Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

LUẬN VĂN " Tiểu thuyết uyên ương hồ điệp - Sự gặp gỡ Đông Tây " potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.87 MB, 71 trang )


LUẬN VĂN

Tiểu thuyết uyên ương hồ
điệp - Sự gặp gỡ Đông Tây



Trong suốt gần nửa đầu thế kỷ XX, tiểu thuyết "uyên ương hồ điệp" nói
chung và tiểu thuyết của Từ Chẩm Á nói riêng đã trở thành một món ăn tinh
thần không thể thiếu đối với tầng lớp thị dân Trung Quốc. Như đã đề cập ở
chương hai, sức hấp dẫn của tiểu thuyết "uyên ương hồ điệp" xuất phát từ nội
dung lôi cuốn với những cung bậc, cảm xúc của tình yêu nhưng cũng chứa
đựng đầy đủ những vấn đề chuyển giao của thời đại. Song, nếu chỉ dừng lại ở
đó, tiểu thuyết "uyên ương hồ điệp" thật sự cũng chỉ là “một dòng chảy
ngược” như các nhà văn sau thời kỳ Ngũ Tứ đã kết luận. Vì vốn dĩ, tiểu
thuyết tình yêu đã phổ biến rất nhiều vào thời Minh Thanh, người đọc cũng
đã quá quen với loại tình yêu môn đăng hộ đối, theo một công thức nhất định,
và loại nhân vật không có tâm lý, nghìn người như một,… Điều đó tạo nên
thách thức lớn không chỉ riêng đối với Từ Chẩm Á và các tác gia phái "uyên
ương hồ điệp" mà còn đối với hầu hết các nhà văn Trung Quốc lúc bấy giờ.
Vì vậy, vào năm 1912, sự ra đời của Ngọc lê hồn cùng hậu thân là Tuyết hồng
lệ sử (năm 1914) đã đánh dấu cho sự xuất hiện theo một khuynh hướng sáng
tác mới. Đó là khuynh hướng sáng tác được kết hợp từ nghệ thuật tiểu thuyết
truyền thống Trung Quốc và phương pháp sáng tác phương Tây. Do đó, nếu
nói đến sức hấp dẫn của tiểu thuyết "uyên ương hồ điệp" mà không đề cập nó
dưới góc độ nghệ thuật là một thiếu sót quan trọng. Trong chương này, chúng
tôi sẽ đề cập đến những đổi mới về nghệ thuật trong bốn thiên tiểu thuyết của
Từ Chẩm Á nhưng trọng tâm là tác phẩm Tuyết hồng lệ sử. Vì tác phẩm này
được xem là đỉnh cao nghệ thuật trong tiểu thuyết của ông. Dưới đây, chúng
tôi tiếp cận dưới ba góc độ chính là kết cấu, cốt truyện và đặc biệt là nhân vật


để thấy được sự giao thoa giữa bút pháp truyền thống trong tiểu thuyết Trung
Quốc và phương pháp sáng tác phương Tây.
3.1. Kết cấu
Trong cuộc sống, mọi sự vật tồn tại đều cần có một kết cấu để đảm bảo sự hài
hòa, cân đối. Nhưng không phải tất cả mọi sự vật đều có một kết cấu nhất
định, đặc biệt là trong văn học. Bởi, mặc dù hiện thực cuộc sống rất phong
phú nhưng không đảm bảo mọi ý tưởng đều không trùng lặp. Ngay cả trong
cùng một câu chuyện, cùng một nhân vật, cùng một sự kiện ,… nhưng có
những tác phẩm mãi mãi không bao giờ được biết đến còn có những tác
phẩm lại trở thành bất hủ. Và điều tạo nên sự khác biệt đó chính là nhờ kết
cấu:
Theo Từ điển thuật ngữ văn học bộ mới, kết cấu là: “thuật ngữ chỉ sự sắp xếp,
phân bố các thành phần hình thức nghệ thuật - tức là sự cấu tạo tác phẩm, tùy
theo nội dung và thể tài. Kết cấu gắn kết các yếu tố của hình thức và phối
thuộc chúng với tư tưởng. Các quy luật của kết cấu là kết quả của nhận thức
thẩm mỹ, phản ánh những liên hệ bề sâu của thực tại. Kết cấu có tính nội
dung độc lập; các phương thức và thủ pháp kết cấu sẽ cải biến và đào sâu
hàm nghĩa của cái được mô tả”.[19;715]
Trong Lý luận văn học, kết cấu được xem là “sự tạo thành và liên kết
các bộ phận trong bố cục của tác phẩm, là sự tổ chức, sắp xếp các yếu tố, các
chất liệu tạo thành nội dung của tác phẩm trên cơ sở đời sống khách quan và
theo một chiều hướng tư tưởng nhất định. Vai trò của kết cấu chủ yếu được
khẳng định trong việc thực hiện nhiệm vụ đối với các yếu tố của nội dung tác
phẩm như chủ đề, tư tưởng, tính cách, cốt truyện, các yếu tố ngoài cốt
truyện”.[18; 179]
Có thể thấy, kết cấu là cách một nhà văn sắp xếp, tổ chức các yếu tố nghệ
thuật đơn lẻ, rời rạc trở thành một thể thống nhất mà qua đó nhà văn có thể
chuyển tải cho người đọc những thông điệp của chính bản thân mình về cuộc
sống. Nhưng kết cấu không phải là sự kết nối một cách máy móc giữa các
yếu tố mà là một hình thức nghệ thuật sắp đặt sao cho một tác phẩm vừa

logic, chặt chẽ lại vừa có “vẻ duyên dáng của sự trật tự” (Horax).[19;715]. Và
một tác phẩm văn học có “vẻ duyên dáng của sự trật tự” đó hay không còn
phải phụ thuộc vào tư duy sáng tạo của nhà văn. Vì vậy, khi nghiên cứu một
tác phẩm tự sự, đặc biệt là tiểu thuyết, tìm hiểu kết cấu của tác phẩm giúp
chúng ta nắm bắt được nội dung tác phẩm và ý đồ của nhà văn.
Thông thường, trong các tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc thường được
viết theo lối chương hồi. Vì vậy thường được gọi là tiểu thuyết chương hồi.
Cũng từ đó, kết cấu chương hồi trở thành một phương diện nghệ thuật của
tiểu thuyết chương hồi. Đơn vị của kết cấu chương hồi là các chương (hồi).
Dựa vào dung lượng, tiểu thuyết chương hồi có thể chia làm hai loại chính là
tiểu thuyết chương hồi loại lớn và tiểu thuyết chương hồi loại nhỏ:
Tiểu thuyết chương hồi loại lớn còn được gọi là tiểu thuyết trường thiên.
Những tác phẩm thuộc loại này thường có dung lượng trên 100 chương (hồi),
tiêu biểu có: Tam quốc chí, Thủy hử, Tây du ký, Kim Bình Mai, Hồng lâu
mộng, Chuyện làng nho, Long đồ công án. Các tiểu thuyết này không chỉ có
dung lượng tác phẩm đồ sộ mà còn có số lượng nhân vật rất lớn, sự kiện
nhiều,…
Còn các tiểu thuyết chương hồi loại nhỏ còn được gọi là tiểu thuyết trung
thiên. Loại tiểu thuyết này có dung lượng khoảng 30 chương (hồi) trở lại và
có nội dung không quá lớn, một số lượng nhân vật nhất định. Tiêu biểu cho
loại tiểu thuyết này có tiểu thuyết tài tử giai nhân. Tiểu thuyết tài tử giai nhân
đều có chung một kết cấu theo trình tự phát triển của thời gian, diễn biến từ
đầu đến cuối, trước sau rõ ràng theo một công thức nhất định: 1. Hội ngộ, 2.
Gặp loạn ly tán, 3. Đoàn viên.
Với ưu điểm chặt chẽ, mạch lạc, tạo được tâm lý hồi hộp chờ đợi ở
người đọc khiến truyện càng thêm hấp dẫn,… kết cấu chương hồi đã trở
thành kết cấu truyền thống mang tính bền vững khó có thể thay thế được.
Nhưng những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, một mặt tư duy sáng tác
của các nhà văn ngày càng phát triển để đáp ứng lại nhu cầu của tầng lớp
công chúng mới muốn đọc tiểu thuyết; một mặt chịu ảnh hưởng bởi lối kết

cấu hiện đại phương Tây, nên các phẩm càng về sau càng cố gắng thoát khỏi
kiểu kết cấu chương hồi. Và chũng ta có thể thấy điều đó thông qua các tác
phẩm của Từ Chẩm Á.
Trong các tiểu thuyết chương hồi truyền thống thường chia thành nhiều
hồi, mở đầu mỗi hồi thường có một bài thơ ngắn khái quát nội dung hoặc lời
chuyển tiếp dẫn chuyện. Kết thúc mỗi hồi lại có có một bài thơ nhằm để
thông báo nội dung của hồi tiếp theo để kích thích sự tò mò của người đọc.
Các hồi thường được dừng ở những sự kiện đang phát triển đến cao trào,
người đọc muốn “biết sự việc thế nào xem hồi sau sẽ rõ”.
Còn trong tiểu thuyết "uyên ương hồ điệp", Từ Chẩm Á đã dần thoát
thai kết cấu chương hồi bằng cách chia các tác phẩm của mình thành nhiều
chương thay vì thành từng hồi. Như Ngọc lê hồn và Vợ tôi gồm ba mươi
chương; Giấc mộng nàng lê có dung lượng nhỏ hơn, chỉ có mười hai chương.
Riêng mở đầu Giấc mộng nàng Lê có lời đề từ của tác giả giống với tiểu
thuyết truyền thống:
“Mưa gió cành xuân lụy chứa chan,
Hoa tươi, ái ngại đóa hoa tàn.
Hồng nhan bạc mệnh âu là thế,
Khối hận nghìn thu dập khó tan.”[6;1]
Trong Ngọc lê hồn mỗi chương Từ Chẩm Á có đặt nhan đề để người đọc dễ
dàng nắm bắt được nội dung của từng chương và quá trình phát triển của câu
chuyện: Chương thứ nhất: Chôn hoa; Chương thứ hai: Khóc đêm; Chương
thứ ba: Dạy trẻ; Chương thứ tư: Duyên văn; Chương thứ năm: Tin xuân;
Chương thứ sáu: Vắng bạn; Chương thứ bảy: Quá say; Chương thứ tám:
Tặng lan; Chương thứ chín: Đề ảnh; Chương thứ mười: Nợ tình; Chương thứ
mười một: Sóng lòng; Chương thứ mười hai: Tình địch; Chương thứ mười
ba: Thuốc tâm; Chương thứ mười bốn: Ép duyên; Chương thứ mười năm: Xa
nhớ; Chương thứ mười sáu: Hội đèn; Chương thứ mười bảy: Vận đen;
Chương thứ mười tám: Khóc đôi; Chương thứ mười chín: Lòng thu; Chương
thứ hai mươi: Mộng dư; Chương thứ hai mươi mốt: Cầu hôn; Chương thứ hai

mươi hai: Tiếng đàn; Chương thứ hai mươi ba: Rứt tình; Chương thứ hai
mươi bốn: Mực máu; Chương thứ hai mươi năm: Tin ốm; Chương thứ hai
mươi sáu: Hóa duyên; Chương thứ hai mươi bảy: Nỗi riêng; Chương thứ hai
mươi tám: Đoạn trường; Chương thứ hai mươi chín: Nhật ký; Chương thứ ba
mươi: Qua thăm.
Nếu trong tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, do tuân theo lớp kết cấu văn
bản chia tác phẩm thành từng chương (hồi) các sự kiện, chi tiết trong tác
phẩm sẽ được nhà văn sắp xếp thứ tự từ trước đến sau theo thời gian tuyến
tính. Mở đầu tác phẩm, tác giả sẽ tường thuật xuất thân, lý do, hoàn cảnh gặp
gỡ giữa các nhân vật. Sau đó mới phát triển tiếp câu chuyện. Còn trong các
tác phẩm của mình, Từ Chẩm Á thường bắt đầu từ cao trào của tác phẩm.
Trong Vợ tôi, Từ Chẩm Á mở đầu bằng một cuộc chia tay đẫm lệ giữa một
đôi nam nữ:
“Đêm khuya canh tàn, khí trời lạnh lẽo, một đôi khả liên trùng
kia đang cùng nhau ti tỉ khóc than, bốn bề im lặng, chỉ có tiếng giun
kêu ở trong đám cỏ là lẫn với tiếng rên rỉ ấy mà thôi. Cái đêm hôm ấy
đêm gì, thật là một cảnh ma kêu quỉ khóc, thê thảm không biết dường
nào! Mà chị Nguyệt đa tình kia, vẫn còn quanh quẩn, hình như muốn
chụp cái ảnh hai người quyết biệt với nhau lần cuối cùng ấy.”[5;5]
Đây là cách mở đầu câu chuyện mà trước đó chưa có nhà văn Trung Quốc
nào thể hiện. Ngay cả Hồng lâu mộng, tác phẩm được xem là đỉnh cao của
tiểu thuyết Minh Thanh, cũng chịu ảnh hưởng phần nào từ phương pháp sáng
tác phương Tây nhưng vẫn có kết cấu từ trước đến sau rất trình tự và đầy đủ.
So với cách mở đầu trong tiểu thuyết truyền thống là ngay từ đầu đã cung cấp
hết những thông tin của nhân vật, cách mở đầu câu chuyện của Từ Chẩm Á
đã đem lại sự tò mò, mơ hồ cho người đọc. Từ đó, khiến người đọc không thể
không liên tiếp đặt những câu hỏi: Đôi khả liên trùng kia là ai? Họ có quan hệ
như thế nào? Vì sao lại phải chia tay? Cuộc tình của họ rồi sẽ đi về đâu?
Những câu hỏi như thế cứ thôi thúc, lôi cuốn người đọc từ trang này đến
trang khác để tìm cho mình câu trả lời.

Hay trong Giấc mộng nàng Lê, mở đầu tác phẩm là hình ảnh một gái mặc
chiếc áo rách đứng trong một túp nhà tranh chờ đợi cha mình trở về khiến
người đọc không thể nắm bắt được nội dung câu chuyện như thế nào và
muốn biết được thực hư, nguyên nhân ra sao thì bắt buộc họ phải theo dõi
tiếp câu chuyện:
“Trong túp nhà tranh kia có một người con gái mặc chiếc áo rách vá trăm
mụn, đứng trước cửa ngẩn ngơ như có nghĩ ngợi gì. Hồi lâu mặt trời vá đỉnh
non tây, các nông phu già trẻ đã vác gầu cuốc gánh cày bừa mà trở về, lần
lượt đi qua cửa ngoài, người con gái mới cất cái tiếng run rẩy mà gọi rằng:
Anh Ba ơi, anh có thấy cha tôi đâu không?” [6;1]
Đặc biệt, ở Ngọc lê hồn, Từ Chẩm Á lại đưa tình tiết Mộng Hà đang
chôn hoa trông thấy bóng một người thiếu phụ áo trắng:
“Trông thấy ở dưới gốc cây lê, một người con gái áo trắng quần là, dung
nhan yểu điệu, dạng bộ đoan trang, đầu không phấn điểm son tô, cũng đã
tưởng tượng như một người tiên nữ. Bây giờ đương lúc trăng trong như nước,
đêm sáng như ngày, cuối mắt đầu mày, trông rõ mồn một, người đó chăng?
hoa hiện hịnh đó chăng? Mái đầu tơ rối, giọt lệ mưa rào, cơn cớ chi đây, tựa
bên cây khóc lóc.” [3;11].
Khung cảnh mờ ảo cộng thêm những câu hỏi dồn dập ngay chính người
kể đặt ra đã tác động vào trong suy nghĩ của người đọc. Người phụ nữ áo
trắng đó là ai? Là người hay hoa? Đây là thực hay mộng? Từ đó, những câu
hỏi này cứ kích thích người đọc phải đi tìm câu trả lời. Để rồi khi những thắc
mắc đã tìm được lời đáp, người đọc sẽ khó mà quên được hình bóng người
phụ nữ đáng thương ấy.
Mặc dù trong tiểu thuyết Vợ tôi và Giấc mộng nàng Lê, Từ Chẩm Á đã
có những nỗ lực nhất định nhưng vẫn chưa thoát khỏi những khuôn mẫu của
kết cấu truyền thống mà phải đến Ngọc lê hồn, kết cấu tuyến tính mới dần bị
phá vỡ và thay vào đó là những dấu hiệu đầu tiên của kết cấu phi tuyến tính.
Bởi, tuy trong hai tác phẩm Vợ tôi, Giấc mộng nàng Lê, Từ Chẩm Á đã khéo
léo đảo trình sự thời gian, sự kiện lên đầu tác phẩm để kích thích trí tò mò

của người đọc, song, sự cách tân cũng chỉ dừng lại đó. Trong Ngọc lê hồn,
câu chuyện không chỉ mở đầu bằng chi tiết chôn hoa tạo sự hấp dẫn thu hút
người đọc mà đến hai chương cuối, khi Lê Nương chết, quá trình phát triển
của câu chuyện tạm dừng và thay vào đó là lời tự bạch của ký giả về mối
quan hệ giữa mình và nhân vật Mộng Hà. Sau đó, người ký giả mới tiếp tục
kể về số phận của nhân vật Mộng Hà và Quân Thiến thông qua lời kể của
một người bạn của ký giả là Hoàng Mỗ và quyển sách nhỏ đề tên Tuyết hồng
lệ thảo.
“Tôi cùng Mộng Hà vốn không quen biết gì cả, việc này là nhờ được một
người bạn truyền thuật cho nghe. Người ấy cùng Mộng Hà có tình bạn hữu
không cần phải nói nữa rồi, và có thể quyết là một người đối với cuốn truyện
này có quan hệ (…) Mùa đông năm Canh tuất (1910), tôi từ Ngô môn về quê
thấy trên án có một phong thư, xem ra thì thư từ của Thạch Si gửi đến. Ngoài
phong thư lại có một gói giấy, mở ra xem thì là một mớ tài liệu rất tốt cho
một thiên tiểu thuyết ái tình. Bức thư thì là lai lịch của cuốn Ngọc lê
hồn”.[3;203, 204].
Ngọc lê hồn không còn lối kết cấu thời gian đơn tuyến như trước, thay
vào đó là một thời gian tâm lí và không gian hồi tưởng của nhân vật ký giả.
Vì vậy, trong Ngọc lê hồn, người đọc có thể thấy được hai câu chuyện đồng
thời được kể lại song song với nhau: một là cuộc câu chuyện về bức thư của
Thạch Si, cuộc gặp gỡ giữa Hoàng Mỗ và người ký giả, cùng chuyến đi của
Thạch Si và ký giả đến nhà Quân Thiến; hai là chuyện tình giữa Mộng Hà và
Lê Nương. Nhờ lối kể chuyện này mà câu chuyện dường như thật hơn, người
người đọc càng tò mò hơn, hồi hộp theo dõi diễn biến câu chuyện hơn.
Đến Tuyết hồng lệ sử, tuy cùng một nội dung với Ngọc lê hồn nhưng
người đọc không hề cảm thấy nhàm chán vì Từ Chẩm Á đã tái tạo tác phẩm
bằng một kết cấu khác. Đó là kết cấu theo hình thức nhật ký được mô phỏng
theo Trà hoa nữ, một tiểu thuyết tình cảm của nhà văn Pháp Alexandre
Dumas (1824 -1895).
Tiểu thuyết Trà hoa nữ là câu chuyện kể về mối tình giữa nàng kỹ nữ

Marguerite và chàng trai quý tộc Duval. Nhưng trong Trà hoa nữ, câu chuyện
không kể từ trước đến sau mà được kể lại khi Marguerite đã chết. Trước khi
chết Marguerite viết thư cho Duval và nhắn chàng hãy đến tìm lại cuốn nhật
ký mà chàng đã từng tặng cho nàng. Duval nhận được thư và chàng tìm mọi
cách để mua lại cuốn sách mà chàng đã tặng Marguerite và gặp Julie Duprat
để lấy cuốn nhật ký Marguerite đã gửi cho chàng trước khi chết. Tất cả những
kỷ niệm trong câu chuyện tình giữa Marguerite và Duval hiện về bên trong
cuốn nhật ký ấy. Và sau đó Duval kể lại cho nhân vật “tôi” nghe câu chuyện
tình của mình và Marguerite:
“Dù sao đi nữa, tôi phải kể anh nghe câu chuyện này, anh sẽ viết thành sách,
có thể chẳng ai tin, nhưng viết nó ra chắc cũng thú vị lắm.
- Anh sẽ kể tôi nghe sau, anh bạn ạ, tôi nói, hiện giờ anh
chưa bình phục lắm.
- Đêm thật ấm áp, tôi vừa ăn miếng gà luộc, anh mỉm cười
nói, tôi không bị sốt, chúng ta lại rảnh rang tôi sẽ kể hết anh
nghe.
- Bởi anh đã nhất quyết rồi, tôi xin nghe đây.
- Câu chuyện thật bình thường, anh nói thêm, tôi chỉ kể
theo thứ tự những sự việc đã xảy ra. Nếu sau này, anh có ý
định làm gì, cứ trọn quyền sắp xếp!
Sau đây là những gì anh kể, tôi chỉ thay đổi vài chữ trong câu chuyện cảm
động này.” [11; 69].
Trong Trà hoa nữ, thời gian hiện tại (khi Marguerite đã chết) và thời gian
quá khứ (khi Marguerite còn sống) đan xen lẫn lộn không theo một trình tự
thời gian nhất định nào cả:
“Đến đây, Armand dừng lại.
Nhờ anh đóng giùm cửa sổ, tôi bắt đầu thấy lạnh, anh nói. Trong lúc đó tôi sẽ
nằm nghỉ.
Tôi đóng cửa sổ lại Armand còn rất yếu, cởi bỏ bộ áo ngủ ngả mình trên
giường, tựa đầu trên gối trong giây lát như một người mệt mỏi sau chuyến đi

dài hay xao động vì những kỷ niệm buồn đau. “Có lẽ vì anh nói nhiều quá,
hay là tôi về để cho anh ngủ? tôi nói - Lúc khác, anh sẽ kể tôi nghe đoạn cuối
câu chuyện.
Bộ anh chán rồi à?
Không đâu.
Vậy thì tôi sẽ tiếp tục kể, nếu anh bỏ tôi một mình tôi cũng không ngủ được.
Khi về nhà, - anh kể tiếp, không cần phải suy tưởng nhiều, vì mọi tình tiết
vẫn còn biểu hiện trong tâm trí - tôi không ngủ, mà cứ nghĩ ngợi về chuyện
tình cờ vừa qua. Gặp gỡ, giới thiệu rồi hứa hẹn của Marguerite, mọi việc xảy
ra quá nhanh, ngoài mong ước đến nỗi lúc tôi cứ ngỡ là trong mơ. Tuy nhiên,
đây đâu phải là lần đầu tiên một người đàn bà như Marguerite hò hẹn với một
gã đàn ông, ngay hôm sau, ngày hắn ta tỏ tình.” [11; 119, 120].
Mô phỏng Trà hoa nữ, trong Tuyết hồng lệ sử, những diễn biến cuộc
đời và số phận của các nhân Mộng Hà, Lê Ảnh, Quân Thiến được chính
Mộng Hà kể lại từ tháng giêng năm Kỷ Dậu đến tháng bảy năm Canh Tuất.
Tháng giêng là thời điểm bắt đầu của cuốn nhật ký, trong phần này, nhân vật
Mộng Hà đã tự giới thiệu về mình, hoàn cảnh gia đình và lý do đến làng Loa
thôn:
“Tháng giêng (năm Kỷ Dậu 1909)
Hôm nay là ngày tết nguyên đán. Từ khi tôi ra đời đến nay, đã trải tết nguyên
đán này đã hai mươi ba lần rồi, bóng xuân như mũi tên bay, mà tôi thì như
cái cung, tên bay đi mà cung vẫn ở lại, im phắc như tờ. Năm thì một ngày
một mới mà người thì một ngày một cũ đi, mòn mỏi thông minh hết quách
rồi, còn đời ngây dại bán cho ai…”[4;13].
Đến tháng hai, Mộng Hà kể lại chuyến đi cùng người bạn là Tử Xuân đến
làng Loa thôn và nhận làm gia sư cho cậu bé Bằng lang, cháu nội của gia
đình họ Thôi:
“Tháng hai
Tôi cũng bác Tử Xuân xuống đò.
Lênh đênh một chiếc thuyền bồng,

Khối tình ly biệt tấm lòng xót thương.
Sông xuân nổi sóng đoạn trường,
Con đường danh lợi là đường phong ba
Trong khi ngồi thuyền tôi kể chuyện gia tình, Tử Xuân cũng có ý ái ngại mà
khuyên giải tôi ,…”[4;16]
Câu chuyện cứ thế tiếp tục, mỗi tháng Mộng Hà lại viết nhật ký một lần để
viết lại những việc xảy ra trong tháng đó: từ việc Mộng Hà chôn hoa nhìn
thấy Lê Ảnh (tháng hai dư); Mộng Hà vì bị Lê Nương cự tuyệt rồi uống rượu
mà sinh bệnh (tháng ba); Mộng Hà đưa học trò đi chơi trường học Nga hồ và
thề kiếp này không lấy được Lê Ảnh thì cũng không chung tình với ai (tháng
tư); Quân Thiến từ trường Nga hồ trở về, Lê Nương ép Mộng Hà cầu thân với
Quân Thiến (tháng năm); Đến tháng Chạp, tức là sau gần một năm Mộng
Hà đến làm gia sư cho nhà họ Thôi, Mộng Hà trở về quê, Lê Nương đổ bệnh
nặng:
“Tháng chạp
Năm đã sắp hết, mẹ tôi gửi giấy sang giục về, rồi tôi theo lệ nhà trường sát
hạch học trò, bận mất mấy ngày. Hôm nay công việc đã xong, định đến sáng
mai thì về. Mà Thạch Si thì chắc sắp đến áp tết mới về, tôi không thể đợi
được, mà Lê Ảnh cũng không dám lưu luyến.”[4;129]
Từ đó trở đi, suốt sáu tháng liền, Mộng Hà không viết nhật ký nên. Sau khi
Quân Thiến chết vào ngày 17 tháng 6 năm Canh tuất, Mộng Hà mới viết tiếp
nhật ký để kể lại cái chết của Lê Nương và Quân Thiến:
“Từ tháng giêng cho đến tháng sáu năm canh tuất
Bước sang năm nay, tôi chưa chép nhật ký, đến bây giờ đã là tháng bảy rồi.
Trong cuộc đoạn tràng ấy, rút lại chỉ có một năm rưỡi mà trong hồi nửa năm
sau, những việc mắt trông thấy lại càng như gió cuốn mây bay, phút chốc đã
tan tành hết cả.”[4;132].
Kết cấu dưới hình thức nhật ký, câu chuyện sẽ được kể từ điểm nhìn
ngôi thứ nhất của chính nhân vật Mộng Hà nên thế giới nội tâm, tâm trạng và
suy nghĩ của nhân vật hiện lên một cách trung thực và tự nhiên. Bởi vì, nhật

ký là những ghi chép về hiện tại, với những sự kiện xảy ra từng ngày, từng
tháng và có giá trị riêng tư nên tạo cho người đọc sự tin tưởng về tính chân
thực của câu chuyện.Và những đặc trưng cũng như tác dụng của hình thức
nhật ký sẽ được chúng tôi đề cập sâu hơn trong phần nghệ thuật miêu tả tâm
lý nhân vật.
Bên cạnh sự thay đổi trật tự các sự kiện, chi tiết trong tác phẩm, tiểu
thuyết của Từ Chẩm Á còn thay đổi kết thúc đòan viên. Trong tiểu thuyết
truyền thống, kết thúc người con trai thường đạt được công danh trở về,
người con gái thường chung thủy đợi chờ chứ nhất quyết không chịu lấy ai,
đặc biệt ở một số tác phẩm kết thúc nhiều nhân vật nữ cùng lấy một người.
Theo Trần Đình Sử: “Kết thúc đoàn viên thể hiện nhân sinh quan lạc quan
của người phương Đông, thể hiện vũ trụ quan tin vào Thần Phật phù hộ, thể
hiện quan niệm nghệ thuật phương Đông là thích chữ hòa, lấy cái điền viên
để xoa dịu mọi bi kịch của cuộc đời.” [26; 203]. So với kiểu kết thúc có hậu
này, Từ Chẩm Á đã mang lại sức sống mới chân thực hơn cho các tác phẩm
của mình bằng những kết thúc không có hậu, theo hướng bi lụy, đau buồn để
từ đó tạo sự ám ảnh, suy tư cho người đọc.
Tuy kết cấu tuyến tính đã trở thành kết cấu điển hình cho sự toàn vẹn, khuôn
mẫu. Thế nhưng, văn học đã sang một trang mới, kết cấu an toàn này không
còn mang lại cho người đọc sự thích thú và lôi cuốn như thuở ban đầu. Vì
vậy, các nhà văn cận đại mà tiểu biểu là Từ Chẩm Á đã nỗ lực cách tân kết
cấu chương hồi trong tiểu thuyết truyền thống. Và trong quá trình vận động,
kết cấu của những tiểu thuyết trong giai đoạn này dần dần thoát ly những yếu
tố truyền thống và hướng đến những biểu hiện của kết cấu hiện đại. Với kết
cấu hiện đại, nhà văn sẽ tạo những dấu ấn độc đáo, mới mẻ cho tác phẩm và
khiến tác phẩm lôi cuốn người đọc hơn. Đồng thời, vai trò của người đọc
càng được nâng cao hơn. Bởi vì, người đọc không còn là kẻ thụ động mà trở
thành người đi khám phá những quy luật sáng tạo của nhà văn thông qua tác
phẩm bằng sức tưởng tượng và sự trải nghiệm của riêng mỗi người. Đây
chính là một trong những hiểu hiện của loại kết cấu hiện đại theo khuynh

hướng sáng tác phương Tây.
3.2. Cốt truyện
Bên cạnh kết cấu, một trong những phương diện nghệ thuật đầu tiên để xây
dựng cũng như đánh giá sự hấp dẫn của một tác phẩm chính là cốt truyện.
Nếu kết cấu là cách tổ chức, sắp xếp các chi tiết, sự kiện thì cốt truyện là:
“một hệ thống các tình tiết, sự kiện, biến cố phản ánh những diễn biến của
cuộc sống và nhất là các xung đột xã hội một cách nghệ thuật, qua đó các
nhân vật, các tính cách hình thành và phát triển trong những mối quan hệ qua
lại của chúng nhằm làm sáng tỏ chủ đề và tư tưởng tác phẩm.” [16;172].
Trong văn học cổ điển Trung Quốc, với kết cấu sự kiện đơn tuyến, cốt truyện
có một vị trí quan trọng trong việc sắp xếp tổ chức chuỗi sự kiện mạch lạc,
chặt chẽ và đúng như theo Từ điển thuật ngữ Văn học, “một cốt truyện chuẩn
mực phải mang đầy đủ năm thành phần: trình bày - khai đoạn (thắt nút) - phát
triển - đỉnh điểm (cao trào) và kết thúc (mở nút).” [19;325]. Mặc dù trong
thực tế không phải tác phẩm nào cũng đầy đủ năm thành phần này, nhưng
đây là tiêu chí chung để xác định cốt truyện của một tác phẩm văn học.
Trong tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, đặc biệt là tiểu thuyết tài tử giai nhân,
cốt truyện có vai trò đặc biệt quan trọng. Bởi, tiểu thuyết tài tử giai nhân thời
Minh Thanh tuy đã có những nét mới nhưng nghệ thuật xây dựng nhân vật
còn bị hạn chế, hầu như các tác giả chưa quan tâm đến việc miêu tả tâm lý
nhân vật. Vì vậy, cốt truyện đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc bộc lộ
và quyết định tính cách, số phận nhân vật. Hơn nữa với kết cấu tuyến tính,
người đọc sẽ có cảm giác dàn trải về thời gian và rất nhàm chán. Nếu không
có những sự kiện, những xung đột tạo sự thử thách sẽ không đem lại cảm
giác mới mẻ và lôi cuốn họ.
Tiểu thuyết tài tử giai nhân thời Minh Thanh có cốt truyện khá rõ ràng đầy đủ
năm thành phần. Câu chuyện thường bắt đầu bằng sự gặp gỡ tình cờ của đôi
tài tử giai nhân trong một khung cảnh thiên nhiên trữ tình và tươi đẹp. Và
trong lần gặp gỡ đầu tiên, đôi tài tử giai nhân lập tức nảy sinh tình cảm với
nhau. Sau khi gặp gỡ, đính ước, tai biến ập đến, đôi lứa yêu nhau bị chia rẽ vì

nhiều lí do: Kẻ tiểu nhân phá rối, có người cậy quyền thế muốn ép duyên, do
gia đình ngăn cản, hoàn cảnh loạn lạc. Nhưng bằng tình yêu chung thủy, đôi
tài tử giai nhân đã vượt qua những trắc trở, gian nan do kẻ gian hãm hại và
những ràng buộc khắt khe của lễ giáo phong kiến để được đoàn viên.
Thông thường, cốt truyện truyền thống luôn gắn với hai loại nhân vật chính
diện và phản diện. Bởi, sự phát triển của hành động, của tiến trình các sự kiện
thường xuất phát từ mâu thuẫn giữa hai loại nhân vật này. Và những biến cố
trong cuộc đời nhân vật chính thường do nhân vật phản diện gây ra, hay có
nghĩa là nhân vật phản diện đóng vai trò thử thách nhân vật chính.
Trong Giấc mộng nàng Lê, cốt truyện vẫn dựa trên những sự kiện, biến động
từ bên ngoài và có vai trò quyết định cuộc đời nhân vật. Bắt đầu từ khi người
mẹ kế của Lê Vân trộm hết tiền của bỏ trốn cùng nhân tình nên cha nàng phải
bán nàng làm thị tì cho nhà họ Húc. Sau khi đến nhà họ Húc, Lê Vân được
Húc phu nhân thương tình lại được Huệ Xuân yêu mến cho làm thị tỳ của
Huệ Xuân. Trong nhà họ Húc ngoài Huệ Xuân ra còn có một người con trai
trưởng tên là Kiếm Hoa, và người cháu ruột của Húc phu nhân tên là Giát
Phu. Ngay lần đầu gặp gỡ Lê Vân, Kiếm Hoa và Giát Phu đều nảy sinh tình
cảm. Nhưng vì Huệ Xuân vốn thầm yêu Giát Phu từ lâu nên tìm cách đuổi Lê
Vân đi. Còn Giát Phu đến kinh làm thư ký. Nhưng vì quá thương nhớ Lê Vân
mà chán nản việc đời, theo nghề kép hát. Bất ngờ trong một lần diễn vở Tử
Tư sang Ngô, chàng gặp lại Lê Vân. Nhưng vì lời hứa với Huệ Xuân nên Lê
Vân lại tiếp tục bỏ đi đến Thượng Hải. Không may đến Thượng Hải, Lê Vân
gặp lại Chu thị, mẹ kế của mình. Nàng bị Chu thị lừa nhốt vào nhà thổ để
phục vụ khách làng chơi. Về phần Giát Phu, sau khi nhận được tin Huệ Xuân
ốm nặng, lập tức trở về. Nhưng ngờ đâu, Huệ Xuân ân hận vì đã đuổi Lê Vân
đi và muốn Giát Phu tìm Lê Vân trở về. Giát Phu nghe theo lời Huệ Xuân
đến Thượng Hải giải cứu được Lê Vân. Nhưng khi trở về, Huệ Xuân cũng
trút hơi tàn. Sau đó Lê Vân và Giát Phu kết hôn với nhau. Nhưng về lễ nghĩa,
Lê Vân vẫn xem mình là thứ, xem Huệ Xuân là chính. Còn Kiếm Hoa nhìn
tấm gương Huệ Xuân mà sợ ái tình, quyết định đi du học.

Cốt truyện của Vợ tôi cũng tương tự cốt truyện của Giấc mộng nàng Lê,
được xây dựng trên cơ sở những xung đột, sự kiện. Những sự kiện này cứ
xâu chuỗi, thúc đẩy nhân vật hành động và câu chuyện phát triển cho đến khi
tác phẩm kết thúc.
Cha Thu Tinh xưa vốn làm quan thanh liêm nên gia cảnh khốn khó. May
được cha nàng Ngọc Tiêm cứu giúp và cưu mang. Khi còn nhỏ, hai bên gia
đình đã đính ước cho Thu Tinh và Ngọc Tiêm. Nhưng sau đó cha của chàng
Thu Tinh mất, chàng phải sống nương nhờ vào gia đình Ngọc Tiêm. Vì gia
cảnh bần hàn, không có tương lai, lại thêm bị người cậu của nàng Ngọc Tiêm
là Tiết Tử Hành đem lòng thù hận bày kế phá hôn ước của chàng Thu Tinh và
đem bán nàng Ngọc Tiêm cho Kim Trường Nguyên.
Sau khi nàng Ngọc Tiêm kết hôn cùng Kim Trường Nguyên, chàng Thu Tinh
theo người cùng làng tên Trần Đại Lang lên Thượng Hải. Tại đây, Thu Tinh
gặp Tống Ngọc Khanh. Vốn khi xưa cha của Tống Ngọc Khanh mang ơn cha
của Thu Tinh nên trước khi mất để lại di chúc phải tìm gia đình Thu Tinh để
đền ơn. Thu Tinh được Tống Ngọc Khanh rủ về nhà mình ở Cáp Nhĩ Tân
sống và cho chàng mượn vốn làm ăn. Trong vòng hai năm, Thu Tinh đã trở
thành thương gia giàu có. Tống Ngọc Khanh lúc này mới đem bức chúc thư
của cha mình để lại đưa cho Thu Tinh, ý muốn gả em mình là Tâm Sử cho
Thu Tinh. Nhưng Thu Tinh một mực từ chối và nói mình đã có vợ rồi.
Một lần Thu Tinh nằm mơ thấy Ngọc Tiêm nằm trong quan lại nhà họ Kim
rồi đau buồn mà sinh bệnh. Nhờ có Tâm Sử hết lòng chăm sóc mà Thu Tinh
thoát chết. Ngọc Khanh nhân đó rủ Thu Tinh đến Trường Xuân chơi. Tại đây,
Thu Tinh gặp và giải cứu cho nàng Uyển Phương. Uyển Phương vốn là vợ
của Tiết Tử Hành, nhưng vì đánh bạc thua mà bán cho Kim Trường Nguyên
làm lẽ. Sau khi Kim Trường Nguyên chết, Uyển Phương và Ngọc Tiêm được
trở về nhà họ Tần. Nhưng Tần Vọng Vân bị bệnh nặng, muốn tìm lại Thu
Tinh nên Uyển Phương tự nguyện mang thư của Ngọc Tiêm đi tìm chàng.
Không ngờ nàng lại bị bán vào lầu xanh, may nhờ Thu Tinh chuộc cứu.
Khi nhận được thư của Ngọc Tiêm, lập tức trở về. Lúc này, bệnh Tần Vọng

Vân đã đến hồi nguy kịch. Tần Vọng Vân muốn gả người con gái thứ hai là
Minh Hà cho Thu Tinh để chuộc lỗi lầm nhưng Thu Tinh nhất quyết không
đồng ý. Cuối cùng để Thu Tinh chấp nhận kết hôn cùng Minh Hà, Ngọc Tiêm
quyết tâm đổ bệnh mà chết. Sau Thu Tinh nghe theo lời trăn trối của Ngọc
Tiêm kết hôn cùng Minh Hà và có hai con trai nhưng cuối cùng chàng để lại
lá thư và bỏ đi.
Trong Giấc mộng nàng Lê, Vợ tôi, ngoài những yếu tố mới do sự thay đổi của
thời đại như số lượng những mâu thuẫn, xung đột từ bên ngoài giảm dần, một
số yếu tố miêu tả tâm lý bắt đầu xuất hiện thì cốt truyện vẫn đầy đủ những
yếu tồ cần thiết của cốt truyện truyền thống. Tức là cốt truyện được xây dựng
chủ yếu trên các đột biến của tiến trình sự kiện, trong đó mọi quyết định,
hành động của nhân vật có vai trò chủ yếu.
Khác với Giấc mộng nàng Lê, Vợ tôi, trong cốt truyện của Ngọc lê hồn,
những mâu thuẫn, xung đột bên ngoài ngày càng trở nên thiếu vắng và thay
vào đó những mâu thuẫn bên trong nhân vật được Từ Chẩm Á đặt lên hàng
đầu. Vì vậy, sự kiện trong Ngọc lê hồn không nhiều và không đóng vai trò
quan trọng trong việc quyết định số phận của nhân vật, mà tác giả bắt đầu chú
trọng vào việc miêu tả trạng thái tâm lý nhân vật, miêu tả thiên nhiên trữ tình
nhiều hơn. Cốt truyện Ngọc lê hồn có thể chia thành các phần chính như sau:
Hà Mộng Hà do gia cảnh khó khăn nhận lời mời về dạy ở một trường tiểu
học do Tần Thạch Si, một người tân học rất có danh giá lập ra. Rồi cũng
trong dịp này, Mộng Hà được cụ Thôi mời về dạy cho thằng cháu mới lên
tám tuổi tên là Bằng Lang. Bằng Lang sớm mồ côi cha, ở với ông nội và
người mẹ góa trẻ tuổi tên là Bạch Lê Ảnh. Tình thầy trò khăng khít giữa
Mộng Hà và Bằng Lăng khiến Lê Nương vô cùng cảm kích.
Vào một hôm Lê Ảnh đang ngoạn cảnh trong vườn thì bắt gặp “lê hoa hương
trũng” (mồ thơm hoa lê) do Mộng Hà vì thương hoa mà đem chôn, đắp lên
phần mộ. Lê Ảnh trông thấy mộ hoa mà thương phận mình, nhân đấy lại càng
cảm thông Mộng Hà. Thông qua trung gian bé Bằng Lang, Mộng Hà và Lê
Ảnh trao đổi thư từ rồi nảy sinh tình yêu.

Sau khi hai người thổ lộ tình cảm với nhau, Lê Ảnh lại sợ chuyện tỉnh cảm
hai người sẽ ảnh hưởng đến tương lai của Mộng Hà nên ngỏ ý muốn chàng
kết hôn với em chồng mình là Quân Thiếu. Mộng Hà một mực không chấp
nhận chia tay, thề nếu không lấy được Lê Ảnh thì trọn đời không lấy ai. Lê
Ảnh ốm càng ngày càng nặng, thêm vào đó mỗi tình giữa hai người lại bị
thầy giáo Lý, người dạy chung trường với Mộng Hà phát hiện. Vì vậy, Mộng
Hà đành phải nhượng bộ, chiều theo ý nàng kết hôn cùng Quân Thiếu, một cô
học sinh trường nữ học.
Mộng Hà dù đồng ý kết hôn với Quân Thiếu nhưng vẫn thầm yêu Lê Ảnh
còn Quân Thiếu thì hoàn toàn không biết gì về mối tình thầm vụng giữa hai
người. Để chấm dứt với Mộng Hà, Lê Ảnh gửi cho chàng một cái khăn bọc
một tập thơ, một nắm tóc và một lá thư đoạn tuyệt. Mộng Hà xem xong tờ
giấy gục đầu xuống gối xếp, nước mắt chứa chan. Sau đó ngóc đầu dậy lấy tờ
giấy trắng, rồi cắn đầu ngón tay lấy máu viết thư phản đối quyết định của Lê
Ảnh.
Nhận được huyết thư, Lê Ảnh quyết định mình phải chết để Mộng Hà có thể
quên hẳn nàng và dành tình cảm cho Quân Thiếu. Khi Mộng Hà về thăm nhà,
Lê Ảnh bệnh nằm liệt giường. Mặc cho Quân Thiếu hết lòng chăm sóc, nàng
từ chối thuốc thang rồi ho ra máu mà chết. Lê Ảnh chết để lại hai chúc thư
cho Quân Thiếu và Mộng Hà. Quân Thiếu nhân đọc được bức di thư của Lê
Ảnh mà biết được mối tình của chị dâu và Mộng Hà. Quân Thiếu bị chấn
động mạnh, ngã bệnh rồi cũng chọn cái chết như Lê Ảnh và để lại cho Mộng
Hà một tập nhật ký. Sau khi đọc được nhật ký của Quân Thiếu, Mộng Hà mới
hiểu lý do vì sao nàng chọn cái chết. Theo như ước nguyện của Lê Ảnh,
Mộng Hà sang Nhật lưu học để về phục vụ đất nước. Khi khởi nghĩa Vũ
Xương nổ ra, Mộng Hà ném bút tòng quân, xông pha chiến địa, rồi tử trận
với tập Tuyết hồng lệ thảo bao gồm thư từ, xướng họa giữa nàng và Lê
Nương luôn mang trong mình.
Theo như các phần diễn biến trên, có thể thấy trong Ngọc lê hồn, những
sự kiện từ bên ngoài tác động vào sự phát triển của câu chuyện và tính cách

nhân vật rất ít mà cơ sở của truyện chủ yếu là những thay đổi trong tâm lý,
nhận thức của nhân vật. Bởi trong Ngọc lê hồn cốt truyện thường được xen
kẽ bằng những đoạn miêu tả nội tâm nhân vật, những bức thư và bài thơ đối
đáp giữa Mộng Hà và Lê Nương. Nhờ những đoạn miêu tả tâm lý, những bức
thư và bài thơ mà đời sống bên trong nhân vật Mộng Hà, Lê Nương, đều
được hiện lên sắc nét: từ những biểu hiện, những thay đổi trong tâm hồn nhân
vật vào lần đầu gặp gỡ, cảm giác hạnh phúc khi tìm được người tình tri âm tri
kỷ, đau đớn khi bị khước từ hay dằn vặt vì những hậu quả do mình gây ra,…
Cốt truyện cứ thế đi sâu vào từng sự kiện bên trong, những gì diễn ra mãnh
liệt nhất, dữ dội nhất trong tâm hồn nhân vật. Và do đó, cốt truyện của Ngọc
lê hồn không đơn thuần là hàng loạt hành động được sắp xếp theo một trình
tự nhất định mà nó đi sâu vào mâu thuẫn bên trong nhiều hơn.
Từ Ngọc lê hồn, cốt truyện truyền thống đã bắt đầu suy yếu về sự kiện, tình
tiết ly kỳ và thay vào đó là phương thức miêu tả tâm lý. Nhưng đến Tuyết
hồng lệ sử, do tính chất của thể loại nhật ký, cốt truyện lại càng trở nên mờ
nhạt và đóng vai trò thứ yếu trong tác phẩm. Ngọc lê hồn được người ký giả
viết lại dựa trên lời kể của người bạn Mộng Hà là Thạch Si nên chủ yếu là kể.
Còn Tuyết hồng lệ sử là tiểu thuyết được viết dựa trên tập nhật ký của Mộng
Hà, nên so với Ngọc lê hồn, những đoạn miêu tả tâm lý, những bức thư thể
hiện tâm trạng của nhân vật trong Tuyết hồng lệ sử có mật độ dày đặc hơn.
Chúng ta có thể dễ dàng nhận ra điều đó thông qua trích đoạn tiêu biểu từ
trang 24 đến trang 30. Trong trích đoạn này, Mộng Hà chủ yếu tâm kể lại tâm
trạng của mình và thuật lại nội dung hai bức thư mà Mộng Hà và Lê Nương
đã gửi cho nhau:
Trang 24-25
“Thưa rằng:
Mộng Hà chẳng may mười năm xấu số, ba tháng lìa nhà: gió sớm trăng
khuya, vườn đào chốn cũ, sông xuân nước biếc, đất khách con thuyền, song
khi đến may gặp cụ lại có lòng yêu, đón về ở đây để trong nom sự học cho
cháu, tôi cũng biết cái lòng đãi khách hậu lắm, không biết lấy gì mà báo đền

được…”
“Mộng Hà kính thư”.
Trang 25 - 28
“Thưa rằng:
Bức thư đưa sang, bóng đèn hoa mắt. Thắp hương đọc khắp lời văn châu báu
để xui người thương cảm lắm. Bể trần mông mênh, buồng xuân lạnh lẽo, hãy
còn có người nghĩ đến kẻ bạc mệnh này nữa ư! Thế thì Lê Ảnh may lắm,
nhưng chính là sự rất không may cho Lê Ảnh, Lê Ảnh không ra gì, lọt lòng
mẹ, đã đeo ngay khối sầu ra; biết chữ chi trưng phô tài cho con Tạo ghét…”
“Lê Ảnh kính thư”.
Bên cạnh đó, thơ ca trong Tuyết hồng lệ sử không phải chỉ là để giữ nhịp thư
thái cho giọng truyện nữa mà trở thành một công cụ đắc lực, gắn chặt với cốt
truyện, để từ đó, ngòi bút của tác giả đã khám phá sâu hơn vào tâm hồn, vào
thế giới tình cảm của nhân vật với những khát khao, đau khổ, dằn vặt giữa
nhu cầu và đạo đức, giữa tình yêu và bổn phận:
Trang 24:
“Gặp nhau duyên nợ ba sinh.
Đố ai ngoảnh mặt làm thinh cho đành.
Thư này mình lại than mình,
Thử đưa cho khách hữu tình xem sao!”
Trang 25:
“Gặp nhau duyên nợ lần này,
Trăm năm cũng gọi một ngày tương tri
Thương ôi một khối tình si.
Trừ câu thơ nữa lấy gì cho nhau?
Nghì thu còn lúc bạch đầu,
Thư đi, từ lại với nhau là tình!”
Trang 27:

×