Giai cấp quyết định dân tộc:
+ Quan hệ giai cấp là nhân tố quyết định khuynh hướng và tính chất của dân tộc,
giai cấp nào có lợi ích gắn liền với phương thức sản xuất thống trị sẽ trở thành lực
lượng tiêu biểu và lãnh đạo dân tộc.
+ Trong xã hội có giai cấp, thì vấn đề quan hệ giai cấp và dân tộc được giải quyết
trên lập trường giai cấp nhất định.
+ Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh chỉ rõ, trong các nước
thuộc địa và phụ thuộc, dân tộc chỉ có thể được giải phóng triệt để khi đặt dưới sự
lãnh đạo của giai cấp công nhân, vấn đề dân tộc và giai cấp mới được giải quyết
triệt để.
- Vấn đề dân tộc ảnh hưởng đến vấn đề giai cấp:
+ Sự hình thành các dân tộc tư sản mở ra không gian rộng lớn cho sự phát triển của
giai cấp và đấu tranh giai cấp.
+ Đấu tranh giải phóng dân tộc là điều kiện, tiền đề cho đấu tranh giải phóng giai
cấp:
Trong điều kiện chưa có độc lập dân tộc, thì giai cấp đại biểu cho phương thức
sản xuất mới muốn trở thành “giai cấp dân tộc” phải đi đầu trong phong trào giải
phóng dân tộc.
Trong thời đại đế quốc, đấu tranh giải phóng dân tộc có vai trò hết sức to lớn đối
với sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản và nhân dân lao động.

Hồ Chí Minh nhận định, ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, sự nghiệp giải phóng
giai cấp phải bắt đầu từ sự nghiệp giải phóng dân tộc.
16


- Trong thời đại ngày nay, đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc gắn bó chặt chẽ
với nhau.
- Giai cấp cơ bản là sản phẩm trực tiếp của phương thức sản xuất đang tồn tại; giai
cấp không cơ bản và các tầng lớp trung gian.
- Giai cấp cơ bản giữ vai trò quy định tính chất, xu hướng mối quan hệ giữa các
dân tộc và xu hướng phát triển của dân tộc.
- Lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc khơng hồn tồn đồng nhất với nhau.
- Vấn đề dân tộc còn tồn tại lâu dài và vấn đề giai cấp được giải quyết theo quan
điểm của một giai cấp nhất định.
- Vai trò to lớn của vấn đề dân tộc trong sự phát triển của lịch sử và vai trị của cách
mạng giải phóng dân tộc đối với cách mạng giải phóng giai cấp vơ sản.
- Vai trò giai cấp đối với dân tộc:
+ Quan hệ giai cấp xét cho cùng quy định sự hình thành dân tộc, xu hướng, bản
chất xã hội, tính chất quan hệ giữa các dân tộc.
+ Áp bức giai cấp là cơ sở, nguyên nhân của áp bức dân tộc.
+ Nhân tố giai cấp là nhân tố cơ bản trong phong trào giải phóng dân tộc.
- Vai trị dân tộc đối với giai cấp:
+ Vấn đề dân tộc là vấn đề hàng đầu của cách mạng vô sản.
+ Áp bức dân tộc tác động mạnh mẽ tới áp bức giai cấp, nuôi dưỡng áp bức giai
cấp, làm sâu sắc thêm cho áp bức giai cấp.
+ Đấu tranh dân tộc tác động mạnh mẽ tới đấu tranh giai cấp.
+ Dân tộc là cơ sở giai cấp, nuôi dưỡng đấu tranh giai cấp, tạo cơ sở sức mạnh
giai cấp.
Hồ Chí Minh, nhà cách mạng tiêu biểu nhất của các dân tộc bị áp bức trong thời
đại ngày nay, đã vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác – Lênin về quan

hệ biện chứng giữa giai cấp và dân tộc, đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc.
Qua nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn, Hồ Chí Minh đã kết luận rằng: “Muốn
cứu nước và giải phóng dân tộc khơng có con đường nào khác con đường cách
mạng vơ sản”. Trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa
xã hội theo học thuyết Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam
17



×