Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Tiểu luận môn kinh tế lượng vấn đề về Các yếu tố ảnh hưởng đến chi phí học tiếng Anh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.93 KB, 10 trang )

CHƯƠNG1:
LÝ DO LỰA CHỌN ĐỀ TÀI

Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng hơn với thế giới trên các mặt kinh tế,
văn hóa, chính trị… Để hoạt động được hiệu quả trong môi trường quốc tế thì việc
thông thạo ngoại ngữ là một yêu cầu tiên quyết. Các công ty nước ngoài yêu cầu
chứng chỉ ngoại ngữ quốc tế, các công ty trong nước cũng yêu cầu bằng B bằng C.
Ngoại ngữ giờ là thời thượng, là một “mốt” mà ai cũng chạy theo.
Tuy nhiên, chương trình dạy ngoại ngữ trong nhà trường thường không đáp
ứng được nhu cầu ngày càng cao của học sinh sinh viên. Học sinh sinh viên thường
ưa thích lựa chọn các trung tâm ngoại ngữ hơn, vì nó tổ chức chuyên nghiệp hơn, vì
nó đáp ứng được nhu cầu khác nhau của mỗi cá nhân.
Ở Việt Nam, từ khi bước vào thiên niên kỉ mới, nhất là từ khi gia nhập WTO,
các trung tâm ngoại ngữ, các viện ngôn ngữ mọc lên như nấm sau mưa. Các trung
tâm này đến từ Việt Nam, Anh, Mỹ, Úc; dạy nhiều loại ngoại ngữ, trong đó chủ yếu
vẫn là tiếng Anh. Tiếng Anh thì cũng có nhiều chương trình khác nhau như TOEFL,
IELTS, TOEIC… Như vậy có thể thấy có rất nhiều chương trình, khóa học khác
nhau, rất đa dạng để thu hút học viên đến trung tâm. Và các trung tâm rất quan tâm
xem liệu học viên có thể chi trả bao nhiêu tiền cho việc học ngoại ngữ của mình, để
từ đó xây dựng các khóa học, các chương trình khác nhau với các chiến lược giá đa
dạng để thu hút sự quan tâm của học viên ở mỗi trình độ và khả năng tài chính khác
nhau.
Chính vì lí do trên, nhóm kinh tế lượng chúng tôi thực hiện đề tài “Các yếu
tố ảnh hưởng đến chi phí học tiếng Anh”. Đây sẽ là một nguồn cung cấp thông tin
cần thiết cho những trung tâm ngoại ngữ nhận biết được học viên của họ cần gì và
có thể chi bao nhiêu cho việc học tiếng Anh nói riêng và ngoại ngữ nói chung.
1
CHƯƠNG 2:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ LẬP MÔ HÌNH

Đề tài “Các yếu tố ảnh hưởng đến chi tiêu của sinh viên cho việc học anh văn”


được nghiên cứu dựa trên lí thuyết về hành vi tiêu dùng của Philip Kotker.
Lí thuyết này nêu lên và phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi chi tiêu
của người tiêu dùng. Theo đó, có rất nhiều yếu tố chi phối đến hành vi chi tiêu của
người tiêu dùng, nhưng tựu trung lại, chúng được phân vào 2 nhóm chủ yếu: nhóm
các kích tố bên ngoài và nhóm các yếu tố thuộc về đặc tính cá nhân.
Nhóm các kích tố bên ngoài bao gồm các yếu tố kích thích của marketing và
các tác nhân kích thích khác. Các yếu tố kích thích của marketing chính là các hoạt
động của nhà sản xuất hoặc nhà phân phối như các biện pháp hoạch định sản phẩm,
định giá, phân phối và chiêu thị nhằm mục đích thuyết phục khách hàng chi tiền cho
sản phẩm và dịch vụ. Còn các yếu tố khác chính là những yếu tố thuộc môi trường
vĩ mô như luật pháp, tập tục văn hóa…cũng có tác động lớn tới hành vi tiêu dùng
của mỗi người. Các yếu tố này thuộc về môi trường vĩ mô, mang tính khách quan,
nhà sản xuất khó tác động mà chỉ có thể lợi dụng nó để thông qua đó mà tác động
gián tiếp đến khách hàng.
Nhóm các yếu tố đặc tính cá nhân bao gồm 4 nhóm nhỏ khác, đó là nhóm
những yếu tố thuộc về trình độ văn hóa, nhóm những yếu tố mang tính chất nhóm
xã hội, nhóm những yếu tố mang tính chất cá nhân và nhóm những yếu tố mang
tính chất tâm lí. Nhóm những yếu tố thuộc về trình độ văn hóa lại bao gồm những
yếu tố nhỏ hơn, gồm: văn hóa quốc gia, nhánh văn hóa, địa vị xã hội. Nhóm những
yếu tố mang tính chất xã hội như chuẩn mực nhóm xã hội, gia đình, vai trò và địa vị
của cá nhân trong nhóm xã hội. Nhóm những yếu tố mang tính chất cá nhân bao
gồm các yếu tố tuổi tác và giai đoạn của chu trình đời sống gia đình, nghề nghiệp,
tình trạng kinh tế, kiểu nhân cách và quan niệm về bản thân, lối sống. Nhóm những
yếu tố mang tính chất tâm lí bao gồm động cơ, tri giác, lĩnh hội, niềm tin và thái
độ. Những yếu tố này có tác động sâu sắc đến hành vi mua hàng của người tiêu
dùng và rất khó định lượng.
2
Cơ chế mô tả tác động của các yếu tố trên tới hành vi của người tiêu dùng có
thể tóm lại một cách cô đọng như sau:
Giai đoạn 1 – Nảy sinh nhu cầu. Nhóm các kích tố bên ngoài cùng nhóm các

yếu tố thuộc về đặc tính cá nhân làm nảy sinh nơi người tiêu dùng những trạng thái
căng thẳng về mặt sinh lí hoặc tâm lí.
Giai đoạn 2 – Ý thức nhu cầu. Người tiêu dùng dần ý thức được nguyên nhân
dẫn đến các trạng thái căng thẳng đó và phát hiện ra họ cần các công cụ để giải tỏa
căng thẳng. Các công cụ đó thường là hàng hóa và dịch vụ và cầu về các công cụ
này chính là cầu về các sản phẩm và dịch vụ để giải tỏa căng thẳng. Chúng ta vẫn
thường gọi “cầu về các công cụ để giải tỏa căng thẳng” là “cầu về sản phẩm và dịch
vụ của người tiêu dùng”.
Giai đoạn 3 – Giai đoạn tìm kiếm thông tin, đánh giá, đưa ra các quyết định
chi tiêu. Sau khi ý thức được nhu cầu, người tiêu dùng bắt đầu tìm kiếm thông tin
với mục tiêu tìm ra các sản phẩm và dịch vụ phù hợp nhất. Trong giai đoạn này, các
kích tố bên ngoài tiếp tục tác động đến người tiêu dùng hòng định hướng cho sự tìm
kiếm của người tiêu dùng. Nhưng hiệu quả do các kích tố bên ngoài tác động lên
người tiêu dùng mạnh đến đâu thì còn phụ thuộc vào tương tác giữa tính chất của
nhóm các kích tố bên ngoài và tính chất của nhóm các đặc tính cá nhân. Nơi diễn ra
sự tương tác này chính là hộp đen ý thức của người tiêu dùng. Và kết quả của quá
trình tương tác này là quyết định lựa chọn hàng hóa, lựa chọn nhãn hiệu, lựa chọn
nhà kinh doanh, lựa chọn khối lượng mua…của người tiêu dùng.
Áp dụng lí thuyết này để phân tích các yếu tố tác động đến chi tiêu của sinh
viên cho việc học Tiếng anh, ta có một số định hướng quan trọng về các biến độc
lập ảnh hưởng đến chi tiêu cho việc học Tiếng anh như sau:
1. Biến thu nhập của gia đình sinh viên, kí hiệu INCOME. Thu nhập gia đình
càng cao thì sinh viên càng chi tiêu nhiều cho việc học Tiếng anh. Hơn nữa,
tác động của thu nhập tới việc học còn phụ thuộc vào việc sinh viên đó có ý
định đi du học hay không. Xét hai sinh viên có các yếu tố (ngoại trừ yếu tố ý
định du học) giống nhau thì tác động của thu nhập gia đình lên chi tiêu cho
việc học tiếng anh của sinh viên có ý định đi du học rõ ràng sẽ cao hơn mức
chi của sinh viên chưa có ý định đi du học hoặc sinh viên có ý định nhưng
chưa rõ ràng. Đơn vị tính: triệu đồng/tháng
3

2. Biến điểm trung bình phản ánh trình độ, kí hiệu GPA. Điểm trung bình
môn tiếng anh của sinh viên càng cao, chứng tỏ trước kia họ đã chi tiêu
nhiều cho việc học anh văn và kiến thức đă khá vững nên hiện tại họ chủ yếu
tự học nên chi phí cho việc học anh văn sẽ thấp hơn. Đơn vị tính: điểm.
3. Biến thời gian tự học, kí hiệu TIME. Thời gian tự học tiếng anh càng
nhiều thì chi tiêu cho việc học anh văn càng ít. Lí do là những đối tượng tự
học tiếng anh nhiều thường đã qua giai đoạn chi tiêu rất nhiều cho việc học
anh văn trước đó và kiến thức cũng đã khá vững. Hiện tại họ thường tự học
thông qua việc đọc các giáo trình môn học bằng tiếng anh, đọc tin tức bằng
tiếng anh trên báo hoặc mạng, đọc truyện bằng tiếng anh với đa phần nguồn
tài liệu là từ các thư viện. Đơn vị tính: giờ/tuần.
4. Biến ý định đi du học, nhận giá trị 0 nếu sinh viên không có ý định đi du học
hoặc ý định đi du học không chắc chắn, 1 nếu sinh viên có ý định đi du học
chắc chắn.
5. Biến đánh giá của sinh viên về mức độ tiến bộ trong trình độ tiếng anh khi
học trên lớp và tự học, kí hiệu PROGRESS. Sinh viên càng tiến bộ khi tự
học và học trên lớp thì chi tiêu của họ cho việc học tiếng anh càng thấp và
ngược lại. Đơn vị đo lường: thang đo khoảng cấp độ từ 1 đến 5.
6. Biến mức độ tiếp xúc của sinh viên đối với thông tin về các khóa học tiếng
anh, kí hiệu AD. Sinh viên càng tiếp xúc nhiều với thông tin về các trung
tâm dạy ngoại ngữ, về các khóa học, về …thì chi tiêu của họ cho việc học
tiếng anh càng tăng.
Mô hình dự kiến
COST = β
1
+ β
2
(+)
INCOME + β
3(-)

GPA + + β
4(+)
ABROAD
(+)
+ β
5(-)
TIME + β
6(-)
PROGRESS
+ β

7(+)
INCOME.ABROAD

+ β
9(+)
AD

+
4
CHƯƠNG 3 :
ƯỚC LƯỢNG VÀ LỰA CHỌN MÔ HÌNH

1. Ước lượng và kiểm định mô hình:
Dependent Variable: COST
Method: Least Squares
Date: 05/28/09 Time: 17:27
Sample: 1 74
Included observations: 74
Variable Coefficient Std. Error t-Statistic Prob.

C 983.7734 332.8082 2.955977 0.0043
INCOME 0.048451 0.020701 2.340554 0.0223
GPA -70.28259 34.90967 -2.013270 0.0482
ABROAD 19.57599 166.9947 0.117225 0.9070
TIME -36.25477 12.93648 -2.802522 0.0066
PROGRESS 13.34784 39.30052 0.339635 0.7352
INCOME*ABROAD -0.002208 0.028243 -0.078176 0.9379
AD 37.96699 31.00095 1.224704 0.2250
R-squared 0.338230 Mean dependent var 599.8514
Adjusted R-squared 0.268043 S.D. dependent var 389.5550
S.E. of regression 333.2818 Akaike info criterion 14.55766
Sum squared resid 7331066. Schwarz criterion 14.80675
Log likelihood -530.6334 F-statistic 4.818943
Durbin-Watson stat 0.725874 Prob(F-statistic) 0.000200
• R
2
hiệu chỉnh = 0.268  Các biến có ý nghĩa giải thích cho mô hình
ở mức 26.8%
• Kiểm định T-test:
Kiểm định giả thiết các giả thuyết sau:
Ho: β
2
= 0 vs H
1
: β
2
± 0 Nhận thấy Prob. =0.0223< 0.05
 Bác bỏ Ho: β
1
= 0  Biến INCOME có ý nghĩa giải thích ở mức ý

nghĩa 0.05
Tiến hành tương tự ta được kết quả sau:
 Biến GPA có ý nghĩa giải thích ở mức ý nghĩa 0.05
 Biến ABROAD là biến không có ý nghĩa giải thích
Biến TIME là biến có ý nghĩa giải thích ở mức ý nghĩa 0.01
 Biến PROGRESS là biến KHÔNG có ý nghĩa giải thích .
 Biến interaction INCOME*ABROAD không có ý nghĩa giải thích
 Biến AD không có ý nghĩa giải thích
• Kiểm định F-Test (đối với các biến ko có ý nghĩa):
H
0
: β
4
= β
6
= β
7
= β
8
=0; H
1
: Không phải là H
0
5

(1)
< F
0.05
(J,N-K)=F
0.05

(4,66)=2.51
 Không thể bác bỏ H
0
 Nên loại các biến ABROAD, PROGRESS, AD,
INCOME*PROGRESS.
Như vậy, sau khi kiểm định T-test và F-test ta có đủ bằng chứng thống kê để
tiến hành loại các biến ABROAD, PROGRESS, AD, INCOME*PROGRESS ra
khỏi mô hình.
2. Lựa chọn mô hình tối ưu:
Mô hình mới : COST =
1
+
2
INCOME +
3
GPA +
4
TIME
Dependent Variable: COST
Method: Least Squares
Date: 05/22/09 Time: 18:40
Sample: 1 74
Included observations: 74
Variable Coefficient Std. Error t-Statistic Prob.
C 1097.596 288.4602 3.805016 0.0003
GPA -65.39654 34.09266 -1.918200 0.0592
INCOME 0.048856 0.014216 3.436726 0.0010
TIME -34.82243 12.56770 -2.770788 0.0072
R-squared 0.318544 Mean dependent var 599.8514
Adjusted R-squared 0.289339 S.D. dependent var 389.5550

S.E. of regression 328.3976 Akaike info criterion 14.47887
Sum squared resid 7549147. Schwarz criterion 14.60341
Log likelihood -531.7180 F-statistic 10.90710
Durbin-Watson stat 0.619330 Prob(F-statistic) 0.000006
• R
2
hiệu chỉnh = 0.289 (tăng lên gần 2% so với mô hình trước)
 Các biến có ý nghĩa giải thích cho mô hình ở mức 28.9%
• Kiểm định F-test (tính có ý nghĩa của cả mô hình):
Kiểm định giả thiết: Ho: β
2
= β
3
= β
4
=0, H
1:
Không phải H
0
Ta thấy, Prob(F-statistic)= 0.000006, do đó, bác bỏ giả thiết Ho, tức là :
β
1

2
, β
3
không đồng thời bằng 0 hay một cách đồng thời, các biến có ý nghĩa trong
việc giải thích những biến động trong chi phí học tiếng Anh của sinh viên.
Vậy mô hình tối ưu là:
COST = 1097.596 + 0.0488 INCOME – 65.3965 GPA – 34.8234 TIME

1
Giá trị ESS
U
tính được khi chạy mô hình không có biến ABROAD, PROGRESS, AD,
INCOME*PROGRESS
6
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN
Mô hình:
COST = 1097.596 + 0.0488INCOME – 65.3965GPA – 34.8234TIME
1. Ý nghĩa mô hình:
Ta nhận thấy rằng: khi mà các yếu tố khác bằng 0 thì chi phí cho việc học anh
văn là 1.097.596 đồng, hay trong trường hợp này nhu cầu học anh văn của các bạn
sinh viên luôn tồn tại. Ngoài ra,ta có thể tính được tác động chung của các biến thu
nhập, điểm trung bình và thời gian tự học lên chi phí cho việc học anh văn : khi các
biến tăng thêm 1 thì chi phí giảm xấp xỉ 100.000 đồng.
Đồng thời, từ các hệ số của phương trình, ta kỳ vọng rằng khi các biến như GPA
hay TIME (có thể đạt được bằng khả năng của bản thân) có tác động khá lớn đến
chi phí. Cứ mỗi khi ta làm tăng thêm 1 đơn vị GPA hay TIME thì chi phí học anh
văn sẽ có xu hướng giảm xuống (điều này là phù hợp với mong muốn chung của
sinh viên là tiết kiệm chi phí).
Bước tiếp theo chúng ta sẽ xem xét tác động của từng yếu tố lên chi phí cho việc
học anh văn của sinh viên, từ đó để có những quyết định thay đổi các biến số này
theo những mục đích khác nhau đến từ các đối tượng khác nhau.
 Biến INCOME:
Có thể nói trong 3 biến đang xét, thì biến thu nhập gia đình- INCOME là
biến có hệ số nhỏ nhất. Ta nhận thấy rằng, khi thu nhập gia đình tăng thêm 1000
đồng thì cost tăng thêm 48 đồng, tức là khi thu nhập gia đình tăng lên 1 triệu
đồng thì các bạn sẵn sàng bỏ thêm 48000 đồng cho việc học anh văn. Nhìn
chung, tác động của biến số này là khá thấp, bởi vì biến số này không nằm trong
tầm kiểm soát của các bạn sinh viên, do đó, có tác động không đáng kể tới quyết

định chi tiêu cho anh văn của các bạn.
 Biến GPA:
Biến này có tác động lớn nhất đến chi phí. Khi điểm trung bình môn anh văn
ở học kì gần nhất tăng thêm 1, thì chi phí giảm hơn 65000 đồng. Sở dĩ biến này
có tác động lớn như vậy là vì để tăng được GPA lên 1 đơn vị đòi hỏi bản thân
người học phải có sự nỗ lực rất lớn. Và chính vì nhận thấy sự tiến bộ khá rõ rệt
trình độ anh văn của mình (thể hiện qua điểm trung bình) nên các bạn sẵn sàng
giảm chi phí anh văn khá nhiều.
 Biến TIME
Thời gian tự học cũng có tác dụng tương đối quan trọng đến chi phí bỏ ra.
Cứ mỗi giờ tự học được tăng lên trong tuần, cost sẽ giảm 34000 đồng.
2. Kiến nghị giải pháp:
Từ những phân tích như trên, nhóm chúng tôi đưa ra một số đề xuất dự trên mô
hình này như sau:
 Đối với sinh viên:
7
Như các bạn đã thấy, thời gian tự học anh văn ở nhà cũng là một trong những
yếu tố giúp các bạn cắt giảm chi phí học anh văn nói riêng và chi phí nói chung.
Theo mô hình trên nếu như mỗi ngày bạn chỉ dành ra 1 tiếng để học anh văn thì mỗi
tháng bạn sẽ tiết kiệm được 975000 đồng! Do vậy việc tăng cường thời gian tự học
anh văn tại nhà không những giúp bạn nâng cao trình độ anh văn của mình mà còn
giúp các bạn cắt giảm một khoản chi phí đáng kể.
 Đối với các trung tâm anh văn:
Ở đây chúng ta sẽ tập trung vào phân tích biến GPA. Ta nhận thấy rằng khi GPA
tăng lên 1 đơn vị thì cost giảm 65000 đồng. Trong trường hợp này, chúng ta sẽ xét
đối với những sinh viên đã và sẽ đi học tại các trung tâm anh văn.
Khi học viên (là sinh viên) đến học tại trung tâm, và nếu như việc học này có
hiệu quả thì GPA của sinh viên đó sẽ tăng và do đó xu hướng của họ là cắt giảm chi
phí. Và nếu như chi phí cho việc học ở trung tâm không đổi hay thường có xu
hướng tăng lên ở những cấp bậc cao hơn thì có khả năng học viên đó sẽ rời khỏi

trung tâm. Và do đó mà các trung tâm anh văn cần phải có giải pháp để giữ các bạn
lại. Nhóm chúng tôi đưa ra hai gói giải pháp như sau:
• Thứ nhất:
Trung tâm có thể kết hợp với nhà trường, thực hiện chương trình giảm giá
đối với những học viên có tiến bộ (thể hiện qua việc tăng điểm trung bình anh văn)
bởi vì các sinh viên này có xu hướng giảm chi phí cho việc học anh văn. Để làm
được điều này, các trung tâm anh văn có thể tăng số lượng của mỗi lớp học lên vài
em và sau đó dùng số tiền thu được này để tạo ra nguồn kinh phí giảm đều cho các
đối tượng học sinh của lớp. Cũng cần lưu ý thêm rằng, những học sinh có mức độ
tiến bộ và điểm môn học anh văn cao thường không đòi hỏi việc kèm sát sao của
giáo viên đối với học viên nên việc tăng thêm số lượng học viện lên một vài em trên
một lớp là khả thi. Ngoài ra, việc gia tăng số học viên được đào tạo bởi trung tâm sẽ
là cơ sở tốt cho việc PR và marketing trung tâm đến với đông đảo sinh viên hơn.
• Thứ hai:
Theo như quan sát ở trên, chúng ra thấy rằng, khi trình độ càng lên cao, sinh
viên có xu hướng chi tiêu ít hơn cho việc học anh văn của mình. Trong khi đó, các
trung tâm lại có xu hướng tăng dần học phí ở những lớp có cấp bậc cao hơn. Mặc
dù việc làm của các trung tâm là cần thiết và có vẻ hợp lý nhưng nó lại làm giảm
đáng kể số học viên muốn chi tiền cho khóa học lên cao với chi phí còn cao hơn
nữa. Do đó mà chúng tôi đưa ra một số kiến nghị cho các trung tâm anh văn như
sau:
Các trung tâm nên khai xây dựng những khóa học ở cấp độ elementary thật
tốt và yêu cầu học viên trả học phí cao cho những khóa này. Việc này là khả thi bởi
vì ở trình độ thấp thì các học viên rất sẵn lòng trả một mức chi phí cao. Ngoài ra
việc các trung tâm đầu tư kỹ cho khóa học này là việc cần thiết vì đây là giai đoạn
học viên cần xây dựng cho mình phương pháp và nền tảng để học anh văn.
Hơn nữa, nếu trung tâm đã đào tạo cho học viên được phương pháp và nền
tảng tốt ở các lớp trình độ thấp thì khi lên các lớp cao, các giáo viên sẽ không còn
mất quá nhiều công sức cho học viên và cũng có thể gia tăng học viên của một lớp
8

như đã nói trên để tạo ra khả năng giảm học phí cho các lớp trình độ upper
intermediate.
Điều quan trọng là trung tâm phải đủ năng lực và kỹ năng để đưa thông tin
về phương pháp tạo nền căn bản của mình đến với các khách hàng mục tiêu thật đầy
đủ và thuyết phục được các học viên rằng khi học ở trung tâm, với mức trình độ cao
hơn học viên sẽ được giảm giá thay vì tăng giá. Và đây hẳn sẽ là một sự khác biệt
hóa cho những trung tâm tiên phong thực hiện giải pháp này.
.
9
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. TS. Lê Hồng Nhật, Trần thị Trúc Phượng (2007), Tập bài giảng kinh tế
lượng
2. TS. Nguyễn Đình Thọ, Nguyễn Thị Mai Trang (2008), Nguyên Lý
Marketing, NXB ĐHQG TPHCM

×