TAM QUAN CHÙA KEO THÁI BÌNH MỘT GÓC
NHÌN ĐỐI SÁNH
Câu thơ như gợi lại cả một quá khứ hào hùng và truyền thuyết về chùa Keo, gắn
liền với một vị thiền sư danh tiếng Khổng Minh Không đời Lý. Vị Đại Pháp Thiền
sư đắc đạo thần thông quảng đại này, từng luyện ngói thành vàng, biến sông thành
rượu, thu hết đồng của phương Bắc đem về đúc thành “An Nam đại tứ khí”, chữa
bệnh hóa hổ cho vua Lý Thần Tông, và được vua phong là Thái sư. Và có lẽ cũng
vì lý do đó mà ngôi Thần Quang Tự tức chùa Keo ngày nay, đã chứa đựng trong nó
những dữ liệu lịch sử và những nét kiến trúc vô cùng độc đáo. Không chỉ gác
chuông chồng diêm ba tầng mười hai mái; Lối kiến trúc “tiền Phật hậu Thánh” với
hai chữ công trong cùng một kết cấu nội công ngoại quốc; Kiến trúc tam quan chùa
Keo Thái Bình cũng là một công trình độc nhất vô nhị ghi đậm những giá trị tâm
linh mà dường như không ngôi chùa nào có được.
Tam quan chùa Keo hay còn gọi là Tam quan nội 2 được dựng theo lối kết cấu vì
kèo ba hàng chân cột, có vách gỗ bít đốc hai đầu. Ăn mộng từ những cột cái hai
đầu hồi, các xà nách được kê theo lối chồng giường, đấu kê sang đầu những cột
quân. Để dựng góc mái và độ cong của những đầu đao bốn phía, người ta đã khéo
léo tạo những bẩy góc ngắn, kết hợp với bộ vì kẻ chuyền từ đầu cột cái hai vì giữa
ra đến cột hiên để đỡ hệ thống tàu đao mái lá truyền thống phía trên. Phía đầu
những rường cánh, là hệ thống các còn chạm hình đầu rồng cách điệu kiểu hình
mây lửa có đuôi, tạo nên một nhịp điệu liên tiếp lên suốt thượng lương, cũng là đầu
cột cái. Còn ở hai bộ vì giữa thì tạo nên một khoảng trống thoáng giữa kẻ chuyền
và xà nách. Giữa các hàng cột cái của các bộ vì kèo này, người ta đã tạo ra những
khung để lắp bộ cửa dạng bức bàn. Các cửa này ăn trụ xoay cánh vào lưng con sấu
gỗ kê dưới thanh ngang bậu cửa.
Đây là một lối kiến trúc rất đặc trưng cho kiểu dạng nhà ba gian hai chái truyền
thống, nhưng ở một tầm mức cao hơn nó đã giản lược đi một hàng cột để tạo nên
một kết cấu phẳng khi nhìn từ hai phía nội và ngoại của công trình. Nó cũng khác
xa với lối dựng tam quan thông thường là bộ cửa được lắp ở hàng chân cột cái thứ
2 từ ngoài vào để hình thành một kiểu thức nhà rỗng lòng. Trong khi đó lối dựng
ba hàng cột này, tuy không tạo nên một thức kiến trúc hoành tráng, nhưng nó lại
cho thấy tính chất độc lập của một tam quan, với đúng ý nghĩa là lối cửa ra vào. Và
cũng do không kiến tạo nên một gian nào ở kiến trúc tam quan này, nên phía trên
khung cửa lên đến đầu thượng lương đã tạo nên một khoảng trống cần thiết cho
việc lắp các ván xà được cách điệu để làm nên bộ ba diềm cửa võng. Tuy các bọ
diềm cửa võng này khá đơn giản nhưng chúng lại tạo nên độ ăn nhịp với các chạm
khắc ở đầu rường cánh kể trên. Những mảng chạm rồng mây ở diềm cửa và mảng
chạm rồng trên toàn bộ cánh cửa gian giữa mang đậm phong cách của nghệ thuật
chạm khắc đầu thế kỷ XVII. Nó cũng phù hợp với niên đại được ghi trên bia Thần
Quang Tự Bi dựng năm Đức Long thứ 4 (1632) do các vương tần hoàng tộc, và cả
vua Lê Thần Tông, Hoàng Thái hậu Trịnh Thị Ngọc Trinh, Hậu phi Trịnh Thị
Ngọc Trúc cùng gia đình cung tần Trịnh Thị Ngọc Trâm bỏ của ra xây dựng tiền
đường hậu đường, hành lang 3… Có thể nói công cuộc đại trung tu này đã làm nên
diện mạo kiến trúc chùa Keo ngày nay.
Trong lịch sử tồn tại mấy nghìn năm, chùa Keo Thái Bình đã trải qua nhiều thế kỷ
trùng tu, tôn tạo. Theo truyền thuyết kể lại trước đây có một ngôi chùa từ thời Lý,
có tên là Nghiêm Quang Tự, được xây vào năm Tân Sửu, niên hiệu Chương Thánh
Gia Khánh thứ 3 (1061) đời vua Lý Thánh Tông trên đất làng Keo (Giao Thủy).
Sau trận lụt lớn vào năm Nhâm Tý, làng Giao Thủy bị chia tách làm hai nơi, ngôi
chùa cũ thì bị trôi dạt, người ta đã dựng nên hai ngôi chùa mới ở hai bên bờ sông
cho dân mỗi nửa dân làng. Do vậy ngày nay ở vùng đồng bằng Bắc bộ tồn tại hai
ngôi chùa Keo, một thuộc tỉnh Nam Định gọi là Keo Hành Thiện hay còn được gọi
là Keo trên, một thuộc đất Thái Bình gọi là Keo dưới. Hai ngôi chùa này cùng có
niên đại thế kỷ XVII, và cùng thờ Đức Khổng Minh Không, cũng như có lối kiến
trúc gần như một cặp song sinh.
Tuy nhiên với kiểu dạng hình thức tam quan có bộ vì ba hàng cột và bộ cửa chạm
rồng thì lại chỉ đặc biệt có ở chùa Keo Thái Bình. Còn chùa Keo Hành Thiện mặc
dầu có tới hai tam quan: tam quan ngoại và tam quan nội, nhưng kiến trúc các tam
quan này chỉ được thiết kế theo dạng thông thường còn các họa tiết chạm rồng chỉ
nhìn thấy trên các thành phần kiến trúc gỗ, bộ đôi cánh cửa thì hoàn toàn để trơn,
không có chạm khắc.
Có thể nói, bộ cửa gỗ chạm rồng của chùa Keo Thái Bình đã ghi nhận một dấu tích
nghệ thuật đặc sắc của thời Lê Trung Hưng. Mỗi cánh cửa cao 2m, rộng 2,6m, dài
1,2m với bốn dìa cánh không chạm hoa văn, coi như làm khung cho cả bức chạm
công phu. Trung tâm của bức chạm này là một đôi rồng, mà khi khép hai cánh cửa
lại, thì chúng cùng chầu vào một mặt trời ở giữa. Hình tượng rồng với khuôn mặt
dữ tợn, dáng dấp khỏe mạnh, uy nghiêm không được bố cục tách biệt mà lẩn dưới
làn văn mây, quyện với các hình mây đao cách điệu từ râu và bờm rồng, khiến con
vật linh thiêng như lúc ẩn lúc hiện trong những nhịp sóng mây chuyển động. Dưới
chân đôi rồng lớn có đôi lân và những hạt ngọc tròn; đối xứng hai phía bên trên
của bộ cửa còn có đôi rồng nhỏ hơn với thế cuộn mình khá phức tạp, được chạm
tương đối biệt lập, như thể chúng được tạo ra để lấp vào chỗ trống. Nhưng nhìn kỹ,
đôi rồng này đã khiến cho đôi rồng lớn cuộn thành một hình lá đề lớn chính giữa
khuông cửa, phù hợp với tinh thần Phật giáo của ngôi chùa và đồng thời bức chạm
như đã được mở ra những tầng không gian xa gần, cao thấp. Có lẽ do sự độc đáo
duy nhất của bộ của này, nên trong lần trùng tu trong những năm đầu thế kỷ XX,
bộ cửa chùa Keo Thái Bình đã được mang về bảo tàng Mỹ thuật để bảo quản, còn
bộ cửa hiện tại đang dựng ở chùa là một bản sao gần đúng.
Sự xuất hiện của hình tượng rồng ở bộ đôi cánh cửa tam quan không đơn thuần là
để kiến tạo một vẻ đẹp trong kiến trúc mà chúng còn mang một ý nghĩa khác đó là
chứng tỏ đặc ân của ngôi chùa thờ vị thánh có ơn với vua. Bởi lẽ chỉ có những di
tích liên quan đến vua và hoàng tộc thì hình tượng rồng mới được đặt ở một vị trí
quan trọng như vậy. Hơn nữa, mảng chạm rồng trên bộ cửa chùa Keo lại là mảng
chạm lớn nhất trong số những di vật lịch sử còn để lại đến ngày nay. Nếu so sánh
nó với các bộ cửa như chùa Phổ Minh, đền nhà Trần ở cửa cung Trùng Hoa, thì
thấy về kích thước, qui mô và mức độ chạm khắc tinh xảo của bộ cửa Tam quan
chùa Keo có thể được xem là một kiệt tác. Nó cũng đã có những sự kế thừa nhất
định từ bộ cửa chùa Phổ Minh như là lối cuộn hai hình tượng con rồng trung tâm
vào với dạng thức lá đề. Cho dù kế thừa, nhưng cái ý muốn của các nghệ nhân là
tìm đến một sự hòa hợp cho toàn bộ bức chạm đã khiến hệ thống mây đao mác trở
thành nét chính để tăng thêm cho tính chất siêu thực và uy quyền của các con vật
linh được thể hiện ở đây.
Xét riêng về hình tượng rồng, sự biến chuyển của các cấu trúc hình sin kiểu rồng
thời Lý-Trần sang lối cấu trúc tự do hơn thời Lê Trung Hưng đã tạo nên cho biểu
tượng này những dạng thức, ý nghĩa khác. Bờm và râu rồng cũng theo đó mà
không còn giữ điệp khúc dạng hình sin với mục đích tạo nên sự chuyển động thoăn
thoắt, mà thay vào đó là sự hóa mây, hóa đao mác, khiến con rồng thế kỷ XVII tĩnh
tại hơn nhưng cũng đầy tính thị uy hơn được bộc lộ ra. Thêm vào, giai đoạn này sự
phát triển của đình làng đã khiến cho biểu tượng rồng không còn có nghĩa thuần
túy là tượng trưng cho vua nữa. Nó có thể tượng trưng cho một thế lực phong kiến
nói chung.
Trở lại với hình tượng rồng trên bộ cửa gỗ tam quan chùa Keo, ta cũng có thể làm
sự so sánh đối chiếu với một dạng thức tam quan khác có cùng niên đại thế kỷ
XVII, như tam quan đình So. Cũng là rồng chạm mảng lớn ở tam quan, nhưng rõ
ràng đã có sự “kính nhi viễn chi” khi mảng chạm này chỉ được đặt ở khuông trên
của đôi cánh cửa gỗ, mà không phải chính cánh cửa gỗ được chạm rồng. Điều này
đã cho thấy ý nghĩa rất khác biệt, một đằng là biểu tượng rồng biểu tượng vua được
thể hiện ra ngay chính diện, còn một đằng cũng có thể là biểu tượng rồng - vua -
triều đình hoặc biểu tượng cho nguồn cội được đặt cao hẳn lên, như một sự tôn
kính cần thiết tuân theo các thể thức, nguyên tắc Nho giáo của xã hội phong kiến
xưa kia.
Không chỉ vậy, biểu tượng rồng ở thế chính diện này còn khẳng định một vị thế
khác của chùa Keo Thái Bình. Đó là khi ta đối sánh lịch sử của việc dựng tam quan
của chính 2 chùa Keo Thái Bình và Keo Hành Thiện, thì có thể thấy ngay rằng nếu
chỉ là ân sủng cho ngôi chùa thờ vị thánh có ơn với vua, để dẫn đến có được bộ đôi
cánh cửa chạm rồng như đã nói ở trên, thì lẽ ra sẽ có hai tam quan có cửa chạm
rồng. Nhưng đã có điều khác biệt duy nhất giữa 2 nơi này được ghi chép lại trên
các bia dựng ở các chùa là: một nơi do chính vua Lê lẫn thân quyến chúa Trịnh bỏ
tiền ra tu sửa 4, còn một bên là do quan dân công đức để làm 5. Cái vị thế khác
nhau của những người trùng tu khác nhau, ắt sẽ dẫn đến những hình thức khác
nhau. Do vậy bộ đôi cánh cửa chạm rồng này vốn chỉ dành cho ngôi chùa, di tích
gắn liền với triều đình, hoàng tộc, những nơi đại danh lam, đã được xuất hiện ở
chốn dân gian, và dành cho một ngôi chùa thờ một vị thánh có ơn với vua. Và cũng
chỉ khi triều đình đứng ra trùng tu mới có uy quyền để mang những hình tượng như
vậy đặt vào vị trí trang trọng của ngôi chùa, mà không phải là quan hay dân được
tùy tiện quyết định. Ngoài ra nguồn dữ liệu lịch sử này còn giúp khẳng định thêm
nguồn tài lực, trí lực dồi dào cho việc dựng hàng trăm gian của ngôi chùa bằng gỗ
lim và một kết cấu vô cùng độc đáo của gác chuông chùa Keo.
Cuối cùng, với tất cả những lý do này, nên không chỉ bộ đôi cánh cửa tam quan,
mà một số chạm khắc trên các thành phần kiến trúc khác của chùa Keo, hình tượng
rồng cũng được sử dụng khá đa dạng. Trên và dưới mảng cửa con tiện, của hậu
cung thờ thánh Không Lộ, những mảng chạm khắc rồng cũng kiến tạo nên những
vẻ đẹp của khu thờ. Trên hầu hết những con sơn, cột chống của các tòa: Giá Roi,
Phục Quốc, Thiêu Hương, Thượng Điện, con rồng được thể hiện với những dáng
dấp khác nhau: con bay lên, con chúi đầu xuống, có những con đang vờn mây hay
cuốn tròn mình… Những con sơn nội lại được chạm hình con nghê và hoa lá cách
điệu. Kỹ thuật chạm thường là chạm nông, nhấn vào các chi tiết. Các con sơn cột
chống này mặc dầu vốn được dựng với mục đích gia cố sức chịu lực cho các đầu
bẩy, nhưng nay đồng thời lại phục vụ cho mục đích làm đẹp kiến tạo nên vẻ sinh
động, khác biệt cho những công trình kiến trúc ở khu thờ Thánh, so với khu thờ
Phật chùa Keo. ở chi tiết này, thì người ta có thể thấy sự tương đồng trong việc
trang trí giữa hai ngôi chùa Keo Thái Bình, và Keo Hành Thiện.
Có thể nói kiến trúc tam quan chùa Keo Thái Bình là một trong những thức kiến
trúc đặc sắc cho loại hình này vào thế kỷ XVII, và nó cũng là tiền đề cho sự phát
triển vào cuối thế kỷ XVIII. Kiểu thức ba hàng cột này đã được giản lược thêm chỉ
còn một hàng cột như kiến trúc đặc sắc của tam quan chùa Kim Liên sau này.
Những tam quan như vậy đã tạo nên nét đẹp độc đáo cho nghệ thuật Việt. Chúng
còn đồng thời ứng với triết học Phật giáo về tam quan là ba cửa giải thoát. Bước
qua tam quan, vào với thế giới của đạo Phật, chúng sinh vô hình như được thoát
khỏi phiền não, tiến nhập vào chốn thanh tịnh, an nhiên tự tại, để có thể hiểu thêm
về ý nghĩa của chốn bỉ ngạn để đạt đạo quả Niết bàn.
Trang Thanh Hiền
1. âm hương nhất chú khấn thiền chung
ẩn ước Thần Quang yên vụ trung
Pháp vũ hạnh tô liên nguyệt hạn
Từ hàng hảo độ mãn giang phong…
2. Cách gọi này không chính xác, bởi công trình kiến trúc được gọi là Tam quan
ngoại, thực chất không phải là một tam quan ngoại. Nếu xét theo đúng chức năng
và kiểu dạng kiến trúc thì Tam quan ngoại đó mà phải gọi là Phương Đình. Bởi lẽ
nó không phải là cổng vào của một ngôi chùa, mà chỉ là một nơi dừng chân trước
khi vào khu chùa chùa chính. Thứ nữa lối kiến trúc ở đây là lối kiến trúc chỉ có các
hàng cột mà không hề bít vách, cũng như không tạo cửa giữa hàng các cột cái thứ 2
của tòa nhà. Để vào chùa người ta còn phải đi vòng qua một cái hồ hình chữ nhật
lớn, sau đó bước qua cửa của hạng mục công trình thứ 2 (quen gọi là Tam quan
nội). Đây mới đích thực là lối kiến trúc tam quan với lối dựng vì kèo 3 hàng cột và
3 bộ cửa. Tuy nhiên để dễ phân biệt chúng tôi vẫn nêu ra tên gọi Tam quan nội để
độc giả dễ hình dung.
3. Bia Thần Quang Tự, niên hiệu Đức Long 4 (1632), bản dập Viện Nghiên cứu
Hán Nôm, ký hiệu No 13555 -56
4. Bia Thần Quang Tự, niên hiệu Đức Long 4 (1632), chùa Keo Thái Bình - bản
dập Viện nghiên cứu Hán Nôm, No13555 -56
5. Thần Quang Tự Đại Pháp sư bi, niên hiệu Cảnh Trị 9 (1671), chùa Keo Hành
Thiện – bản dập Viện Nghiên cứu Hán Nôm No 2317-18