Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.7 KB, 5 trang )
Bài thuốc chữa bệnh tiêu hoá từ ô dược
Theo y học cổ truyền, ô dược có vị cay, tính ấm, quy vào kinh tỳ, phế, thận, bàng
quang. Ô dược có hai loại là ô dược Bắc và ô dược Nam, đều thuộc họ long não
(Lauraceae). Vị thuốc là rễ của cây ô dược chứa tinh dầu, alcaloid khung aporphin,
như oduocin và oxoduocin, camphora, linderalactone, các esther linderola, acid
hữu cơ
Ô dược có tác dụng hành khí chỉ thống, kiện vị tiêu thực. Dùng trị hàn ngưng khí
trệ, khí nghịch phát suyễn, bụng trướng đau, đầy bụng, bụng dưới đau do bàng
quang lạnh, đau bụng khi hành kinh, ăn uống không tiêu, nôn mửa, trẻ nhỏ bị giun,
sung huyết, đau đầu, đái són, đái dầm hoặc hay đi tiểu đêm. Có thể dùng riêng với
liều từ 6 -12g/ngày, hoặc phối hợp với các vị thuốc khác như bạch truật, trầm
hương, cam thảo, sinh khương, hoặc cao lương khương, hồi hương, thanh bì,
hương phụ
Cây ô dược
Một số bài thuốc dùng ô dược chữa bệnh:
Ăn uống không tiêu, bụng trướng đầy: ô dược (sao cám), hương phụ (tứ chế),
đồng lượng 8 - 12g. Cả hai tán bột mịn, ngày uống 5 - 9g với nước sắc của gừng.
Có thể uống 2 - 3 tuần. Nếu đầy bụng, đau bụng do giun, nhất là trẻ em có thể thay
nước gừng bằng nước sắc của 4g hạt cau, trẻ em bị giun chỉ nên uống 5 - 7 ngày.
Khi uống thuốc cần tránh các thức ăn tanh, khó tiêu như cua, cá, trứng, mỡ
Lỵ, sốt, tiêu chảy: ô dược (sao cám) tán bột mịn, ngày 2 - 3 lần, mỗi lần 3 - 5g,