Tải bản đầy đủ (.pdf) (48 trang)

Khóa luận " Tiếng lóng trên các phương tiện truyền thông hiện nay " pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (356.44 KB, 48 trang )


Khóa luận

Tiếng lóng trên các
phương tiện truyền thông
hiện nay

SV Lê Thị Trúc Hà

MỤC LỤC
DẪN NHẬP.
1. Lý do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
4. Mục đích nghiên cứu.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
6. Đóng góp mới của đề tài
7. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn.
8. Kết cấu khóa luận.
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ SỞ
1.1. Tiếng lóng.
1.1.1. Khái niệm tiếng lóng.
1.1.2. Mối quan hệ giữa tiếng lóng và phương ngữ xã hội
1.1.3. Phân biệt khái niệm tiếng lóng với biệt ngữ, từ nghề nghiệp.
1.2. Phương tiện truyền thông.
1.2.1. Khái niệm truyền thông và truyền thông đại chúng.
1.2.2. Các loại hình phương tiện truyền thông.
TIỂU KẾT
CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM CỦA TIẾNG LÓNG TRÊN CÁC PHƯƠNG
TIỆN TRUYỀN THÔNG (KHẢO SÁT TRÊN CỨ LIỆU BÁO CHÍ).
2.1. Từ ngữ lóng xét về nguồn gốc.


2.1.1. Từ ngữ lóng có nguồn gốc thuần Việt
2.1.2. Từ ngữ lóng có nguồn gốc vay mượn.
2.2. Đặc điểm về cấu tạo.
2.2.1. Cấp thêm nghĩa mới cho từ ngữ trong vốn từ toàn dân.
2.2.2. Biến đổi vỏ ngữ âm
2.2.3. Thêm hoặc bớt âm tiết
2.3. Đặc điểm ngữ nghĩa.
2.3.1. Hiện tượng chuyển nghĩa trong từ ngữ lóng.
2.3.3.Phân biệt hiện tượng đa nghĩa và đồng âm
2.4. Đặc điểm về ngữ dụng.
TIỂU KẾT
CHƯƠNG 3: SỰ VẬN DỤNG TIẾNG LÓNG TRÊN CÁC PHƯƠNG TIỆN
TRUYỀN THÔNG (KHẢO SÁT TRÊN CỨ LIỆU BÁO CHÍ).
3.1. Nguyên nhân của việc sử dụng tiếng lóng trên báo chí
3.2. Đặc điểm sử dụng tiếng lóng trong văn bản báo chí
3.2.1. Tiếng lóng trong các bộ phận văn bản báo chí
3.2.2. Tiếng lóng trong các thể loại văn bản báo chí
3.3. Vai trò của việc sử dụng tiếng lóng trên báo chí
3.3.1. Phản ánh thực tế sử dụng ngôn ngữ trong xã hội
3.3.2. Tăng cường tính biểu cảm
3.3.3. Góp phần vào xu hướng hội thoại hóa ngôn ngữ báo chí
3.4. Vấn đề lạm dụng tiếng lóng và một vài đề xuất
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC




QUY ƯỚC VIẾT TẮT

2! : Tạp chí 2!
HHT : Hoa học trò
KHXH: Khoa học xã hội
NXB : Nhà xuất bản
TTC : Tuổi trẻ cười

CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM CỦA TIẾNG LÓNG TRÊN CÁC PHƯƠNG
TIỆN TRUYỀN THÔNG (KHẢO SÁT TRÊN CỨ LIỆU BÁO CHÍ)
Trong tiếng Anh, "communication" có nghĩa là truyền thông – sự truyền đạt,
thông tin, thông báo, giao tiếp, trao đổi, liên lạc. Còn trong tiếng La–tinh, nó
có nghĩa là cộng đồng. Nội hàm của nó là nội dung, cách thức, con đường,
phương tiện để đạt đến sự hiểu biết lẫn nhau giữa cá nhân và xã hội. Truyền
thông là một quá trình liên tục trao đổi hoặc chia sẻ thông tin, tình cảm, kỹ
năng nhằm tạo sự liên kết lẫn nhau để dẫn tới sự thay đổi trong hành vi và
nhận thức. Nói ngắn gọn, bản chất của truyền thông chính là hoạt động giao
tiếp.
Truyền thông đại chúng được hiểu là những phương thức chuyển tải thông
điệp đến những nhóm đông người. Có nhiều phương tiện truyền thông đại
chúng khác nhau, phổ biến nhất là phát thanh, truyền hình, báo chí và
internet. Trong thời đại bùng nổ thông tin, truyền thông đại chúng có có vai
trò rất quan trọng đối với đời sống xã hội. Cũng vì vậy mà phạm vi nghiên
cứu của đề tài rất rộng, ở đây, chúng tôi chỉ tập trung khảo sát trên lĩnh vực
báo chí, đặc biệt là báo in.
“Báo”, hay gọi đầy đủ là “báo chí” (xuất phát từ hai từ: "báo" – thông
báo và "chí" – giấy), nói một cách khái quát là những xuất bản phẩm định kỳ,
như nhật báo hay tạp chí. Nhưng cũng để chỉ cả các loại hình truyền thông
khác như phát thanh, truyền hình. Định nghĩa này cũng áp dụng được cho
những loại tạp chí liên tục xuất bản trên web (báo điện tử). Có những loại báo
chí sau:
- Báo viết: Thể loại báo chí xuất hiện lâu đời nhất, hình thức thể hiện trên

giấy, có hình ảnh minh họa. Ưu điểm: Tính phổ cập cao, có nội dung sâu,
người đọc có thể nghiên cứu. Nhược điểm: Thông tin chậm, khả năng tương
tác hai chiều (giữa người đọc và người viết) kém. Còn gọi là báo in, báo giấy
hay là báo chữ;
- Báo nói: Thông tin được chuyển tải qua thiết bị thu phát radio bằng
ngôn ngữ. Ra đời từ thế kỷ XIX. Ưu điểm: Thông tin nhanh. Nhược điểm:
không trình bày được các thông tin bằng hình ảnh (phóng sự ảnh) hoặc các
thông tin có hình ảnh minh họa;
- Báo truyền hình: Thông tin được chuyển tải bằng hình ảnh và âm thanh qua
thiết bị đầu cuối là máy phát hình (đài truyền hình) và máy thu hình
(television). Ưu điểm: Thông tin nhanh. Nhược điểm: Khả năng tương tác hai
chiều chưa cao;
- Báo điện tử: Sử dụng giao diện website trên Internet để truyền tải thông tin
bằng bài viết, âm thanh, hình ảnh, các đoạn video gồm cả hình ảnh động và
âm thanh (video clip). Ưu điểm: thông tin cập nhật nhanh, tính tương tác hai
chiều cao. Khuyết điểm: tính phổ cập yếu.
Ngôn ngữ ở mỗi phong cách đều có nét đặc thù, báo chí cũng không phải
ngoại lệ. Tiếng lóng trên báo chí nói riêng và phương tiện truyền thông nói
chung ắt có những đặc trưng riêng biệt cần được tìm hiểu.
2.1. Từ ngữ lóng xét về nguồn gốc
Dựa trên tiêu chí nguồn gốc, ta có thể chia vốn từ của tiếng Việt thành hai lớp
từ cơ bản: từ thuần Việt và từ vay mượn. Tuy nhiên, ranh giới giữa các lớp từ
này là không hoàn toàn rõ ràng. Rất nhiều từ ngoại lai đã gia nhập vào lớp từ
thuần bản ngữ, thậm chí người bản địa cũng không nhận biết được, đặc biệt
là những từ gốc Hán.
2.1.1. Từ ngữ lóng có nguồn gốc thuần Việt
Từ thuần Việt là bộ phận từ vựng cơ bản trong vốn từ tiếng Việt, chỉ tên các
sự vật và các hiện tượng tự nhiên và xã hội.
Về mặt nguồn gốc, cơ sở hình thành của lớp từ thuần Việt là các từ gốc Nam
Á và Tày Thái. Những kết quả nghiên cứu gần đây cho thấy rằng nhiều bộ

phận, nhiều nhóm của lớp từ thuần Việt có những tương ứng, những quan hệ
hết sức phức tạp với nhiều ngôn ngữ hoặc nhóm ngôn ngữ trong vùng.
Từ thuần Việt là lớp từ có lâu đời, người bản ngữ có thể hiểu được ý nghĩa
của chúng mà không gặp bất kì cản trở nào. Trong khi đó, từ ngữ lóng được
xem như một biệt ngữ xã hội. Tức là không phải nhóm xã hội nào cũng dùng
tiếng lóng. Như vậy, để tạo ra nét khu biệt, tiếng lóng phải mang nét nghĩa
khác so với tiếng toàn dân. Những đặc trưng ngữ nghĩa này sẽ được chúng tôi
trình bày ở những mục sau. Ví dụ:
- Album “Rated R”, phát hành sau sự cố tháng 9, là một lời tuyên
bố hùng hồn của Riri rằng cô đã đứng dậy sau vấp ngã bằng cách
hát những ca khúc “đá xéo” Chris Brown (2! số 256, ra ngày
03/04/2012, Rihanna và Chris Brown: Mối quan hệ replay).
Đá xéo: Nói xéo.
- Cách đây không lâu, Call Me Maybe của Carly Rae Jepsen
(“gà” cùng công ty với Justin Bieber) nếu không được anh chàng,
Selena Gomez và Ashley Tisdale thực hiện bản cover nhắng nhít vui
nhộn thì có lẽ tới bây giờ nó vẫn còn là một bài hát vô danh ở
Canada (2! số 281, ra ngày 25/09/2012, Phép màu hay bí mật chiến
lược).
Gà: Cá nhân hoặc tập thể được đào tạo một cách chuyên nghiệp với mục đích
thi đấu với các cá nhân, tập thể khác.
- Các “mọt sách” có thể Đọc online – để xem “nóng”, Tải về – để
dành đọc sau hoặc Mua tặng – để chia sẻ với bạn bè (2! số 288, ra
ngày 13/11/2012, Sinh viên thành lập hội thật kool cùng Galaxy Tab
2).
Nóng: (Sự kiện) có tính thời sự, được nhiều người quan tâm.
Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy từ thuần Việt là lớp từ – ngữ lóng được sử
dụng nhiều nhất trên các phương tiện truyền thông. Đặc biệt là báo chí. Đây
là lớp từ được xem như đơn giản và dễ hiểu. Khi trở thành tiếng lóng, lẽ tất
yếu nó sẽ được gán cho một nghĩa khác với nghĩa gốc của từ. Đôi khi, ta dễ

dàng nhận ra sự tương đồng về mặt hình ảnh (gà: một loại gia cầm quen
thuộc, thường nuôi theo kiểu hộ gia đình, đôi khi được lựa chọn và chăm sóc
một cách đặc biệt để mang đi “đá”), hay đó chỉ là sự tương đồng về mặt âm
thanh (bánh bơ, mũ phớt – bơ phớt).
2.1.2. Từ ngữ lóng có nguồn gốc vay mượn
Toàn cầu hóa đang là vấn đề thời sự không chỉ riêng của quốc gia nào. Toàn
cầu hóa tác động đến mọi mặt của đời sống. Ngôn ngữ không nằm ngoài
phạm vi ấy. Thậm chí, sự tác động của toàn cầu hóa còn mạnh mẽ, trực tiếp
hơn nhiều lĩnh vực khác. Các cộng đồng khác nhau cần có chung một mã
ngôn ngữ để giao tiếp. Chính quá trình sử dụng này đã tác động ngược trở lại
ngôn ngữ của các cộng đồng. Hiện tượng vay mượn vì thế hình thành. Mặt
khác, sự ra đời của hàng loạt khái niệm mới cũng cần được định danh. Cách
nhanh chóng và hiệu quả nhất là vay mượn từ của những ngôn ngữ có sẵn.
Số lượng có thể nhiều ít khác nhau, nhưng hiện nay trên thế giới, không một
ngôn ngữ nào không có những yếu tố vay mượn. Đó có thể là vay mượn các
kết cấu cú pháp, các ngữ cố định, các yếu tố ngữ âm, nhưng chủ yếu là các
đơn vị từ vựng. Cùng với các phương thức nội tại như tạo nghĩa mới cho từ,
cấu tạo từ mới từ các yếu tố thuần Việt, việc vay mượn đã góp phần làm gia
tăng nhanh chóng vốn từ vựng của tiếng Việt.
Tiếng lóng trên các phương tiện truyền thông, ngoài lớp từ thuần Việt còn có
lớp từ vay mượn (từ ngoại lai). Trong từ vựng tiếng Việt, chủ yếu có hai lớp
từ vay mượn: từ vay mượn gốc Hán và lớp từ vay mượn gốc Ấn – Âu (Pháp,
Nga, Anh…). Với lớp từ vay mượn gốc Hán, việc phân loại, xác định một
cách rõ ràng và chính xác tuyệt đối là một điều vô cùng khó khăn. Bởi lớp từ
đó chủ yếu là những từ gốc Hán đã tồn tại trong từ vựng tiếng Việt từ hơn
mười thế kỷ trước. Chúng được Việt hóa rất mạnh, trở nên quá quen thuộc,
gần gũi với người Việt: “chè, buồn, mùa, chìm…” (những từ Hán cổ); trường
hợp những từ Hán – Việt, có thể dễ dàng hơn trong việc phân định chúng với
những từ thuần Việt: “nam, nữ, trọng, khinh, cận, viễn…”. Đối với những từ
vay mượn gốc Ấn- Âu, do thời gian hòa nhập vào từ vựng tiếng Việt muộn

hơn nên chúng chưa được Việt hóa hoàn toàn, dễ nhận thấy nhiều yếu tố
ngoại lai vẫn tồn tại trong bản thân những từ ngữ ấy.
Trong công trình Dẫn luận ngôn ngữ học, Nguyễn Thiện Giáp có viết: “Nếu
không nhìn nhận vấn đề một cách biện chứng và lịch sử thì rất khó xác định
đâu là từ thuần bản ngữ, đâu là từ ngoại lai. Có người cho rằng chỉ có thể gọi
một cách hợp lý từ ngoại lai trong một ngôn ngữ nhất định là những yếu tố đã
thâm nhập sau cái thời kì ít nhiều chính xác đánh dấu một cách quy ước giai
đoạn đầu của ngôn ngữ ấy. Trong thực tế, vấn đề xác định thời gian hình
thành của một ngôn ngữ dân tộc nào đó là rất phức tạp và không phải bao giờ
cũng cho một câu trả lời chắc chắn. Vì vậy, chúng ta vẫn vấp phải cái khó
khăn trong khi phân biệt từ bản ngữ và từ ngoại lai. Nội dung của hai khái
niệm này chỉ có thể xác định một cách tương đối chắc chắn nếu xét chúng
trong những giai đoạn lịch sử cụ thể nhất định. Các giai đoạn phát triển của
một ngôn ngữ kế tiếp lẫn nhau, mỗi giai đoạn bao gồm những yếu tố thuộc ba
loại:
- Những yếu tố cũ, giai đoạn trước để lại;
- Những yếu tố mới du nhập vào từ các ngôn ngữ khác trong giai đoạn ấy;
- Những sản phẩm mới được cấu tạo trên cơ sở những yếu tố cũ và những yếu
tố mới du nhập vào.
Xét trong giai đoạn ấy, những từ thuộc loại một và loại ba có thể được coi từ
bản ngữ, còn những từ thuộc loại hai là những từ ngoại lai. Như vậy, khái
niệm từ ngoại lai và từ bản ngữ được quan niệm một cách biện chứng. Những
từ ngoại lai trong giai đoạn này có thể trở thành từ bản ngữ trong giai đoạn
tiếp theo” [20; 129 – 134].
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi xin nghiên cứu và phân
tích lớp từ vay mượn là “những yếu tố mới du nhập vào các từ và các ngôn
ngữ khác trong giai đoạn ấy” – tức là giai đoạn khoảng mười năm trở lại đây.
Trong đó chia ra thành: Lớp từ ngữ gốc Hán và lớp từ ngữ gốc Ấn – Âu.
2.1.2.1. Lớp từ ngữ lóng có nguồn gốc Hán
Quá trình tiếp xúc lâu dài với tiếng Hán đã để lại trong tiếng Việt một số

lượng lớn từ vay mượn gốc Hán. Các từ gốc Hán khi đi vào tiếng Việt đã
được Việt hóa về âm đọc cho phù hợp với hệ thống ngữ âm của tiếng Việt.
Đó gọi là cách đọc Hán – Việt. Cách đọc này đã được hoàn thiện từ khoảng
thế kỉ X – XI và được sử dụng ổn định cho đến nay. Cách đọc này được áp
dụng đối với những từ ngữ lóng có từ một hình vị gốc Hán trở lên: “kì thị”,
“vệ tinh”, “bí kíp võ lâm”, “phi công”, “biến hình”, “lâm sự”, “cấm
vận”… Ví dụ:
- Bên cạnh đó, các teen cũng hồn nhiên chia sẻ vô số những “bí
kíp võ lâm”, từ đấm đến xoa, từ gia truyền đến hiện đại mà các
chuyên gia cũng mắt chữ O, mồm chữ Y, thán phục sự “sáng tạo”
của các bạn (2! số 256, ra ngày 03/04/2012, Cùng Acnacare xóa tan
nỗi lo về mụn).
Bí kíp võ lâm: Kinh nghiệm, mẹo vặt.
- Ám ảnh về thẩm mỹ của những khu vực “cấm địa” không chỉ là
nỗi lo riêng của cánh con trai (2! số 303, ra ngày 26/02/2013, 1001
kiểu “làm mới” bản thân).
Khu vực cấm địa: Bộ phận sinh dục.
- Tuy nhiên, đáng ngạc nhiên hơn trong chính nghiên cứu này
cũng đã cho thấy, phần lớn các bạn trẻ ngày nay thích làm “chiến
binh bàn phím” chỉ vì muốn thỏa mãn nỗi khát khao được khác biệt,
được nhìn thấy của bản thân (2! số 283, ra ngày 09/10/2012, Cyber
Bully độc ác có khiến bạn khác biệt?).
Chiến binh bàn phím: Người chỉ biết thể hiện bản thân trên các trang mạng,
đối lập hoàn toàn với đời sống thực.
- Tận dụng mọi cơ hội để tạo nhiệt (2! số 288, ra ngày 13/11/2012,
Victoria và tham vọng bành trướng họ nhà Beckham).
Nhiệt: Độ nổi tiếng.
- Khi bạn phát hiện “cục cưng” của bạn đang có một vài “vệ
tinh” theo đuổi, bạn sẽ làm gì? (2! số 258, ra ngày 17/04/2012,
Khám phá khả năng “sát gái” cùng MQ Test)

Vệ tinh: Người để ý, theo đuổi (khác giới).
Theo những thống kê ban đầu của chúng tôi, lớp từ – ngữ lóng là từ Hán –
Việt chiếm tỉ lệ rất ít (4,6% các cứ liệu khảo sát trên báo chí). Nguyên nhân
chủ yếu là do sắc thái trang trọng, nghiêm túc của lớp từ này. Lớp từ Hán –
Việt xuất hiện nhiều trong các lớp từ vựng mang màu sắc văn hóa gọt giũa
hơn là tiếng lóng – vốn được xem như thuộc về phong cách khẩu ngữ.
Các từ ngữ lóng gốc Việt và gốc Hán thường được cấu tạo theo cách chuyển
nghĩa, tạo nghĩa mới khác với nghĩa gốc của từ. Hiếm thấy trường hợp nào
giữ nguyên nghĩa ban đầu.
2.1.2.2. Lớp từ ngữ lóng gốc Ấn- Âu
Lớp từ này chủ yếu có nguồn gốc từ tiếng Pháp và tiếng Anh (xuất hiện khá
nhiều ở dạng phiên âm hoặc nguyên ngữ), chiếm tỉ lệ khoảng 12%. Dựa trên
những cứ liệu đã khảo sát được, đối tượng sử dụng tiếng lóng chủ yếu là giới
trẻ. Họ có xu hướng sử dụng từ vay mượn Anh ở dạng nguyên ngữ. Hiện nay,
khi nói đến hiện trạng lạm dụng từ ngữ nước ngoài là nói đến việc lạm dụng
lớp từ vay mượn có nguồn gốc Ấn – Âu là chủ yếu (đặc biệt là tiếng Anh). Sở
dĩ tiếng Anh trên các văn bản báo chí trở thành lớp từ vay mượn chiếm tỉ lệ
lớn là vì hiện nay tiếng Anh được sử dụng phổ biến như một ngôn ngữ quốc
tế trên toàn thế giới, việc dạy học và sử dụng tiếng Anh cũng đang rất phổ
biến ở Việt Nam. Dưới đây là một vài đoạn văn bản trên các trang báo:
- Sinh nhật Mr/Ms Right, 200 ngày yêu nhau, một năm chung
sống, tất cả đều là những dịp chính đáng để tổ chức một sự kiện bất
ngờ (2! số 256, ra ngày 03/04/2012, Học cách gia tăng tình cảm như
các cặp đôi We Got Married).
- Đến giờ mình vẫn chưa hoàn hồn mỗi khi nhắc đến Ex (2! số
250, ra ngày 21/02/2012, Tình phí: Yêu tình này rất phí).
Cả hai đoạn văn bản trên đều có sử dụng tiếng lóng dưới dạng nguyên
ngữ. Thực chất đa phần những từ lóng dưới dạng nguyên ngữ là để tạo ra nét
sắc thái riêng biệt cho đối tượng sử dụng nó – giới trẻ. “Mr/Ms Right” không
phải cách gọi một nhân vật nào đó với sắc thái trang trọng, nghiêm túc, mà

đơn thuần là cách giới trẻ dùng gọi người yêu, người mình mong muốn được
kết hôn. Ngoài cách sử dụng này, tiếng Việt còn có những cụm từ tương
đương như “Mr/Ms Hoàn Hảo” hay “chân mệnh thiên tử”, “bạch mã hoàng
tử”… “Ex” là một từ xuất hiện khá nhiều trên các phương tiện báo chí. Nó
được rút gọn từ “ex-boyfriend” hoặc “ex-girlfriend”, dùng để chỉ người yêu
cũ. Trong số 49 số báo 2! được khảo sát, gần như số báo nào cũng có xuất
hiện từ này.
Ngoài cách dùng từ nguyên ngữ thì người ta còn phiên âm những từ thông
dụng. Theo dõi hai ví dụ sau:
- Tất bật ôn tập cho kì thi học kì căng thẳng sắp tới và “chạy sô”
cho những buổi chụp hình, vậy mà hot girl Quỳnh Anh Shyn (QAS)
nhà ta vẫn hoàn toàn tự tin để nói không với mụn khi sở hữu làn da
mịn đáng mong ước (2! số 291, ra ngày 04/12/2012, Hot girl Quỳnh
Anh Shyn: “Tớ chẳng hề sợ mụn”).
Từ vựng nói chung, khi đưa vào ngữ cảnh mới có thể nhận biết được các nét
nghĩa. “Sô” (hay show: buổi trình diễn, trình chiếu) cũng vậy, nếu xét riêng
lẻ, đơn thuần là từ vay mượn chứ không phải từ lóng. Tuy nhiên, trong tình
huống này “chạy sô” (làm nhiều việc cùng lúc), vừa tạo màu sắc riêng cho
người sử dụng, vừa mang nét nghĩa mới lạ. Như vậy, chúng ta hoàn toàn có
thể xác định được tính chất “lóng” của từ này.
Hay:
- Hãy hỏi “Bác Gút” ngay để biết tâm cơn bão đang tràn đến đâu
rồi nhé, bắt kịp tâm bão đi nào (2! số 256, ra ngày 03/04/2012, Cảnh
báo: “Cơn bão AXE – The AXE Effect” đổ bộ vào Việt Nam).
Những từ được phiên âm đều là những từ tiếng Anh quen thuộc, được sử
dụng phổ biến với cả hai dạng nguyên ngữ và phiên âm. Sô là show, Gút
chính là Google. Có lẽ mục đích của người viết những bài báo này là mang
lại một màu sắc mới, hài hước, trẻ trung, năng động hơn. Đây cũng có thể
được xem như một biện pháp tu từ của phong cách ngôn ngữ báo chí.
Ngoài ra, tiếng lóng còn có thêm một hình thức sử dụng là viết tắt:

- Trên FB, tôi biết chị từ bao năm nay đã đứng ra thành lập ngôi
nhà tình thương cho các em chó mèo bị bỏ rơi, không những thế, với
từng trường hợp, chị còn làm người “môi giới” cho các em về với
người sẵn sàng nuôi nấng và chăm sóc (2! số 265, ra ngày
05/06/2012, Tình nguyện chiều sâu).
FB: Viết tắt của Facebook – trang mạng xã hội có lượng người dùng
đông nhất hiện nay.
- Có nhiều bạn còn hay thường pm facebook hay mail để nhờ tôi
tư vấn cách làm bánh. (2! số 291, ra ngày 04/12/2012, Cơn sốt “mỹ
bánh”)
PM: Tin nhắn riêng, liên hệ riêng, thường dùng trên các trang mạng xã hội
(viết tắt từ tiếng Anh: Private message).
Thực tế cho thấy, không chỉ người Việt, mà người bản ngữ cũng dùng những
cụm từ viết tắt kiểu này. Như vậy, ta hoàn toàn có thể xếp nó vào hình thức
vay mượn nguyên gốc tiếng nước ngoài. Tương đương với FB hay PM còn
có BFF (Best friends forever), DIY (Do it yourseft), LOL (Laugh out loud),
ILU (I love you), B4 (Before), OMG (Oh my god)… Tuy nhiên, những cụm
này chỉ xuất hiện trên báo 2! và Hoa học trò, còn trên những trang báo như
Tuổi trẻ, Tuổi trẻ cười thì hiếm khi được sử dụng.
Cần chú ý rằng các từ ngữ thuộc lớp từ lóng có tính chất lâm thời, chúng là
một hiện tượng ký sinh vào vốn từ tiếng Việt. Xuất hiện và mất đi, thay đổi
thường xuyên, không ngừng. Bằng chứng là rất nhiều tiếng bồi trước đây rất
hay được sử dụng thì nay đã trở nên lỗi thời, lạc hậu, ít xuất hiện trên các
phương tiện truyền thông. Có thể kể đến các trường hợp sử dụng từ ngữ lóng
theo kiểu tiếng bồi như: No four go (vô tư đi), know die now (biết chết liền),
ugly tiger (xấu hổ), like is afternoon (thích thì chiều), sugar sugar a hero
man (đường đường một đấng anh hùng)…
Hiện tượng sử dụng lớp từ vay mượn của tiếng lóng trên các phương tiện
truyền thông có thể được lý giải qua yếu tố tâm lý lứa tuổi. Đối tượng sử
dụng tiếng lóng trên các phương tiện truyền thông chủ yếu là người trẻ. Khi

sử dụng lớp từ vay mượn gốc Hán, những người trẻ thường hướng tới những
trao đổi nghiêm túc, những cảm xúc chín chắn, trang trọng. Lớp từ tiếng lóng
gốc Hán ít được sử dụng là vì nó không gợi lên cảm giác trẻ trung, phá cách,
những người trẻ tuổi nếu sử dụng lớp từ này nhiều sẽ bị những người cùng
tuổi đánh giá là “ông cụ non”, “sến” theo cách nói hiện nay của giới trẻ.
Ngược lại, với những từ vay mượn gốc Ấn – Âu (chủ yếu là tiếng Anh), khi
sử dụng giới trẻ sẽ chứng tỏ được sự sành điệu, hiện đại và trình độ tiếng Anh
của mình.Từ bệnh sính ngoại ngữ này sẽ dẫn đến hiện tượng nửa Tây nửa ta
trong giao tiếp, trở thành một thói quen khó chữa.
Hiện nay trong tiếng Việt đang có xu thế thay các từ vay mượn chỉ những sự
vật, hiện tượng thông thường trong cuộc sống bằng những từ thuần Việt hoặc
đã được Việt hóa. Không chỉ giới trẻ mới thích vay mượn từ tiếng nước ngoài
mà cả đến những người già – họ cũng muốn dùng từ nước ngoài để chứng tỏ
mình sành điệu và không hề già cả. Điều này chứng tỏ ở những cứ liệu được
khảo sát từ các tờ báo dành cho người trưởng thành như Tuổi trẻ hay Tuổi trẻ
cười.
Tóm lại, từ kết quả trên cho thấy, một bộ phận không nhỏ tiếng lóng trên các
phương tiện truyền thông được xây dựng bởi phương thức vay mượn từ. Báo
chí nói riêng, phương tiện truyền thông nói chung là phương tiện phản ánh
thực tế, sinh động các bước chuyển mình trong ngôn ngữ sinh hoạt. Việc vay
mượn từ vựng trên báo chí cũng là vấn đề vay mượn trong đời sống thực tại.
Khác với việc vay mượn thông thường có tính chất khoa học là quá trình vay
mượn có ý thức thì tiếng lóng trên các phương tiện truyền thông ban đầu là
hình thức khẩu ngữ, rồi đi vào báo chí hoặc các phương tiện khác. Một lý do
khác khiến giới trẻ nói riêng và người Việt nói chung sử dụng từ lóng theo
phương thức vay mượn là do tác động các yếu tố văn hóa, lịch sử, xã hội.
2.2. Đặc điểm về cấu tạo
Vốn là một phương ngữ xã hội – từ dùng riêng cho một nhóm người, tất yếu
vỏ ngữ âm hay nghĩa của tiếng lóng không hoàn toàn trùng với lớp từ toàn
dân. Đó có thể là hình thức biến đổi một phần vỏ ngữ âm hay đơn giản hơn,

là gán cho nó một nghĩa mới dựa trên từ sẵn có.
2.2.1. Cấp thêm nghĩa mới cho từ ngữ trong vốn từ toàn dân
Gán nghĩa mới cho những từ ngữ sẵn có là đặc điểm cấu tạo quan trọng nhất
của tiếng lóng. Trong tổng số 558 từ – ngữ lóng mà chúng tôi khảo sát được,
có đến 359 từ lóng (64,3%) được cấu tạo theo cách này. Cho dù tiếng lóng có
vay mượn từ tiếng nước ngoài, hay có nguồn gốc thuần Việt thì đều nằm
trong vốn từ chung của người bản ngữ, được người bản ngữ xử lý nghĩa gốc,
nghĩa bóng theo cách của mình. Chúng tôi tạm gọi nét nghĩa ấy là “nghĩa
lóng”. Sau đây là một vài ví dụ, nghĩa gốc được chúng tôi tra cứu trong Từ
điển tiếng Việt phổ thông (Viện Ngôn ngữ học, 2010, NXB Phương Đông):
- Nhan nhản trên những trang mạng là cuộc “mưa đá” giữa hai
bờ chiến tuyến ném qua ném lại (2! số 258, ra ngày 17/04/2012,
Chàng Bắp làm cha, bạn nghĩ gì?).
“Mưa đá” được định nghĩa là “mưa có hạt đông cứng thành đá”. Tuy
nhiên người sử dụng gán cho nét nghĩa là những “lời tranh chấp, bình phẩm,
đánh giá, có sắc thái xúc phạm nhau”. Theo lẽ thường, “mưa đá” làm con
người ta đau về thể xác, nghĩa lóng lại là sự tổn thương về mặt tinh thần.
Hay:
- Trong một lần hẹn hò với bạn gái, khi móc ví bạn vô tình làm rớt
1 em “áo mưa” trước mặt cô nàng, bạn sẽ… (2! số 258, ra ngày
17/04/2012, Khám phá khả năng “sát gái” cùng MQ Test).
Từ nét nghĩa “áo bằng loại vải không thấm nước để đi mưa” đến “bao cao
su”, người sử dụng đã liên hệ giữa nét nghĩa che chắn, bảo vệ tránh khỏi một
điều gì không mong muốn.
Giữa nghĩa lóng và nghĩa gốc liên hệ với nhau bởi sự liên tưởng của người sử
dụng. Dựa trên một đặc điểm giống nhau nào đó mà người ta gán cho từ một
nét nghĩa mới. Do vậy, không phải ai cũng hiểu được nghĩa lóng, điều này
bộc lộ đặc trưng hạn chế về phạm vi sử dụng của tiếng lóng.
2.2.2. Biến đổi vỏ ngữ âm
Ngoài việc giữ nguyên vỏ âm thanh của từ, tiếng lóng trên các phương

tiện truyền thông nói riêng và tiếng lóng nói chung có những biến đổi vể mặt
âm đầu, phần vần hoặc thanh điệu. Cụ thể:
2.2.2.1. Biến đổi âm đầu, giữ nguyên phần vần.
Âm đầu là thành tố đứng đầu, có chức năng mở đầu một âm tiết. Các
âm tiết tiếng Việt khi phát âm về mặt cấu âm bao giờ cũng mở đầu bằng một
động tác khép lại, dẫn đến chỗ cản trở không khí hoàn toàn hoặc bộ phận.
Chúng tôi đã khảo sát được 53/558 trường hợp từ – ngữ lóng có biến đổi âm
đầu, tỷ lệ 9,4%. Theo dõi các ví dụ sau:
- Thế là với tư thế của “thằng con zai duy nhất trong nhà”, mình
bắt đầu cãi lại như hùng biện rồi chạy nhanh để tránh bão tố sắp ập
tới (2! số 265, ra ngày 05/06/2012, Thương cho roi, cho vọt, cho
cả…lý do!).
- Tuyệt vời ông mặt giời nhé! Hiếm có ông bố nào hợp làm tư vấn
tình yêu tình báo như ông bố Thần Nông đâu (2! số 265, ra ngày
05/06/2012, Nhà của bạn).
Sự biến đổi ngữ âm này không phải xuất hiện trên mỗi thành tố của từ –
ngữ lóng, mà đôi khi chỉ là một bộ phận nào đó. Cả hai ví dụ trên đều chỉ ra
sự biến đổi âm đầu /-/ thành âm /z-/. “Con zai” /kn
1
zai
1
/ chính là “con
trai” /kn
1
ai
1
/, “giời” /zi
2
/ chính là “trời” /i
2

/. Cơ sở của quá trình
biến âm này là đặc điểm phương ngữ Bắc Bộ. Tuy cùng một kiểu ghi âm –z-
/, nhưng lại có tới hai biến thể chữ viết khác nhau, một bên thuần Việt (gi-),
một bên lại vay mượn con chữ của tiếng nước ngoài (z-).
Một trong số những lớp từ quan trọng của tiếng Việt là từ ngoại lai. Bất kể từ
vay mượn nào, sống trong môi trường giao tiếp của người Việt trong thời
gian dài sẽ có những yếu tố biến đổi cho hợp với người bản ngữ. Không ít
trường hợp biến âm từ có nguồn gốc vay mượn như:
- Mấy ngày qua, clip “15 kiểu học sinh trong lớp học” đang gây
sốt cộng đồng teen, truy cập ngay vào “bác Du” (Youtube) và thử
xem mình là kiểu nào nhé! (HHT số 1004, ra ngày 01/04/2013, 168h
qua: Clip hot)
“Bác Du” /bak
5
zu
1
/ là từ lóng chỉ “web chia sẻ video clip trực tuyến”
– Youtube /`ju:tju:b/. Youtube là một từ có gốc Ấn – Âu, âm tiết lại chứa
đựng những âm vị không tồn tại trong hệ thống âm vị tiếng Việt. Khi được
Việt hóa, tất yếu sẽ có một số âm vị biến đổi. Cụ thể trong trường hợp này,
âm đầu /j-/ được biến đổi thành /z-/. Hai âm này lại gần nhau về cách cấu âm,
biến đổi dựa trên đặc điểm phương ngữ Nam Bộ.
Tiếng lóng có tính chất lâm thời, từng giai đoạn khác nhau lại có những từ
lóng khác nhau. “Tóa” là một từ lóng vừa mới xuất hiện khoảng hai năm trở
lại đây, nhanh chóng phổ biến trong cộng đồng người trẻ. “Tóa” /twa
5
/ chính
là biến âm của “quá” /kwa
5
/. Âm đầu /k-/ được biến đổi thành /t-/. Ban đầu,

nó chỉ được dùng trong khẩu ngữ, khi đạt được một độ ổn định nhất định,
“tóa” đã đi vào những diễn đạt mang màu sắc khẩu ngữ. Xem ví dụ:
- Vừa bước vào Gác Hoa (Attic) Cafe (92/17 Phạm Ngọc Thạch,
P.6, Q.3, Tp.HCM), tôi đã thốt lên: “Thích tóa”. Với không gian ấm
áp, nhẹ nhàng, các chi tiết mỹ thuật được sắp xếp, kỹ lưỡng, chi tiết
và đồng bộ đã tạo nên một khung cảnh đẹp, là nơi lưu giữ những
khoảnh khắc riêng cho bạn (2! số 284, ra ngày 16/10/2012, 100
điểm đến thú vị).
2.2.2.2. Biến đổi phần vần, giữ nguyên âm đầu.
Cấu trúc âm tiết tiếng Việt gồm có hai bậc (âm đầu, vần, thanh điệu), với
năm thành phần (âm đầu, âm đệm, âm chính, âm cuối, thanh điệu). Trong đó
phần vần bao gồm cả âm đệm, âm chính, âm cuối. Tuy nhiên, sự biến đổi âm
tiết chỉ thường thấy đối với âm chính, điều dễ nhận thấy nhất, có đến 51
trường hợp từ – ngữ lóng biến đổi theo cách này. Ví dụ:
- Túm lại là vì 1001 nỗi lo lắng (mà không biết có xảy ra hay
không) cộng thêm tư tưởng “bố mẹ vẫn chu cấp cho mình”, Gà
chẳng có ý định đón lấy cơ hội này (2! số 254, ra ngày 20/03/2012,
Khi cơ hội gõ cửa).
“Túm lại” /tum
5
lai
6
/ chính là biến âm của “tóm lại” /tm
5
lai
6
/. Đây là
sự chuyển đổi của những nguyên âm cùng vị trí, cả hai đều là âm tròn môi,
cùng âm sắc cố định, duy chỉ khác về độ mở của miệng. Nếu nguyên âm /--
/ là một âm vị có độ mở lớn thì /-u-/ lại là âm vị có độ mở nhỏ.

Hay:
- T.O.P (Big Bang) và Se7en “tình củm” trên Strong Heart (2! số
256, ra ngày 03/04/2012, Bản tin Bromance: T.O.P (Big Bang) và
Se7en “tình củm” trên Strong Heart).
Không chỉ có nguyên âm /--/ mà cả nguyên âm /-a-/ cũng được chuyển
thành nguyên âm /-u-/. “Tình củm” /tiŋ
2
kum
4
/ lại chính là biến âm của “tình
cảm” /tiŋ
2
kam
4
/. Cả hai âm vị đều là những nguyên âm dòng sau, âm sắc cố
định, đặc điểm khu biệt giữa hai âm này rất lớn khi khác nhau cả hình dáng
môi và độ mở của miệng. Nguyên âm /-a-/ là một nguyên âm không tròn môi,
có độ mở lớn. Nguyên âm /-u-/ là một nguyên âm có âm sắc tròn môi, có độ
mở nhỏ.
Ngôn ngữ của giới trẻ nói riêng và tiếng lóng nói chung ngày càng có nhiều
biến đổi, thậm chí có những câu chữ chưa từng xuất hiện trước đây, như:
Ai bảo chỉ có “Là con gái mới thật tuyệt”, làm con trai cũng
“toẹt vời” lắm nhé! (HHT số 998, ra ngày 18/02/2013, Là con trai thật
tuyệt).
Cũng giống như “tóa”, “toẹt vời” (tuyệt vời) là từ lóng mới xuất hiện trong
vài năm trở lại đây. Về cơ bản, ngữ âm tiếng Việt chưa có cách ghi âm chính
xác cho “toẹt vời”, trong bài viết này, chúng tôi mạn phép ghi âm dựa trên
cảm nhận chủ quan của cá nhân về âm vị học. “Toẹt vời” /twt
6
vi

2
/ là
biến âm của “tuyệt vời” /twiet
6
vi
2
/. Khác biệt lớn nhất là sự chuyển đổi từ
nguyên âm đôi /-ie-/ sang nguyên âm đơn /--/. Đều là những nguyên âm
dòng trước, không tròn môi, nét khu biệt hai âm vị chính là âm sắc cố định
của /--/ và âm sắc không cố định của /-ie/.
2.2.2.3. Biến đổi thanh điệu
Thanh điệu là đơn vị trải dài trên toàn bộ âm tiết, quyết định độ cao và đường
nét của âm tiết. Đây là một đặc trưng âm học quan trọng, tạo nên sự khác biệt
cơ bản giữa tiếng Việt và các ngôn ngữ Âu châu. Bất kì sự biến đổi dấu thanh
nào cũng mang lại sự thay đổi về nghĩa. Chính vì vậy, biến đổi thanh điệu là
hiện tượng ít xuất hiện trong những cứ liệu mà chúng tôi khảo sát được. Xem
ví dụ:
- Nếu bạn thấy một tên cứ cắm cúi chat chit trên iPhone hay iPad
với vẻ mặt hoặc háo hức chờ đợi, hoặc nhăn nhở biến thái hay bật
cười hô hố thành tiếng luôn thì khả năng tên đó đang tuki với Gà
SimSimi là rất cao (2! số 258, ra ngày 17/04/2012, Phần mềm “tự
kỉ” SimSimi).
“Tuki” /tu
1
ki
1
/ là biến âm của “tự kỉ” /t
6
ki
4

/. Ở đây, chúng tôi không
chú trọng đến việc phân tích sự biến đổi âm chính mà chỉ tập trung vào thanh
điệu. Từ những âm vị có âm vực thấp (bao gồm các thanh huyền (2), hỏi (4),
nặng (6) sang những âm vị có âm vực cao (bao gồm các thanh ngang (1), ngã
(3), sắc (5). Thanh ngang là thanh có âm điệu không gãy đối lập với thanh
hỏi, thanh nặng có âm điệu gãy. Đồng thời, đó cũng là sự chuyển đổi từ thanh
trắc sang thanh bằng.
2.2.3. Thêm hoặc bớt âm tiết
Mỗi âm tiết tiếng Việt đều có vai trò nhất định trong việc cấu tạo từ, thay đổi
bất kì âm tiết nào cũng sẽ thay đổi ý nghĩa của từ. Nếu biến đổi vỏ ngữ âm
chỉ thay đổi một phần của vỏ ngữ âm, thì việc thêm hoặc bớt âm tiết sẽ thay
đổi toàn bộ vỏ âm tiết ấy. Xét ví dụ:
- Hoặc suốt ngày vào Facebook của chàng/nàng comment những
dòng “sến sặc sụa” (2! số 254, ra ngày 20/03/2012, Dành cho
những tình yêu thực sự).
“Sến sặc sụa” là một trong số cụm từ có hiện tượng lặp phụ âm đầu ít
ỏi mà chúng tôi khảo sát được, ý nghĩa của nó không gì khác ngoài nhấn
mạnh ý của sến (ủy mị, yếu đuối). Để tạo ấn tượng kéo dài về mặt âm thanh,
giới trẻ đã khéo léo kết hợp sau “sến” các âm tiết có chung phụ âm đầu /ş-/
mà hoàn toàn không để ý đến vai trò liên kết ngữ nghĩa. Kiểu thêm âm tiết
này rất phổ biến, trở thành một nét đặc trưng riêng của giới trẻ, vừa hài hước,
vừa trẻ trung năng động. Thậm chí nickname hoặc tài khoản các trang mạng
xã hội cũng được đặt theo mô hình này (ví dụ: Trân Trần Trẻ Trung, Tiên
Tưng Tửng, Hà Hâm Hấp…).

×