Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG HÀNG HÓA PHÁI SINH TẠI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259.25 KB, 24 trang )

Thị trường Phái sinh ở Việt Nam GVHD: TS. Đinh Bảo Ngọc
TÊN ĐỀ TÀI VÀ THÀNH VIÊN NHÓM
Bài tập môn Công cụ phái sinh
Thị trường hàng hóa phái sinh ở Việt Nam
 Giảng viên hướng dẫn: TS. Đinh Bảo Ngọc
 Nhóm số 3 – Lớp 2 Tài chính Ngân hàng – Cao học K26
 Thành viên nhóm: 1. Ngô Đức Chiến
2. Trần Ngọc Minh Trang
3. Nguyễn Bạch Hồng
4. Hồ Thị Tuyết
5. Trần Thanh Phương
6. Lê Thị Phương Thảo
7. Nguyễn Hồng Thái

Mục lục
Nhóm 3 – Lớp 2 – Cao học K26 - TCNH Trang 1
Thị trường Phái sinh ở Việt Nam GVHD: TS. Đinh Bảo Ngọc
Lời mở đầu 03
Phần 1: Sự cần thiết thành lập Sở giao dịch hàng hóa phái sinh ở Việt Nam 04
Phần 2: Thực trạng thị trường hàng hóa phái sinh ở Việt Nam 07
1. Thực trạng hoạt động của các sàn giao dịch hàng hóa phái sinh ở Việt Nam
07
2. Thực trạng sử dụng các công cụ phái sinh ở Việt Nam 08
Phần 3: Đề xuất và giải pháp 16
1. Xét ở góc độ vi mô 16
2. Xét ở góc độ vĩ mô 17
Kết luận 23
Danh mục tài liệu tham khảo 24
LỜI MỞ ĐẦU
Nhóm 3 – Lớp 2 – Cao học K26 - TCNH Trang 2
Thị trường Phái sinh ở Việt Nam GVHD: TS. Đinh Bảo Ngọc


Toàn cầu hóa mang lại nhiều lợi ích đồng thời cũng mang đến nhiều khó khăn. Đó
chính là các rủi ro có thể nhận thấy được hoặc tiềm ẩn mà các nhà đầu tư, ngay cả các
nhà sản xuất kinh doanh khó có thể nhận biết được. Những rủi ro này tồn tại một cách
ngẫu nhiên trong tất cả quá trình sản xuất, kinh doanh, quản lý. Chúng có thể làm cho nhà
đầu tư “trắng tay”, công ty phá sản và thậm chí là làm kinh tế quốc gia suy sụp. Trước
những nguy cơ đó, các công cụ phái sinh tài chính như hợp đồng giao sau (Futures), hợp
đồng quyền chọn (Option), hợp đồng hoán đổi (Swap)… ngày càng được sử dụng rộng
rãi trên toàn thế giới như là những công cụ phòng ngừa và ngăn chặn rủi ro.
Sau một thời gian hội nhập kinh tế, chúng ta dần dần biết được những phương cách
bảo hộ rủi ro trên thị trường tài chính phái sinh. Chính phủ ta đang dần dần tổ chức các
chợ đầu mối, các trung tâm giao dịch và tiến tới hình thành các thị trường giao sau về
nông sản. Trước tiên, trong lĩnh vực ngoại hối, Chính phủ đã cho phép sử dụng hợp đồng
quyền chọn (Option) để bảo vệ hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Tuy muộn nhưng
sự khởi đầu này cũng là một tín hiệu đáng mừng cho nền kinh tế của Việt Nam. Nhưng
câu hỏi đặt ra là thị trường giao sau có vai trò thế nào đối với một nền kinh tế đang phát
triển như nước ta?
Trong bài viết này, chúng tôi chỉ hướng tới việc đề cập đến việc hoạt động của các sàn
giao dịch hàng hóa phái sinh ở Việt Nam với những gì đã đạt được và đề xuất những giải
pháp tích cực cho sự phát triển của thị trường này tại Việt Nam.
Thành phố Đà Nẵng tháng 1 năm 2014
Phần 1:
Sự cần thiết thành lập Sở giao dịch hàng hóa Việt Nam
Nhóm 3 – Lớp 2 – Cao học K26 - TCNH Trang 3
Thị trường Phái sinh ở Việt Nam GVHD: TS. Đinh Bảo Ngọc
Việt Nam là nước có nhiều mặt hàng nông, lâm và thủy sản có sản lượng xuất khẩu
hàng đầu thế giới như gạo, cà phê, điều, hồ tiêu…Ước tính giá trị xuất khẩu nông lâm
thủy sản cả năm 2013 đạt hơn 27 tỷ USD. Tuy nhiên, còn một số tồn tại trong chuỗi sản
xuất, kinh doanh hàng nông sản đó là quy trình sản xuất, tiêu thụ hàng hóa vẫn theo kiểu
truyền thống, chưa bắt nhịp với nhu cầu thị trường nên điệp khúc “được mùa, mất giá”
vẫn tồn tại. Bên cạnh đó, do sản xuất còn tự phát, quy mô nhỏ nên chất lượng không

đồng đều.
Việc này dẫn đến tiêu chuẩn hàng hóa của Việt Nam thường không được công nhận
rộng rãi, trong khi hàng hóa phải xuất khẩu theo tiêu chuẩn của thế giới, gây thiệt thòi
cho các doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là người dân.
Các nhà xuất khẩu Việt Nam luôn ở thế bất lợi, vì hầu như không có công cụ dự
phòng và hạn chế biến động giá. Còn với người sản xuất, nguồn tài chính chủ yếu dựa
vào tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT hoặc các chương trình hỗ trợ của
Chính phủ. Tuy nhiên, với hoạt động lưu thông hàng hóa, các ngân hàng cũng chỉ cấp tín
dụng ngắn hạn Nhìn chung, chưa có thị trường thứ cấp tập trung để người sản xuất huy
động được vốn, người kinh doanh có thể mua đi bán lại hàng hóa và nhà đầu tư cá nhân
có thể tham gia đầu tư.
Hiện tại, khoảng 99% giao dịch của các doanh nghiệp vẫn theo cách truyền thống là
mua hàng, sau đó phân loại và thực hiện giao nhận. Các nhà phân tích cho rằng, cần
chuyển đổi việc sản xuất hàng hóa từ sản xuất đến thị trường và sản xuất theo hợp đồng
phải là một xu hướng tất yếu. Có nghĩa là, trước khi sản xuất phải có hợp đồng tiêu thụ,
sau đó mới đến khâu lưu trữ và giao hàng, nhằm chủ động đầu ra cho sản phẩm.
Mặt khác, trong những năm gần đây, tình hình kinh tế thế giới có nhiều biến động
phức tạp. Cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu năm 2008, cũng như cuộc khủng
hoảng nợ công Châu Âu đã ảnh hưởng nặng nề tới tình hình kinh kế của nhiều nước trên
thế giới. Ngoài ra, tình hình biến đổi khí hậu toàn cầu khiến sản lượng hàng hóa nông sản
trên thế giới bị sụt giảm nghiêm trọng, do đó giá cả hàng hóa nông sản cũng có chiều
hướng diễn biến phức tạp.
Nhóm 3 – Lớp 2 – Cao học K26 - TCNH Trang 4
Thị trường Phái sinh ở Việt Nam GVHD: TS. Đinh Bảo Ngọc
Để đáp ứng nhu cầu giao dịch hàng hóa, đặt biệt là hàng nông sản sản xuất trong
nước, đã có nhiều cơ quan, tổ chức đứng ra thành lập các trung tâm, các sàn giao dịch.
Ví dụ Sàn giao dịch hạt điều (3/2002), Sàn giao dịch thủy sản Cần Giờ (5/2002)
Tuy nhiên, các sàn này hoạt động chủ yếu theo phương thức giao ngay và không kết
nối được nhà đầu tư tham gia. Do vậy nên việc triển khai thực hiện còn gặp nhiều khó
khăn, không đáp ứng được hiệu quả giao dịch hàng hóa như các Sở giao dịch hàng hóa

trên thế giới.
Sở giao dịch hàng hóa ra đời sẽ kết nối trực tiếp sản xuất hàng hóa với nhu cầu thị
trường, xóa bỏ tình trạng “được mùa, mất giá” hoặc được giá nhưng không có hàng để
bán. Qua đó, chống đầu cơ giá, hiện tượng tư thương ép giá người nông dân cũng như
chuẩn hóa các tiêu chuẩn hàng hóa sản xuất tại Việt Nam để giao dịch trên thị trường
trong nước và quốc tế.
Mặt khác, khi thị trường có sở giao dịch hàng hóa tập trung sẽ có sự tham gia trực tiếp
của các định chế tài chính, quỹ đầu tư, giúp huy động vốn hiệu quả, nhanh chóng cho sản
xuất. Quan trọng hơn, Sở giao dịch hàng hóa chính là trung tâm để kết nối thị trường
hàng hóa trong nước và quốc tế.
Hiện nay trên thế giới có khoảng hơn 30 sở giao dịch hàng hoá, trong đó, Châu Mỹ có
13 sở, Châu Á có 14 sở, Châu Âu có 5 sở, chủ yếu giao dịch các mặt hàng là nông sản và
vật liệu. Về mặt lịch sử, Sở giao dịch hàng hoá trên thế giới hiện đại được phát triển từ
các trung tâm mua bán trao đổi hàng hoá (chủ yếu là nông sản) và dần trở thành những
trung tâm giao dịch mà phần lớn là giao dịch các công cụ phái sinh. Về phạm vi hoạt
động, Sở giao dịch hàng hoá không chỉ bó hẹp trong phạm vi của một quốc gia mà ngày
càng mở rộng hoạt động trên toàn thế giới. Ví dụ: Sở giao dịch hàng hoá New York
(NYMEX), Sàn giao dịch hàng hóa London (LIFFE), Tokyo(TOCOM), ICE, SICOM
Các loại hàng hoá giao dịch ngày càng phong phú, đa dạng, không chỉ giới hạn ở các
mặt hàng nông sản mà còn mở rộng sang các mặt hàng khác như năng lượng (dầu thô,
gas…), kim loại quý (vàng, bạc, đồng, aluminum, sắt, thép), v.v. Tuy nhiên, đặc điểm của
hàng hóa giao dịch là hàng hóa có thể chuẩn hóa về chất lượng. Căn cứ vào quy chuẩn
Nhóm 3 – Lớp 2 – Cao học K26 - TCNH Trang 5
Thị trường Phái sinh ở Việt Nam GVHD: TS. Đinh Bảo Ngọc
này, các nhà sản xuất và người nông dân có thể đo lường chất lượng sản phẩm mình sản
xuất ra.
Khách hàng của sở giao dịch hàng hoá ngày càng mở rộng, không chỉ trong phạm vi
hẹp là người nông dân như trước mà còn có các nhà đầu tư cá nhân, định chế tài chính,
công ty thương mại, quỹ đầu tư mạo hiểm, quỹ đầu tư hàng hoá. Điều này đã làm cho sở
giao dịch hàng hoá luôn sôi động và có tính thanh khoản cao. Đối với các sở giao dịch

lớn, giá trị giao dịch trên một sở giao dịch hàng năm có thể đạt hơn hàng ngàn tỷ USD.
Như vậy, cùng với quá trình chuyển đổi mạnh mẻ từ nền kinh tế kế hoạch sang kinh tế
thị trường và hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới. Việt Nam đã có sự tăng trưởng rất
mạnh về kinh tế, đặt biệt trong lĩnh vực xuất khẩu hàng hóa. Tuy nhiên Việt Nam đang
thiếu các công cụ thị trường mạnh, hiện đại như thị trường vốn, thị trường giao dịch
hàng hóa để hỗ trợ cho hoạt động nền kinh tế. Các phân tích trên cho phép kết luận cơ sở
để thành lập sở giao dịch chính là nhu cầu giao dịch lớn cho một hoặc một số loại hàng
hoá nhất định trên thị trường. Về mặt vĩ mô, mục đích thành lập sở giao dịch là nhằm
thiết lập một trung tâm giá, một tổ chức trung lập đảm bảo cho các giao dịch được thực
hiện đúng hợp đồng và góp phần bình ổn giá cả cho một hoặc một số mặt hàng nhất định.
Xét trên khía cạnh kinh doanh, tham gia Sở giao dịch, doanh nghiệp thực hiện bảo hiểm
rủi ro và đầu tư tài chính.
Với bối cảnh kinh tế và các điều kiện như vậy, cho thấy việc thành lập Sở giao dịch
hàng hóa ở Việt Nam đối với một số mặt hàng có giao dịch thương mại lớn vào thời điểm
này là cần thiết và có tính khả thi cao để chuẩn hóa giao dịch, tiêu chuẩn hàng hóa và
giúp cho người sản xuất tiêu thụ được hàng hóa với giá tốt.
Nhóm 3 – Lớp 2 – Cao học K26 - TCNH Trang 6
Thị trường Phái sinh ở Việt Nam GVHD: TS. Đinh Bảo Ngọc
Phần 2:
Thực trạng thị trường hàng hóa phái sinh ở Việt Nam
1. Thực trạng hoạt động của các sàn giao dịch hàng hóa phái sinh ở Việt Nam:
Giao dịch hàng hóa phái sinh là loại hình đầu tư còn khá mới mẻ ở Việt nam, mới cả
về nội dung lẫn hình thái đầu tư. Theo tập quán kinh doanh từ bao đời nay của người dân
Việt Nam thì các loại hàng hóa cơ bản như nông sản, kim loại như sắt thép, đồng, chì…
chủ yếu được mua bán giao ngay. Do đó rủi ro biến động giá cả là rất lớn, đặc biệt đối
với những mặt hàng có tính mùa vụ cao như nông sản. Khi áp dụng giao dịch phái sinh,
hàng hóa cơ bản trở thành sản phẩm được đưa vào giao dịch trên thị trường tài chính.
Xét ở góc độ tổng thể của nền kinh tế, thị trường công cụ phái sinh đóng góp cho
tăng trưởng kinh tế thông qua việc phát huy tốt các chức năng của hệ thống tài chính, đó
là: Cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư; Sàng lọc, chuyển giao, và phân tán rủi ro; Giám sát

doanhnghiệp; tăng tính thanh khoản của các công cụ tài chính (vận hành Hệ thống thanh
toán thông suốt).
Mô hình sở giao dịch hàng hóa là phương thức giao dịch hiện đại đang rất phổ biến trên
thế giới nhất là giao dịch hàng hóa phái sinh, có tác dụng lớn trong việc thúc đẩy giao
thương, rào chắn rủi ro, kiếm lời từ hoạt động đầu tư của các đối tượng tham gia. Tuy
nhiên, ở Việt Nam đây vẫn còn là một hoạt động khá mới mẻ với sự ra đời của một số sàn
giao dịch ở TP.HCM, Đaklak nhưng hoạt động cũng chỉ cầm chừng và chưa thực sự hiệu
quả.
Nội dung Địa điểm Năm thành lập
Sàn giao dịch hàng hóa TP.HCM 2002
Sàn giao dịch thủy sản Cần Giờ TP.HCM 2004
Sàn giao dịch cà phê Buôn Ma Thuột (BCEC) Đaklak 2004
Sàn giao dịch thép của Sacombank ( Sacom-STE) TP.HCM 2009
Sàn giao dịch hàng hóa Việt Nam (VNX) TP.HCM 2010
Nguyên nhân là do các Sàn giao dịch bị quản lý chồng chéo bởi các quy định của
nhiều bên liên quan như các Bộ, Ngân hàng nhà nước, doanh nghiệp; hầu hết các sàn giao
dịch trước đây chỉ áp dụng phương thức giao dịch là giao ngay nên chưa đáp ứng được
nhu cầu thực tế của khách hàng; chưa có kinh nghiệm trong việc triển khai hoạt động của
Nhóm 3 – Lớp 2 – Cao học K26 - TCNH Trang 7
Thị trường Phái sinh ở Việt Nam GVHD: TS. Đinh Bảo Ngọc
cũng như trong công tác phát triển thành viên cũng như khách hàng của Sàn giao dịch
hàng hóa.
Trong đó, sự ra đời của VNX đánh dấu một bước ngoặt mới trong việc hình thành và
phát triển thị trường phái sinh tại Việt Nam.
- Điểm khác biệt của VNX so với các Sàn giao dịch hàng hóa trước đây:
+ Đối với riêng VNX, tiền thân là Sở Giao dịch hàng hóa Triệu Phong, đây là Sở giao
dịch hàng hóa đầu tiên được Bộ Công Thương cấp phép hoạt động theo tinh thần luật
thương mại với chức năng và quy mô lớn hơn các sàn giao dịch hàng hóa đã và đang hoạt
động. Các mục tiêu chính trong 5 năm tới là tăng vốn điều lệ 150 tỷ đồng hiện nay lên
300 tỷ đồng năm 2012 và 1.000 tỷ đồng năm 2015, niêm yết trên thị trường chứng khoán

Việt Nam vào năm 2014.
+ Đặc biệt, khác với các sàn hàng hóa trước kia được lập ra bởi các công ty chỉ đóng vai
trò là broker cho các Sở giao dịch hàng hóa nước ngoài, VNX còn đóng vai trò là nhà tổ
chức. Đây là điểm khác biệt quan trọng nhất.
+ Ngoài ra, thay vì chỉ thực hiện các hợp đồng giao ngay (hàng hóa thật), VNX tập trung
cung cấp các sản phẩm, dịch vụ liên quan đến phái sinh hàng hóa ( hợp đồng tương lai,
hợp đồng kỳ hạn, quyền chọn, hoán đổi đối với hàng hóa)  đây là một hình thức giao
dịch, công cụ tài chính bảo hiểm rủi ro về giá cho nhà sản xuất, kinh doanh mà còn là
hình thức đầu tư tài chính hiệu quả dành cho các nhà đầu tư.
+ Bên cạnh đó, một trong các lợi thế của VNX là có sự kết hợp chặt chẽ với các hiệp hội
cà phê, cao su, thép. Thông qua các hiệp hội này, VNX sẽ tìm được những nhà sản xuất
kinh doanh phù hợp và đảm bảo hệ thống kho bãi, nguồn nguyên liệu để có thể cân đối
được tính thanh khoản cho các giao dịch hàng hóa thông qua Sàn và cung cấp thông tin
tốt hơn cho các hộ nông dân, những nhà sản xuất nhỏ tại các vùng nguyên liệu chưa tiếp
cận được thông tin đầy đủ về thị trường.
2. Thực trạng sử dụng các công cụ phái sinh ở Việt Nam
Thị trường phái sinh chỉ mới hình thành trên trên lĩnh vực ngoại hối và gần đây bắt
đầu trên thị trường hàng hóa (cà phê). Các giao dịch phái sinh chủ yếu là hợp đồng kỳ
hạn, quyền lựa chọn còn hợp đồng giao sau và hợp đồng hoán đổi chưa được thực hiện.
Đối với thị trường ngoại hối, hợp đồng hoán đổi và hợp đồng kỳ hạn trên thị trường
ngoại hối được Ngân hàng Nhà nước cho phép từ năm 1998 theo quyết định số 17/1998/
Nhóm 3 – Lớp 2 – Cao học K26 - TCNH Trang 8
Thị trường Phái sinh ở Việt Nam GVHD: TS. Đinh Bảo Ngọc
QĐ-NHNN7 ngày 10/1/1998. Với quyết định này, cho phép các ngân hàng thương mại
triển khai các nghiệp vụ hoán đổi lãi suất và mua bán ngoại hối kỳ hạn với khách hàng là
các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, nhờ vậy, đã giúp cho các doanh nghiệp hạn chế được
rủi ro trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế Đông Nam Á. Đến năm 2002, được sự cho
phép của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Ngân hàng TMCPXuất nhập khẩu Eximbank
đã tiến hành thí điểm giao dịch quyền lựa chọn (options). Mặc dù mới đưa vào giao dịch
trên thị trường, cơ chế còn khá mới mẽ nhưng bước đầu đã được nhiều khách hàng tham

gia. Sang năm 2004, trước tình hình biến động giá cà phê trên thị trường gây rủi ro cho
nông dân và các công ty xuất khẩu cà phê, Ngân hàng TMCP Kỹ thương đã đứng ra làm
đầu mối tổ chức cho các doanh nghiệp thực hiện giao dịch phái sinh trên thị trường
London, bước đầu mang lại hiệu quả đáng kể.
Giao dịch tài chính tiền tệ là lĩnh vực chưa có sự xuất hiện của các nhà bảo hiểm bởi
tính biến động khôn lường của nó. Các chủ thể tham gia không còn cách nào khác ngoài
việc tự bảo hiểm cho mình bằng việc chuyển hẳn hoặc san sẻ 1 phần rủi ro cho thị trường
bằng các Công cụ tài chính phái sinh. Tuy nhiên, nhìn một cách tổng quát, mức độ áp
dụng các Công cụ phái sinh ở Việt Nam còn rất hạn chế. Nhiều ý kiến cho rằng, xuất phát
điểm nền kinh tế lạc hậu chưa cho phép chúng áp dụng các kỹ thuật tài chính hiện đại.
Nói cách khác, thói quen và tập quán kinh doanh là những cản trở lớn đối với quá trình
phổ biến các Công cụ tài chính phái sinh ở Việt Nam.
Giao dịch kỳ hạn xuất hiện với tư cách là công cụ tài chính phái sinh đầu tiên ở Việt
Nam theo quyết định số 65/1999/QĐ-NHNN7 ngày 25/2/1999. Các giao dịch kỳ hạn
được thực hiện trong hợp đồng mua bán USD và VND giữa ngân hàng thương mại với
doanh nghiệp xuất nhập khẩu hoặc với các ngân hàng thương mại khác được phép của
ngân hàng nhà nước. Tuy nhiên, Hợp đồng kỳ hạn ít được sử dụng, một phần là do thị
trường liên ngân hàng ở VN chưa phát triển, một phần do những hạn chế vốn có của nó
trong việc phòng chống rủi ro tỉ giá và những hạn chế của Ngân hàng Nhà nước. Vì thế,
các giao dịch kỳ hạn chỉ chiếm khoảng 5-7% khối lượng giao dịch của thị trường ngoại tệ
liên ngân hàng.
Nhóm 3 – Lớp 2 – Cao học K26 - TCNH Trang 9
Thị trường Phái sinh ở Việt Nam GVHD: TS. Đinh Bảo Ngọc
Giao dịch hoán đổi cũng xuất hiện khá sớm theo quyết định số 430/QĐ-NHNN13
ngày 24/12/1997 và sau này là quyết định số 893/2001/QĐ-NHNN ngày 17/7/2001 của
thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Tuy nhiên đây chỉ là những giao dịch hoán đổi thuận
chiều giữa Ngân hàng Nhà nước và Ngân hàng Thương mại. Nó chỉ được sử dụng trong
trường hợp các Ngân hàng Thương mại dư thừa ngoại tệ và khan hiếm VND.
Các công cụ phái sinh lãi suất và tỷ giá ngoại tệ tiếp tục xuất hiện ở VN và được các
ngân hàng sử dụng do nhu cầu nội tại của các Ngân hàng Thương mại nhằm theo kịp

chuẩn mực hoạt động ngân hàng quốc tế. Ngân hàng Nhà nước đã cho phép các Ngân
hàng Thương mại thực hiện một số nghiệp vụ phái sinh nhằm phòng ngừa rủi ro lãi suất
và rủi ro tỷ giá. Theo quyết định số 1133/QĐ- NHNN ngày 30/09/2003 về quy chế thực
hiện giao dịch hoán đổi lãi suất cho phép mở rộng danh mục các Ngân hàng Thương mại
và các tổ chức tín dụng, các doanh nghiệp được sử dụng công cụ hoán đổi lãi suất. Hoán
đổi lãi suất được thực hiện đối với cả VND và ngoại tệ giữa các ngân hàng với doanh
nghiệp vay vốn tại Ngân hàng, giữa Ngân hàng với những doanh nghiệp vay vốn tại các
tổ chức tín dụng khác, kể cả vay vốn nước ngoài; giữa các Ngân hàng trong nước với
nhau và giữa các ngân hàng thương mại trong nước với các tổ chức tín dụng nước ngoài.
Trên cơ sở nới lỏng quản lý của Ngân hàng Nhà nước, nhiều Ngân hàng Thương mại đã
triển khai cung cấp Hợp đồng hoán đổi lãi suất cho các doanh nghiệp, tìm kiếm đối tác là
các tổ chức tín dụng nước ngoài để ký kết hợp tác. Tuy nhiên, giao dịch phái sinh trong
đó có hoán đổi lãi suất được coi là hoạt động ngoại bảng của Ngân hàng do đó hướng dẫn
hạch toán từ phía NHNN đối với các nghiệp vụ này đang được xem là điều kiện đủ để
các Ngân hàng Thương mại đẩy mạnh cung cấp dịch vụ này cho khách hàng.
Từ khi Ngân hàng Nhà nước cho phép thực hiện nghiệp vụ hoán đổi lãi suất trên thị
trường Việt Nam (từ 1/2003), đã có một só ngân hàng như ABN, Citibank thực hiện hoán
đổi lãi suất trong phạm vi đồng USD từ ngày 1/3/2005 tới 2/2006. Tuy nhiên, giao dịch
hoán đổi lãi suất giữa 2 đồng tiền USD và VND (hoán đổi lãi suất chéo) đã được thực
hiện, từ trước khi có quy định chính thức của ngân hàng nhà nước. Cho tới lần đầu tiên,
khi được Ngân hàng Nhà nước cho phép, HSBC đã cung cấp gói Swaps tiền Đồng cho
một công ty đa quốc gia với số vốn lên tới 15 triệu USD trên tại trường Việt Nam. Theo
Nhóm 3 – Lớp 2 – Cao học K26 - TCNH Trang 10
Thị trường Phái sinh ở Việt Nam GVHD: TS. Đinh Bảo Ngọc
đó, HSBC sẽ đưa VND và nhận USD từ khách hàng, tới tháng 12/2007, HSBC sẽ đưa
USD và nhận lại VND từ khách hàng. Với giao dịch này, khách đã đạt được mức lãi suất
cạnh tranh nhất trên thị trường nội địa cho việc vay vốn tiền Đồng kỳ hạn 3 năm mà
không chịu bất cứ một rủi ro nào về tỷ giá USD/VND.
Chính hành động của HSBC, tạo ra nền tảng phát triển cho các giao dịch hoán đổi sau
này. Ngân hàng Standard Chartered chi nhánh tại Việt Nam thực hiện hoán đổi lãi suất

chéo giữa hai đồng tiền chéo đối với các khoản vay ngoại tệ của khách hàng sử khi khách
hàng vay ngoại tệ. Và trong tương lai, Standard Chartered sẽ còn cung cấp nhiều sản
phẩm phái sinh nữa trên thị trường Việt Nam, hứa hẹn tương lai phát triển thị trường.
Ở một mức cao hơn, các công cụ lai tạp có nguồn gốc từ hoán đổi như hoán đổi lãi
suất cộng dồn, hoán đổi lãi suất kèm theo điều kiện quyền chọn, hoán đổi lãi suất bắt đầu
thực hiện trong tương lai …cũng đã xuất hiện và triển khai trên thị trường ngoại hối trong
thời gian gần đây. Điều đặc biệt là các hợp đồng hoán đổi rủi ro tín dụng đã được thí
điểm áp dụng tại Việt Nam theo công văn 3324/NHNN-CSTT, tháng 4/2006 cho phép
HSBC chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh thực hiện. Mặc dù là một loại hoán đổi nhưng
hoán đổi rủi ro tín dụng thực sự lại giống một chính sách bảo hiểm hơn. Tức một bên
nắm giữ trái phiếu hoặc các khoản vay, định kỳ sẽ thanh toán cho bên kia. Trường hợp
trái phiếu bị đánh giá thấp hay các khoản vay trên bị vỡ nợ, bên bảo hiểm ở đây là HSBC
sẽ trả cho bên đối tác, khách hàng các khoản bù trừ lỗ.
Sản phẩm hoán đổi rủi ro tín dụng của HSBC Việt Nam chỉ gắn với rủi ro tín dụng của
các loại trái phiếu do chính phủ hoặc các doanh nghiệp Việt Nam phát hành trái phiếu ra
thị trường quốc tế, các khoản vay dài hạn của doanh nghiệp Việt nam tại các tổ chức tín
dụng hoạt động tại Việt Nam. Khách hàng chuyển nhượng rủi ro tín dụng cho HSBC là
các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam và bên nhận chuyển nhượng là các chi
nhánh HSBC ở nứơc ngoài. Thời hạn của giao dịch không quá 5 năm.
Khách hàng mua loại công cụ này cũng giống như thực hiện một khoản đầu tư gián
tiếp. Việc tiếp cận với các công cụ này cho phép nhà đầu tư có cơ hội tìm kiếm những
mức lợi nhuận cao hơn so với hoạt động tín dụng tiền gửi bình thường, nâng cao hiệu quả
sử dụng nguồn vốn của các tổ chức tín dụng. Hơn nữa, việc sử dụng các công cụ mới này
Nhóm 3 – Lớp 2 – Cao học K26 - TCNH Trang 11
Thị trường Phái sinh ở Việt Nam GVHD: TS. Đinh Bảo Ngọc
còn góp phần nâng cao mức độ tín nhiệm của chính phủ và các doanh nghiệp Việt Nam
khi phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế.
Quyền chọn ngoại tệ, lãi suất và vàng dường như là những công cụ phái sinh được thị
trường hoan nghênh và đón nhận nhiều nhất do những ưu điểm vốn có của nó trong bối
cảnh lãi suất và tỷ giá và giá vàng luôn ở trạng thái tăng liên tục. Ngân hàng đầu tư và

phát triển Việt Nam (BIDV) là ngân hàng đầu tiên được phép thực hiện giao dịch quyền
chọn lãi suất. Các giao dịch quyền chọn lãi suất được phép thực hiện đối với những
khoản cho vay và đi vay trung hạn (dưới 5 năm) bằng USD hoặc bằng EURO và chỉ được
thực hiện đối với các doanh nghiệp hoạt động tại Việt Nam, các Ngân hàng thương mại
hoạt động ở Việt Nam được Ngân hàng Nhà nước cho phép và các Ngân hàng ở nước
ngoài. Sau BIDV là hàng loạt các Ngân hàng thương mại khác, bao gồm cả Ngân hàng
thương mại cổ phần cũng được cho phép thực hiện nghiệp vụ này.
Bên cạnh quyền chọn lãi suất, quyền chọn ngoại tệ cũng được nhiều ngân hàng cung
cấp, điển hình là BIDV, Eximbank, ACB, Techcombank, Agribank, Citibank,
Vietcombank, ICB, và ngân hàng Hồng Kông bank chi nhánh thành phố HCM. Nguyên
tắc chính của loại quyền chọn này là các doanh nghiệp và cá nhân được quyền đặt mua
hay đặt bán USD với VNĐ thông qua một tỷ giá do khách hàng tự chọn, được gọi là tỷ
giá thực hiện. Đặc biệt, quyền chọn USD và VNĐ đáp ứng cho cả nhà nhập khẩu và nhà
xuất khẩu trong đó quyền chọn mua áp dụng cho nhà nhập khẩu và quyền chọn bán áp
dụng cho nhà xuất khẩu. Sau khi NHNN cho phép ACB, Sacombank và Agribank thực
hiện quyền chọn mua bán vàng, ngày 10/12/2004 ACB là ngân hàng đầu tiên công bố
triển khai dịch vụ này. Dịch vụ này được tung ra trong bối cảnh trong nước và quốc tế giá
vàng liên tục tăng, tuy nhiên cũng cần có thời gian để đo lường mức độ đón nhận của thị
trường đối với công cụ. Tới nay, đã có rất nhiều ngân hàng được phép của Ngân hàng nhà
nước cho phép thực hiện các nghiệp vụ Option. Đặc biệt, Ngân hàng nhà nước cũng đã
cho phép thực hiện các Options tiền Đồng tại BIDV, ngân hàng thương mại cổ phần Á
Châu, ngân hàng cổ phần thương mại quốc tế. Với nghiệp vụ này, chắc chắn tương lai sẽ
được mở rộng bởi khi đó VND sẽ có cơ hội tiếp cận với thị trường tài chính thế giới. Vị
thế của VND và Việt Nam cũng qua đó mà tăng lên. Tuy nhiên, vì đang trong giai đoạn
Nhóm 3 – Lớp 2 – Cao học K26 - TCNH Trang 12
Thị trường Phái sinh ở Việt Nam GVHD: TS. Đinh Bảo Ngọc
thí điểm nên các ngân hàng này bị giới hạn bởi thời gian thực hiện. Nhìn chung, hoạt
động này đang đem lại một cơ cấu sản phẩm hiện đại cho các ngân hàng trong điều kiện
hội nhập. Hơn nữa, nhu cầu của khách hàng đối với các giao dịch Options đang có xu
hướng tăng, do vậy ngân hàng nhà nước đã tiến hành gia hạn thí điểm hợp đồng các

nghiệp vụ này.
Quyền chọn USD và VNĐ đáp ứng cho cả nhà nhập khẩu và nhà xuất khẩu trong đó
quyền chọn mua áp dụng cho nhà nhập khẩu và quyền chọn bán áp dụng cho nhà xuất
khẩu. Sau khi NHNN cho phép ACB, Sacombank và Agribank thực hiện quyền chọn
mua bán vàng, ngày 10/12/2004 ACB là ngân hàng đầu tiên công bố triển khai dịch vụ
này. Dịch vụ này được tung ra trong bối cảnh trong nước và quốc tế giá vàng liên tục
tăng, tuy nhiên cũng cần có thời gian để đo lường mức độ đón nhận của thị trường đối
với công cụ này.
Điểm lại nhưng mốc chính xuất hiện của các công cụ phái sinh ở Việt Nam, dễ nhận
thấy rằng nó chưa được thị trường đón nhận như là công cụ không thể thiếu trong phòng
ngừa rủi ro. Thực trạng đó đặt ra nhiều câu hỏi. Phải chăng các doanh nghiệp chưa thực
sự có nhu cầu phòng chống rủi ro? Phải chăng khoảng cách giữa mong muốn phòng ngừa
rủi ro của các doanh nghiệp và các công cụ phái sinh còn quá lớn? Phải chăng sự hiểu
biết của các doanh nghiệp đối với các Công cụ phái sinh, từ đó là những chính sách sử
dụng nó còn yếu kém? Phải chăng điều kiện kinh tế, đặc biệt là sự phát triển ở Việt Nam
còn hạn chế? Phải chăng là việc hạch toán những nghiệp vụ ngoại bảng này còn nhiều bất
cập khiến các ngân hàng còn nhiều lúng túng trong việc triển khai các dịch vụ phái sinh ?
Phải chăng những quy định pháp lý hiện nay còn hạn chế sự hoạt động của các công cụ
phái sinh?
Nếu sử dụng sai mục đích và không được giám sát chặt chẽ, các công cụ phái sinh, từ
chỗ là công cụ phòng chống rủi ro sẽ mang đến những mầm hoạ khôn lường cho nền kinh
tế. Do vậy, để tránh điều đó, chúng ta cần xây dựng những trụ cột cơ bản đảm bảo việc
triển khai các công cụ tài chính phái sinh được bền vững.
Với tình hình hoạt động của thị trường các chứng khoán phái sinh ở Việt Nam thời
gian qua có thể tổng kết được những thành tựu và hạn chế sau:
Nhóm 3 – Lớp 2 – Cao học K26 - TCNH Trang 13
Thị trường Phái sinh ở Việt Nam GVHD: TS. Đinh Bảo Ngọc
- Những thành quả bước đầu:
+ Nhận thức về các công cụ phái sinh và sự vận dụng chúng vào trong hoạt động kinh
doanh ngày càng phổ biến và hiệu quả. Bằng việc đưa các công cụ phái sinh hoán đổi

(swap), kỳ hạn (forward) và quyền lựa chọn (options) vào giao dịch trên thị trường, bước
đầu ngân hàng đã tạo được nhận thức cho khách hàng trong việc vận dụng chúng để phục
vụ cho hoạt động kinh doanh hạn chế rủi ro do biến động tỷ giá. Trên cơ sở những thành
quả đạt được trên thị trường ngoại hối hoạt động giao dịch phái sinh được triển khai sang
lĩnh vực thị trường hàng hóa, cụ thể là sản phẩm cá phê trên thị trường London được
ngân hàng kỹ thương áp dụng, Ngân hàng Á châu thực hiện nghiệp vụ quyền lựa chọn
mua bán vàng.
+ Cung ứng thêm các công cụ tài chính, góp phần làm phong phú và đa dạng sản phẩm
dịch vụ của ngân hàng trên thị trường ngoại hối. Một số ngân hàng năng động, giờ đây
không chỉ tập trung vào những sản phẩm kinh doanh ngân hàng truyền thống mà còn
hướng tới nghiên cứu triển khai các phái sinh hiện đại.
- Những hạn chế:
+ Khối lượng giao dịch còn quá nhỏ so với như cầu thực tế: Các giao dịch kỳ hạn và
giao dịch hoán đổi được triển khai từ năm 1998 đến nay nhưng khối lượng các giao dịch
này ở các ngân hàng thương mại vẫn còn rất ít, vẫn chưa tạo được sự hấp vẫn đối với
khách hàng. Điều này, xuất phát từ những nguyên nhân sau: Tỷ giá giữa USD/VND được
Ngân hàng Nhà nước can thiệp khá ổn định với mục đích hỗ trợ cho xuất khẩu; nhận thức
về các công cụ phái sinh nhưng chưa phổ biến và chưa am hiểu sâu sắc về các công cụ từ
khách hàng; tính hiệu quả kém của thị trường, làm cho các giao dịch phái sinh không
phát huy hết vai trò là công cụ dự trên những biến động ngẫu nhiên của thị trường để hạn
chế rủi ro và tạo ra lợi nhuận; hệ thống thông tin thị trường chưa kịp thời và đầy đủ…
+ Giao dịch phái sinh chủ yếu trên thị trường ngoại hối còn lại trên các thị trường khác
vẫn chưa hình thành hoặc trong giai đoạn phôi thai. Điều này một phần xuất phát từ
nguyên nhân về khung pháp lý điều chỉnh hoạt động giao địch chứng khoán phái sinh
chưa đầy đủ, quyền lợi và trách nhiệm của các chủ thể tham gia chưa được đảm bảo, do
đó chưa tạo được sự quan tâm của các định chế tài chính cũng như các nhà đầu khi tham
Nhóm 3 – Lớp 2 – Cao học K26 - TCNH Trang 14
Thị trường Phái sinh ở Việt Nam GVHD: TS. Đinh Bảo Ngọc
gia trên thị trường chứng khoán, trong vận dụng các biện pháp để hạn chế rủi ro và đầu tư
kiếm lợi.

+ Khung pháp lý điều chỉnh các giao dịch phái sinh trên thị trường chưa được hoàn
thiện. Các giao dịch phái sinh mà các ngân hàng thương mại kinh doanh trên thị trường
ngoại hối, được điều chỉnh bởi các văn bản pháp lý của ngân hàng nhà nước, còn lại trên
các thị trường khác vẫn chưa có văn bản pháp lý nào điều chỉnh hoạt động của các giao
dịch này.
Phần 3: Đề xuất và giải pháp
1. Xét ở góc độ vi mô (Đối với các doanh nghiệp, các tổ chức áp dụng các công cụ
phái sinh)
Nhóm 3 – Lớp 2 – Cao học K26 - TCNH Trang 15
Thị trường Phái sinh ở Việt Nam GVHD: TS. Đinh Bảo Ngọc
Trong thời gian vừa qua, tình hình giá cả biến động khôn lường vượt cả dự đoán củ
các chuyên gia kinh tế. Những bất ổn này càng gia tăng dẫn dến những thay đổi xấu đi
trong kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, Do đó, để hạn chế những tác động xấu của
thị trường, ngoài việc chờ đợi những động thái can thiệp của Chính phủ, các doanh
nghiệp cần phải hướng đến một phương pháp quản lý rủi ro chủ động cho bản thân mình
bằng việc sử dụng các công cụ phái sinh.
- Thứ nhất, Doanh nghiệp cần nắm bắt được cấu trúc của một quá trình quản trị rủi
ro bao gồm:
+ Nhận diện rủi ro: các doanh nghiệp cần nhận diện được mức độ rủi ro mà doanh
nghiệp phải đương đầu thông qua tính toán độ nhạy cảm
+ Phân biệt giữa quản trị rủi ro và đầu co. Các doanh nghiệp phải xác định rõ mình
đang sử dụng công cụ phái sinh để thực hiện quản trị rủi ro chứ không phải đầu cơ vì đầu
cơ sẽ có khả năng tạo thêm những rủi ro mới.
+ Đánh giá chi phí của hoạt động quản trị rủi ro. Chi phí cho hoạt động quản trị rủi ro
đôi khi khiến nhà quản trj lưỡng lự khi quyết định thực hiện quản trị rủi ro vì một số
chiến lược quản trị rủi ro là rất tốn kém. Đây là một trong những lý do chính khi các
doanh nghiệp Việt Nam không muốn sử dụng các công cụ phái sinh để phòng ngừa rủi
ro.
+ Nắm rõ các công cụ quản trị rủi ro. Yếu tố cuối cùng cản trở nhiều nhà quản trị rủi
do doanh nghiệp không thực hiện quản trị rủi ro là việc thiếu hiểu biết các sản phẩm phái

sinh.
+ Thiết lập hệ thống kiểm soát. Việc sử dụng các công cụ phái sinh để quản trị rủi ro
có thể sẽ gặp nhiều nguy hiểm nếu như không có các chuyên gia và một hệ thống kiểm
soát với cơ cấu tổ chức khoa học đảm bảo việc sử dụng chúng một cách hiệu quả
- Thứ hai, cần phải đổi mới tư duy của những người lãnh đạo doanh nghiệp. Tư duy
sợ chịu trách nhiệm khiến cho không ít lãnh đạo doanh nghiệp sợ ra quyết định. Tuy
nhiên, bản chất của các công cụ phái sinh là tối đa hóa lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro nên
dù thị trường có biến động không như dự đoán thì doanh nghiệp vẫn đảm bảo được
nguồn thu của mình. Chính vì vậy, những người lãnh đạo cần dám nghĩ dám làm.
Nhóm 3 – Lớp 2 – Cao học K26 - TCNH Trang 16
Thị trường Phái sinh ở Việt Nam GVHD: TS. Đinh Bảo Ngọc
- Thứ ba, cần công khai và minh bạch hóa thông tin. Cùng với quy mô và tốc độ
phát triển nhanh như hiện nay, các công ty niêm yết đua nhau đưa ra những dự án mới để
thu hút vốn đầu tư. Tuy nhiê, công ty này đưa ra kế hoạc mới chỉ dừng ở việc tính toán
những lợi nhận, tỷ suất sinh lời hấp dẫn mà không cung cấp những thông tin về mức độ
khả thi và năng lực tài chính của công ty. Vi vậy, các doanh nghiệp cần công khai hóa
thông tin kịp thời, đầy đủ, chính xác về các vấn đề như cơ cấu sở hữu công ty, thông tin
về tình hình tài chính và kết quả kinh doanh … bởi công khai và minh bạch thông tin có ý
nghĩa:
+ Là một trong các yếu tố quyết định mức đô hoạt động hiệu quả của thị trường
+ Củng cố niềm tin của các nhà đầu tư và các bên có liên quan thông qua hiểu được cơ
cấu và hoạt động của công ty, các chính sách.
Như vậy, có thể thấy, về phía các doanh nghiệp cũng cần chủ động trong việc tìm đến
các công cụ phòng ngừa rủi ro, bảo đảm lợi ích bản than doanh nghiệp. Đây cũng là điều
kiện giúp cho thị trường phái sinh ở Việt Nam có khả năng phát triển hơn.
2. Xét ở góc độ vĩ mô
Thứ nhất : Quy định về giới hạn và giá mua
Quy định này nhằm khống chế các nhà đầu tư đưa ra những mức giá quá cao hay quá
thấp làm cho thị trường bị xáo trộn hay bị bóp méo. Nói cách khác, đây là những quy
định nhằm kiểm soát (không ngăn cấm) các nhà đầu cơ tác động lên giá cả. Việc kết hợp

các chiến lược phòng ngừa rủi ro trong các quyền chọn tiền tệ là rất phong phú, nó cho
phép các DN Việt Nam kết hợp vừa phòng ngừa (tỷ giá) vừa tiến công khi có cơ hội (đặc
biệt đối với các định chế muốn tìm kiếm lợi nhuận). Dĩ nhiện là mặt trái của quyền chọn
là đầu cơ rất cao. Các nhà đầu cơ có thể đầu cơ giá lên hoặc đầu cơ giá xuống bằng các
quyền chọn mua và bán.
Việc đầu cơ giá trên hợp đồng quyền chọn tiền tệ có thể làm cho tỷ giá biến động vượt
ra khỏi biên độ dự kiến và do đó làm mất niềm tin của các DN và các nhà đầu tư vào hệ
thống tỷ giá mà chúng ta đã hoạch định. Mặc dù vậy, vẫn chưa có những chứng cứ nào
cho thấy việc đầu cơ vào các hợp đồng quyền chọn tiền tệ dẫn tới sự sụp đổ hoặc khủng
hoảng tỷ giá ở các nước trên thế giới. Chế độ tỷ giá phụ thuộc chủ yếu vàọ sự ổn định vĩ
Nhóm 3 – Lớp 2 – Cao học K26 - TCNH Trang 17
Thị trường Phái sinh ở Việt Nam GVHD: TS. Đinh Bảo Ngọc
mô của nền kinh tế quốc gia. Trong những năm qua, Việt Nam được đánh giá rất cao về
chỉ số ổn định kinh tế vĩ mô. Do đó, nỗi lo về tính bất ổn của tỷ giá khi mở rộng biên độ
sẽ giảm đi rất nhiều. Chính vì thế, chúng ta có thể triển khai các quyền chọn có điều kiện
phù hợp với điều kiện các nước như Việt Nam đã từng áp dụng và thành công.
Quyền chọn có điều kiện là một dạng quyền chọn lai tạp giữa các quyền chọn phức tạp
ở các nước phát triển nhưng nó làm giảm nhẹ đi tính đầu cơ để tránh thua lỗ tối đa cho
các nhà đầu tư và thậm chí các nhà đầu cơ có ham muốn sử dụng quyền chọn tiền tệ như
một công cụ kiếm lời. Các quyền chọn tiền tệ có điều kiện đưa ra những quy định về các
mức tỷ giá trần (tối đa) và sàn (tối thiểu). Nếu tỷ giá vượt quá các mức giá này thì quyền
chọn sẽ không còn có giá trị. Những rào cản này sẽ làm nản lòng các nhà đầu cơ và do đó
giảm đi đáng kể tính bất ổn do NHNN mở rộng biên độ dao động tỷ giá. Các khống chế
nêu trên có thể áp dụng cho toàn bộ các hàng hoá và tài sản trên thị trường Việt Nam.
Thứ hai: Yêu cầu về vốn và thế chấp trong giao dịch công cụ tài chính phái sinh.
Kể từ vụ sụp đổ của công ty Enron, các nhà kinh tế đã bắt đầu thảo luận để đặt ra
những qui định về thế chấp tài sản trên các hợp đồng phái sinh. Khi một công ty có
những khó khăn về mặt tài chính hoặc thậm chí đang còn hoạt động rất tốt vẫn phải đưa
ra những khoản thế chấp hay các mức duy trì đặt cọc cao để chắc chắn công công ty sẽ
tuân thủ hợp đồng mỗi khi có những biến động cao trong giá. Mức duy trì có thể là một

khoản tối thiểu mà khi tài khoản ký quỹ giảm xuống một mức nào đó, thì cách tham gia
hợp đồng bổ sung vào.
Trong điều kiện Việt Nam, mức tài khoản ký quỹ và mức duy trì ắt phải là rất cao, có
thể lên tới 30% hợp đồng (so với mức 5% trên các thị trường thế giới). Đối với các nhà
môi giới trên các hợp đồng phái sinh yêu cầu đầu tiên là phải có đủ vốn, mặc dù họ chỉ là
những ngân hàng hoặc các công ty không trực tiếp tham gia vào các giao dịch phái sinh.
Yêu cầu về vốn rất quan trọng, vì chúng giúp cho hệ thống các ngân hàng Việt Nam
giảm bớt những nguy cơ về động cơ sẵn sàng chấp nhận rủi ro để tránh tình trạng mất khả
năng thanh toán của nhà môi giới.
Thứ ba : Yêu cầu bắt buộc về tái phòng ngừa rủi ro trên các thị trường quốc tế
Nhóm 3 – Lớp 2 – Cao học K26 - TCNH Trang 18
Thị trường Phái sinh ở Việt Nam GVHD: TS. Đinh Bảo Ngọc
Yêu cầu này nhằm khống chế và bắt buộc hệ thống ngân hàng thương mại trong nước
không được gánh chịu những rủi ro từ người mua các hợp đồng quyền chọn hoặc kỳ hạn.
Các ngân hàng chỉ là trung gian, đứng ra thu phí giữa người mua trong nước và sau đó
đem bán lại trên thị trường thế giới. Quy định này được áp dụng trong hầu hết các nứơc
phát triển, nhưng trong điều kiện Việt Nam chúng ta bắt buộc các ngân hàng về các giao
dịch này còn hạn chế nhiều, đó là chưa kể đến những yếu kém về vốn trong hệ thống
ngân hàng thương mại.
Ngoài ra, Việt Nam cần xem xét và khẩn trương tham gia vào các thoả thuận giao dịch
hoán đổi theo quy định quốc tế thì mới có đủ điều kiện có thể tham gia ký các hợp đồng
tái bảo hiểm từ các giao dịch phái sinh trong nước.
Thứ tư : Yêu cầu mở cửa thị trường tự do cho tất cả các định chế triển khai các hợp
đồng phái sinh.
Mở cửa thị trường các công cụ tài chính phái sinh, để tránh tình trạng phổ biến hiện
nay là chính phủ chỉ cho phép một số ngân hàng làm thí điểm. Có thể nói “thí điểm” hiện
nay là một căn bệnh của các cơ quan hoạch định chính sách. Trong những trường hợp
như thế, giá trị hợp lý của các hợp đồng phái sinh sẽ chỉ là độc quyền của một số ngân
hàng, và chắc chắn sẽ cao hơn trên thị trường thế giới. Tất cả những bóp méo giá trị các
hợp đồng phái sinh sẽ đẩy sang phía người mua gánh chịu. Tác dụng ngược của các độc

quyền là hoặc sẽ không tồn tại công cụ phòng ngừa rủi ro trên thực tế, do giá phí quá cao
làm nản lòng các nhà đầu tư, hoặc là các nhà đầu tư sẽ càng chấp nhận mạo hiểm cùng
tham gia canh bạc với cái giá phải trả rất cao với hy vọng gỡ gặc lại bằng cách hy vọng
đầu cơ trên những thị trường bất đầu cơ trên không khí bất ổn của giá cả thị trường.
Chính vì thế mà cần xem xét để tạo ra một thị trường tự do, để các định chế tài chính có
đủ các điều kiện có thể cung cấp các sản phẩm phái sinh. Và dĩ nhiên đi liền với đó là
thiết lập khung quản lý chung cho các định chế này.
Thứ năm: Yêu cầu về đăng ký và lập các Báo cáo tài chính.
Đây là một chuẩn mực bắt buộc nhằm làm tăng tính minh bạch cho tất cả thành viên
tham gia thị trường. Tất cả các thành viên tham gia thị trường phái sinh phải hiểu hết về
nhau trước khi tiến hành các giao dịch với nhau Chẳng hạn như một ngân hàng Việt nam
Nhóm 3 – Lớp 2 – Cao học K26 - TCNH Trang 19
Thị trường Phái sinh ở Việt Nam GVHD: TS. Đinh Bảo Ngọc
đồng ý thực hiện một hợp đồng tương lai 1000 lượng vàng với người mua tương lai.
Trong trường hợp này người mua tương lai cần phải có những thông tin rằng hiện nay
ngân hàng Việt Nam hiện đang ký quỹ là bao nhiêu tại một ngân hàng nước ngoài để mua
vàng thế giới bán lại cho ngươi từ trong nước. Nói cách khác, trong cuộc chơi này trong
cuộc chơi này ai cũng phải có thông tin lẫn nhau, để cuộc chơi tăng thêm phần minh bạch
và có lợi cho thị trường giao dịch.
Thứ sáu: Hoàn thiện những quy định tài chính kế toán liên quan, nâng cao tính thanh
khoản của sản phẩm phái sinh.
Hiện nay, các công cụ phái sinh chưa có thị trường giao dịch chính. Các hợp đồng kỳ
hạn và tương lai phải giao dịch trên có sàn nước ngoài như London hay NewYork. Còn
lại là giao dịch qua quầy, nhiều bất lợi đối với tính thanh khoản cũng như các loại rủi ro
tín dụng. Các hợp đồng quyền chọn và hoán đổi được giao dịch trên thị trường ngoại hối
và thị trường tiền tệ. Nói chung, hiện tại chúng vẫn còn thiếu nhiều cơ chế tạo ra các
hành lang đảm bảo các hoạt động được trôi chảy. Tuy nhiên, đi đôi với việc phát triển thị
trường là việc nâng cao chất lượng hàng hoá cho thị trường. Hàng hoá ở đây chính là các
công cụ tài chính phái sinh, từ các công cụ thuần nhất tới các công cụ lai tạp. Và vấn đề
không chỉ nằm ở chỗ đa dạng hoá các sản phẩm, đáp ứng các nhu cầu của thị trường. Cần

chú ý tới chất lượng hàng hoá. Ở đây, chính là tính hợp pháp, tính thanh khoản, khả năng
thích ứng với các loại rủi ro của các công cụ tài chính phái sinh. Do vậy cần hoàn thiện
các đặc trưng kỹ thuật của các công cụ tài chính phái sinh, đáp ứng nhu cầu và mức độ
phát triển của thị trường.
Đối với quyền chọn, các ngân hàng thương mại nên xác lập trong nội dung hợp đồng
quyền chọn quyền được mua ngoại tệ khi doanh nghiệp không thực hiện quyền lựa chọn,
do đối với các doanh nghiệp nhập khẩu của Việt Nam khi thực hiện hợp đồng quyền chọn
ngoài ý nghĩa về phòng ngừa rủi ro tỷ giá hối đoái còn có nhu cầu cần đảm bảo có đủ số
lượng ngoại tệ để thanh toán các hợp đồng nhập khẩu đến hạn.
Nhà nước nên hoàn chỉnh khung pháp lý xác định rõ ràng nghiệp vụ giao dịch hợp
đồng Optionsimages là một nghiệp vụ kinh doanh tài chính mang tính chất phòng ngừa
rủi ro hối đoái của các doanh nghiệp không thuộc các tổ chức tài chính tín dụng, bảo
Nhóm 3 – Lớp 2 – Cao học K26 - TCNH Trang 20
Thị trường Phái sinh ở Việt Nam GVHD: TS. Đinh Bảo Ngọc
hiểm, kinh doanh. Trên cơ sở này, Bộ tài chính xác định phí giao dịch quyền chọn là một
khoản chi phí hợp lý, hợp lệ được tính vào chi phí khi tính vào chi phí khi xác định thu
nhập chịu thuế.
Ngoài ra, đối với các Options chứng khoán, hiện nay chưa được áp dụng triển khai thì
đây là thời điểm chín muồi để triển khai Options chứng khoán vì tốc độ phát triển thời
gian qua khá nhanh, giá tăng – giảm đột biến, do đó nhu cầu về Options càng trở nên cấp
bách. Nếu có công cụ Options, nhà đầu tư không bị hoảng loạn vì gần như họ đã mua
“bảo hiểm” về giá cho các chứng khoán của mình.
Song song với việc triển khai các công cụ tài chính phái sinh thuần nhất, nên có những
tiếp cận đối với các sản phẩm lai tạp. Các sản phẩm quản trị rủi ro lãi suất, tỷ giá, giá cả
và cả rủi ro tín dụng đã xuất hiện trên thị trường Việt Nam. Thời gian tới sẽ vẫn tiếp tục
nâng cao hơn nữa chất lượng của thị trường tài sản cơ cở . Từ đó, sẽ là cơ sở có thể định
giá các sản phẩm phái sinh hiệu quả nhất.
Thứ bảy: Cải tiến các phương pháp quảng bá thông tin về các giao dịch chứng khoán
phái sinh đến khách hàng.
Các định chế tài chính chuyên nghiệp triển khai các giao dịch phái sinh như: ngân

hàng thương mại, công ty chứng khoán, triển khai quảng bá các công cụ phái sinh, nhằm
tạo ra sự nhận thức và hiểu biết cho khách hàng, nhà phát hành và nhà hoạch định chính
sách về công dụng và cách thức sử dụng các công cụ tài chính phái sinh. Để thực hiện
điều này, các ngân hàng cân rút kinh nghiệm và thay đổi cách tiếp thị chào bán các sản
phẩm phái sinh, theo hướng là lựa chọn và huấn luyện kiến thức tiếp thị cho những nhân
viên thật sự am hiểu về sản phẩm để trực tiếp giới thiệu và chào bán cho khách hàng.
Ngoài ra, về lâu dài cần lập ra bộ phận chuyên tư vấn và hỗ trợ cho khách hàng tìm kiếm
thông tin, cách thức sử dụng các công cụ tài chính phái sinh cho cả hai mục tiêu kinh
doanh và hạn chế rủi ro.
Thứ tám: Tăng cường công tác đào tạo nghiên cứu, thông tin tuyên truyền và hợp tác
quốc tế.
Nhân tố con người đóng vai trò then chốt trong mọi hoạt động. Do đó, việc đào tạo
phải đặt lên hàng đầu và được thực hiện thường xuyên. Thị trường chứng khoán nói
Nhóm 3 – Lớp 2 – Cao học K26 - TCNH Trang 21
Thị trường Phái sinh ở Việt Nam GVHD: TS. Đinh Bảo Ngọc
chung và thị trường giao dịch chứng khoán phái sinh nói riêng là lĩnh vực kinh doanh đòi
hỏi phải có kiến thức, trình độ chuyên môn cao, nhưng hiện nay còn quá mới mẻ ở Việt
Nam.
Cho nên, việc đào tạo phải gắng kết với hoạt động mở rộng quan hệ giao lưu hợp tác
quốc tế đào tạo nguồn nhân lực, tư vấn, xây dựng chính sách phát triển và quản lý thị
trường .
Trên đây là một số giải pháp mang tính vĩ mô,. Đó là những công việc mà nhà nước,
chính phủ và các cơ quan liên quan cần có kế hoạch triển khai. Tuy nhiên, để thị trường
ngày càng phát triển bền vững, an toàn và hiệu quả thì cần những nỗ lực của tất cả các
chủ thể kinh tế, các DN, các tổ chức tín dụng ngân hàng, những chủ thể cung cấp và sử
dụng sản phẩm phái sinh. Và vấn đề cốt lõi chính là nhận thức của chính các chủ thể
tham gia trực tiếp chứ không phải là các chủ thể quản lý.
KẾT LUẬN
Có thể khẳng định rằng, thị trường hàng hóa phái sinh có vai trò tích cực trong việc ổn
định giá cả và phòng ngừa vị thề rủi ro đối với các nhà đầu tư, cũng như ổn d9nh5 thu

nhập và tăng vị thế đối với người nông dân. Do đó, việc hình thành và phát triển thị
Nhóm 3 – Lớp 2 – Cao học K26 - TCNH Trang 22
Thị trường Phái sinh ở Việt Nam GVHD: TS. Đinh Bảo Ngọc
trường hàng hóa phái sinh đối với một nước nông nghiệp như Việt Nam là điều hết sức
cần thiết.
Bài việt trên đây đề cập đến một khía cạnh nhỏ trong việc tồn tại và hoạt động của thị
trường hàng hóa phái sinh ở Việt Nam. Đồng thời trong quá trình hoạt động còn những
yếu kém và bất cập, do đó, đi kết kết quả không như mong muốn.
Chính vì vậy, chúng tôi cũng đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao thị trường này
hoạt động một cáh tốt hơn, để phù hợp và hòa nhập chung với xu thế toàn cầu.
Để làm được như vậy, chắc hẳn, với một vị trí như Việt Nam hiện nay, thì cần đòi hỏi
có nhiều hơn nữa những kinh nghiệm chia sẻ từ các nước phát triển và luôn luôn đổi mới
công nghệ thì mới có thể phát triển thị trường hàng hóa phái sinh một cách tốt nhất.
Thành phố Đà Nẵng Tháng 1 năm 2014
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Quản trị rủi ro tài chính – TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang – Trường Đại học
Kinh tế TP.HCM – Nhà xuất bản Thống Kê
Nhóm 3 – Lớp 2 – Cao học K26 - TCNH Trang 23
Thị trường Phái sinh ở Việt Nam GVHD: TS. Đinh Bảo Ngọc
2. Giáo trình Nghiệp vụ Ngân hàng – TS. Nguyễn Minh Kiều – Trường Đại học Kinh tế
TP.HCM – Nhà xuất bản Thống Kê
Thành phố Đà Nẵng Tháng 1 năm 2014
Nhóm 3 – Lớp 2 – Cao học K26 - TCNH Trang 24

×