1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cây chè là một trong những cây trồng quan trọng của Việt Nam nói
chung, cho các tỉnh trung du và miền núi phía Bắc nói riêng. Cây chè không
chỉ góp phần quan trọng vào giá trị xuất khẩu các mặt hàng nông lâm sản
hàng năm của Việt Nam mà còn là cây xóa đói giảm nghèo, cây cho thu nhập
cao, ổn định cho hàng triệu hộ lao động nông thôn. Với vai trò quan trọng nêu
trên. Nhà nước hết sức quan tâm đến việc mở rộng diện tích, đầu tư khoa học
kỹ thuật để nâng cao năng suất và chất lượng. Vì vậy sản phẩm chè ngày càng
khẳng định được uy tín của mình, đã có mặt ở trên 110 quốc gia và vùng lãnh
thổ. Tính đến năm 2005, cả nước có tổng số 123.742ha chè, diện tích chè kinh
doanh là 102.000ha, sản lượng đạt 133.350 tấn chè khô. Cả nước có khoảng
260 doanh nghiệp xuất khẩu chè, kim ngạch đạt 96.887.000 USD.
Hiện nay Việt Nam đã trở thành nước thứ 5 trên thế giới về xuất khẩu
chè, hàng năm thu được nhiều triệu đô la cho đất nước, cây chè Việt Nam
chắc chắn sẽ còn nâng cao vị thế của mình trong những năm tới. Tuy nhiên
sản phẩm chè còn nhiều điểm yếu, trong đó dư lượng nhiều độc tố quá mức
cho phép do sử dụng tràn lan thuốc bảo vệ thực vật và phân hóa học là một
trong những điểm yếu quan trọng nhất. Do đó uy tín sản phẩm chè của Việt
Nam trên thị trường thế giới chưa cao, giá bán thấp và chưa thâm nhập được
nhiều vào các thị trường khó tính như Mỹ, EU và Nhật Bản.
Ba Vì, Hà Nội có diện tích trồng chè là 1700 ha, cây chè đã và
đang đóng góp vai trò quan trọng trong nền kinh tế của huyện, cây giải quyết
công ăn việc làm, ổn định chính trị xã hội cho vùng ven đô đang bị công
nghiệp hóa và đô thị hóa mất dần đất canh tác. Tuy nhiên các loài dịch hại
như bọ trĩ, rầy xanh, bọ xít muỗi, nhóm nhện nhỏ… đang là những trở ngại
2
chính cho năng suất và chất lượng chè của địa phương, trong đó nhện đỏ nâu
(Oligonychus coffeae Nietner) là một trong các đối tượng sâu hại quan trọng
bậc nhất tại đây, chúng xuất hiện và gây hại quanh năm trên vườn chè, chúng
không chỉ gây thiệt hại ở các tầng lá bánh tẻ, khi mật độ cao chúng leo lên cả
các tầng lá non và búp để gây hại làm rụng lá hàng loạt. Nhện đỏ nâu
(Oligonychus coffeae Nietner) dùng vòi hút dạng kim châm hút dịch cây làm
cây chè sinh trưởng kém, búp chè bị mù xoè nhiều, lá cây bị hại biến màu nâu
lốm đốm đến màu tím đồng, trên mặt lá có nhiều bụi bẩn màu trắng xám. Chè
bị hại nặng mép lá non cong lên, lá rụng dần, năng suất bị giảm sút nghiêm
trọng. Cây chè bị nhện đỏ nâu gây hại nghiêm trọng sinh trưởng chậm, khô
cằn và không thể cho búp các lứa sau, thậm chí còn ảnh hưởng đến cả khả
năng cho năng suất của các năm sau đó nếu không có các giải pháp chăm sóc
kịp thời. Chính vì vậy người trồng chè đã sử dụng nhiều loại thuốc trừ sâu và
phun nhiều lần với liều lượng gấp 2 – 3 lần so với khuyến cáo, phun định kỳ
5- 7 ngày 1 lần, với đủ các loại thuốc và đôi khi trộn nhiều loài thuốc với
nhau để trừ nhện đỏ nâu gây hại. Tuy nhiên các biện pháp mà người trồng chè
sử dụng đã không mang lại hiệu quả mong muốn mà còn làm tăng đầu tư cho
sản xuất chè, điều nguy hiểm hơn là góp phần gia tăng tính kháng thuốc của
nhện đỏ nâu, giảm chất lượng sản phẩm, gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng
đến sức khỏe người sản xuất và giảm hiệu quả sản xuất cũng như khả năng
xuất khẩu chè.
Ở nước ta, việc nghiên cứu về nhện đỏ nâu hại chè chưa nhiều, cho đến
thời điểm thực hiện công trình nghiên cứu này vẫn chưa có tác giả nào nghiên
cứu về nhện nhỏ hại chè nói chúng, nhện đỏ nâu nói riêng cho vùng chè Ba
Vì, Hà Nội. Vì vậy, việc nghiên cứu đặc điểm sinh học và ảnh hưởng của một
số yếu tố sinh thái đến phát sinh và gây hại của chúng, trên cơ sở đó nghiên
cứu và đề xuất biện pháp phòng chống chúng hiệu quả, an toàn là hết sức cần
3
thiết. Để đáp ứng các yêu cầu của khoa học và thực tiễn sản xuất, chúng tôi
tiến hành thực hiện đề tài "Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học, sinh thái
nhện đỏ nâu hại chè (Oligonychus coffeae Nietner) và biện pháp phòng trừ
tại Ba Vì - Hà Nội"
2. Mục đích, yêu cầu của đề tài:
2.1. Mục đích
Trên cơ sở xác định một số loài nhện nhỏ quan trọng hại chè, đặc điểm
sinh học và một số yếu tố sinh thái ảnh hưởng đến phát sinh phát triển của
nhện đỏ nâu (Oligonychus coffeae Nietner), từ đó đề xuất biện pháp phòng
trừ nhện đỏ nâu bằng thuốc bảo vệ thực vật hợp lý, hiệu quả và thân thiện với
môi trường
2.2. Yêu cầu.
- Xác định thành phần loài nhện nhỏ hại chè tại Ba Vì, mức độ gây hại của
nhện đỏ nâu và thực trạng công tác phòng trừ loài nhện đỏ nâu tại Ba Vì.
- Xác định được một số đặc điểm sinh học, một số yếu tố sinh thái ảnh hưởng
đến phát sinh và gây hại của nhện đỏ nâu tại vùng chè Bà Vì, Hà Nội làm cơ
sở nghiên cứu và đề xuất biện pháp phòng chống.
- Đề xuất biện pháp phòng trừ nhện đỏ nâu bằng việc sử dụng hợp lý, hiệu
quả một số loại thuốc bảo vệ thực vật phục vụ sản xuất chè an toàn.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài.
3.1. Ý nghĩa khoa học.
- Bổ sung dẫn liệu khoa học về một số loài nhện nhỏ hại chè và sự
phát sinh gây hại của loài nhện đỏ nâu hại chè tại Ba Vì, Hà Nội.
4
- Cung cấp dẫn liệu mới về một số đặc điểm sinh học, một số yếu tố sinh
thái của loài nhện đỏ nâu Oligonychus coffeae Nietner trong điều kiện sinh
thái vùng chè Ba Vì, Hà Nội.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn.
- Xây dựng và thực hiện biện pháp phòng trừ nhện đỏ nâu hại chè theo
hướng quản lý dịch hại tổng hợp bằng việc sử dụng hợp lý, hiệu quả một số
loại thuốc bảo vệ thực vật, góp phần hạn chế sự bùng phát, gây hại của chúng,
hạn chế sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật độc hại và hoàn thiện quy trình sản
xuất chè theo tiêu chuẩn Viet GAP của Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài.
4.1. Đối tượng nghiên cứu.
- Sâu hại: Loài nhện đỏ nâu Oligonychus coffeae Nietner
- Cây trồng: Hai giống chè được trồng chủ yếu tại Ba Vì là giống Trung du và
giống PH1
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Điều tra, xác định thành phần nhện nhỏ hại chè, phát sinh gây hại của chúng.
- Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học, sinh thái, và biện pháp phòng trừ
nhện đỏ nâu hại chè bằng thuốc Bảo vệ thực vật tại Ba Vì, Hà Nội.
5
CHƢƠNG I – TỔNG QUAN TÀI LIỆU
VÀ CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Cơ sở khoa học của việc nghiên cứu
Các công trình nghiên cứu về sinh thái học đều khẳng định trong một
hệ sinh thái luôn tồn tại nhiều mối quan hệ đan xen, nhưng đều phát triển có
tính qui luật. Theo Darwin (1859) đã viết “Mỗi loài sinh vật bị ảnh hưởng của
rất nhiều yếu tố đa dạng tác động lên , trong đó có một hoặc vài yếu tố tác
động mạnh mẽ, song số lượng trung bình của loài và ngay cả sự tồn tại của
loài đều phụ thuộc vào sự tác động tổng hợp của nhiều yếu tố môi trường “
(Dẫn theo Phạm Văn Lầm, 1995). Trong công tác bảo vệ thực vật, Bùi Huy
Đáp (1991) đã khẳng định cuộc đấu tranh phòng chống dịch hại cây trồng
muốn có hiệu quả, không có cách nào khác là phải tìm hiểu và vận dụng đúng
đắn các qui luật phát triển khách quan của chúng.
Hệ sinh thái vườn chè thường có thời gian hình thành phát triển tương
đối dài, thành phần chủng loài trong sinh quần đa dạng và phong phú nên có
tính ổn định tương đối cao. Tuy nhiên, nhện đỏ nâu cũng như các sinh vật
khác, quá trình phát triển số lượng quần thể và khả năng gây hại của chúng
vẫn chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của các yếu tố môi trường và tác động của con
người thông qua các hoạt động canh tác trên vườn chè. Như vậy, để phòng trừ
nhện đỏ nâu một cách có hiệu qủa phải có những hiểu biết đầy đủ về chính nó
và vai trò của các yếu tố ngoại cảnh.
Với điều kiện đất đai màu mỡ, thời tiết thuận lợi và trình độ thâm
canh cao, hoạt động chuyển đổi cơ cấu cây trồng đang diễn ra mạnh mẽ,
nhưng trong thực tế việc phòng trừ nhện đỏ nâu ở các vùng chè thuộc khu vực
Ba Vì - Hà Nội chủ yếu vẫn dựa vào thuốc hoá học và đã gây nhiều bất cập.
Chứng tỏ cần phải có những hiểu biết sâu hơn về qui luật phát sinh, phát triển
6
của nhện đỏ nâu ở khu vực này và nội dung biện pháp phòng trừ tổng hợp
chắc chắn có những điểm khác biệt, không thể áp dụng như đối với vùng
trồng chè khác hoặc lúa và các cây trồng ngắn ngày.
Xuất phát từ luận điểm trên, đáp ứng yêu cầu của sản xuất hiện nay và lâu
dài, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài nhằm thu thập các dẫn liệu khoa học
liên quan đến đặc điểm sinh học và tình hình phát sinh gây hại của nhện đỏ
nâu ở các vườn chè, làm cơ sở để phát triển các biện pháp phòng trừ có hiệu
quả, thích hợp với điều kiện sinh thái và canh tác vùng chè Ba Vì - Hà Nội.
1.2. Tình hình sản xuất và tiêu thụ trên thế giới và ở Việt Nam
1.2.1.Tình hình sản xuất và tiêu thụ chè trên thế giới
Sản xuất và tiêu thụ chè trên thế giới trong những năm gần đây nhìn
chung có chiều hướng ngày càng gia tăng. Hiện nay đã có trên 100 nước trên
thế giới uống chè, trên 40 nước trồng và sản xuất chè.
Ngày nay chè là thứ đồ uống rộng rãi trên thế giới với những sản phẩm
được chế biến rất đa dạng, phong phú, tùy theo tập quán và thị hiếu của các
nước khác nhau.
Theo FAO (1993) cây chè trên thế giới phát triển với tốc độ nhanh từ
thế kỷ 18 trở lại đây, nhất là trong 3 thập niên gần đây nhất. theo Hiệp hội chè
thế giới năm 1994 có khoảng 2,56 triệu ha chè với sản lượng khoảng 2,5 triệu
tấn, xuất khẩu khoảng 1,06 triệu tấn. các nước trồng và chế biến chè chủ yếu
tập trung ở châu Á, trong đó Trung Quốc, Ấn Độ, Srilanca chiếm tới 62,9%.
Ấn Độ là nước có sản lượng chè cao nhất thế giới: 29,8%, sau đó là Trung
Quốc: 23,3% và Srilanca: 9,8% (Kiều Cẩm Tú, 1991) [24].
Một điều đáng lưu ý là các nước sản xuất chè lớn cũng là các nước tiêu
thụ chè nhiều nhất. Hàng năm Trung Quốc tiêu thụ 70%, Ấn Độ 50% sản
7
lượng chè sản xuất ra. Châu Âu hàng năm tiêu thụ tới trên 50% sản lượng chè,
mức tiêu thụ chè tính theo đầu người hàng năm ở Anh là 2,56kg; Ailen:
3,0kg; Thổ Nhĩ Kỳ: 2,25kg. Theo đánh giá của FAO hàng năm mức tiêu thụ
chè trên thế giới tăng khoảng 2,2 – 2,7%, tức là khoảng 30 ngàn tấn chè khô.
Thị hiếu tiêu dùng chè trên thế giới cũng có sự thay đổi từ dùng chè xô
chuyển sang chè túi nhỏ, chè nhúng, chè tan hoàn toàn, chè ướp hương
hoa…[24].
Tóm lại cây chè trên thế giới ngày càng phát triển cả về diện tích và sản
lượng, thị trường chè cũng ngày càng mở rộng đáp ứng được thị hiếu ngày
càng cao của người tiêu dùng.
1.2.2. Tình hình sản xuất và tiêu thụ chè trong nước
Việt Nam là một nước nhiệt đới gió mùa với lượng mưa trung bình
hàng năm khá cao: 1500 – 2500mm ở vùng Trung du và miền núi rất thuận lợi
cho cây chè sinh trưởng và phát triển. Đất đồi núi chiếm tới 2/3 diện tích cả
nước là một trong những điều kiện thuận lợi để mở rộng diện tích trồng chè.
Nghề trồng chè và tập quán uống chè ở nước ta đã có từ lâu đời, cây
chè ở Việt Nam không ngừng phát triển cả về diện tích và sản lượng. Hầu hết
các tỉnh trong nước đều trồng và chế biến chè, đặc biệt là trên địa bàn 25 tỉnh
vùng Trung du và miền núi, cây chè đang phát huy tiềm năng kinh tế của
mình. [14]
Tính đến năm 2005, cả nước có tổng số 123.742ha chè, diện tích chè
kinh doanh là 102.000ha, sản lượng đạt 133.350 tấn chè khô. Cả nước có
khoảng 260 doanh nghiệp xuất khẩu chè, kim ngạch đạt 96.887.000 USD.
Việc phát triển sản xuất chè đã góp phần quan trọng trong việc xây dựng kinh
tế xã hội ở Trung du và miền núi, khai thác tiềm năng đất đai, tạo việc làm
8
cho nhiều lao động, phủ xanh đất trống đồi núi trọc, bảo vệ môi trường, môi
sinh. [13]
1.3. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nƣớc.
1.3.1.Nghiên cứu ngoài nước.
Từ xưa đến nay cây chè là một trong những cây trồng mang lại hiệu quả
kinh tế cao cho sản xuất nông nghiệp của nhiều quốc gia trên thế giới, hiện
nay cây chè đã và đang tiếp tục được phát triển ở khoảng 60 nước trên khắp
năm châu. Các vấn đề về kỹ thuật chọn tạo giống, kỹ thuật canh tác, đặc biệt
là vấn đề sâu bệnh hại chè nói chung và nhện đỏ hại chè nói riêng cũng như là
thiên địch của chúng cũng đã luôn được quan tâm nghiên cứu.
1.3.1.1. Thành phần loài nhện hại chè
Sự đa dạng, phong phú về thành phần loài côn trùng và nhện nhỏ hại
cây chè đã được nhiều tác giả nghiên cứu. Theo các tài liệu đã công bố, có tới
42 loài bọ cánh tơ, 13 loài nhện nhỏ, 6 loài bọ xít muỗi là sâu hại chè
(Barboka, 1994)[30].
Nhóm nhện hại là các đối tượng gây hại nghiêm trọng trên nhiều loại
cây trồng ở nhiều vùng trên thế giới, đã thu hút sự quan tâm của các nhà khoa
học. Nhiều công trình nghiên cứu đã xác định thành phần các loài nhện hại
trên cây trồng khá phong phú. Theo Neyda Rodriguez (1980), nhóm nhện hại
thuộc lớp Arachnida; lớp phụ Acarina gồm 3 bộ. Trong số đó có tổng số trên
10 họ nhện hại thường gặp trên nhiều loại cây trồng. Tuy nhiên, chỉ có 4 họ
có các đại diện có thể gây hại nặng hơn cả, bao gồm họ nhện chăng tơ thật
(Tetranichidae), họ nhện chăng tơ giả (Tenuipalpidae), họ nhện u sần
(Eriophytidae) và họ Tarsonemidae (Jeppson et. al., 1975, Meyer 1981) [39].
9
Riêng trên cây chè Cranham (1980) cho biết trong số 4 họ nhện hại thì
đều có loài đại diện gây hại trên chè, trong đó nhện đỏ nâu (Oligonychus
coffeae Nietner) thuộc họ Tetranychidae được phát hiện trên chè ở hầu hết các
vùng trồng chè thuộc đông Nam Á, Bắc Ấn Độ, Ceylon, Florida, Queensland,
Austrlia. Ngoài ra còn có các loài thuộc họ nhện đỏ giả, nhện vàng, nhện đỏ
tía gây hại trên chè và một số cây ký chủ khác (Dẫn Theo Nguyễn Văn Thiệp,
1994) [18].
E. W. Baker (1975) [31] đã công bố có 9 loài nhện hại thuộc họ
Tetranychidae ở Thái Lan và Nhật Bản, trong đó loài nhện đỏ nâu cũng được
xem như là loài nhện hại quan trọng trên cây chè ở Nhật Bản.
Theo K. Oomen (1982) [42] có 4 loài nhện nhỏ gây hại chính trên cây
chè ở hầu hết các nước vùng Đông Nam Á, bao gồm các loài: Calacarus
carinatus, Acaphylla theae, Brevipalpus và Olygonichus coffeae. Ngoài ra loài
Olygonichus coffeae còn phân bố rộng ở một số nước khác như là Bănglades,
Ấn Độ, Srilanca… Riêng ở Indonexia loài này được xếp thứ 2 sau loài nhện
đỏ tươi Brevipalpus về mức độ tác hại trên cây chè.
1.3.1.2.Đặc điểm sinh học, sinh thái và gây hại của nhện đỏ nâu hại chè
Các tài liệu công bố còn chỉ rõ ở các vùng sản xuất có điều kiện sinh
thái khác nhau thì thành phần nhện hại và ý nghĩa kinh tế của mỗi loài được
đánh giá không giống nhau. Các tác giả nghiên cứu đều cho rằng nhóm nhện
hại chè nói chung và nhện đỏ nâu nói riêng đều có đặc điểm chung là vòng
đời ngắn, sức sinh sản cao, vì vậy số lượng quần thể thường tăng nhanh theo
mùa. Đồng thời cũng chỉ rõ sự phát triển số lượng quần thể của nhện đỏ chịu
ảnh hưởng khá rõ rệt dưới tác động của nhiều yếu tố, như: Nhiệt độ, độ ẩm
không khí và lượng mưa, chủng loại giống chè và kỹ thuật canh tác trên vườn
10
chè, đặc biệt là mức độ và kỹ thuật sử dụng thuốc hoá học để phòng trừ
chúng.
Ở Ấn Độ, nhện đỏ được ghi nhận ở hầu hết các vùng trồng chè và có thể
là loài dịch hại nguy hiểm nhất đối với cây chè. Ngoài cây chè, nhện đỏ cũng
gây hại một số cây trồng khác như cây đay, xoài, cà phê… Vòng đời của nhện
đỏ đã được các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu và chỉ ra rằng khoảng thời
gian vòng đời của nhện đỏ thay đổi tùy thuộc vào nhiệt độ và độ ẩm. Trong
tháng 5 và tháng 6 vòng đời có thể hoàn thành trong khoảng 9,4 – 12 ngày
trong điều kiện tự nhiên nhưng khi nhiệt độ thấp có thể kéo dài đến 28 ngày.
Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng ở điều kiện phòng thí nghiệm thì nhện đỏ cái có
thể sống tối đa là 29 ngày trong khi nhện đỏ đực chỉ khoảng 4 – 5 ngày và con
cái có thể sinh sản đơn tính và sản sinh ra tất cả nhện đực.
Các tác giả cũng đã chỉ ra rằng nhện thường tấn công gây hại nặng trong
điều kiện khô hạn, nhiệt độ cao, khi đó hầu hết các lá non bị nhện đỏ tấn công
gây ra hiện tượng lá biến màu đỏ đến màu đồng và cuối cùng có thể khô và
rụng. Một số lượng nhỏ nhện có thể sống ở các lá già phía dưới gốc trong
điều kiện không thuận lợi, chúng cuốn rìa lá lại và nằm trong đó, khi gặp điều
kiện thuận lợi chúng nhân lên nhanh chóng và tiếp tục tấn công gây hại cho
cây [34].
Nhện đỏ nâu (Oligonychus coffeae Nietner) thuộc nhóm ve bét
Acariformes, trong nhóm phụ Prostigmata, họ Tetranycnidae. Chúng có mặt ở
nhiều nước trên thế giới, gây hại trên khoảng 34 loại cây thuộc 15 họ khác
nhau (Borror, et al. 1989) [32]. Ở Bănglades nhện đỏ nâu là loài gây hại nặng
cho cây hoa hồng với mật độ cao và kìm hãm sự sinh trưởng của cây. Các nhà
khoa học ở đây cũng đã nghiên cứu một số đặc điểm sinh học của loài này và
cho thấy rằng thời gian từ trứng đến trưởng thành chỉ mất 5,3 ngày ở nhiệt độ
11
30,28
0
C, độ ẩm 76% vào tháng 6, khi nhiệt độ giảm xuống 19,8
0
C, độ ẩm
75,4% vào tháng 1 thì khoảng thời gian này là 12,9 ngày [38].
Cũng nghiên cứu đặc điểm sinh học của nhện đỏ nâu, R. Jeppson và
cộng sự (1975) [39] khi nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ và ẩm độ đến sự
sinh trưởng và phát triển của nhện đỏ nâu đã chỉ ra rằng điều kiện thích hợp
cho chúng phát triển là từ 20 – 30
0
C và ẩm độ từ 49 – 94%. Trong những điều
kiện thích hợp đó nhện đỏ nâu có thể phát triển đến 22 lứa trong năm. Trong
điều kiện nhiệt độ cao trên 37
0
C và ẩm độ tương ứng là 72- 77% và 90 – 94%
trong 6 giờ liền thì hầu hết các trứng của nhện đỏ nâu bị chết. Nếu ở nhiệt độ
34
0
C nhưng ẩm độ nhỏ hơn 17% thì trứng cũng không thể nở được.
S. K. Senapati và S. Ghose (1994) [44] khi nuôi nhện đỏ nâu trên cây
đay trong phòng thí nghiệm nhận thấy nhện trưởng thành sống được 11,3
ngày ở nhiệt độ 23,5 - 32
0
C và ẩm độ 67 – 90%. Mỗi con nhện cái đẻ trung
bình 67,33 trứng, thời gian trứng là 3,33 ngày, nhện non tuổi 1 là 1,25 ngày;
tuổi 2 là 1,33 ngày và tiền trưởng thành là 6,5 ngày.
S. Ahmet và D. L. Sana (1990) [28] đã theo dõi nhện đỏ nâu trên chè
cho thấy: thời gian trứng kéo dài 3,0 – 6,5 ngày, thời gian nhện non 1 – 2
ngày. Sự đẻ trứng của nhện bắt đầu sau 24giờ sau khi con cái thành thục và
mỗi con cái có thể đẻ trên 80 quả. Tỷ lệ giữa con đực và con cái thường là
1:1,2.
Các đặc trưng hình thái học của nhện đỏ nâu, cả con đực và con cái
được mô tả chi tiết và hiệu đính bởi nhiều tác giả như Pritchard và Baker
(1955) [43], Wang (1984) [47]. Theo mô tả của các tác giả này nhện cái có
màu đỏ tối, cơ thể hình ô van có nhiều lông nhỏ, kích thước trung bình 0,36 x
0,28mm. trên đốt chày 1 có 7 lông xúc giác và 1 lông cảm giác.
12
Các nghiên cứu về cây ký chủ của nhện đỏ nâu cho thấy ký chủ chính
của chúng là cây chè và cây cà phê, ngoài ra còn gặp nhện đỏ nâu gây hại trên
một số cây ký chủ phụ khác như cây đay, bông, sắn, long não, dâu tằm, cọ
dầu, bạch đàn, đào lộn hột…[33]
Nhện đỏ nâu (Oligonychus coffeae Nietner) cũng đã được tìm thấy trên
cây xoài và cây chè tại đảo Ryuky, miền Nam Nhật Bản. Các nhà khoa học đã
nghiên cứu so sánh sự nhạy cảm đối với hóa chất trừ nhện giữa trứng và nhện
trưởng thành. Kết quả cho thấy trứng có khả năng chống thuốc cao hơn so với
nhện trưởng thành, điều này chứng tỏ việc phòng trừ đạt hiệu quả cao hơn
trên nhện trưởng thành [37].
1.3.1.3. Biện pháp phòng trừ nhện đỏ nâu hại chè
Việc phòng trừ nhện đỏ cũng như các loài sâu bệnh khác trên chè đã dẫn
đến tình trạng tồn dư thuốc hóa chất bảo vệ thực vật trong các sản phẩm chè,
điều này đã gây ra nhiều khó khăn cho việc mở rộng thị trường chè xuất khẩu
cho các nước trồng chè, đặc biệt là các thị trường khó tính như Mỹ hay EU.
Để khắc phục điều này các nhà khoa học đã nghiên cứu các biện pháp giảm
thiểu việc sử dụng thuốc hóa học trên cây chè, theo đó có rất nhiều nghiên
cứu về các loài thiên địch, các chể phẩm sinh học… được quan tâm nghiên
cứu để có thể sử dụng trong phòng trừ sinh học các loài dịch hại trên cây chè.
Nghiên cứu về các loài thiên địch cho thấy nhện đỏ nâu có nhiều loài
thiên địch. CABI đã giới thiệu danh sách một số loài thiên địch của nhện đỏ
nâu trên chè. Ở Ấn Độ có các loài nhện Agistemus, Amblyseius herbicolus,
Cuxana, Euseus ovali, Geocoris ochropterus, Neoseiulus longispenosus…
chúng tấn công vào hầu hết các giai đoạn phát triển của nhện đỏ nâu, đặc biệt
là các giai đoạn trứng và trưởng thành. Ở Kenya có các loài nhện Amblyseius
idaeus, Amblyseius maai, Amblyseius taiwanicus, Phytoseiulus persimilis.
13
Chúng thường tấn công vào các giai đoạn trứng, tiền trưởng thành và trưởng
thành của nhện đỏ nâu. Ở Ghine phát hiện 2 loại bọ rùa là Stethorus
exspactatus và Stethorus exsultabilis tấn công vào mọi giai đoạn phát triển
của nhện đỏ nâu từ giai đoạn trứng đến giai đoạn trưởng thành. [33].
Trong số các loài thiên địch thì bọ rùa ăn thịt là có ý nghĩa nhất trong
phòng trừ các loài dịch hại trên cây chè vì chúng ăn nhiều loại sâu, nhện hại
chè (Muraleedharan et al. 2001)[41].
Điều tra thu thập các loài bắt mồi ăn thịt trên vườn chè ở miền bắc
Bengal từ 2004 đến 2006 đã thu thập được 20 loài bọ rùa ăn thịt, trong đó loài
Micraspis discolor (F) là phổ biến hơn cả (chiếm 42%). Số lượng loài bọ rùa
này trên vườn có tương quan khá chặt với số lượng quần thể nhện đỏ (R
2
=
0,75) và số lượng quần thể rệp (R
2
= 0,89). Nghiên cứu các khả năng bắt mồi
ăn thịt của loài bọ rùa này cho thấy trung bình một con bọ rùa non ăn khoảng
280,3 con nhện đỏ và 188,0 con rệp trong suốt quá trình phát triển (khoảng
21 – 24 ngày), trong khi đó một con bọ rùa trưởng thành có thể ăn trung bình
khoảng 20 con nhện đỏ và 35 con rệp/ ngày.
Một số nhà nghiên cứu thuộc Phòng côn trùng học - Viện nghiên cứu
chè Talawakele và Khoa Sinh học nông nghiệp - Trường Đại học Peradeniya,
Srilanka đã nghiên cứu, thu thập và phân lập các chủng nấm ký sinh trên nhện
đỏ hại chè. Các tác giả đã tiến hành phân lập các loài nấm có khả năng hạn
chế số lượng quần thể nhện đỏ một cách tự nhiên trong 6 kiểu hệ sinh thái
vườn chè, kết quả thử khả năng ký sinh nhện của các chủng nấm này cho thấy
chủng HF1 có khả năng ký sinh gây chết 65% số lượng nhện đỏ trong điều
kiện phòng thí nghiệm. Điều này cho thấy khả năng sử dụng loài nấm này
trong phòng trừ sinh học đối với nhện đỏ hại chè là rất lớn.
14
Các nhà khoa học của Ấn Độ cũng đã nghiên cứu khả năng ký sinh nhện
của nấm Paecilomyces fumosoroseus (Wise) và hiện nay đã sản xuất được chế
phẩm dạng bột thấm nước có tên thương mại là “Mycomite” để phòng trừ
nhện đỏ.
Ngoài biện pháp sinh học thì biện pháp canh tác cũng đã được quan
tâm nghiên cứu. V. Sudoi (1992) [45] đã nghiên cứu tính kháng của một số
dòng chè đối với nhện đỏ nâu. Theo tác giả một vài dòng chè có khả năng làm
giảm khả năng sinh sản và giảm tỷ lệ phát triển của nhện đỏ nâu như các dòng
BBLK 152, dòng số 6/8 và dòng số 7/9.
Theo K. Thirugnanasuntharan và D. Amarasinghe (1990) [46] tại
Srilanca cũng có một số dòng chè kháng nhện đỏ nâu. Theo tác giả việc sử
dụng các dòng chè kháng này sẽ làm giảm đáng kể sự phát triển của tập đoàn
nhện và giảm tác hại của chúng trên cây chè.
Theo L. R. Jeppson và các cộng sự (1975) [39] nhận định rằng sau thời
kỳ thu hoạch tất cả các giai đoạn sinh trưởng của nhện đỏ nâu còn lại trên các
lá già và các lá nhỏ ở gốc cây chè, do đó việc loại bỏ các lá này sẽ làm giảm
đáng kể nguồn nhện gây hại cho vụ tiếp theo.
Bên cạnh các biện pháp phòng trừ trên thì không thể thiếu biện pháp
hóa học, biện pháp hóa học thường mang lại hiệu quả nhanh và cao. A. Ali và
các cộng sự (1994)[29] cho thấy thuốc Dicofol phòng trừ có hiệu quả cao đối
với nhện đỏ nâu trên cây chè tại Bănglađet.
Ở Trung Quốc, M. Lu (1993) [40] đã rất thành công khi sử dụng các
thuốc trừ nhện như: Dithan WP, Pyridaben E, Quinalphos và Bifenthrin để trừ
nhện đỏ nâu trên cây chè.
Theo S. K. Senapati và S. Ghose (1994) [44] ở Ấn Độ đã sử dụng
Monocrotophos trừ nhện đỏ nâu O. coffeae trên cây đay cho hiệu lực kéo dài
14 ngày.
15
M. Gopal và cộng sự (1987) [36] cho biết thuốc Fluvalinate làm giảm
được mật độ quần thể nhện đỏ nâu tới 98,3% sau phun 2 tuần tuy nhiên quần
thể nhện lại có khả năng phục hồi sau 3 tuần phun.
Những kết quả công bố nói trên đã cho thấy nhện đỏ nâu là đối tượng
có chu kỳ phát triển ngắn và tiềm năng sinh sản cao, nhưng quá trình phát
triển số lượng quần thể chịu ảnh hưởng rất rõ rệt của chất lượng thức ăn, điều
kiện môi trường sống và hoạt động của các loài thiên địch. Đó là những khía
cạnh rất cần được quan tâm đánh giá và nghiên cứu nhằm khai thác điểm yếu
của dịch hại, phát triển các biện pháp phòng trừ chúng một cách có hiệu quả
cao và bền vững.
1.3.2. Nghiên cứu trong nước.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về sinh học sinh thái nhện đỏ nâu
trên chè ở nước ta còn ít và tản mạn. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu về
chúng đều có nhận xét nhện đỏ nâu là loài có kích thước rất nhỏ, vòng đời
ngắn, sức sinh sản và mức tăng quần thể cao, dễ bùng phát thành dịch và gây
hại nghiêm trọng cho cây chè. Quần thể nhện đỏ nâu phân bố chủ yếu ở các lá
già và lá bánh tẻ. Khi mật độ nhện lên rất cao chúng mới tấn công lên lá non
và búp.
1.3.2.1. Thành phần sâu bệnh hại chè
Sâu bệnh nói chung và nhện hại chè nói riêng đã được nghiên cứu từ
thời Pháp thuộc, trong tài liệu “Những bệnh và sâu chủ yếu của cây chè và cà
phê ở Viễn Đông” - Đặc san kinh tế Đông Dương (Đỗ Ngọc Quĩ dịch) [14],
kỹ sư Du Pasquier, giám đốc Trạm nghiên cứu nông lâm Phú Hộ đã phân loại
sâu bệnh hại chè theo tầm quan trọng như sau:
- Có hại và thường xuyên: gồm các loài rầy xanh, nhện đỏ nâu, nhện đỏ
tía, nhện trắng, bọ xít hoa, sâu chùm và dế mèn.
16
- Có hại nhưng không thường xuyên: Bệnh phồng lá chè, sâu cuốn lá, bọ
trĩ, rệp trắng, rệp đen.
- Có hại nhưng hiếm thấy: Bọ nẹt, bệnh sợi nấm, bệnh thối rễ đỏ.
- Ít hại nhưng thường xuyên: Sâu kèn, bệnh chấm xám, ốc sên, bọ
ngứa….
- Ít hại, ít thấy: Bọ xít muỗi, bệnh chấm nâu, rệp xanh, ruồi.
Tác giả cũng đã đưa ra 1 bảng danh mục các loài sâu, bệnh hại chè tại
Phú Hộ, gồm có 38 loài, trong đó có 25 loài sâu, 11 loại bệnh và 2 loại tầm
gửi. Trong số các loài sâu hại thì sâu chùm, bọ xít hoa, rầy xanh, nhện đỏ và
sâu đục thân là những loài gây hại quan trọng (Dẫn theo Nguyễn Văn Thiệp,
1994) [18].
Tiếp tục các nghiên cứu về sâu hại chè, năm 1967 – 1968 sau đợt tổng
điều tra côn trùng hại nông nghiệp, Viện Bảo vệ thực vật đã công bố danh
mục côn trùng hại chè gồm 34 loài thuộc 6 bộ khác nhau.
Năm 1976, kết quả điều tra cơ bản sâu bệnh hại ở miền Nam đã thu
thập được 32 loài côn trùng và 3 loài nhện gây hại trên chè. Tác hại của sâu
bệnh hại chè chiếm 15 – 20% sản lượng búp chè.[1].
Phạm Thị Vượng và Nguyễn Văn Hành (1989) [27] lại xác định được
có 21 loài sâu hại chè thuộc 6 bộ côn trùng và 2 loài nhện gây hại trên chè ở
vùng sông Cầu, tỉnh Bắc Thái.
Nguyễn Văn Thiệp (1993) [19] đã xác định thành phần sâu hại chè ở
vùng Phú Hộ gồm 32 loài, trong 7 bộ côn trùng và 3 loài nhện hại. Tác giả
cũng đã khẳng định rầy xanh và nhện đỏ nâu là những loài gây hại quan trọng
trên chè tại đây.
Theo kết quả điều tra tập đoàn nhện hại các cây trồng vùng Hà Nội của
tác giả Nguyễn Văn Đĩnh (1993)[2] cho thấy trên cây chè có 3 loài nhện hại là
17
nhện đỏ tươi, nhện đỏ nâu và nhện trắng, trong đó loài nhện đỏ nâu là loài
nhện hại quan trọng hơn cả.
Theo thông báo của tác giả Nguyễn Khắc Tiến (1993) [21] ở Việt Nam
đã phát hiện tới 5 loài nhện hại trên chè và tác giả cũng thống nhất nhận định
loài nhện đỏ nâu là loài gây hại quan trọng nhất.
Theo Nguyễn Văn Hùng, Nguyễn Văn Tạo (2006) [8] đã phát hiện
được 5 loài nhện hại chè là nhện đỏ nâu (Oligonychus coffeae Nietner); nhện
đỏ tươi (Brevipalpus californicus Banks); nhện vàng (Hemitasonemus latus
Banks); nhện sọc trắng (Calacarus carinatus Green); nhện hồng (Eryophyes
theae Watt). Trong đó nhện đỏ nâu là loài gây hại nhiều nhất.
Như vậy ngay từ khi vấn đề sâu bệnh hại chè ở Việt Nam được quan
tâm nghiên cứu thì nhện đỏ nâu (Oligonychus coffeae Nietner) đã được ghi
nhận là một trong những loài gây hại nguy hiểm đối với cây chè. Chính vì vậy
đối tượng này đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu.
1.3.2.2. Đặc điểm sinh học, sinh thái và gây hại của nhện đỏ nâu hại chè
Theo Nguyễn Văn Hùng (2006) [8] , nhện trưởng thành có 4 đôi chân,
chân phân đốt có nhiều lông gai nhọn rải rác. Cơ thể nhện chia hai phần khá
rõ rệt, phần thân có kích thước từ 0,25 – 0,31mm x 0,17 – 0,24mm; phần đầu
hơi thon đều, kích thước 0,06 – 0,09mm x 0,05 – 0,07mm. Nhện sau khi hóa
trưởng thành 1 - 2 ngày thì bắt đầu đẻ trứng, trứng có hình cầu dẹt, kích thước
0,09 – 0,12mm, ngay chính giữa quả trứng có một chiếc lông cong nhỏ dài và
mảnh. Trứng mới đẻ có màu hồng nhạt, sau chuyển màu nâu đỏ, lúc sắp nở có
màu nâu sẫm. Nhện non mới nở có thân màu hồng nhạt, kích thước 0,13 –
0,15mm x 0,1 – 0,12mm với 3 đôi chân. Nhện non qua 2 lần lột xác sẽ hóa
trưởng thành, sau lần lột xác đầu tiên nhện con thành tiền trưởng thành 1 có
màu nâu đỏ có kích thước trung bình 0,2 – 0,24mm x 0,12 – 0,16mm. Nhện
18
non và nhện trưởng thành 1 thường ít di chuyển, hay nằm dọc theo các đường
gân lá để trích hút dịch cây.
Cũng theo tác giả Nguyễn Văn Hùng [8], theo dõi vòng đời của nhện
đỏ nâu hại chè trong điều kiện ẩm độ 85% với các ngưỡng nhiệt độ khác nhau
cho thấy trong điều kiện nhiệt độ 30
0
C khá thích hợp với sự phát triển của
nhện đỏ nâu, các pha phát triển của nhện đỏ nâu rút ngắn hơn so với điều kiện
nhiệt độ 25
0
C, thời gian rút ngắn được 0,4 ngày. Đặc biệt là vòng đời của
nhện đỏ nâu rút ngắn rất nhiều trong điều kiện nhiệt độ cao, ở 30
0
C vòng đời
là 11,2 ngày nhưng ở 25
0
C vòng đời là 12,8 ngày. Ngược lại thời gian sống
của nhện trưởng thành và thời gian các pha phát dục kéo dài hơn trong điều
kiện nhiệt độ thấp. Sức sinh sản của nhện đỏ nâu cũng chịu ảnh hưởng của
các điều kiện nhiệt độ và độ ẩm. Trong điều kiện ẩm độ từ 80 – 85% với nhiệt
độ 30
0
C tốc độ đẻ trứng và số lượng trứng của nhện cái thường cao và nhiều
hơn trong điều kiện 25
0
C khá rõ rệt. Mỗi nhện cái thường đẻ 80 – 105 trứng,
trung bình 79-88 trứng. Tuy vậy tốc độ đẻ trứng của nhện đỏ cũng theo qui
luật, trong vòng 10 ngày đầu tiên sau khi hóa trưởng thành, nhất là ngày thứ 3
– 7 sau khi bắt đầu đẻ, bình quân trong những ngày này thường đạt trên 5
quả/con. Có những ngày cao điểm có những con có thể đẻ đến 10 quả. Sau
ngày thứ 10, tốc độ đẻ trứng bắt đầu giảm đi đáng kể.
Kết quả nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thái Thắng, 2000 [17] cho thấy
vòng đời của nhện đỏ nâu từ 11,2 đến 12,8 ngày tùy theo điều kiện môi
trường, nhất là điều kiện nhiệt độ. Mỗi nhện cái có thể đẻ tới 79 trứng, tốc độ
đẻ trứng cao nhất là 5 - 10 ngày đầu sau khi bắt đầu đẻ. Thời gian đẻ trứng
kéo dài 20 ngày. Nhiệt độ 30
0
C rất thích hợp cho sự phát triển của nhện đỏ
nâu biểu hiện ở số lượng trứng đẻ tăng cao, 88 trứng/ 1 con cái và vòng đời
rút ngắn hơn.
19
Nguyễn Khắc Tiến đã mô tả hình thái, tập quán sinh sống, tác hại và
phòng trừ nhện đỏ. Kết quả đã chỉ ra rằng nhện sống thành quần thể trên cây,
hút nhựa lá chè, đẻ trứng trên gân chính và mép lá, trứng nở ra con màu đỏ, có
6 chân, qua nhiều lần lột xác thành nhện 8 chân. Nhện xuất hiện rải rác trong
năm, thường mạnh nhất vào tháng 4, 5 và số lượng nhện giảm rõ rệt sau
những ngày mưa to. Ngoài ra tác giả cũng đã chỉ ra rằng trên các nương chè
có cây che bóng, số lượng nhện đỏ nâu trong bóng râm giảm tới 45,5% so với
ngoài bóng râm.[20]
Về diễn biến phát sinh gây hại của nhện đỏ nâu đã được nhiều tác giả
nghiên cứu. Theo Nguyễn Xuân Mai và cộng tác viên (1994)[9] điều tra nhện
đỏ nâu tại Phú Lương – Bắc Thái cho thấy từ tháng 4 – 7 nhện đỏ nâu phát
sinh và gây hại rất nặng làm lá chè biến màu hung đỏ, lá rụng nhiều, cây chè
ít búp. Mật độ nhện hại trong tháng 5 có điểm điều tra lên đến 30 – 50 con/lá.
Tác giả Phạm Thị Vượng (1990) [27] khi nghiên cứu về sâu bệnh hại
chè tại Bắc Thái đã ghi nhận loài nhện đỏ nâu là loài gây hại quan trọng với 2
đợt phát sinh trong năm, đợt 1 từ tháng 5 – 8, đợt 2 từ tháng 10 – 11. theo tác
giả thì tháng 10 nhện đỏ nâu thường gây hại nặng nhất.
Kết quả điều tra trong 3 năm 1988 - 1990 của tác giả Nguyễn Khắc Tiến
lại cho thấy nhện đỏ thường phát sinh rộ 2 đợt trong năm, đợt 1 từ tháng 2 – 5
và đợt 2 từ tháng 9- 11. [21]
Nghiên cứu của các tác giả Nguyễn Văn Hùng, Nguyễn Văn Tạo
(2006) [8] cũng đã chỉ ra rằng khi mật độ nhện hại tăng cao lên từ 4 - 6
con/lá thì tỷ lệ các lá bị hại tăng lên tới 20 - 40% làm cho toàn lô chè hơi
biến vàng, các ổ nhện riêng lẻ đã có sự liên kết với nhau, lác đác đã có
những lá chè biến màu đồng hun, xác nhện trắng nằm rải rác trên bề mặt lá.
Bắt đầu có những biểu hiện ảnh hưởng tới sự sinh trưởng của cây và suy
20
giảm năng suất búp. Đây chính là thời điểm sử dụng thuốc hóa học có hiệu
quả kinh tế nhất hay nói cách khác nên tiến hành phun thuốc trừ nhện đỏ nâu
khi điều tra thấy mật độ nhện bình quân 4 – 6 con/lá với tỷ lệ lá bị hại tương
ứng trên dưới 30%.
Tác giả Lê Thị Nhung (1996) [11] cũng cho những kết quả tương tự,
mật độ nhện đỏ nâu trong và ngoài bóng cây che bóng có sự sai khác rõ rệt,
tương ứng là 1,05 và 2,31 con/lá.
Nghiên cứu ảnh hưởng của giống đối với sự phát sinh quần thể nhện đỏ,
Nguyễn Văn Đĩnh (1994) [4] đã nhận xét trên 5 giống chè là PH1; 1A; Trung
du; Tham vè và Gia vài thì sự phát triển quần thể nhện đỏ khác nhau không
đáng kể.
Cũng nghiên cứu về ảnh hưởng của giống đến sự phát sinh gây hại của
nhện đỏ nâu, tác giả Nguyễn Thái Thắng (2000) [17] đã điều tra, đánh giá
mức độ gây hại của nhện đỏ nâu trên 6 giống chè là Trung du, PH1, TRI 777,
1A, TH3, LDP1. Kết quả cho thấy hai giống Trung du và PH1 là có mức độ
nhiễm nhện nặng nhất, sau đó đến giống TRI 777 và giống TH3. Hai giống
còn lại có mức nhiễm nhện nhẹ với mật độ trung bình dưới 1 con/lá.
Nhện đỏ nâu (Oligonychus coffeae Nietner) là một trong những đối tượng
gây hại nguy hiểm trên cây chè ở hầu hết các vùng trồng chè của Việt Nam
cũng như trên thế giới. Đặc điểm hình thái và một số đặc điểm sinh học, sinh
thái của nhện đỏ nâu cũng đã được nghiên cứu theo dõi và mô tả từ nhiều năm
nay tại các vùng trồng chè chính của Việt Nam như Phú Thọ, Thái Nguyên,
Mộc Châu, Nghệ An… Hàng năm nhện luôn xuất hiện và gây hại trên các
nương đồi trồng chè làm giảm đáng kể năng suất búp tươi cũng như phẩm
chất của các sản phẩm chè thông qua việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật để
phòng trừ nhện. Sự phát sinh gây hại của nhện đỏ có quan hệ mật thiết với
21
điều kiện khí hậu, thời tiết, điều kiện đất đai địa hình, giống và các biện pháp
kỹ thuật canh tác khác.
Hiện nay với những tiến bộ kỹ thuật mới về giống, phân bón, canh tác, kỹ
thuật đốn, hái… đã và đang được áp dụng nhằm nâng cao năng suất cũng như
phẩm chất chè, bên cạnh đó khí hậu toàn cầu đang có những biến đổi rất
phức tạp. Tất cả những yếu tố này đều có ảnh hưởng đến sự sinh trưởng phát
triển, đặc điểm sinh học sinh thái cũng như khả năng, mức độ gây hại của
nhện đỏ nâu (Oligonychus coffeae Nietner) hại chè.
1.3.2.3. Biện pháp phòng trừ nhện đỏ nâu hại chè
Nhện đỏ nâu có vòng đời ngắn, khả năng sinh sản cao, dễ bùng phát gây
thành dịch và có khả năng phát triển tính kháng thuốc cao. Tuy nhiên, các tác
giả nghiên cứu trên thế giới cũng như trong nước đều cho rằng biện pháp hoá
học mặc dù vẫn giữ vai trò chủ đạo trong việc phòng trừ loại dịch hại này,
nhưng phải tuân thủ theo nguyên tắc phòng trừ tổng hợp và chiến lược quản
lý tính kháng thuốc.
Các nghiên cứu phòng trừ nhện đỏ nâu ban đầu vẫn chủ yếu là biện
pháp hóa học. Theo Đỗ Ngọc Quỹ, Nguyễn Kim Phong (1997)[14] thì từ
những năm 1960 – 1965 việc phun hay quét diêm sinh ngay sau khi đốn chè
đã có hiệu quả tốt trong phòng trừ các loại nấm bệnh và nhện hại.
Nguyễn Văn Đĩnh (1993) [3] đã khảo sát 9 loại thuốc hóa học để trừ
nhện là: Bi 58, Danitol, Dimecron, Kelthane. Lưu huỳnh vôi, Phosalone,
Sevin, Supracid và Zinep, kết quả cho thấy Danitol, Kelthane và Phosalone có
tác dụng trong các pha phát triển của nhện hại trong khi Zinep, Supracid và
lưu huỳnh vôi có hiệu lực trừ nhện không cao.
Hoàng Thị Hợi (1996) [6] cũng đã khảo nghiệm một số thuốc như
Dipterex, Wofatox, Bi 58, Monitor, Bassa, Trebon và Marvik để trừ nhện đỏ.
22
Kết quả nhận thấy các thuốc Dipterex, Wofatox, Bassa có hiệu quả thấp và
nhanh chóng mất hiệu lực sau phun 5 – 7 ngày.
Bên cạnh biện pháp hóa học thì biện pháp sinh học và phòng trừ tổng
hợp IPM đối với nhện đỏ nâu hại chè cũng đã được quan tâm nghiên cứu.
Nguyễn Văn Đĩnh (1993) [3] đã nghiên cứu sử dụng các loài nhện
Amblyseius indicus, Amblyseius anonymus, Phytoseiulus persimilis nhập từ
Hà Lan để kìm hãm sự phát triển của nhện đỏ. Theo tác giả loài Phytoseiulus
persimilis là có tác dụng kìm hãm mạnh nhất sự phát triển của quần thể nhện
đỏ trên đồng ruộng.
Theo Lê Thị Nhung và Nguyễn Mai Thắng (1994) [10], đã tiến hành
nghiên cứu phòng trừ tổng hợp đối với một số loài sâu hại nguy hiểm trên chè
trong đó có nhện đỏ. Kết quả đã nghiên cứu đề ra ngưỡng phòng trừ của nhện
đỏ như sau: Phải phun thuốc khi mật độ nhện điều tra vượt quá 5 con/lá.
Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng nếu phun theo ngưỡng mật độ kinh
tế cần phòng trừ sẽ giảm được số lần phun thuốc, giảm lượng thuốc phun và
tăng năng suất rõ rệt búp chè tươi. Ngoài ra việc trồng cây bóng mát trên các
đồi chè có tác dụng làm giảm mật độ của rầy xanh, nhện đỏ, bọ cánh tơ và
bệnh chấm xám, đồng thời cũng làm tăng mật độ và thành phần các loài
thiên địch có ích. Tuy nhiên, ngoài tác động của thời tiết khí hậu ở từng
vùng, sự phát triển số lượng quần thể của nhện đỏ còn liên quan đến vai trò
hoạt động của quần thể các loài ký sinh và bắt mồi ăn thịt ngoài tự nhiên.
Nhằm hướng tới phát triển biện pháp sinh học trong phòng chống nhện đỏ,
một số tác giả đã tập trung nghiên cứu xác định thành phần thiên địch và khả
năng lợi dụng chúng.
Để xây dựng biện pháp phòng trừ nhện đỏ nâu có hiệu quả cao và bền
vững cho từng vùng cụ thể, cần phải tiếp tục nghiên cứu các vấn đề liên quan
23
đến đặc tính sinh học, sinh thái của nhện đỏ, đánh giá hiệu quả của biện pháp
trong hệ thống phòng trừ tổng hợp, như: biện pháp canh tác và tìm chọn các
loại thuốc có hiệu quả cao, nhất là thuốc sinh học, nhằm hạn chế dùng thuốc
hoá học, đảm bảo chất lượng sản phẩm và bảo vệ môi trường.
24
CHƢƠNG II: VẬT LIỆU, NỘI DUNG
VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu.
- Các vườn trồng chè tại huyện Ba Vì
- Các giống chè: Trung du lá nhỏ, PH1…
- Các loại thuốc trừ nhện đỏ hại chè: Ababetter; Pegasus 500SC, Sokupi
0,36AS, Ortus 5SC, SK EnSpray 99EC, ABT 2WP, DC-TronPlus 98,8EC và
Comite 73EC.
- Các dụng cụ phục vụ nghiên cứu trong phòng thí nghiệm như kính lúp để
bàn, hộp nuôi nhện, đĩa petri, ống nghiệm và các hóa chất giữ mẫu.
- Các dụng cụ phục vụ điều tra, thí nghiệm đồng ruộng: kính lúp cầm tay,
dụng cụ lấy mẫu, bình phun thuốc và các dụng cụ pha chế thuốc ở mức chính
xác kỹ thuật.
2.2. Nội dung nghiên cứu.
2.2.1- Điều tra thành phần nhện nhỏ hại chè tại Ba Vì – Hà Nội, đánh giá mức
độ gây hại của nhện đỏ nâu (Oligonychus cofeae Nietner) trên một số giống
chè và thực trạng công tác phòng trừ nhện đỏ nâu hại chè tại Ba Vì.
2.2.2- Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học chủ yếu của nhện đỏ, bao gồm:
đặc điểm hình thái, tập tính sinh sống và gây hại, vòng đời và khả năng sinh
sản của nhện đỏ nâu.
2.2.3- Tìm hiểu qui luật phát sinh của nhện đỏ nâu trên đồng ruộng trong điều
kiện thời tiết khí hậu và hệ thống canh tác chè ở vùng Ba Vì –Hà Nội. Đánh
giá ảnh hưởng của một số biện pháp kỹ thuật canh tác đến sự phát sinh phát
triển của nhện đỏ nâu (Oligonychus cofeae Nietner).
25
2.2.4- Nghiên cứu phòng trừ nhện đỏ nâu hại chè bằng việc sử dụng một số
loại thuốc bảo vệ thực vật (thuốc hóa học và thuốc sinh học).
2.3. Phƣơng pháp nghiên cứu.
2.3.1 Nội dung 2.2.1- Điều tra thành phần nhện nhỏ hại chè tại Ba Vì – Hà
Nội, đánh giá mức độ gây hại của nhện đỏ nâu (Oligonychus cofeae Nietner)
trên một số giống chè và thực trạng công tác phòng trừ nhện đỏ nâu hại chè
tại Ba Vì.
- Điều tra thành phần nhện nhỏ hại chè.
Việc điều tra xác định thành phần nhện hại và mức độ phát sinh gây hại
của nhện đỏ theo các giai đoạn sinh trưởng của cây được tiến hành theo
phương pháp điều tra cơ bản dịch hại của Viện Bảo vệ thực vật (1999). việc
định loại thành phần nhện hại chè nhờ sự giúp đỡ của các chuyên gia Viện
Bảo vệ thực vật
Điều tra theo 5 điểm chéo góc, ở mỗi điểm điều tra trên 2m dài theo hàng
chè, quan sát bằng mắt thường kết hợp dùng kính lúp cầm tay, đếm số lượng
cây bị nhện nhỏ hại. Có thể định loại trực tiếp hoặc lấy mẫu và bảo quản mẫu
rồi gửi về phòng côn trùng – Viện Bảo vệ thực vật để giám định các loài chưa
biết.
Mức độ phổ biến của các loài nhện được tính thông qua tần suất xuất
hiện của loài đó trong quá trình điều tra, được tính như sau:
Tổng số điểm điều tra có loài nhện A
Tần suất xuất hiện = x 100
loài nhện A (%) Tổng số điểm điều tra
Dùng dấu + để biểu thị mức độ phổ biến:
+ < 25% số cây có nhện (ít phổ biến)
++ > 25 đến 50% cây có nhện (phổ biến)
+++ > 50% cây có nhện (rất phổ biến)