Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Chương 1 khu vực công và tài chính công

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (408.52 KB, 25 trang )

Tài chính Công
Chương 1: KHU VỰC CÔNG VÀ TÀI CHÍNH
CÔNG
Cho đến thời điểm hiện tại, khu vực công nói chung và chính phủ nói riêng có vai trò
như
thế nào trong nền kinh tế vẫn là một trong những chủ đề gây ra nhiều tranh luận nhất trong
các
học thuyết kinh tế cổ điển và hiện đại. Chương này cung cấp một đánh giá tổng quan về lĩnh
vực
công, tài chính công và giải thích tại sao nó là lĩnh vực nghiên cứu quan trọng.
Cụ
thể như sau:
 Khu vực công là gì? Tại sao lại nghiên cứu Khu vực Công?
 Tài chính công và vai trò của chính
phủ trong việc quản lý Tài chính Công.
 Các thời kỳ phát triển của Tài chính Công
.
 Bản chất và chức năng của Tài chính
công.
1.1. Khu vực
công
1.1.1. Khái niệm khu vực
công
Trong đời sống hàng ngày, mỗi chúng ta đều rất cần đến những loại hàng hoá do Khu
vực
công cung cấp như: y tế, giáo dục, an ninh quốc phòng… Như vậy, Khu vực công là
gì?
Từ khi nhà nước ra đời, nền kinh tế - xã hội được chia thành hai khu vực: Khu vực tư nhân

Khu vực công (Khu vực nhà nước, Khu vực chính
phủ).


Sự khác biệt giữa hai khu vực ở đây là
gì?
- Khu vực công là khu vực phản ánh hoạt động kinh tế chính trị, xã hội do nhà nước quyết
định.
- Khu vực tư là khu vực phản ánh các hoạt động do tư nhân quyết
định.
Như
vậy, sự phân biệt giữa khu vực tư và khu vực công là hoàn toàn dựa vào tính chất
sở

hữu và quyền lực chính
trị.
* Hiện nay, có 2 khái niệm về Khu vực
công:
Khái niệm 1: Khu vực công = khu vực nhà nước: mọi thứ, mọi sự đều được quyết định
bởi
nhà
nước (gắn liền với Việt
Nam).
Ngô Đức Chiến Trang 1/24
Tài chính Công
Ví dụ: Ở Việt Nam các đơn vị thuộc khu vực công như quỹ tín dụng nhân dân, kho bạc
nhà
nước, ủy ban nhân dân, hội đồng nhân
dân,
Khái niệm 2: Theo Joseph E. Stiglitz (nhà Kinh tế học người Mỹ, giáo sư Trường Đại
học
Columbia), m ộ

t




quan

hay

đ ơ

n

v ị

được

x

ế p

vào

khu

vực

công

khi




2 đ

ặ c

đ i ể

m

s a

u:
- Phương diện lãnh đạo: trong 1 chế độ dân chủ, những người chịu trách nhiệm lãnh đạo
các
cơ quan công lập đều được công chúng bầu ra hoặc được chỉ định (trực tiếp hoặc gián tiếp).

dụ: Quốc hội do nhân dân bầu ra sau đó Quốc hội lại chỉ định ông Nguyễn Tấn Dũng làm
thủ tướng
Đặc điểm này hàm ý rằng, hoạt động của khu vực công phải phục vụ cho đại đa số lợi
ích
của cộng đồng tức là khu vực công là khu vực phi lợi
nhuận.
- Quyền lực hoạt động: các đơn vị trong khu vực công được giao 1 số quyền hạn nhất
định
có tính chất bắt buộc, cưỡng chế mà các cơ quan tư nhân không thể có được. Chẳng hạn,
chính
phủ có quyền buộc công chúng phải nộp thuế, thực hiện nghĩa vụ quân
sự…
Theo đó, có thể nêu ra 1 số hoạt động thuộc khu vực công sau
đây:

- Hệ thống các cơ quan công
quyền:
+ Hệ thống các cơ quan quyền lực của nhà nước gồm các cơ quan lập pháp (quốc hội),
hành
pháp (chính phủ), tư pháp (tòa án và viện kiểm
sát).
+ Hệ thống quốc phòng và các cơ quan an ninh (thực chất đây cũng là 1 bộ phận của
chính
phủ làm nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc và đảm bảo trật tự xã
hội).
+ Hệ thống các đơn vị cung cấp dịch vụ công (giáo dục, y tế, thể dục thể thao…trong
đó:

giáo dục và y tế là 2 dịch vụ công phổ biến
nhất)
+ Hệ thống các cơ quan cung cấp an sinh xã
hội.
- Hệ thống các đơn vị kinh tế nhà
nước:
+ Các doanh nghiệp nhà
nước.
+ Các định chế tài chính trung
gian.
Ngô Đức Chiến Trang 2/24
Tài chính Công
+ Ngân hàng Nhà
nước.
+ Các đơn vị được nhà nước cấp vốn hoạt
động.
1.1.2. Khu vực công và những vấn đề kinh tế cơ bản (Tại sao lại nghiên cứu Khu vực Công?

)
Chúng ta đã biết đến quy luật khan hiếm như sau: trên thế giới, một số quốc gia may
mắn
được sở hữu nhiều nguồn tài nguyên như dầu mỏ, kim loại quý hiếm hoặc với trình độ công
nghệ
và quản lý tiên tiến mà những quốc gia này giàu có hơn nhiều so với quốc gia khác.
Cũng
tương
tự như vậy đối với các cá nhân, nước nào cũng có người giàu, kẻ nghèo. Tuy
nhiên, tất cả
các
quốc gia, các cá nhân đều "nghèo" trước nhu cầu của chính họ, đó chính là quy
luật khan
hiếm.
Quy luật khan hiếm là mâu thuẫn giữa nhu cầu vô hạn và nguồn lực hữu hạn của mỗi
quốc
gia, mỗi cá
nhân.
Mặc dù sự phát triển của khoa học kỹ thuật đã nâng cao tính hiệu quả của việc sử
dụng
nguồn lực lên nhiều lần nhưng quy luật khan hiếm vẫn tồn tại vì nhu cầu mới luôn nảy sinh,
hay
nói cách khác là nhu cầu không có giới hạn và không có điểm
dừng.
Chính sự luôn tồn tại của quy luật khan hiếm ở mọi quốc gia, mọi chế độ chính trị mà kinh
tế
học đã chỉ ra các vấn đề cơ bản mà nền kinh tế phải giải quyết để phân bổ tối ưu nguồn lực
khan
hiếm của mình, đó
là:

 Sản xuất cái gì? Với số lượng bao nhiêu
?
 Sản xuất như thế nào
?
 Sản xuất cho ai
?
Như mọi lĩnh vực của kinh tế học, khu vực công cũng liên quan trực tiếp đến việc giải
quyết
các vấn đề cơ bản trên trong quá trình phân bổ nguồn lực công. Phân bổ nguồn lực của khu
vực
công liên quan đến sự lựa chọn công, vai trò của Chính phủ và cách thức can thiệp của Chính
phủ
vào nền kinh tế.
Trong khi đó, phân phối của khu vực tư hoàn toàn chịu sự chi phối của cơ chế
thị
trường. Cơ
chế thị trường với quy luật khan hiếm, quy luật cung cầu, quy luật giá trị…yêu cầu
sự
phân bổ
Ngô Đức Chiến Trang 3/24
Tài chính Công
nguồn lực tối ưu là phải: “tối đa hoá lợi nhuận”. Dù vậy, cơ chế thị trường cũng
không
thể chi
phối hết mọi hoạt động của nền kinh tế xã hội. Có những hoạt động không thể lấy sự tối
đa
hoá
lợi nhuận làm mục tiêu phân bổ, chẳng hạn như công bằng và ổn định nền kinh tế.
Trong
trường hợp này cần phải áp dụng cơ chế phi thị trường để điều tiết cách thức phân bổ, khắc

phục
những thất bại của thị
trường.
Như vậy, đối với khu vực công khi nghiên cứu giải quyết các vấn đề cơ bản của kinh tế
học
trong phân bổ nguồn lực cần chú ý đến các vấn đề cơ bản
sau:
- Xác định các hoạt động khu vực công có thể tham gia và cách thức tổ chức các
hoạt
động
đó.
- Dự đoán và tiên liệu các tác động hay hậu quả mà các hoạt động kinh tế của Chính phủ

thể gây ra cho nền kinh tế và khu vực tư
nhân.
- Đánh giá các kịch bản của chính sách công. Có thể dựa vào phương pháp thực chứng
hay
phương pháp chuẩn
tắc.
1.1.3. Khu vực Công và vai trò của Chính phủ
Quá trình phát triển và hoàn thiện chức năng của nhà nước gắn liền với sự phát triển của

hội từ nền kinh tế hàng hoá giản đơn, tự do cạnh tranh đến thị trường hiện
đại.
Trong nền kinh tế hàng hoá giản đơn và kinh tế thị trường tự do cạnh tranh thì nhà nước
chỉ
có chức năng cai trị với những hoạt động cơ bản: quản lý hành chính, trật tự xã hội, an ninh
quốc
phòng. Các hoạt động kinh tế nằm ngoài chức năng của nhà nước. Quy mô kinh tế lúc bấy giờ
còn

nhỏ bé và chịu sự chi phối hoàn toàn bởi cơ chế tự điều tiết của thị trường. (đại diện của tư
tưởng
này là W Petty, F Quesnay, nổi bật là A. Smith với lý thuyết “bàn tay vô
hình”).
Tuy nhiên, vào đầu thế kỷ XX tư tưởng tự do hoá kinh tế mất dần chỗ đứng và thay vào đó

một quan điểm mới: nền kinh tế cần có sự can thiệp của nhà nước, nhà nước phải trở thành 1
chủ
thể kinh tế và phải có vai trò tích cực hơn. Sở dĩ như vậy là do trong thực tiễn, hàng loạt
sự
kiện
cho thấy nền kinh tế tự do cạnh tranh mất dần tính ổn định tự thân của nó: khủng hoảng
Ngô Đức Chiến Trang 4/24
Tài chính Công
kinh
tế
mang tính chu kỳ, thất nghiệp lạm phát đã trở thành nỗi ám ảnh thường trực đối với nền
kinh tế

bản, đặc biệt cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 là dấu hiệu rõ nét cho thấy
kinh tế
thị
trường tự do với cơ chế tự điều chỉnh của nó không còn đủ để duy trì sự phát triển
ổn định
nền
kinh tế. Theo Keynes, khủng hoảng kinh tế và thất nghiệp là do thiếu sự can thiệp
của nhà
nước.
Trong tác phẩm kinh tế học của mình, Samuelson cũng khẳng định nền kinh tế vận hành
theo

cơ chế thị trường nếu không có sự can thiệp của nhà nước thì giống như chỉ vỗ tay bằng 1 bàn
tay.
Nhà nước trong giai đoạn hiện đại có nhiều chức năng với nhiều sứ mệnh khác nhau. Lúc
này
nhà
nước không chỉ là một hệ thống cai trị với các cơ quan quản lý hành chính và an ninh
mà còn

một hệ thống phục vụ, một hệ thống điều chỉnh chủ động và có quyền lực tồn tại bên
cạnh cơ
chế
thị trường để khắc phục những khiếm khuyết của thị trường. Đây là mô hình
kinh tế hỗn
hợp:
chính phủ - khu vực công và khu vực
tư.
Trong thực tiễn, tuy cùng là mô hình kinh tế hỗn hợp nhưng vai trò của chính phủ ở
mỗi
nền kinh tế trong mỗi giai đoạn có khác nhau. Nhìn chung, có thể khái quát sự thay đổi vai trò
của
chính phủ từ sau cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2 cho đến nay như
sau:
 Giai đoạn
1950-1970
Từ sau cuộc chiến tranh thế giới thứ hai, các nền kinh tế đều cho rằng chính phủ đóng 1
vai
trò rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội để

thiết lập chính sách phát triển kinh tế
theo

mô hình hướng
nội.
Chính phủ quyết định phân bổ mọi nguồn lực trong xã hội thông qua các chương trình
kế
hoạch hoá sản xuất kinh
doanh.
Khu vực doanh nghiệp nhà nước ngày càng bành trướng trong hệ thống kinh tế và lấn
át
hoạt động kinh doanh của khu vực
tư.
Liên hệ Việt Nam: Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, ba vấn đề cơ bản của tổ
chức
kinh tế được hoạch định từ một trung tâm chỉ huy thống nhất, đó là ủy ban kế hoạch nhà
Ngô Đức Chiến Trang 5/24
Tài chính Công
nước
các
cấp. Các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm gì, số lượng bao nhiêu là theo chỉ tiêu mệnh
lệnh từ
cấp
trên, các yếu tố đầu vào cho sản xuất được cấp phát theo định mức và sản phẩm
làm ra phải
giao
nộp theo địa chỉ xác định. Nói cách khác, ba vấn đề cơ bản được giải quyết bởi
"bàn tay hữu
hình"
của chính
phủ.
Tuy nhiên, xét về kết quả thì mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung không mang lại
thành

quả đáng khích lệ, nền kinh tế mất cân đối, thiếu hụt ngoại tệ, công nghiệp què quặt, mà
nguyên
nhân thất bại là
do:
 Hiệu quả về kinh tế kém do các áp đặt có tính chất chính trị gây
ra.
 Thiếu thông tin về thị trường và các tác động của chính sách vĩ
mô.
 Năng lực giám sát đối với các phản ứng của khu vực
tư…
 Giai đoạn
1970-1990
Từ thực tiễn các cuộc khủng hoảng dầu lửa vào những năm 1972, 1979: giá dầu leo thang
đã
khiến thâm hụt thương mại ở các nước đang phát triển ngày càng lớn, họ cần một khoản tiền
vay
lớn từ bên ngoài để bù đắp, với việc các quốc gia đi vay để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
trong
khi
giá dầu ở mức cao đã dẫn đến cuộc khủng hoảng nợ ở nhiều nước 1982; ngoài ra quan
điểm về
vai
trò của chính phủ đã có những thay đổi nhất định ở các nền kinh tế thị trường theo
hướng:
giảm
bớt sự can thiệp của chính phủ, thu hẹp khu vực công, đồng thời đẩy mạnh các
chính sách tự
do
hoá kinh tế và tài chính phù hợp với xu hướng hội nhập toàn cầu. Mô hình này
có những tác

động
nhất định trong việc khuyến khích khu vực tư phát triển, theo đó các nguồn
lực trong nền kinh
tế
được khai thác, sử dụng và phân bổ có hiệu quả hơn. Thế nhưng, chính sự
thu hẹp khu vực
công
đã làm giảm sút việc cung cấp các hàng hoá công thiết yếu cho người
nghèo, kéo theo là gia
tăng
bất bình đẳng trong xã hội về phân phối thu
nhập.
 Giai đoạn từ 1990 đến
nay
Trong bối cảnh toàn cầu hoá diễn ra với tốc độ nhanh, thêm vào đó là các cuộc khủng
hoảng
tài chính- tiền tệ liên tiếp xảy ra ở những nền kinh tế mới nổi Châu Á trong các năm giữa thập
Ngô Đức Chiến Trang 6/24
Tài chính Công
kỷ
90 đã dấy lên làn sóng chỉ trích sự yếu kém về vai trò điều tiết vĩ mô của chính phủ. Nhiều
nhà
kinh tế cho rằng sự tác động giữa lực lượng thị trường và chính phủ không chỉ đơn thuần là
vấn
đề
can thiệp và sự tự do của khu vực tư, mà cả 2 khu vực đều có vai trò quan trọng như
nhau
trong
quá trình phát triển kinh tế. Khu vực tư có tính năng động của nó trong cung cấp
hàng hoá,

dịch
vụ cho xã hội, thì chính phủ phải có vai trò khắc phục thất bại của thị trường,
tạo điều kiện
cho
hoạt động kinh doanh của khu vực tư phát triển, đảm bảo tái phân phối và cung
cấp những dịch
vụ
công cần thiết cho người
nghèo.
1.2. Khái niệm và đặc điểm tài chính công
1.2.1. Khái niệm tài chính
công (TCC)
Khái niệm TCC có quan hệ chặt chẽ với khu vực công và được sử dụng để đối lập với
khái
niệm tài chính
tư.
Thật vậy, nhìn lại lịch sử phát triển của phạm trù Tài chính có thể thấy, khi nhà nước
xuất
hiện thì đồng thời cũng xuất hiện các khoản chi tiêu về quản lý hành chính, tư pháp, quốc
phòng
nhằm duy trì quyền lực chính trị của nhà nước và những khoản chi tiêu này được tài trợ từ
các
nguồn tài chính đóng góp của xã hội như: thuế, công trái,…Từ đây, phạm trù TCC đã bắt đầu
xuất
hiện như là 1 khái niệm để phản ánh những hoạt động tài chính gắn liền với chủ thể nhà
nước.
Theo dòng thời gian, sự tiếp cận khái niệm TCC cũng có sự khác nhau giữa các nhà kinh
tế, sở

như vậy, là vì bối cảnh kinh tế xã hội đã làm thay đổi quan niệm về vai trò của nhà

nước.
Những dấu mốc lịch sử quan trọng trong vài trò của Tài chính Công
Thời gian Đặc điểm nền kinh tế Vai trò của Nhà nước
Vai trò của Tài chính
Công
Ngô Đức Chiến Trang 7/24
Tài chính Công
Từ thế kỷ 19 về trước
Nền kinh tế tự cung,
tự cấp, kinh tế hàng
hóa giản đơn, kinh tế
thị trường tự do cạnh
tranh
Nhà nước không can thiệp
vào các hoạt động kinh tế,
Nhà nước chỉ thực hiện
chức năng chính trị, quản
lý bộ máy hoạt động của
Nhà nước
Tài chính Công là công
cụ thực hiện các hoạt
động đơn thuần về
chính trị, là yếu tố
turng lập, đứng ngoài
lĩnh vực kinh tế
Sau chiến tranh thế
giới thứ 2 (Sau cuộc
khủng hoảng 1929 –
1933)
Nến kinh tế Tư bản

Chủ nghĩa đi vào suy
thoái
Nhà nước thực hiện chức
năng chính trị song song
cùng với kinh tế
Tài chính Công là công
cụ được sử dụng để can
thiệp vào các lĩnh vực
của nền kinh tế
Quan điểm của các nhà kinh tế cổ điển (Adam Smith: Cha đẻ của kinh tế thị trường)
cho
rằng: TCC là khoa học nghiên cứu sự tài trợ cho các khoản chi tiêu
công.
Trong bối cảnh kinh tế hiện đại, Giáo sư Harvey Rosen cho rằng TCC là “ lĩnh vực kinh
tế
học phân tích thuế và chính sách chi tiêu của chính phủ” Với cách tiếp cận này, TCC
không
những là khoa học nghiên cứu việc sử dụng các công cụ tài chính để tài trợ chi tiêu công,

còn
phân tích các chính sách thu công, chi tiêu công nhằm mục đích thực hiện vai trò can
thiệp
của
chính phủ vào nền kinh tế (đây là quan điểm tổng quát
hơn).
Theo các nhà kinh tế Pháp (Francoi Adam- Oliver ferrand- Rémy Rioux), TCC là lĩnh
vực
nghiên cứu quản lý tài chính của các tổ chức công
quyền.
Như vậy, có thể thấy rằng, cho dù có những cách tiếp cận khác nhau, nhưng điểm chung của

các nhà kinh
tế
khi định nghĩa phạm trù này là: TCC là một nhánh của kinh tế học nghiên cứu
vai trò của
chính
phủ thông qua phân tích tác động thu, chi ngân sách đến các hoạt động kinh
tế xã hội. Hay
nói
cách khác, TCC cũng được hiểu như kinh tế học của khu vực công hay kinh
tế công, chủ yếu
đề
cập đến các hoạt động thu thuế và chi tiêu của chính phủ và những ảnh
hưởng của nó trong
việc
phân bổ các nguồn lực và phân phối thu
nhập.
Tóm lại, Tài chính Công phản ánh hệ thống các quan hệ kinh tế dưới hình thức tiền tệ trong
quá trình phân phối tổng nguồn lực tài chính quốc gia biểu hiện thông qua các hoạt động thu, chi
bằng tiền để hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ của Nhà nước và các chủ thề công quyền nhằm
thực hiện các chức năng kinh tế xã hội của Nhà nước trong việc cung cấp hàng hóa, dịch vụ công
cho xã hội không vì mục đích lợi nhuận.
Ngô Đức Chiến Trang 8/24
Tài chính Công
Từ khái niệm trên cho thấy:
 Tài chính Công gắn liền với các chủ thể thực hiện phân phối tổng nguồn lực tài chính
quốc gia là Nhà nước và các chủ thể công quyền khác.
 Các quỹ tiền tệ thuộc lĩnh vực Tài chính Công là các quỹ tiền tệ của Nhà nước (Quỹ
Ngân sách Nhà nước và các quỹ tài chính ngoài ngân sách Nhà nước nhưng thuộc sở
hữu Nhà nước).
 Tài chính Công phản ánh các quan hệ kinh tế biểu hiện thông qua các hoạt động thu,

chi bằng tiền của Nhà nước và các chủ thể công quyền.
 Tài chính Công cung cấp hàng hóa công, dịch vụ công phục vụ cho lợi ích cộng đồng
và xã hội không vì mục đích lợi nhuận.
1.2.2. Đặc điểm Tài chính Công
Tài chính Công thuộc sở hữu của Nhà nước và gắn liền với quyền lực chính trị của Nhà
nước:
Nhà nước là chủ thể duy nhất có quyền lập pháp và ban hành các quy định hệ thống pháp luật
bắt buộc mọi pháp nhân và thể nhân tuân theo. Do đó, Nhà nước có quyền quyết định cơ cấu, ban
hành các nội dung và mức độ các khoản thu, chi cũng như các quỹ tiền tệ của Nhà nước nhằm đảm
bảo thực hiện các nhiệm vụ kinh tế xã hội và các chức năng của Nhà nước trong từng thời kỳ, thực
hiện cung cấp các hàng hóa, dịch vụ công sao cho đạt hiệu quả cao nhất.
Đặc điểm này cho thấy Nhà nước có một tầm quan trọng trong việc quản lý Tái chính Công, là
người thực hiện chức năng quản lý, kiểm soát và theo đõi. Cùng với đó, Tài chính Công là công cụ
tài chính giúp Nhà nước duy trì, phát triển nguồn lực tài chính cho Nhà nước để đáp ứng các nhu
cầu quản lý và điều hành hoạt động của Nhà Nước. Do đó, cần phải củng cố và tăng cường quyền
lực của Nhà nước ở Khu vực Công và xác lập quyền lãnh đạo, nguyên tắc tập trung thống nhất
trong điều hành hoạt động Tài chính Công.
Đặc điểm về nguồn thu và chi của Tài chính Công:
Ngô Đức Chiến Trang 9/24
Tài chính Công
Nguồn thu của Tài chính Công gắn liền với các hoạt động kinh tế của xã hội. Trong điều kiện
kinh tế thị trường, với sự phát triển của các thành phần kinh tế và các khu vực kinh tế đã tạo ra các
nguồn lực tài chính cho xã hội.
Thông qua cơ chế phân phối được luật pháp quy định với sự tham gia của các chủ thể trong đó
có Nhà nước, một bộ phận nguồn lực tài chính quốc gia được tập trung về các quỹ tiền tệ của Nhà
nước dưới nhiều hình thức: Thuế, thu sự nghiệp, phí, lệ phí, vay nợ…
Các nguồn thu của Tài chính Công mang tính cưỡng chế và tự nguyện, vừa không hoàn trả,
vừa phải hoàn trả, vừa tạo ra tiềm lực tài chính cho Nhà nước, vừa thực hiện công bằng trong phân
phối nguồn lực, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua cơ chế điều chỉnh, điều tiết các nguồn thu
nhập của các đối tượng trong xã hội.

Tài chính Công còn cung cấp các hàng hóa và dịch vụ công cho các hoạt động kinh tế, cho
cộng đồng dân cư trong điều kiện khu vực tư chưa thể thỏa mãn đầy đủ yêu cầu này đối với nền
kinh tế xã hội.
Thông qua các khoản chi tiêu công phải tạo ra sự phát triển cân đối giữa khu vực công và khu
vực tư, đồng thời tạo ra sự kết hợp trong việc phân bổ và sử dụng các nguồn lực tài chính quốc gia
nhằm đạt hiệu quả cao nhất, khơi dậy các nguồn lực tiềm năng trong nền kinh tế quốc dân.
Tài chính Công phục vụ lợi ích của cộng đồng:
Trong mỗi giai đoạn phát triển của mỗi quốc gia, Nhà nước đều hoạch định các chính sách phát
triển kinh tế xã hội, mục tiêu và nhiệm vụ chính trị của mình.
Tài chính Công là một công cụ tài chính được Nhà nước sử dụng để phân phối nguồn lực tài
chính cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội của Nhà nước, hướng
vào phục vụ lợi ích của quốc gia và lợi ích cộng đồng xã hội không vì mục đích lợi nhuận thông
qua các khoản chi tiêu không mang tính chất hoàn trả hoặc hoàn trả không ngang giá.
Các lợi ích thụ hưởng bao gồm các công trình kinh tế, văn hóa, xã hội, các hàng hóa và dịch vụ
công phục vụ cho phát triển kinh tế của tất cả các chủ thể là pháp nhân và thể nhân, nâng cao phúc
Ngô Đức Chiến Trang 10/24
Tài chính Công
lợi xã hội và mức sống của dân cư. Việc thụ hưởng các lợi ích từ tài chính công không phụ thuộc
vào khả năng, mức đóng góp của các chủ thể trong xã hội.
1.3. Sự phát triển tài chính
công
Bắt nguồn từ sự phát triển kinh tế xã hội, hơn một thế kỷ qua, tài chính công đã có
nhiều
biến đổi đáng kể. Sự biến đổi này diễn ra trên 2 phương diện: quan điểm và nhận thức về tài
chính
công; cơ chế vận hành của tài chính công. Chúng ta có thể chia tiến trình phát triển của
tài
chính
công thành 2 giai
đoạn:

1.3.1. Tài chính công cổ
điển
Đây là thuật ngữ dùng để phản ánh hoạt động của tài chính công gắn liền với bối cảnh
kinh
tế - xã hội cuối thế kỷ 19 trở về trước. Trong các nền kinh tế tự cung tự cấp, kinh tế hàng hoá
giản
đơn và kinh tế thị trường tự do cạnh tranh, chức năng cơ bản của nhà nước là thực hiện các
nhiệm
vụ truyền thống như: cảnh sát, tư pháp, quốc phòng và ngoại giao. Còn các hoạt động kinh tế
thì
để mặc cho khu vực tư nhân quyết định, nhà nước không can thiệp hay nói khác đi là nhà
nước
đứng ngoài các hoạt động kinh
tế.
* Những đặc trưng cơ bản của tài chính công cổ
điển:
- TCC có tính trung lập: thể
hiện
+ TCC không can thiệp, không gây ảnh hưởng đối với các hoạt động kinh tế, không làm
thay
đổi thực trạng kinh tế. Nói khác đi, mọi khoản thu chi của nhà nước không theo đuổi bất kỳ
mục
đích kinh tế- xã hội
nào.
Thuế và các khoản thu công chỉ thực hiện mục đích cơ bản là tạo nguồn thu cho nhà
nước.
Khi đặt ra 1 sắc thuế thì mối quan tâm hàng đầu của nhà nước là hiệu quả của nó đối với quỹ
ngân
sách. Thuế phải đơn giản, dễ thu để tập trung được nhiều nguồn lực nhất cho nhà nước. Chi
tiêu

công chỉ có 1 đối tượng duy nhất là đáp ứng nhu cầu tài chính của nhà nước, không có
mục
đích
can thiệp vào đời sống kinh tế xã
hội.
+ Tính độc lập của TCC. Thật ra thời bấy giờ, lý thuyết kế hoạch hoá nền kinh tế chưa
được
Ngô Đức Chiến Trang 11/24
Tài chính Công
hình thành do vậy các nhà hoạch định chính sách TCC không quan tâm đến việc gắn kết giữa
kế
hoạch ngân sách với kế hoạch kinh tế; giữa kế hoạch ngân sách với chu kỳ kinh kế. Hiểu
cách
khác, kế hoạch TCC được lập trong khuôn khổ ngắn hạn 1 năm và hoàn toàn chỉ chú
trọng
đến
khía cạnh tài chính chứ không bị chi phối bởi các yếu tố kinh tế - xã
hội.
Nguyên tắc quan trọng nhất của tài chính cổ điển là phải thăng bằng thu chi. Nguyên
tổng
thống Pháp, ông G. Doumergue, trong bài diễn văn đọc năm 1934 đã nói:" Người đàn bà nội
trợ
đi chợ không được tiêu quá số tiền có trong túi. Nhà nước cũng trong tình trạng y hệt: không
được
chi tiêu quá số thu". Điều này hàm ý: nhà nước chỉ được phép chi tiêu trong phạm vi số
thu
thuế
và chỉ được khai thác nguồn thu thuế để trang trải chi tiêu; số thu thuế cũng không
được lớn
hơn

số chi của
NSNN.
- Thuế là nguồn thu quan trọng nhất của TCC: để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của nhà
nước,
TCC sử dụng các nguồn thu cơ bản
sau:
+ Thu

nh ậ p

t



việ c

nhà

n

ước

ch o

khu

vực




thuê

c

ông

s ả n

(nh à ,

đ ấ

t

). Ở thời kỳ đầu
của
phương thức sản xuất phong kiến, thu nhập từ cho thuê công sản là nguồn thu quan trọng để
nhà
nước tài trợ cho bộ máy hành chính. Trong khi đó, thuế là nguồn thu không ổn định, chỉ để
đáp
ứng nhu cầu chi tiêu thường xuyên của nhà nước. Nhưng đến thế kỷ 18, với việc gia tăng chi
tiêu
công và sự suy giảm về công sản mà nhà nước sở hữu, nên nguồn thu nhập từ cho thuê công
sản
ngày càng giảm dần trong tổng số thu của nhà
nước.
Ví dụ: Việt Nam đã cho Nga thuê cảng quân sự Cam Ranh (Khánh Hòa) từ 1978 với
thời
hạn thuê là 25 năm. Hết 25 năm Việt Nam tiếp tục cho Nga thuê 200 triệu $/năm. Nhưng, Nga
rút đi

từ
năm 2004 và hiện nay nơi đây được sử dụng làm cơ sở dân
sự.
+ Ng u ồ

n

thu t

ừ công

trái. Nhà nước có thể đi vay để tài trợ cho nhu cầu chi tiêu công.
Học
thuyết về công trái của TCC cổ điển lập luận
rằng:
Công trái là hình thức thu có tính liên thế hệ - khoản thu trong hiện tại nhưng thế hệ
tương
lai phải trả. Nghĩa là qua việc sử dụng công trái, nhà nước đã chuyển gánh nặng chi tiêu trong
Ngô Đức Chiến Trang 12/24
Tài chính Công
thế
hệ hiện tại sang thế hệ tương
lai.
Công trái là một khoản thuế thu trước. Nhà nước đi vay, tất nhiên là phải trả nợ sau 1
kỳ
hạn nhất định. Nguồn để nhà nước trả lãi cho chủ nợ chủ yếu là lấy từ
thuế.
Từ lập luận trên, học thuyết kinh tế cổ điển cho rằng, công trái không phải là công cụ lâu
dài
để tài trợ các khoản chi tiêu công mà chỉ là công cụ tạm

thời.
+ N gu

ồ n

th u

từ th

u ế

. Vì những hạn chế của những nguồn thu trên, kinh tế học cổ điển
cho
rằng, thuế là công cụ tài chính chủ yếu để tạo nguồn thu cho nhà nước. Thuế là nguồn thu có
tính
cưỡng chế và không hoàn lại. Bằng quyền lực của mình, nhà nước quy định bắt buộc mọi
người
dân phải có nghĩa vụ nộp
thuế.
Nói tóm lại, TCC cổ điển, theo các nhà kinh tế, là môn khoa học nghiên cứu những công
cụ
tài chính mà nhà nước sử dụng để tạo lập nguồn lực qua đó tài trợ cho chi tiêu công. Công
cụ
NSNN được thiết lập là nhằm mục đích ấn định con số chi tiêu công trong 1 năm mà nhà
nước
phải tìm kiếm nguồn thu để tài trợ. Đồng thời, NSNN đưa ra những nguyên tắc về kế toán
để
theo
dõi chi tiết và chặt chẽ các khoản chi tiêu công, tránh được sự phí phạm nguồn lực
TCC để

sao
cho chi tiêu công của nhà nước được hợp pháp và có thể được tài trợ bằng những
nguồn thu
ổn
định.
1.3.2. Tài chính công hiện
đại
TCC hiện đại phát triển gắn liền với bối cảnh kinh tế xã
hội:
 Nền kinh tế thị trường vận hành theo cơ chế thị trường có sự can thiệp của nhà
nước.
 Hệ thống tiền tệ không ổn
định.
 Nền kinh tế phát triển theo xu hướng quốc tế
hóa.
Trong bối cảnh đó, TCC hiện đại có những đặc trưng
sau:
- Quy mô TCC có xu hướng ngày càng tăng so với
GDP
Nếu như trước những năm 1914, tỷ lệ chi tiêu công ở hầu hết các nước tư bản là vào
khoảng

10% so với GDP thì sau chiến tranh thế giới thứ 1 tỷ lệ này đã tăng nhanh. Ở Pháp, năm 1958
chi
tiêu công chiếm 33%GDP, Mỹ là 33%, Anh
32%,…
Ngô Đức Chiến Trang 13/24
Tài chính Công
Sự gia tăng quy mô chi tiêu công làm cho chính phủ gặp nhiều khó khăn trong việc
kiểm

soát thâm hụt ngân sách. Đây là lý do giải thích tại sao chính phủ phải đẩy mạnh chính sách
phi
tập trung hoá tài chính giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương nhằm giảm
bớt
gánh nặng chi tiêu. Theo đó, quyền lực của chính quyền địa phương được lớn dần và có
nhiều
quyền hơn trong quyết định ngân
sách.
- Tính phi trung lập của
TCC
Với những vấn đề kinh tế xã hội xảy ra sau cuộc chiến tranh thế giới thứ 1, nhà nước
không
thể đứng ngoài các hoạt động kinh tế mà phải tham gia để khắc phục những khuyết tật của cơ
chế
thị trường tự do cạnh tranh nhằm bằng phẳng hoá chu kỳ kinh tế, đảm bảo nền kinh tế phát
triển
ổn định.
Sự can thiệp của nhà nước được thực hiện thông qua hệ thống luật pháp và các công
cụ
kinh
tế.
Trong bối cảnh đó, TCC không những là công cụ để nhà nước huy động các nguồn lực
của
xã hội để tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của nhà nước mà còn là công cụ để nhà nước can thiệp
vào
các hoạt động kinh tế xã
hội.
+ Về phương diện kinh tế, bằng việc thực hiện chính sách thuế có phân biệt ưu đãi đối
với
các loại hàng hoá, ngành nghề, các địa phương để điều chỉnh cơ cấu kinh tế, ổn định giá cả

thị
trường, góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển cân đối. Đồng thời, thông qua các khoản chi
tiêu
công nhà nước tiến hành trợ cấp và chia sẽ rủi ro với các doanh nghiệp, các nhà đầu tư
trong
các
lĩnh vực có lợi cho quốc kế dân
sinh.
+ Về phương diện xã hội, nhà nước thực hiện phối hợp chính sách thuế và chính sách
chi
tiêu công để điều tiết và phân phối thu nhập công bằng giữa các đối tượng trong xã
hội.
+ Về phương diện quản lý, TCC hiện đại không nhất thiết luôn phải có sự cân bằng thu
chi,
mà có thể hy sinh sự cân bằng này để góp phần điều chỉnh nền kinh tế vận hành theo định
hướng
của nhà nước. Theo đó, khuôn khổ quản lý thu chi ngân sách không bị giới hạn trong 1
Ngô Đức Chiến Trang 14/24
Tài chính Công
năm

phải gắn liền với kế hoạch phát triển kinh tế trung và dài
hạn.
- TCC sử dụng nhiều công cụ khác nhau để tạo lập nguồn thu cho nhà nước, do quy mô
chi
tiêu công ngày càng tăng nên nhà nước sử dụng nhiều công cụ để tạo lập nguồn lực tài
chính.
Thuế không còn là công cụ duy nhất như trong thời kỳ tài chính cổ điển. Bên cạnh thuế
nhà
nước

thường xuyên sử dụng công cụ công
trái.
- Cải cách TCC không còn xuất phát từ quan điểm của từng quốc gia riêng rẽ mà phải
tính
đến những yêu cầu của quá trình toàn cầu hoá. Sự hội nhập yêu cầu các quốc gia phải
cải cách

tổ chức lại thể chế TCC ngày càng phải đạt được quy chuẩn của quốc tế về chính
sách thuế,
chính
sách quản lý nợ quốc gia, chi tiêu công phải hướng đến kết quả - đầu ra nhằm
nâng cao hiệu
quả
của khu vực công; kế toán và sự minh bạch thông tin về NSNN. Hơn nữa,
hội nhập sẽ tạo
điều
kiện cho nền kinh tế dễ dàng tiếp cận và khai thác các khoản vay trên thị
trường tài chính quốc
tế,
nhưng cũng chính điều này đặt ra cho TCC của quốc gia phải gánh
chịu nhiều rủi ro không
chỉ
bao gồm các khoản nợ trực tiếp, rõ ràng mà còn cả các khoản nợ bất
thường ngầm
định.
1.4. Bản chất và chức năng của tài chính
công
1.4.1. Bản chất
Tài chính Công (TCC)
- Bản chất kinh

tế
TCC phản ánh tổng thể mối quan hệ kinh tế giữa nhà nước và xã hội trong quá trình
phân
phối các nguồn lực tài chính. Bản chất kinh tế của TCC bắt nguồn từ sự quan tâm của chính
phủ
đến quy mô chiếc bánh kinh tế. Hoạt động thu, chi của chính phủ phải hướng đến sao cho
tối
đa
hoá hiệu quả của nền kinh
tế.
Xét về hiện tượng, TCC phản ánh hoạt động thu chi bằng tiền của nhà nước. Nhưng
đằng
sau hiện tượng đó là ẩn dấu mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa nhà nước với xã hội trong quan
hệ
phân phối nguồn lực tài chính, biểu hiện là : mâu thuẫn giữa khả năng đóng góp nguồn lực
tài
chính của xã hội với nhu cầu chi tiêu của nhà nước. Trong 1 nền kinh tế, nguồn lực tài chính
Ngô Đức Chiến Trang 15/24
Tài chính Công
luôn
có sự giới hạn nhất định về quy mô và khả năng tạo lập. Điều này có nghĩa là, khu vực

cũng
không có nhiều khả năng để cung cấp nguồn lực tài chính dồi dào cho nhà nước. Bản
thân
khu
vực này luôn cần có nguồn lực tài chính ở quy mô nhất định để trang trải cho các nhu
cầu
thường
xuyên và đầu tư. Vả lại, đây là những nhu cầu rất cần thiết để tạo ra sự tăng trưởng

kinh tế.
Chính
vì vậy, trong chính sách huy động nguồn lực của mình, nhà nước cần chú trọng
sử dụng các
công
cụ tài chính công ở chừng mực sao cho tạo lập nguồn lực tài chính với quy mô
thích hợp trong
sự
cân bằng về lợi ích kinh tế với khu vực tư để nhằm tạo ra động lực thúc
đẩy kinh tế phát
triển.
Nếu vì nhu cầu chi tiêu công ngày càng tăng, nhà nước lại thực hiện chính
sách tập trung cao
độ
nguồn lực tài chính của xã hội, thì điều này không những làm triệt tiêu
động lực kinh tế của
khu
vực tư mà còn tăng thêm gánh nặng cho xã hội. Cũng cần thấy rằng,
việc khu vực tư đóng
nộp
thuế cho nhà nước thể hiện 1 sự hy sinh 1 phần thu nhập của họ
trong tiêu dùng hay đầu tư.

vậy, chi tiêu công và sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế
cần phải tạo ra những lợi ích
nhất
định hay ít ra là phải đủ bù đắp lại sự hy sinh của khu vực
này.
- Bản chất chính
trị

Nguồn gốc xa xưa của TCC đã gắn bó chặt chẽ với quyền lực chính trị của nhà nước.
Thực
tiễn hệ thống chính trị là yếu tố cơ bản và chi phối toàn bộ hoạt động của TCC.
TCC không
thể
vận hành bên ngoài khuôn khổ chính trị, vì không có chính trị thì không
thể nào thoã mãn
được
các mục tiêu có tính xã hội. Nói khác đi, với quyền lực chính trị của
mình giúp cho chính phủ

được nguồn lực TCC, qua đó trang trải các nhu cầu chi tiêu công
nhằm đảm bảo thực hiện
các
mục tiêu xã
hội.
TCC thuộc sở hữu nhà nước và là công cụ để thực hiện các nhiệm vụ kinh tế xã hội mà
nhà
nước đảm nhận, trong đó tái phân phối và đảm bảo công bằng là nhiệm vụ trọng tâm. Trong
nền
kinh tế hiện đại, các nhiệm vụ kinh tế - xã hội của nhà nước trong từng giai đoạn phát triển
được
quyết định bởi cơ quan quyền lực cao nhất đó là Quốc hội.
Quốc hội là chủ thể duy nhất
quyết
định chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước,
Ngô Đức Chiến Trang 16/24
Tài chính Công
quyết định cơ cấu, nội dung, mức độ
các

khoản thu chi của TCC tương ứng với các nhiệm vụ của
nhà nước theo chiến lược đã hoạch
định
nhằm đảm bảo thực hiện có hiệu quả nhất các nhiệm vụ
đó.
Như vậy, chính trị là nền tảng tổ chức các mặt hoạt động của xã hội, cho nên khi nghiên
cứu

TCC phải chú trọng mối quan hệ chặt chẽ với toàn bộ hệ thống quyền lực chính trị của quốc
gia.
1.4.2. Chức năng của
Tài chính Công
Tài chính Công có các chức năng sau
đây:
- Chức năng huy động nguồn lực tài
chính
Sự tồn tại khu vực công đòi hỏi cần phải có 1 nguồn lực tài chính tương ứng nhằm trang
trải
các nhu cầu chi tiêu và phát triển của khu vực này. Do vậy, TCC phải có chức năng tổ chức
huy
động nguồn
lực.
Thực hiện chức năng này, nhà nước thiết lập hệ thống các công cụ tài chính với nhiều
hình
thức huy động khác nhau: huy động cưỡng chế, huy động tự nguyện… từ các chủ thể kinh tế -

hội để tập trung nguồn lực tài chính tài trợ cho nhu cầu chi tiêu
công.
Huy động nguồn lực của TCC phải đặt trên nền
tảng:

 Đánh giá tiềm năng nguồn lực tài chính trong nền kinh
tế.
 Tính toán nhu cầu chi tiêu công và quan hệ giữa chính sách thu công với các biến số vĩ

(lạm
phát, tăng trưởng kinh tế, việc
làm ).
 Lựa chọn công cụ phù hợp (thuế, phí, lệ phí, vay
nợ ).
 Đánh giá hiệu quả chính sách huy động nguồn
lực.
Tuy nhiên, chính sách huy động nguồn lực của TCC có sự giới hạn về quy mô, bởi lẽ:
thuế
chỉ có thể tăng khi GDP tăng, ngược lại nếu GDP không tăng thuế tăng sẽ làm giảm tăng
trưởng,
tác động làm lấn áp đầu tư tư
nhân.
- Chức năng phân bổ nguồn lực tài
chính
Chức năng phân bổ nguồn lực của TCC thể hiện qua việc sắp xếp, lựa chọn và đánh đổi
giữa
các nhu cầu chi tiêu công của nhà nước trong sự giới hạn của nguồn lực TCC để hướng vào
thực
Ngô Đức Chiến Trang 17/24
Huy động:
Nguồn lực TCC
Phân bổ:
Chi tiêu Công:
Tài chính Công
hiện theo những ưu tiên chiến lược phát triển kinh tế- xã hội đã được hoạch

định.
Về mặt kỹ thuật, chức năng phân bổ nguồn lực của TCC thể hiện qua việc lập kế hoạch

chiến lược chi tiêu.
Kế hoạch này gồm 2
phần:
+ Quyết định phân bổ cơ bản ( mục tiêu cơ
bản).
+ Xác lập các khoản mục theo thứ tự ưu tiên trong sự so sánh với các nguồn lực sẵn
có.
- Chức năng tái phân phối thu
nhập

Chức năng này của TCC được hiểu như
sau:
Tái phân phối = phân phối lại thông
qua:

T
hu thuế từ các chủ thể trong xã
hội;
 Thực hiện phân bổ và chuyển giao nguồn thu này trở lại cho xã
hội.
Cơ chế chuyển
giao:
+ Cung cấp hàng hoá, dịch vụ công cho mọi đối tượng trong xã hội. Cơ chế này không
phân
biệt đối tượng là có nộp hay không nộp thuế mà mọi đối tượng trong xã hội đều có cơ hội
như
nhau trong việc thụ hưởng những lợi ích từ hàng hoá công do nhà nước cung

cấp.
+ Hỗ trợ để ổn định giá cả của những mặt hàng thiết yếu trong đời sống kinh tế - xã
hội.
+ Hỗ trợ trực tiếp cho 1 số đối tượng được sàng lọc qua các chương trình chi tiêu. Ví dụ:
các
chương trình tín dụng chỉ định của nhà nước, khám chữa bệnh miễn phí cho trẻ
em…
Ngô Đức Chiến Trang 18/24
Tài chính Công
Ngô Đức Chiến Trang 19/24
Tài chính Công
Chức năng tái phân phối thu nhập của TCC hướng đến mục tiêu là công bằng xã hội.
Tuy
vậy, hiệu ứng của chức năng này có những giới hạn nhất định bởi
lẽ:
 Trong 1 xã hội mà dân cư có thu nhập trung bình và thấp chiếm đại bộ phận thì không
gây
ra
hiệu ứng tái phân phối đối với mục tiêu công
bằng.
 Hiện tượng trốn thuế, đẩy gánh nặng thuế sang cho người tiêu dùng gánh chịu thông qua

chế
giá cũng làm hạn chế hiệu ứng tái phân
phối.
 Nền kinh tế lạm phát, giá cả hàng hoá tăng thì sự tái phân phối cũng không làm cải
thiện
đời
sống hay phúc lợi của những người có thu nhập thấp trong xã
hội.

 Đánh thuế cao vào khu vực kinh doanh sẽ không khuyến khích các doanh nghiệp
tăng
cường đầu tư phát triển kinh doanh làm

kìm hãm tốc độ tăng trưởng kinh tế và phúc lợi xã
hội
ít
được cải
thiện.
- Chức năng giám
sát
Mục đích của chức năng này là để nâng cao hiệu quả hoạt động của TCC qua đó thực
hiện
tốt chức năng quản lý kinh tế xã hội của nhà nước. Chức năng giám sát của TCC được thực
hiện
xuyên suốt trong quá trình huy động và phân bổ nguồn lực.
N ộ

i

dung

ki ể

m

tra

c ủ a


T C C

bao

g ồ

m:

+ Kiểm tra các hoạt động liên quan đến việc sử dụng nguồn lực TCC, bao gồm kiểm tra
tính
tuân thủ/chấp hành luật pháp và kiểm tra đánh giá kết quả hoạt
động.
+ Cung cấp thông tin cho người quản lý để đưa ra các giải pháp điều chỉnh hoạt động
của

TCC.
+ Đo lường hành vi phản ứng của thị trường đối với các chính sách can thiệp và tái phân
phối
của chính
phủ.
Chú ý:
 Mọi thứ đều phải quy ra
tiền.
 Người chi tiêu và người giám sát là 2 người khác
nhau.
 Các chương trình chi tiêu của chính phủ đều phải có thời
gian.
Ngô Đức Chiến Trang 20/24
Tài chính Công
Việc thực hiện các chức năng cơ bản của TCC giúp cho cơ chế quản lý tài

chính
đáp ứng
đúng mục tiêu và nhiệm vụ của Chính phủ đối với nền kinh tế. Đảm bảo được cơ
chế
minh
bạch, chống được sự lãng phí và tham
nhũng.
1.5. Vai trò của Tài chính Công trong hệ thống tài chính quốc gia:
Có thể chia hệ thống tài chính quốc gia thành hai bộ phận là tài chính công và tài chính tư.
Tính đặc thù của tài chính công là ở chỗ các hoạt động thu, chi bằng tiền trong quá trình phân
phối các nguồn tài chính để tạo lập và sử dụng các quỹ công luôn gắn liền trực tiếp với các hoạt
động kinh tế của toàn bộ nền kinh tế quốc dân và phục vụ cho các nhu cầu chung – nhu cầu có
tính xã hội mà Nhà nước phải đảm nhận do sự đòi hỏi phải thực hiện các chức năng của Nhà
nước.
Do tính chất đặc biệt kể trên về vị trí, nhiệm vụ và phạm vi hoạt động của nó, trong hệ thống
tài chính quốc dân, tài chính công, đặc biệt là NSNN luôn giữ vai trò chủ đạo gắn liền với vai trò
lãnh đạo của Nhà nước. Có thể nhận thấy vai trò đó của tài chính công trên các khía cạnh sau đây:
Thứ nhất, tài chính công có vai trò chi phối các hoạt động của tài chính tư.
Sự chi phối đó được thể hiện trên hai mặt của quá trình phân phối các nguồn tài chính. Một
mặt, tài chính tư có nhiệm vụ thực hiện các khoản thu của tài chính công để tạo lập các quỹ công,
đóng góp cho việc thực hiện các nhu cầu chung của xã hội. Mặt khác, với quy mô lớn của các quỹ
công, đặc biệt là NSNN, tài chính công có thể đầu tư cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế -
xã hội tạo thuận lợi cho hoạt động của khu vực tư, đồng thời có thể thực hiện sự trợ giúp về tài
chính cho khu vực kinh tế này duy trì và đẩy mạnh hoạt động.
Thứ hai, tài chính công có vai trò hướng dẫn các hoạt động của tài chính tư.
Hoạt động của tài chính công luôn gắn liền và phục vụ thực hiện các chức năng, nhiệm vụ,
định hướng phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước, do đó, các hoạt động thu, chi của tài chính
công như là tấm gương phản ánh các định hướng phát triển đó, từ đó có tác dụng hướng dẫn các
Ngô Đức Chiến Trang 21/24
Tài chính Công

hoạt động thu, chi trong hoạt động kinh tế xã hội của khu vực tư. Chẳng hạn, chính sách thuế có
tác dụng hướng dẫn đầu tư, hướng dẫn tiêu dùng, đầu tư của Nhà nước có tác dụng “châm ngòi”
thu hút đầu tư và hướng dẫn đầu tư của khu vực tư.
Thứ ba, tài chính công có vai trò điều chỉnh các hoạt động của tài chính tư.
Vai trò này được thể hiện, thông qua hoạt động kiểm tra của tài chính công có thể phát hiện
những điểm bất hợp lý, những sự chệch hướng của các hiện tượng thu, chi trong các hoạt động
phân phối nguồn tài chính trong quá trình tạo lập hoặc sử dụng các ũy tiền tệ tài chính tư, từ đó,
đòi hỏi và có biện pháp hiệu chỉnh các quá trình kể trên đảm bảo cho các nguồn tài chính vận
động đúng hướng và nâng cao hiệu quả của việc sử dụng chúng.
CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP ÔN TẬP CHƯƠNG 1
Câu 1:
Phân biệt sự khác nhau giữa khu vực công và khu vực tư?
Câu 2:
Tại sao phải có sự tồn tại của khu vực công trong nền kinh tế?
Câu 3:
Đối với khu vực công khi giải quyết vấn đề cơ bản của kinh tế học trong phân bổ nguồn
lực cần chú ý đến các vấn đề cơ bản nào?
Câu 4:
Khi nghiên cứu tài chính công, cần phải nghiên cứu những vấn đề gì?
Ngô Đức Chiến Trang 22/24
Tài chính Công
Câu 5:
Trình bày và so sánh những đặc trưng của tài chính công cổ điển và tài chính công hiện
đại?
Câu 6:
Trình bày những chức năng cơ bản của tài chính công?
Câu 7:
Hàm số cầu của lúa hàng năm có dạng Qd = 480 – 0,1P (P: VND/kg và Q: Tấn)
Thu hoạch lúa năm trước: Qs1 = 270
Thu hoạch lúa năm nay: Qs2 = 280

a. Xác định giá lúa năm nay tr6en thị trường. Tính hệ số co giãn của cầu tại mức giá này.
Bạn có nhận xét gì về thu nhập của nông dân năm nay so với năm trước?
b. Để đảm bảo thu nhập nông dân, chính phủ đưa ra 2 giải pháp:
- Ấn định giá lúa tối thiểu năm nay là 2.100 VND/kg và cam kết mua hết phần lúa thặng
dư.
- Chính phủ không can thiệp vào thị trường và hứa trợ giá cho nông dân là 100 VND/kg.
Tình số tiền mà chính phủ phải chi ra ở mỗi giải pháp. Thu nhập của nông dân ở mỗi giải
pháp. Theo bạn giải pháp nào có lợi nhất?
c. Chính phủ bỏ chính sách khuyến nông và đánh thuế 100 VND/kg thì giá trị thị trường
thay đổi như thế nào? Giá thực tế mà người nông dân nhận được? Ai là người chịu thuế?
Giải thích?
Câu 8:
Có nhiều nhu cầu sản phẩm gạo của Việt Nam từ các nước khác.
Tổng cầu: Q
D
= 3.550 – 266P
Ngô Đức Chiến Trang 23/24
Tài chính Công
Trong đó:
Cầu nội địa: Qd = 1.000 – 46P
Cung nội địa: Qs = 1.800 + 240P
Giả sử cầu xuất khẩu giảm 40% (Q: 10 tấn, P: ngàn VND/kg)
a. Xác định mức giá và sản lượng gạo cân bằng? Thu nhập của người nông dân thay đổi
như thế nào?
b. Giả sử chính phủ đảm bảo mua lượng gạo thừa hàng năm để tăng giá lên 3 ngàn
VND/kg thì hàng năm chính phủ phải mua bao nhiêu gạo? Chi ra bao nhiều tiền?
c. Nếu chính phủ đánh thuế là 0,5 ngàn VND/kg thì giá cả và sản lượng thay đổi như thế
nào? Ai là người chịu thuế?
Câu 9:
Xét một thị trường cạnh tranh, lượng cầu và lượng cung (mỗi năm) ở các mức giá khác

nhau:
P (USD) Lượng cầu (triệu) Lượng cung (triệu)
60 22 14
80 20 16
100 18 18
120 16 20
a. Xác định hàm số cung và hàm số cầu? Giá cả và sản lượng cân bằng?
b. Hãy tính độ co giãn của cầu theo giá khi giá 80 USD và 100 USD?
c. Hãy tính độ co giãn của cung theo giá khi giá 80 USD và 100 USD?
d. Giả sử nhà nước ấn định giá trần (giá tối đa) là 80 USD. Có sự thiếu hụt hàng hóa
không? Nếu có, lượng thiếu hụt là bao nhiêu?
Ngô Đức Chiến Trang 24/24
Tài chính Công
e. Để mức giá tối đa (P = 80 USD) là mức giá cân bằng, Nhà nước phải tăng lượng cung ở
mỗi mức giá là bao nhiều?
Ngô Đức Chiến Trang 25/24

×