Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

một số biện pháp thu hút và sử dụng ODA có hiệu quả trong Ngành giao thông vận tải Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (468.54 KB, 88 trang )

MỤC LỤC
Trang
mục lục

1
lời nói đầu

4
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN CHÍNH THỨC
(ODA)

6
I. Vai trò của ODA 6
1. Các hình thức của ODA 6
2. Các nguồn cung cấp ODA chủ yếu 7
3. Vai trò của ODA đối với quá trình phát triển kinh tế-xã hội 11
II. Các đặc điểm của ODA 15
1. Tỷ trọng ODA song phương có xu thế tăng lên, ODA đa
phương có xu thế giảm đi
15
2. Sự cạnh tranh ngày càng tăng trong quá trình thu hút
ODA
15
3. Sự phân phối ODA theo khu vực nghèo của thế giới
không đồng đều
16
4. Triển vọng gia tăng nguồn ODA ít lạc quan 19
III. Quy trình thực hiện dự án ODA 20
1. Quy hoạch ODA 20
2. Vận động ODA 21


3. Chuẩn bị nội dung các chương trình, dự án ODA 21
4. Thẩm định, phê duyệt chương trình, dự án ODA 21
5. Đàm phán kí kết 22
6. Quản lý thực hiện 23
7. Đánh giá 24
CHƯƠNG II THỰC TRẠNG THU HÚT VÀ SỬ DỤNG ODA TRONG
NGÀNH GIAO THÔNG VẬN TẢI VIỆT NAM, GIAI ĐOẠN
1993-1999
25
I. Vai trò của sự phát triển giao thông vận tải trong quá
trình phát triển kinh tế-xã hội
25
1. Hiện trạng hệ thống giao thông vận tải của Việt Nam 25
2. Vai trò của hế thống giao thông vận tải trong qua trình
phát triển kinh tế-xã hội
29
II. Quá trình thu hút và sử dụng ODA tại Việt Nam trong
giai đoạn (1993-1999)
31
1. Tình hình cam kết (thu hút) ODA 31
2. Tình hình giải ngân (sử dụng) ODA 35
3. Cơ cấu thu hút và sử dụng ODA trong giai đoạn
(1993-1999)
38
III. Thực trạng thu hút và sử dụng ODA tại trong ngành
giao thông vận tải Việt Nam giai đoạn (1993-1999)
46
1. Quá trình thu hút và sử dụng ODA trong ngành giao
thông vận tải
46

2. Nguồn vốn ODA cho ngành giao thông vận tải 50
IV. Đánh giá chung về quá trình thu hút và sử dụng ODA
trong ngành giao thông vận tải Việt Nam
58
1. Những thành tựu đạt được 58
2. Những mặt hạn chế 62
CHƯƠNG III PHƯƠNG HƯỚNG VÀ BIỆN PHÁP THU HÚT VÀ SỬ DỤNG ODA
CÓ HIỆU QUẢ TRONG NGÀNH GIAO THÔNG VẬN TẢI VIỆT
NAM
65
I. Phương hướng thu hút và sử dụng ODA trong ngành
giao thông vận tải, giai đoạn 2000-2010
65
1. Phương hướng thu hút và sử dụng ODA tại Việt Nam 65
2. Phương hướng phát triển ngành giao thông vận tải Việt
Nam bằng nguồn vốn ODA
68
II. Một số biện pháp thu hút và sử dụng vốn ODA có hiệu
quả trong ngành giao thông vận tải Việt Nam
75
1. Xây dựng quy hoạch tổng thể về thu hút và sử dụng ODA 75
2. Phối hợp hài hòa chính sách và thủ tục giữa phía Việt
Nam và nhà tài trợ
76
3. Điều chỉnh một số quy định, thể chế sao cho phù hợp với
tình hình thực tế
78
4. Tăng cường vai trò làm chủ của phía Việt Nam trong quá
trình tiếp nhận và sử dụng ODA
83

5. Nâng cao trình độ nguồn nhân lực để tiếp nhận và sử
dụng vốn ODA trong qúa trình phát triển cơ sở hạ tầng
giao thông vận tải
85
6. Tăng cường vốn đối ứng 86
7. Hoàn thiện công tác quản lý dự án 88
Kết luận
93
Tài liệu tham khảo
95
PHỤ LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
Công cuộc cải cách kinh tế của Việt Nam đã qua một chặng đường
hơn 10 năm. Nền kinh tế đã thu được những kết quả đáng khả quan như tốc
độ tăng trưởng nhanh, lạm phát ở mức có thể kiểm soát được, nhưng để
duy trì tốc độ tăng trưởng như vậy thì nhu cầu về vốn đầu tư là rất lớn.
Trong khi đó, nền kinh tế nước ta lại có xuất phát điểm thấp, nghèo nàn, lạc
hậu nên nguồn vốn trong nước không thể đáp ứng hết nhu cầu về vốn đầu
tư đó. Vì vậy, nguồn vốn đầu tư nước ngoài nói chung và nguồn vốn hỗ trợ
phát triển chính thức (ODA) nói riêng là rất quan trọng.
Trong những năm qua, kể từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường
mở cửa với việc mở rộng quan hệ hợp tác với nhiều nước trên thế giới,
chính sách kinh tế đối ngoại của Việt Nam nói chung, chính sách khuyến
khích đầu tư nước ngoài nói riêng đã góp phần đáng kể vào việc đạt được
những thành tựu kinh tế xã hội của đất nước. Trong đó phải kể đến việc
nước ta nhận được ODA từ rất nhiều nguồn với quy mô ngày càng lớn
phục vụ cho công cuộc cải cách kinh tế xã hội. Thực tế đã chứng minh
rằng, ODA có vai trò quan trọng trong quá trình nâng cấp và phát triển hệ
thống cơ sở hạ tầng của Việt Nam, đặc biệt là cơ sở hạ tầng của ngành giao
thông vận tải.

Để có thể thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn ODA trong phát
triển giao thông vận tải cần có những biện pháp cụ thể và toàn diện. Với
những lý do trên, dưới sự hướng dẫn tận tình của , Bộ Kế hoạch- Đầu tư,
em đã đi sâu nghiên cứu đề tài: “Một số biện pháp thu hút và sử dụng
ODA có hiệu quả trong Ngành giao thông vận tải Việt Nam” làm luận văn
tốt nghiệp. Trong khuôn khổ bản luận văn này chỉ đề cập đến tình hình thu
hút và sử dụng ODA nhằm phát triển cơ sở hạ tầng giao thông vận tải.
Những nhận định đó dựa trên cơ sở lý thuyết và thực tiễn, từ đó đề xuất
những giải pháp, kiến nghị nhằm thu hút và sử dụng ODA có hiệu quả cho
ngành giao thông vận tải trong thời gian tới.
LUẬN VĂN ĐƯỢC CHIA LÀM 3 CHƯƠNG:
Chương I : TỔNG QUAN VỀ HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN CHÍNH THỨC (ODA)
Chương II : THỰC TRẠNG THU HÚT VÀ SỬ DỤNG ODA TRONG
NGÀNH GIAO THÔNG VẬN TẢI VIỆT NAM, GIAI ĐOẠN (1993-1999)
Chương III : PHƯƠNG HƯỚNG VÀ BIỆN PHÁP THU HÚT VÀ SỬ DỤNG
ODA CÓ HIỆU QUẢ TRONG NGÀNH GIAO THÔNG VẬN TẢI VIỆT NAM
Em xin chân thành cảm ơn cô ; các cán bộ Vụ Kinh tế đối ngoại, Bộ
Kế hoạch-Đầu tư đã giúp đỡ em hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Em mong nhận được sự góp ý, chỉ bảo của thầy, cô và bạn đọc đối
với bài viết.
C HƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN
CHÍNH THỨC (ODA)
I. VAI TRÒ CỦA ODA
Hỗ trợ phát triển chính thức-ODA (official development assistance),
đã xuất hiện từ rất lâu, sau chiến tranh thế giới thư hai, nó tồn tại cùng với
cách hiểu, đặc điểm, vai trò riêng như sau:
1. Các hình thức của ODA
1.1. Khái niệm
Theo cách hiểu chung nhất, hỗ trợ phát triển chính thức (ODA-

official development assistance), là hình thức hợp tác phát triển giữa Chính
phủ nước nhận tài trợ và các đối tác tài trợ nước ngoài, bao gồm các Chính
phủ, các tổ chức quốc tế (UNDP, WB, IMF...), các tổ chức phi Chính phủ
(NGO) (sau đây gọi là nhà tài trợ). ODA được thực hiện thông qua việc
cung cấp từ phía các nhà tài trợ các khoản viện trợ không hoàn lại, vay ưu
đãi về lãi suất và thời hạn thanh toán (theo định nghĩa của OECD, nếu
ODA là khoản vay ưu đãi thì yếu tố cho không phải đạt 25% trở lên). Về
thực chất, ODA là sự chuyển giao một phần GNP từ bên ngoài vào một
quốc gia, do vậy ODA được coi là một nguồn lực từ bên ngoài.
Hỗ trợ phát triển chính thức được hình thành và phát triển xuất phát
từ sự thoả thuận của các nước công nghiệp phát triển sau đại chiến thế giới
lần thứ hai về sự hỗ trợ dưới dạng viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay
với điều kiện ưu đãi cho các nước đang phát triển bằng kế hoạch Marshall
của Mỹ cung cấp viện trợ cho Tây Âu. Tiếp đó là các hội nghị CôlômBô
(năm 1955) hình thành những ý tưởng và nguyên tắc đầu tiên về hợp tác
phát triển (OECD) (năm 1961) và Uỷ ban Hỗ trợ phát triển (DAC), các nhà
tài trợ đã tập hợp lại thành cộng đồng nhằm phối hợp các hoạt động chung
về hỗ trợ phát triển theo Nghị quyết của Liên Hợp Quốc, các nước giàu cần
trích 0,7% tổng sản phẩm quốc dân (GNP) của mình để thực hiện nghĩa vụ đối
với các nước nghèo.
1.2. Các hình thức của ODA
Hỗ trợ cán cân thanh toán: thường là tài trợ trực tiếp (chuyển giao
tiền tệ). Nhưng đôi khi lại là hiện vật (hỗ trợ hàng hoá) như hỗ trợ nhập
khẩu bằng hàng hoặc vận chuyển hàng hoá vào trong nước qua hình thức
hỗ trợ cán cân thanh toán hoặc có thể được chuyển hoá thành hỗ trợ ngân
sách.
Tín dụng thương mại: Với các điều khoản “mềm” (lãi suất thấp, hạn
trả dài...) trên thực tế là một dạng hỗ trợ hàng hoá có ràng buộc.
Viện trợ chương trình (gọi tắt là viện trợ phi dự án): là viện trợ khi
đạt được một Hiệp định với đối tác viện trợ nhằm cung cấp một khối lượng

ODA cho một mục đích tổng quát với thời hạn nhất định, mà không phải
xác định một cách chnh xác nó sẽ được sử dụng như thế nào.
Hỗ trợ cơ bản chủ yếu là về xây dựng cơ sở hạ tầng (đường xá, cầu
cống, đê đập, trường học, bệnh viện, hệ thống viễn thông...) Thông thường,
các dự án này có kèm theo một bộ phận của viện trợ kỹ thuật dưới dạng
thuê chuyên gia nước ngoài để kiểm tra những hoạt động nhất định nào đó,
hoặc để soạn thảo, xác nhận các báo cáo cho đối tác viện trợ.
Hỗ trợ kỹ thuật: chủ yếu tập trung vào chuyển giao tri thức hoặc tăng
cường cơ sở lập kế hoạch, cố vấn, nghiên cứu tình hình cơ bản, nghiên cứu
trước khi đầu tư. Chuyển giao tri thức có thể là chuyển giao công nghệ như
thường lệ, nhưng quan trọng hơn là đào tạo về kỹ thuật, phân tích kinh tế,
quản lý, thống kê, thương mại, hành chính nhà nước, các vấn đề xã hội, ...
2. Các nguồn cung cấp ODA chủ yếu
Quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới là nhân tố quan trọng thúc đẩy
sự phân công lao động giữa các nước. Bản thân các nước cung cấp ODA
(các nước phát triển) nhìn thấy lợi ích của mình trong việc hợp tác, giúp đỡ
các nước chậm phát triển. Bên cạnh đó còn nổi lên các vấn đề về bùng nổ
dân số thế giới, bảo vệ môi trường sống trong sạch và an ninh, phòng
chống bệnh AIDS,.. Vì vậy, nguồn vốn này ngày càng tăng thêm với nhiều đối
tác tham gia.
Trong thời kì chiến tranh lạnh và đối đầu Đông Tây, trên thế giới
tồn tại ba nguồn ODA chủ yếu:
- Thứ nhất là Liên Xô cũ, Đông Âu;
- Thứ hai là các nước thuộc Tổ chức OECD;
- Thứ ba là các tổ chức quốc tế và phi Chính phủ;
Hiện nay, trên thế giới có hai nguồn ODA chủ yếu: các nhà tài trợ đa
phương, và các tổ chức viện trợ song phương
* Các nhà tài trợ đa phương gồm các tổ chức chính thức sau:
+ Các tổ chức thuộc hệ thống Liên Hợp Quốc bao gồm:
- Chương trình Phát triển của Liên Hợp Quốc (UNDP)

- Quỹ trẻ em Liên Hợp Quốc (UNICE )
- Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực (FAO)
- Chương trình Lương thực Thế giới (WFP)
- Quỹ dân số Liên Hợp Quốc (UNFPA)
- Tổ chức y tế Thế giới (WHO)
- Tổ chức Phát triển Công nghiệp của Liên Hợp Quốc (UNIDO)
- Quỹ Phát triển Nông nghiệp Quốc tế (IFDA),...
Hầu hết viện trợ của các tổ chức thuộc hệ thống Liên Hợp Quốc đều
được thực hiện dưới hình thức viện trợ không hoàn lại, ưu đãi cho các nước
đang phát triển, có thu nhập thấp và không bị ràng buộc các điều kiện chính
trị. Viện trợ này thường tập trung cho các nhu cầu có tính chất xã hội (văn
hoá, giáo dục, sức khoẻ, dân số, xoá đói giảm nghèo,...). Mặc dù còn có
một phần viện trợ phát triển song chỉ là thực nghiệm, thí điểm, phần tư vấn,
đào tạo thường chiếm tỷ lệ cao so với phần thiết bị.
Liên Hợp Quốc cấp vốn cho các tổ chức này hoạt động. Ngoài ra,
các tổ chức này cũng vận động các nước công nghiệp phát triển tài trợ thêm
vốn cho các chương trình hoạt động cụ thể của mình
- Các tổ chức tài chính quốc tế: là các cơ quan hợp tác phát triển
thông qua phương thức tài trợ tín dụng ưu đãi. Các tổ chức tài chính quốc
tế chính thức có quan hệ tài trợ cho Việt Nam gồm:
+ Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF)
+ Nhóm ngân hàng thế giới (WB)
+ Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB)
- Liên minh Châu Âu (EU): Là tổ chức có tính chất kinh tế-xã hội
của 15 nước công nghiệp phát triển ở Châu Âu (chủ yếu là Tây-Bắc Âu).
EU có quỹ lớn, song chủ yếu dành ưu tiên cho các thuộc địa cũ ở Châu Phi,
Caribê, Nam Thái Bình Dương, nay bắt đầu tập trung cho Đông Âu và mở
rộng quan hệ với một số nước Đông Nam Á (với Việt Nam từ tháng
11/1990).
- Các tổ chức phi Chính phủ (NGO). Trên thế giới có hàng trăm tổ

chức phi Chính phủ hoạt động theo các mục đích, tôn chỉ khác nhau (từ
thiện nhân đạo, y tế, thể thao, tôn giáo...) Quỹ của các NGO thường nhỏ,
chủ yếu dựa vào nguồn quyên góp hoặc sự tài trợ của các Chính phủ.
Hiện nay có khoảng gần 150 NGO đã thiết lập quan hệ đối tác ở Việt
Nam, 20 NGO đã thành lập Văn phòng đại diện tại Việt Nam.
- Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC)
- Quỹ Cô oét
* Các nước viện trợ song phương:
- Các nước thành viên Uỷ ban Hỗ trợ Phát triển (DAC) của Tổ chức
Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) là những nước công nghiệp phát
triển, xuất khẩu tư bản: Áo, Bỉ, Canađa, Đan mạch, Pháp, Đức, Ai len, Hà
Lan, Na Uy, Bồ Đào Nha, Thụy Sĩ, Thuỵ Điển, Vương Quốc Anh, Mỹ, Úc,
Niu-di-lân, Nhật Bản, Phần Lan, Lucxămbua. Trong đó, ODA từ các nước
thành viên DAC chiếm phần lớn nguồn viện trợ của thế giới và tăng liên
tục trong suốt 30 năm qua. Từ những năm 1970 đến nay Nhật Bản đã thực
sự đứng vào hàng ngũ các nước tài trợ chủ yếu, và từ năm 1993 Nhật Bản
trở thành nước cung cấp ODA lớn nhất thế giới. Tính chung cho DAC, từ
năm 1970 đến nay ODA về cơ bản tăng theo nhịp độ tăng trưởng ổn định ở
mức 0,32-0,33%. Tuy nhiên đã có sự thay đổi đáng kể tỉ lệ này ở các nước
thành viên trong những năm 80. Về khối lượng tuyệt đối, những khoản
đóng góp chủ yếu trong thời kỳ này thuộc về Nhật Bản và Pháp, hai nước
thành viên của DAC này tăng mức viện trợ của họ 3,5% mỗi năm. Bên
cạnh đó, thì một số thành viên khác có mức đóng góp cao hơn như: Phần
Lan, Ý, Na Uy, Nhật Bản, Thụy Sĩ, Đan Mạch, Pháp, Thụy Điển, và
Canađa. Những nước còn lại tăng dưới 2% mỗi năm.
- Các nước đang phát triển, bao gồm:
Một số nước đang phát triển cũng có nguồn ODA cung cấp cho các
nước chậm phát triển. Năm 1990 (trước khi xảy ra chiến tranh Vùng Vịnh),
Ả rập Xê út đã cung cấp 3,7 tỷ đôla, các Tiểu vương quốc Ả rập thống nhất
0,9 tỷ đôla chủ yếu cho các nước thuộc thế giới Ả rập.

Ấn Độ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan cũng cung cấp trên dưới
100 triệu đôla ODA mỗi năm.
Các nước ASEAN vẫn là những nước nhận viện trợ, nhưng thời gian
gần đây Singapore, Thái Lan cũng bắt đầu cung cấp ODA cho các nước chậm
phát triển.
3. Vai trò của ODA đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội.
Với đặc điểm của các nước phát triển có mức thu nhập bình quân
đầu người thấp, dưới 1000 USD/năm. Nhìn nhận về mức thu nhập này thay
đổi tuỳ theo quan điểm của từng nước, từng tổ chức đa phương. Ngân hàng
phát triển Châu Á (ADB) dành tín dụng từ quỹ phát triển Châu Á (ADF)
cho các nước có thu nhập bình quân đầu người dưới 650 USD với thời hạn
40 năm, ân hạn 10 năm, lãi suất 1%.
Với đặc điểm của nền kinh tế các nước nghèo có biểu hiện như nền
tảng hạ tầng xã hội lạc hậu không thúc đẩy được hoạt động sản xuất kinh
doanh phát triển dẫn đến năng suất lao động thấp. Năng suất lao động thấp
dẫn đến thu nhập bình quân đầu người (TNBQĐN) thấp dẫn đến tiết kiệm
và đầu tư thấp. Tiết kiệm và đầu tư thấp dẫn đến làm giảm tốc độ tích luỹ
vốn. Vốn tích luỹ thấp sẽ không đầu tư vào đổi mới công nghệ nhằm tăng
năng suất lao động nên thu nhập đầu người thấp dẫn đến tiết kiệm và đầu tư
thấp dẫn đến tốc độ tích luỹ vốn thấp...Đó là “cái vòng luẩn quẩn “, nếu
Chính phủ các nước này không có một chính sách đúng đắn sẽ không thoát
khỏi.
Điều quan trọng, trong chính sách của Chính phủ là cần có vốn để
tăng vốn đầu tư, với khối lượng lớn thì nguồn vốn nước ngoài hỗ trợ đóng
vai trò rất quan trọng. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) có đặc điểm là
nguồn vốn phần lớn là của tư nhân, chỉ đầu tư vào những lĩnh vực đem lại
lợi nhuận cao, thời hạn thu hồi vốn ngắn nên không thể phù hợp để phát
triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội. Trong khi đó, ODA lại phù hợp do đặc
điểm là nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức của Chính phủ nước ngoài
và các tổ chức quốc tế cho các nước đang phát triển là nguồn vốn cho phép

sử dụng trong thời gian dài, với lãi suất ưu đãi và chủ yếu dùng để đầu tư
vào phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội.
Tính ưu việt của ODA với hình thức thu hút vốn từ nước ngoài khác
(dưới dạng đầu tư trực tiếp, các khoản tín dụng nhập khẩu, đầu tư cổ phiếu
của người nước ngoài) là ở chỗ sự chuyển nhượng ODA mang tính chất
trợ giúp. ODA là hình thức tài trợ Chính thức của Chính phủ và các cơ
quan chính thức của nước viện trợ. Để phân biệt giữa viện trợ và cho vay,
các nước quy định với nhau là chỉ khi nào yếu tố cho không, nghĩa là bộ
phận không phải hoàn lại chiếm từ 25% tổng viện trợ trở lên, thì khoản
viện trợ đó gọi là ODA. Thời gian sử dụng vốn dài, từ 20 đến 50 năm và
gồm hai phần: thời kỳ ân hạn (miễn trả lãi) từ 5 đến 10 năm: thời gian chịu
lãi suất với lịch trả đa dạng: gồm nhiều giai đoạn và những tỉ lệ trả nợ khác
nhau ở từng giai đoạn.
Đại hội đồng Liên Hợp Quốc kêu gọi các nước phát triển dành GNP
để cung cấp ODA cho các nước đang phát triển và chậm phát triển, bắt đầu
từ sau chiến tranh thế giới thứ hai. Các nước đang phát triển, chậm phát
Tốc độ tích luỹ vốn thấp
Năng suất lao động thấp
Thu nhập bình quân đầu
người thấp
Tiết kiệm và đầu tư thấp
triển thiếu vốn để phát triển hay thiếu vốn tạo nên “chất xúc tác”, từ đó tạo
điều kiện khai thác các nguồn vốn đầu tư khác trong và ngoài nước. Vì vậy,
ODA đã ra đời, góp phần không nhỏ trong công cuộc phát triển kinh tế - xã
hội, khi mà hiện trạng phát triển của chúng còn quá thấp kém so với các
nước tiên tiến có hàng chục năm phát triển. Chính phủ và các tổ chức tài
chính quốc tế cung cấp ODA cũng định hướng vào các dự án, chương trình
cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội như: Năng lượng, Giao thông vận tải, Thuỷ lợi,
Nông nghiệp, Lâm nghiệp, Thông tin liên lạc, Y tế, Giáo dục, Kế hoạch hoá
gia đình, Giáo dục và đào tạo, Các vấn đề xã hội (xoá đói giảm nghèo, phát

triển nông thôn, miền núi, cấp nước sinh hoạt...), Bảo vệ môi trường, Hỗ
trợ nghiên cứu khoa học, kỹ thuật và công nghệ, Viện trợ giúp điều chỉnh
cơ cấu, Chuyển đổi hệ thống kinh tế, Bù đắp thâm hụt cán cân thanh toán
quốc tế, Cải cách các hệ thống tài chính và quản lý ngân sách. Đây là các
vấn đề cần phải giải quyết của các nước chậm phát triển để tiến đến với
các nước phát triển.
Nguồn ODA cung cấp cho các nước nhận viện trợ được hiểu là sự
trợ giúp bằng vật tư, thiết bị, chuyển giao công nghệ, chuyển giao tri thức
(cung cấp chuyên gia; đào tạo cán bộ;...) dưới các hình thức viện trợ không
hoàn lại, được thực hiện theo những thoả thuận kí kết bằng văn bản giữa
Chính phủ các nước nên nguồn ODA là một trong những nguồn quan trọng
của Ngân sách nhà nước, được sử dụng cho các mục tiêu ưu tiên của công
cuộc xây dựng và phát triển kinh tế- xã hội là tạo điều kiện thuận lợi thu
hút các nguồn vốn khác. Gần đây, chỉ riêng việc Nhật Bản tăng vốn ODA
cho Việt Nam đã thúc đẩy các nhà đầu tư Nhật Bản tăng nhanh vốn đầu tư
trực tiếp vào Việt Nam.
Nguồn vốn ODA của Mỹ, Nhật và một số nước khác chủ yếu được
đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng của nước Đông Á. Tác động của nguồn vốn
này có thể nhận thấy ở chỗ, cơ sở hạ tầng của các nước Đông Á được cải
thiện. Singapore, Malaixia, Thailan...nhờ cơ sở hạ tầng phát triển mà có
điều kiện thuận lợi trong việc thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Ở
một số nước, điển hình như Philippin là nơi cơ sở hạ tầng kém phát triển
hơn họ đã đầu tư ít hơn vào nước này.
Bên cạnh những mặt góp phần quan trọng trong công cuộc phát triển
kinh tế - xã hội đối với các nước đang phát triển thì ODA cũng có những
hạn chế nhất định.
Do ODA là sự chuyển giao một tỷ lệ nhất định GNP từ quốc gia phát
triển sang các nước đang phát triển với những điều kiện tài chính mang tính
ưu đãi cao nên nó chứa đựng nội dung chính trị, xã hội. Nói cách khác, các
quốc gia viện trợ đều có mục đích riêng và có những ràng buộc nhất định

áp đặt cho nước nhận viện trợ. Như kế hoạch Marshall của Hoa Kỳ sau
chiến tranh thế giới II, cung cấp viện trợ cho các nước Tây Âu bại trận sau
chiến tranh thế giới II này. Để nhận được viện trợ, các nước Tây Âu đã trở
thành công cụ đắc lực trong chính sách chống cộng của nhà cầm quyền Mỹ,
gây nên cục diện đối đầu Đông - Tây hàng thập kỷ. Cụ thể là để được nhận
viện trợ, các nước Tây-Âu phải thực hiện chính sách thù địch với Liên Xô
và khối xã hội chủ nghĩa nói chung. Họ cũng phải chấp nhận việc Mỹ xây
dựng hàng trăm căn cứ quân sự trên lãnh thổ của mình.
Các nước viện trợ ngoài mong muốn ảnh hưởng về chính trị, các
nước nói chung đều cân nhắc đến lợi ích kinh tế của mình thu được khi bắt
bên nhận viện trợ của mình phải dùng hàng hoá tiêu dùng, dịch vụ và tư
vấn trong nước của nước cung cấp. Bỉ, Đan Mạch, và Đức yêu cầu 50% số
tiền viện trợ phải dùng để mua hàng hoá, dịch vụ của nước mình. Tỷ lệ này
của Canađa cao nhất với 65%. Tính trung bình toàn nhóm DAC, 22% viện
trợ phải được sử dụng để mua hàng hoá và dịch vụ của các quốc gia viện
trợ.
Các nước nhận viện trợ, ngoài những thiệt thòi kể trên còn bị buộc
phải thực hiện những cải cách kinh tế theo khuôn mẫu do phía nhà tài trợ
đưa ra. Điển hình là WB và IMF chỉ viện trợ cho một số nước đang phát
triển khi nước này thực hiện những điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo tiêu
chuẩn và tiến trình của các tổ chức này yêu cầu.
Nước tiếp nhận viện trợ phải chịu rủi ro của đồng tiền viện trợ. Sự
lên giá của đồng tiền viện trợ trong thời gian vay sẽ là gánh nặng nợ cho
các nước tiếp nhận. Thông thường nước tiếp nhận không có quyền lựa chọn
đồng tiền để vay ODA, càng không có quyền sử dụng tiền địa phương làm
viện trợ mà buộc phải vay bằng đồng tiền của nước cung cấp ODA. Chẳng
hạn, Hiến pháp Nhật Bản quy định rõ chỉ cho vay, viện trợ bằng Yên Nhật.
ODA là nguồn vốn cần thiết trong quá trình phát triển của các quốc
gia đang phát triển .Nó có những ưu việt và những hạn chế nhất định. Các
nước đang phát triển cần phải nắm bắt được xu hướng vận động ODA của

thế giới để phát huy tính ưu việt và hạn chế bớt những vấn đề tồn tại đối
với mình.
II. ĐẶC ĐIỂM CỦA ODA
Trong giai đoạn hiện nay đã xuất hiện một số đặc điểm quan trọng
sau:
1. Tỷ trọng ODA song phương có xu thế tăng lên, ODA đa
phương có xu thế giảm đi
Quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới và xu thế hội nhập đã
tạo điều kiện cho các quan hệ kinh tế, chính trị,... giữa các quốc gia ngày
càng được đẩy mạnh và tăng cường. Hoạt động của một số tổ chức đa
phương tỏ ra kém hiệu quả làm cho một số nhà tài trợ ngần ngại đóng góp
cho các tổ chức này. Điều đó là nguyên nhân chính tạo nên sự dịch chuyển,
tỷ trọng ODA song phương có xu thế tăng lên, ODA đa phương có xu
hướng giảm đi. Một trong các minh chứng cho điều đó là trong các năm
1980-1994 trong tổng số ODA của thế giới, tỷ trọng ODA song phương từ
67% tăng lên 69% trong khi đó tỷ trọng ODA đa phương giảm từ 33%
xuống 31%. Tại một số tổ chức quốc tế, nơi một số nước có nhiều ảnh
hưởng (có đóng góp lớn) thường chi phối các tổ chức này, hướng việc cung
cấp ODA vào việc thực hiện các mục tiêu chính trị và kinh tế của họ. Trước
tháng 10/1993, Mỹ đã không cho phép các tổ chức tài chính quốc tế IMF
và WB nối lại quan hệ với Việt Nam. ADB tích cực triển khai hợp tác tiểu
vùng, tiểu vùng sông Mê Kông mở, trên thực tế là hợp tác phát triển toàn
diện Đông Dương nằm trong chiến lược củng cố tư thế chính trị và vị trí
kinh tế của Nhật Bản ở Châu Á nói chung và ở khu vực Đông Nam Châu Á
nói riêng. Cùng với xu thế đó thì kết cấu ODA phần cho không giảm, phần
cho vay tăng lên (nguồn: Bộ Kế hoạch - Đầu tư)
2. Sự cạnh tranh ngày càng tăng trong quá trình thu hút ODA
Trên thế giới, một số nước mới giành được độc lập hoặc mới tách ra
từ các nhà nước liên bang tăng lên đáng kể và có nhu cầu lớn về ODA. Một
số nước cộng hoà thuộc Nam Tư cũ và một số nước Châu Phi bị tàn phá

nặng nề trong chiến tranh sắc tộc đang cần đến sự hỗ trợ quốc tế. Ở Châu
Á, Trung Quốc, các nước Đông Dương, Myanmar,... cũng đang cần đến
nguồn ODA lớn để xây dựng kinh tế, phát triển xã hội. Số nước có nhu cầu
tiếp nhận ODA là rất lớn vì vậy sự cạnh tranh giữa các nước ngày càng trở
nên gay gắt. Các vấn đề mà các nước cung cấp ODA quan tâm đến tạo nên
sự canh tranh giữa các nước tiếp nhận là năng lực kinh tế của quốc gia tiếp
nhận, các triển vọng phát triển, ngoài ra còn chịu nhiều tác động của các
yếu tố khác như: Nhãn quan chính trị, quan điểm cộng đồng rộng rãi, dựa
trên sự quan tâm nhân đạo và hiểu biết về sự cần thiết đóng góp vào ổn
định kinh tế -xã hội quốc tế. Cùng mối quan hệ truyền thống với các nước
thế giới thứ ba của các nước phát triển, hay tầm quan trọng của các nước
đang phát triển với tư cách là bạn hàng (thị trường, nơi cung cấp nguyên
liệu, lao động). Mặt khác, chính sách đối ngoại, an ninh và lợi ích chiến
lược, trách nhiệm toàn cầu hay cá biệt... cũng là nhân tố tạo nên xu hướng
phân bổ ODA trên thế giới theo vùng. Ngoài ra còn có thêm lý do đó là sự
chuẩn bị đáp ứng nhu cầu riêng biệt về thủ tục, quy chế, chiến lược viện
trợ... khác nhau của các nhà tài trợ trên thế giới cũng tạo nên sự chênh lệch
trong quá trình thu hút và sử dụng ODA giữa các quốc gia hấp thụ nguồn
vốn này. Chính sự cạnh tranh gay gắt đã tạo nên sự tăng giảm trong tiếp
nhận viện trợ của các nước đang phát triển. Kể từ năm 1970, ODA chủ yếu
hướng vào Tiểu vùng Sahara và Trung Đông kể cả Ai Cập. Bên cạnh đó,
Trung Mỹ là vùng nhận được tỷ trọng viện trợ tăng lên chút ít, tỷ trọng này
đã thực sự bị cắt giảm mạnh đối với các vùng Nam Á (đặc biệt là Ấn Độ)
và Địa Trung Hải trong vòng 10 năm, từ tài khoá 1983/1984 đến
1993/1994, tỷ trọng thu hút ODA thế giới của tiểu vùng Sahara đã tăng từ
29,6% lên 36,7%, của Nam và Trung Á khác và Châu Đại Dương từ 20,3%
lên 22,9% ; Châu Mĩ La- Tinh và vùng Caribê từ 12% lên 14% ( nguồn:
Bộ Kế hoạch - Đầu tư ).
3. Sự phân phối ODA theo khu vực nghèo của thế giới không đồng
đều

Nguyên nhân tạo nên sự khác biệt như vậy có thể có rất nhiều lý giải
khác nhau, có thể là do những mong muốn của các quốc gia đi viện trợ như
mở rộng quan hệ hợp tác về chính trị hay kinh tế, mục đích xã hội, điều đó
phụ thuộc rất nhiều vào ý muốn chủ quan của những nhà tài trợ. Lúc đầu
họ chỉ quan tâm đến việc thiết lập các mối quan hệ với các nước láng giềng
của mình, nhưng sau họ lại nhận thấy rằng cần thiết lập các quan hệ với các
nước khác trên thế giới để tìm kiếm thị trường trao đổi buôn bán hay đầu tư
mà việc đầu tiên thiết lập quan hệ ngoại giao bằng cách viện trợ ODA. Mặt
khác chính những yếu tố trong nội bộ của quốc gia cũng tạo nên những
khác biệt lớn trong qúa trình nhận viện trợ như các mối quan hệ với các
nước phát triển, hay những thành tích trong phát triển đất nước hay cũng có
thể là do nhu cầu hết sức cần thiết như chiến tranh, thiên tai.... Có thể xét
sự mất cân đối đó dưới các góc độ sau đây:
Xét theo góc độ các nước tài trợ thì nhìn chung họ thường sử dụng
ODA như một công cụ nhằm thực hiện các nục tiêu chính trị hoặc kinh tế
đối ngoại của họ, tạo vùng ảnh hưởng, mở rộng uy tín, khai thác thị trường
đầu tư, tiêu thụ sản phẩm cho các doanh nghiệp nước họ,... các nước lớn
thường có chiến lược cung cấp ODA. Nhìn vào cơ cấu cung cấp ODA cho
các khu vực trên thế giới có thể thấy sự quan tâm về chính trị đối ngoại của
các cường quốc.
Năm 1992, ODA chủ yếu của Mỹ chiếm 40% ở Trung Đông (chủ
yếu là cung cấp cho Israen). Ở Châu Á, ODA Nhật Bản chiếm 52,3%; ở
Châu Phi cộng đồng Châu Âu, các nước Bắc Âu và Canađa tập trung viện
trợ vào Tiểu vùng Sahara; Mỹ tập trung viện trợ vào Trung Đông (Ixraen
và Ai Cập); Tiểu vùng Sahara và Trung Mỹ, Nhật Bản tập trung vào Châu
Á (nhưng cũng tăng viện trợ vào Sahara); Úc; Niu-di-lân tập trung chủ yếu
vào Châu Đại Dương và Viễn Dương.
Sử dụng ODA như là một điều kiện để áp đặt “dân chủ”, “nhân
quyền” theo quan niệm của Phương Tây cũng thường hay gặp trong quan
hệ hợp tác phát triển với một số nước. Một số tổ chức phi Chính phủ, nhất

là những tổ chức có tính tôn giáo, có trường hợp lợi dụng viện trợ để thực
hiện các hoạt động không hợp pháp.
Về phân phối theo nhóm nước, quá nửa số viện trợ từ các nước DAC
được rót vào các nước có thu nhập thấp. Các nước chậm phát triển nhất
được viện trợ ngày càng tăng kể từ những năm 70. Trong đó, Nhật Bản,
Anh, Thuỵ Sĩ và các nước Bắc Âu tập trung viện trợ chủ yếu cho các nước
có thu nhập thấp, trong đó các nước Bắc Âu tập trung vào các nước chậm
phát triển nhất. Khoảng 15% ODA của các thành viên DAC được đưa vào
các nước có thu nhập trên trung bình. Điều đó thể hiện ở chỗ phần lớn viện
trợ của Mỹ dành cho Ixra-en, của Pháp dành cho các lãnh thổ hải ngoại
(Guy-an-na, Qua-đơ-lúp, Mác-ti-níc, Rê-u-nuy-ông),...
Các nước nhận được ODA nhiều nhất từ năm 1988 đến năm 1991:
Ở Châu Âu, Thổ Nhĩ Kỳ được nhận tới 1 tỷ USD trong năm 1991,
năm 1994 vẫn còn nhận 200 triệu USD. Được nhận ODA tăng vọt trong
năm 1991 là An-ba-ni (303 triệu USD), và các nước thuộc Nam Tư cũ
trong ba năm (1992-1994) được cung cấp 5,5 tỷ USD.
Châu Phi: Ai Cập là nước nhận được ODA với khối lượng lớn từ
nhiều năm nay: Năm 1991 nước này nhận được 5.025 triệu, sau đó giảm
dần và năm 1994 vẫn nhận được 2.695 triệu USD. Tiếp theo là Tam-đa-ni-
a, Mô-dăm-bích, ... tiếp sau nữa là Ma rốc, Cơ-ma-run, ...
Châu Mỹ: Ni-ca-ra-goa và Bô-li-via là những nước nhận được ODA
nhiều nhất, 500-800 triệu USD mỗi năm, tiếp theo là Mê-hi-cô, Pê-ru, Ác-
hen-ti-na,... bình quân 300-500 triệu USD mỗi năm.
Trung Đông: Ixra-en mỗi năm nhận được trên 1 tỷ USD viện trợ,
năm 1992 lên đến 2066 triệu USD, Năm 1994 Xyri nhận được 745 triệu.
Châu Á: Có 5 nước nhận được nhiều viện trợ là Trung Quốc, Băng-
la-đét, Inđônêsia, Phi-lip-pin, và Ấn Độ. (nguồn: Bộ Kế hoạch - Đầu tư).
Như vậy, thực tế là không có viện trợ “vô tư”. Viện trợ là cùng có
lợi, xuất pháp từ lợ ích của mỗi bên. Để vẫn có thể tranh thủ được nguồn
vốnODA mà không bị các nhà tài trợ “lái”, cần có một chiến lược hành

động và sử dụng ODA.
4. Triển vọng gia tăng nguồn ODA ít lạc quan
Mặc dù Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã khuyến nghị dành 1% GNP
của các nước phát triển để cung cấp ODA cho các nước nghèo. Nhưng
nước có khối lượng ODA lớn nhất như Nhật Bản, Mỹ ... thì tỷ lệ này mới
chỉ đạt ở mức trên dưới 0,3% trong nhiều năm qua. Tuy có một số nước
như Thụy Điển, Na uy, Phần Lan, Đan-Mạch...đã có tỷ lệ ODA chiếm
hơn 1% GNP, song khối lượng ODA tuyệt đối của các nước này không lớn.
Thêm vào đó tình hình kinh tế phục hồi chậm chạp ở các nước đang phát
triển cũng là một trở ngại gia tăng ODA. Ngoài ra, hàng năm các nước
cung cấp ODA dựa vào kết quả hoạt động của nền kinh tế của mình để xem
xét khối lượng ODA có thể cung cấp được. Nhưng hiện nay các nước phát
triển đang có những dấu hiệu đáng lo ngại trong nền kinh tế của mình như
khủng hoảng kinh tế hay hàng loạt các vấn đề xã hội trong nước, chịu sức
ép của dư luận đòi giảm viện trợ để tập trung giải quyết các vấn đề trong
nước. Ví dụ gần đây nhất là Chính phủ mới của Úc đã cắt giảm gần 2 tỷ
AUD viện trợ.
Gần đây ODA từ các nước không phải thành viên của DAC giảm
đáng kể do nguồn từ Liên Xô (cũ) và các nước Đông Âu không còn nữa.
Một số nước Cộng hoà thuộc Liên Xô cũ và các nước Đông Âu hiện nay
trở thành nước nhận viện trợ ODA của các nước tài trợ Ả-Rập, giảm nhiều
trong thập kỷ 80 (từ 9.539 triệu USD năm 1980 xuống còn 1.590 triệu
USD năm 1989) tăng trong năm 1990 lên 5,9 tỷ USD và lại giảm xuống
còn 2,7 tỷ USD năm 1991, 1,2 tỷ USD năm 1992 và 1993 và 1 tỷ USD năm
1994.
Các nước đang phát triển (Trung Quốc, Ấn Độ, Đài Loan, Hàn
Quốc, Vê-nê-zu-ê-la,...) cũng giảm cung cấp ODA của họ từ 708 triệu USD
năm 1980 xuống còn khoảng 440 triệu USD năm 1991, 484 triệu USD năm
1992, 8 triệu USD năm 1993 và 413 triệu USD năm 1994. Tính chung,
nguồn ODA từ các nước không phải thành viên DAC đã giảm liên tục từ

6038 triệu USD năm 1990 xuống còn 1387 triệu USD năm 1994 (nguồn:
Bộ Kế hoạch- Đầu tư).
Cùng với sự suy giảm của các nước không phải thành viên của DAC
thì ODA từ các nước là thành viên của DAC cũng có những chiều hướng
suy giảm. Mặc dù, Nhật và Pháp trong những năm 80 đóng góp chiếm nửa
số viện trợ tăng lên. Đồng thời một nửa số nước thành viên khác của DAC
cũng tăng mức viện trợ của họ 3,5% mỗi năm (Phần Lan, Ý, Na uy,
Canađa,...), nhưng thì một số nước khác trong thời gian gần đây gặp rất
nhiều khó khăn trong nền kinh tế ,họ đã thực hiện chính sách thắt chặt tài
chính nên việc cung cấp ODA của các nước này có phần suy giảm.
Ngoài ra, ở các nớc phát triển, kinh tế tăng bình quân 6%/ năm trong
các năm 1991-1994 (4%/năm trong thập kỷ 80). Đời sống nhân dân đang
được cải thiện rõ rệt. Do sự phục hồi kinh tế ở các nước phát triển, nguồn
vốn chuyển dịch vào các nước đang phát triển có thể sẽ giảm sút trong các
năm tới, ODA là một khoản vốn mà các nước phát triển hỗ trợ cho các
nước đang phát triển nó được thực hiện từ rất lâu, qua các giai đoạn nhất
định, có những xu thế vận động riêng, nhìn chung lại, xu hướng vận động
hiện nay hàm chứa cả các yếu tố thuận lợi lẫn khó khăn cho một số nước
đang phát triển như nước ta đang tìm kiếm nguồn hỗ trợ phát triển chính
thức, tuy nhiên các yếu tố thuận lợi là cơ bản. Xét trên phạm vi quốc tế,
ODA có thể huy động được lại tuỳ thuộc vào chính sách đối ngoại khôn
khéo và khả năng hấp thụ vôns nước ngoài của chính nền kinh tế nước đó.
Qua đó ta có thể thấy rõ được những đặc điểm riêng biệt của ODA so với
các nguồn vốn khác.
III. QUY TRÌNH THỰC HIỆN DỰ ÁN ODA
Mỗi quốc gia có những quy định riêng đối với các cách quản lý và
điều hành nguồn vốn này .Dưới đây là một số nội dung về quy định của
phát luật Việt Nam liên quan đến các vấn đề xung quanh các hoạt động thu
hút và sử dụng nguồn vốn ODA.
1. Quy hoạch ODA

Bộ Kế hoạch-Đầu tư căn cứ vào chiến lược phát triển kinh tế- xã hội;
quy hoạch tổng thể và kế hoạch hàng năm chủ trì việc điều phối với các
Bộ, các cơ quan ngang Bộ, các cơ quan thuộc Chính phủ có liên quan để
nghiên cứu chủ trương và phương hướng vận động ODA, soạn thảo quy
hoạch ODA và lập các danh mục chương trình, dự án ưu tiên sử dụng ODA
trình Chính phủ phê duyệt.
2. Vận động ODA
Sau khi quy hoạch ODA và các danh mục các chương trình dự án ưu
tiên sử dụng ODA được Chính phủ phê duyệt; Bộ Kế hoạch-Đầu tư phối
hợp với các cơ quan liên quan chuẩn bị và tổ chức các hoạt động vận động ODA thông
qua:
- Hội nghị nhóm tư vấn hàng năm
- Các hội nghị điều phối viện trợ ngành
- Các cuộc trao đổi ý kiến về hợp tác phát triển với các nhà tài trợ
Trước khi tiến hành vận động ODA, các cơ quan, địa phương liên
quan cần phải trao đổi ý kiến với Bộ Kế hoạch và Đầu tư về chính sách,
khả năng và thế mạnh của các nhà tài trợ liên quan.
3. Chuẩn bị nội dung các chương trình, dự án ODA
Sau khi đạt được sự cam kết hỗ trợ của các nhà tài trợ đối với các
chương trình, dự án cụ thể, Bộ Kế hoạch- Đầu tư sẽ phối hợp cùng các đối
tác tiến hành chuẩn bị nội dung các chương trình, dự án ODA bao gồm lập
đề án, lập báo cáo tiền khả thi, báo cáo khả thi,...
4. Thẩm định, phê duyệt chương trình, dự án ODA
Việc thẩm định và phê duyệt các dự án sử dụng nguồn ODA như
sau:
- Các dự án đầu tư xây dựng cơ bản phải thực hiện theo quy định của
Điều lệ quản lý xây dựng cơ bản hiện hành (Nghị định 52/CP, 12/CP và các
văn bản hướng dẫn thuộc lĩnh vực này).
- Đối với các dự án hỗ trợ ngân sách, đào tạo, tăng cường thể
chế,...Bộ Kế Hoạch-Đầu tư chủ trì, phối hợp với các cơ quan chức năng có

liên quan tiến hành thẩm định, trình Thủ tướng Chính phủ quyết định.
Trong quá trình thẩm định có đề cập tới ý kiến tham gia của các bên cung
cấp ODA.
- Các dự án của các tổ chức phi Chính phủ thực hiện theo Quyết định
số 80/CT ngày 28/3/1991 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ
tướng Chính phủ).
5. Đàm phán ký kết
Sau khi nội dung đàm phán với Bên nước ngoài được Thủ Tướng
Chính phủ phê duyệt, Bộ Kế hoạch- Đầu tư chủ trì với sự tham gia của Văn
phòng Chính Phủ, Bộ Tài Chính, Bộ Ngoại giao, Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam và các cơ quan liên quan tiến hành đàm phán với Bên nước ngoài.
Trong trường hợp Thủ tướng Chính phủ chỉ định một cơ quan khác
chủ trì đàm phán với các Bên nước ngoài thì cơ quan này phải thống nhất ý
kiến với Bộ Kế hoạch-Đầu tư về nội dung đàm phán và với Bộ Tài Chính
về hạn mức và điều kiện vay trả (nếu là ODA hoàn lại).
Kết thúc đàm phán, nếu đạt được các thoả thuận với Bên nước ngoài
thì cơ quan chủ trì đàm phán phải báo cáo Thủ tướng Chính Phủ về nội
dung làm việc, kết quả đàm phán và những ý kiến đề xuất có liên quan.
Nếu văn bản ODA ký với bên nước ngoài là Nghị định thư, Hiệp
định hoặc văn kiện khác về ODA cấp Chính phủ thì cơ quan được Thủ
tướng Chính phủ chỉ định đàm phán phải báo cáo Thủ tướng Chính phủ nội
dung văn bản dự định kí kết và đề xuất người thay mặt Chính phủ kí các
văn bản đó. Văn bản trình Thủ tướng Chính phủ phải kèm theo ý kiến
chính thức bằng văn bản của Bộ Kế hoạch và Đầu tư (trường hợp cơ quan
khác trình Thủ tướng Chính phủ), Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài
chính.
Trong trường hợp Nghị định thư và Hiệp định hoặc các văn bản khác
về ODA yêu cầu phải ký kết với danh nghĩa Nhà Nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, Bộ Kế hoạch-Đầu tư (hoặc cơ quan khác với Chính
phủ chỉ định đàm phán) phải báo cáo với văn phòng Chủ tịch nước ngay từ

khi bắt đầu đàm phán với bên nước ngoài về nội dung các văn kiện dự định
kí kết, đồng thời thực hiện các thủ tục Quy định tại điều 6 khoản 3, điều 7
và điều 8 của Nghị định 182/HĐBT ngày 28/5/1992 của Chính phủ.
6. Quản lý thực hiện
Bộ Kế hoạch-Đầu tư phối hợp cùng với Bộ Tài Chính và Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam lập kế hoạch bố trí vốn đối ứng trong kế hoạch Ngân
sách Nhà nước và thực hiện cấp phát theo đúng cam kết tại các Điều ước
Quốc tế về ODA đã ký và các quyết định phê duyệt chương trình, dự án
đầu tư sử dụng vốn ODA. Đồng thời có trách nhiệm theo dõi, kiểm tra tình
hình thực hiện, xử lý những vấn đề liên quan thuộc thẩm quyền trong quá
trình thực hiện và kiến nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét và quyết định
các biện pháp xử lý, baó cáo tổng hợp tình hình thực hiện các chương trình,
dự án sử dụng vốn ODA.
Bộ Tài Chính được xác định là đại diện chính thức cho “người vay”
hoặc là Nhà nước hoặc Chính phủ nước cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam trong các Điều ước Quốc tế cụ thể về ODA cho vay, có trách nhiệm
phối hợp với các cơ quan liên quan xây dựng cơ chế quản lý tài chính (cấp
phát, cho vay lại, thu hồi vốn,...) đối với các chương trình, dự án ODA.
Trong quá trình thực hiện, Ngân hàng Nhà nước có trách nhiệm phối
hợp với Bộ Tài Chính chỉ định các Ngân hàng Thương mại để uỷ quyền
thực hiện việc cho vay lại từ vốn ODA như đã nêu tại điểm d/ khoản 3 điều
14 của Quy chế về quản lý và sử dụng ODA ban hành kèm theo Nghị dịnh
87/CP ngày 5/8/1997 của Chính phủ, thu hồi vốn trả nợ ngân sách, đồng
thời tổng hợp theo định kỳ thông báo cho Bộ Tài Chính và cơ quan liên
quan tình hình thực tế về rút vốn, thanh toán...thông qua hệ thống tài khoản
được mở tại ngân hàng của các chương trình, dự án sử dụng vốn ODA.
Trong quá trình thực hiện chương trình, dự án ODA,... tuỳ theo quy
định và thoả thuận với Bên nước ngoài, các chủ chương trình, dự án chịu
trách nhiệm tổ chức các cuộc kiểm điểm định kỳ hoặc đột xuất. Đại diện
của Bộ Kế hoạch- Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Ngoại giao, Ngân hàng Nhà

nước Việt Nam, văn phòng Chính phủ là đại diện của Chính phủ tại các
cuộc kiểm điểm này.
Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, UBND tỉnh thành phố trực thuộc Trung
ương và các chủ chương trình, dự án lập báo các 6 tháng và hàng năm về
tình hình thực hiện các chương trình và dự án ODA gửi về Bộ Kế hoạch-
Đầu tư, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ ngoại giao, và Văn
phòng Chính Phủ.
7. Đánh giá
Sau khi kết thúc, giám đốc chương trình, dự án ODA phải làm báo
cáo về tình hình thực hiện và có phân tích, đánh giá hiệu quả dự án với sự
xác nhận của cơ quan chủ quản và gửi về Bộ Kế hoạch-Đầu tư, Bộ Tài
chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ ngoại giao, và Văn phòng Chính
phủ.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG THU HÚT VÀ SỬ DỤNG ODA TRONG
NGÀNH GIAO THÔNG VẬN TẢI VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1993 - 1999
I. VAI TRÒ CỦA SỰ PHÁT TRIỂN GIAO THÔNG VẬN TẢI TRONG
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI
1. Hiện trạng hệ thống giao thông vận tải của Việt Nam
Cùng với sự ưu tiên phát triển ngành giao thông vận tải của Chính
phủ bằng nguồn Ngân sách trong nước, vừa qua các tổ chức tài chính quốc
tế, các Chính phủ nước ngoài, các tổ chức phi Chính phủ với nhiều hình
thức đã tài trợ cho việc đầu tư khôi phục và phát triển cơ sở hạ tầng giao
thông vận tải nước ta. Nhiều tuyến đường bộ, đường sông, đường sắt, nhiều
bến cảng đã đang và sẽ được cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới.
Hỗ trợ phát triển chính thức đóng vai trò rất quan trọng trong chương
trình đầu tư cho giao thông vận tải, làm nền tảng cho sự phát triển các hoạt
động kinh tế trong những năm gần đây của Việt Nam.
Trong thời kỳ 1986-1990, tỷ trọng ODA dành cho lĩnh vực này

không lớn chủ yếu tập trung cho một số chương trình trọng điểm như Cầu
Thăng Long, cải tạo cảng Hải Phòng, trạm Vệ tinh mặt đất Hoa Sen, hệ
thống Cáp đồng trục ở một số địa phương.
Bước vào thời kỳ (1991-1995), nhất là từ năm 1993 nước ta có điều
kiện thuận lợi mới để tập trung ODA cho phát triển ngành giao thông vận
tải. Đây là lĩnh vực được sự quan tâm của các nhà tài trợ và phù hợp với
phương hướng ưu tiên phát triển của nước ta. Chính phủ Việt Nam đã ký
Hiêp định ODA để nâng cấp cải tạo quốc lộ 1 (đoạn Hà Nội-Vinh, Nha
Trang-Cần Thơ); quốc lộ 5, quốc lộ 18, xây dựng cầu Sông Giành, khôi
phục 38 cầu trên quốc lộ 1, phục hồi 9 cầu trên tuyến đường sắt Thống
Nhất, nâng cấp cảng Sài Gòn, cảng Hải Phòng,...Các dự án này đã và đang
trong quá trình thực hiện.
Trong thời kỳ (1996-2000) các nhà tài trợ đã cam kết, triển khai các
dự án như tiếp tục quốc lộ 1 (đoạn Hà Nội-Lạng Sơn, Vinh-Đông Hà, Nha
Trang-Đông Hà, Cần Thơ-Năm Căn), xây dựng cầu Mĩ Thuận, Cầu Bính,
đường giao thông nông thôn, 29 cầu trên một số tỉnh lộ, cải tạo cảng Cần
Thơ, cải tạo các tuyến đường thuỷ Đồng Bằng sông Cửu Long, Sông Hồng,
Cải tạo giao thông đô thị thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh,...
Có thể nói, chỉ sau một thời gian ngắn từ năm 1995 đến nay, cơ
sở hạ tầng giao thông đã được cải thiện rõ rệt. Đã khôi phục và nâng cấp
khoảng 2000 km quốc lộ, giao thông đô thị được mở rộng hàng chục ngàn
km đường. Giao thông nông thôn được nâng cấp, nhiều bến cảng quan
trọng được cải tạo, nâng cấp và làm mới... Điều đó khẳng định rằng sự hỗ
trợ giúp đỡ của các bạn bè quốc tế đã đem lại một số kết quả đáng kể.
Trong những năm qua, số lượng các công trình được thực hiện bằng
nguồn vốn ODA tăng lên, trợ giúp cho phát triển ngành giao thông với các
công trình được thực hiện, nhưng giao thông vận tải vẫn gặp phải những
khó khăn nhất định.
Đất nước ta trải qua hai cuộc chiến tranh kéo dài, sự tàn phá nặng nề
của chiến tranh, và sau này hoà bình lập lại vốn đầu tư, mức độ bảo dưỡng

đối với hệ thống giao thông vận tải thấp nên hệ thống cơ sở hạ tầng giao
thông vẫn còn rất lạc hậu, thậm chí một số công trình còn bị xuống cấp
nghiêm trọng. Vì vậy, cần có sự đầu tư lớn vào cơ sở hạ tầng giao thông.
Với kết cấu của mạng lưới giao thông Việt Nam đầy đủ cả đường bộ,
đường sắt, đường biển, đường hàng không. Nhu cầu đầu tư rất lớn, từ
đường nhựa đến đường xe lửa, sân bay, đường biển để nâng cấp lên khi
chúng đang trong tình trạng rất xấu, cần đầu tư hợp lý và cân đối trong kết
cấu mạng lưới giao thông.
- Đường bộ: Việt Nam có chiều dài mạng lưới đường bộ tương đối
lớn, trên 200.000 km năm 1997, đến nay có 210.006 km, kết cấu của đường
bộ gồm: Quốc lộ, tỉnh lộ, đường giao thông nông thôn, đường đô thị.

×