Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

Vài nét về chương trình hỗ trợ lãi suất 2009 của chính phủ và tác động của nó đến các doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (243.24 KB, 44 trang )

Tiểu luận Tài chính – Tiền tệ

MỤC LỤC
MỤC LỤC.............................................................................................1
Phần I: MỞ ĐẦU...................................................................................2
Phần II: NỘI DUNG..............................................................................4
I. Lãi suất – công cụ hiệu quả điều tiết nền kinh tế............................4
1. Lý thuyết chung về lãi suất..........................................................4
2. Ảnh hưởng của lãi suất đến hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp....................................................................................6
II. Chương trình hỗ trợ lãi suất của Việt Nam....................................8
1. Bối cảnh thực hiện: khủng hoảng kinh tế vĩ mô Việt Nam và thế
giới (cuối năm 2008)........................................................................8
a. Tình hình thế giới......................................................................8
b. Tình hình Việt Nam..................................................................9
2. Nội dung chương trình hỗ trợ lãi suất........................................11
a. Hỗ trợ vay vốn ngắn hạn.........................................................12
b. Hỗ trợ vay vốn trung và dài hạn.............................................12
3. Tình hình giải ngân của chương trình hỗ trợ lãi suất 6 tháng đầu
năm 2009........................................................................................14
Bảng: Tiến độ giải ngân gói kích cầu từ tháng 03 tới tháng 06
năm 2009..................................................................................14
III. Tác động của chương trình hỗ trợ lãi suất tới hoạt động sản xuất
kinh doanh.........................................................................................17
1. Tác động tích cực.......................................................................17
2. Tác động tiêu cực.......................................................................19

Nguyễn Ngọc Phương Huyền
Phạm Văn Tuấn

Stt: 33


Stt: 38

- Trang 1 -

Lớp: Anh 5 - K46C
Khoa: Kinh tế đối ngoại


Tiểu luận Tài chính – Tiền tệ

IV. Đánh giá chung về chương trình hỗ trợ lãi suất và một số giải
pháp đề xuất......................................................................................21
1. Đánh giá chương trình hỗ trợ lãi suất........................................21
a. Ưu điểm...................................................................................21
b. Nhược điểm............................................................................22
2. Một số giải pháp đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả của chương
trình................................................................................................24
Đối với các ngân hàng thương mại:.........................................25
Đối với các doanh nghiệp:.......................................................25
Đối với các cơ quan quản lý vĩ mô:.........................................26
Phần III: KẾT LUẬN..........................................................................27
Danh mục tài liệu tham khảo:..............................................................28

Nguyễn Ngọc Phương Huyền
Phạm Văn Tuấn

Stt: 33
Stt: 38

- Trang 2 -


Lớp: Anh 5 - K46C
Khoa: Kinh tế đối ngoại


Tiểu luận Tài chính – Tiền tệ

Phần I: MỞ ĐẦU
Lãi suất là một phạm trù kinh tế quan trọng và phức tạp, diễn biến
của lãi suất có ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định của các chủ thể kinh
tế về đầu tư, chi tiêu, tiết kiệm… Về phía nhà nước, nhà nước sử dụng
lãi suất làm cơng cụ của chính sách tiền tệ nhằm điều chỉnh thị trường
và các quan hệ kinh tế nhằm mục tiêu tăng trưởng và phát triển. Còn
đối với các doanh nghiệp, lãi suất - đặc biệt là lãi suất tín dụng ngân
hàng lại có ảnh hưởng mạnh mẽ đến các hoạt động sản xuất kinh
doanh của họ. Như vậy có thể nói, các chính sách vĩ mơ thơng qua việc
điều chỉnh lãi suất của Chính phủ có tác động mạnh mẽ đến sự phát
triển của các doanh nghiệp.
Trong thời gian vừa qua, cuộc khủng hoảng kinh tế- tài chính bắt
đầu bằng khủng hoảng tài chính Hoa Kỳ 2007 và lan rộng trên phạm vi
toàn thế giới trong 2008-2009 đã ảnh hưởng tiêu cực, gây ra suy thoái
kinh tế ở nhiều nơi và tăng trưởng chậm ở hầu hết các nước khác. Hệ
thống tài chính Việt Nam mặc dù chưa hòa nhập chung với hệ thống
tài chính tồn cầu nhưng cũng chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng
này, đó là việc chi phí vốn trở nên đắt đỏ, tín dụng dành cho doanh
nghiệp khan hiếm và lãi suất vay vốn tăng cao, nhất là vào giữa năm
2008. Bên cạnh đó, một loạt các chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm giảm
lạm phát của Chính phủ làm các doanh nghiệp càng khó khăn trong
việc huy động vốn.
Trước tình hình sản xuất kinh doanh bị đình trệ, đặc biệt là nhiều

doanh nghiệp nhỏ và vừa làm ăn thua lỗ thậm chí đứng bên bờ vực phá
sản, thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định số 131/QĐ-TTg, 443/QĐNguyễn Ngọc Phương Huyền
Phạm Văn Tuấn

Stt: 33
Stt: 38

- Trang 3 -

Lớp: Anh 5 - K46C
Khoa: Kinh tế đối ngoại


Tiểu luận Tài chính – Tiền tệ

TTg và một số quyết định khác về việc hỗ trợ lãi suất cho các tổ chức,
cá nhân vay vốn ngân hàng để sản xuất, kinh doanh. Đây là một trong
những chiến lược kích cầu, tăng đầu tư nhằm khơi phục sản xuất của
Chính phủ Việt Nam nhằm nhanh chóng đưa nước ta ra khỏi suy thối.
Có thể nói chương trình hỗ trợ lãi suất của Chính phủ tới các doanh
nghiệp là “chiếc phao” cứu các doanh nghiệp ra khỏi khủng hoảng.
Chương trình hỗ trợ lãi suất hiện nay vẫn đang trên lộ trình thực
hiện, tuy nhiên do tính thực tiễn và những ảnh hưởng sâu sắc của
chính sách đến nền kinh tế nước ta nên nhóm nghiên cứu đã chọn đề
tài “Vài nét về chương trình hỗ trợ lãi suất 2009 của Chính phủ và
tác động của nó đến các doanh nghiệp”.
Mục đích nghiên cứu của đề tài chỉ là xem xét một cách tổng quát
về chương trình hỗ trợ lãi suất nằm trong gói kích cầu đầu năm 2009
của Chính phủ Việt Nam và tác động sơ bộ của nó tới hoạt động sản
xuất kinh doanh. Từ đó tiểu luận đưa một số nhận xét, giải pháp đề

xuất nhằm thực hiện tốt chương trình và một số giải pháp vĩ mơ khác
có thể giúp Việt Nam hạn chế tối đa những tác động xấu của cuộc
khủng hoảng.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Tiểu luận nghiên cứu chương
trình cho vay hỗ trợ theo lãi suất 4% của Chính phủ theo quyết định
số 131/QĐ-TTg, 443/QĐ-TTg và những tác động tới nền kinh tế Việt
Nam từ tháng 02 tới đầu tháng 06 năm 2009.
Trong q trình nghiên cứu nhóm đã sử dụng các phương pháp
thống kê, suy luận, phân tích kinh tế trên cơ sở phương pháp duy vật
biên chứng.
Nguyễn Ngọc Phương Huyền
Phạm Văn Tuấn

Stt: 33
Stt: 38

- Trang 4 -

Lớp: Anh 5 - K46C
Khoa: Kinh tế đối ngoại


Tiểu luận Tài chính – Tiền tệ

Do thời gian thực hiện tiểu luận có hạn và tầm hiểu biết cịn chưa
sâu rộng nên bài tiểu luận này không thể tránh khỏi những sai sót.
Nhóm nghiên cứu kính mong thầy góp ý để chúng em có thể hồn
thành bài tiểu luận tốt hơn. Xin chân thành cảm ơn thầy!

Nguyễn Ngọc Phương Huyền

Phạm Văn Tuấn

Stt: 33
Stt: 38

- Trang 5 -

Lớp: Anh 5 - K46C
Khoa: Kinh tế đối ngoại


Tiểu luận Tài chính – Tiền tệ

Phần II: NỘI DUNG
I. Lãi suất – công cụ hiệu quả điều tiết nền kinh tế:
1. Lý thuyết chung về lãi suất:
Về định nghĩa, lãi suất là tỷ lệ phần trăm của tổng số tiền phải trả so
với tổng số tiền đi vay hay tỷ lệ phần trăm của tổng số tiền nhận được
so với tổng số tiền cho vay. Đó chính là giá cả của quyền sử dụng một
đơn vị vốn vay trong một đơn vị thời gian nhất định (ngày, tuần, tháng,
năm).
Về bản chất, đây là một loại giá cả đặc biệt vì được hình thành trên
giá trị sử dụng chứ khơng phải trên cơ sở giá trị. Đối với người đi vay,
giá trị sử dụng của khoản vốn vay chính là khả năng mang lại lợi
nhuận trong việc sản suất kinh doanh hay mức độ thỏa mãn một số nhu
cầu nào đó khi sử dụng lượng vốn vay đó. Đối với người cho vay, lãi
suất chính là tỷ lệ sinh lời mà anh ta thu được khi cho vay khoản vốn
đó.
Trên thị trường tài chính (căn cứ vào nghiệp vụ ngân hàng) thường
phân biệt các loại lãi suất sau:

- Lãi suất tín dụng ngân hàng là lãi suất mà người đi vay phải trả
cho ngân hàng.
- Lãi suất tiền gửi ngân hàng (lãi suất huy động ngân hàng) là lãi
suất ngân hàng trả cho các khoản tiền gửi.
Cả hai loại lãi suất đều phụ thuộc vào loại tiền gửi (nội hay ngoại
tệ), thời hạn, phương thức, quan hệ giữa người cho vay và người đi
vay, mức độ rủi ro của khoản vay và tình hình thị trường.
Nguyễn Ngọc Phương Huyền
Phạm Văn Tuấn

Stt: 33
Stt: 38

- Trang 6 -

Lớp: Anh 5 - K46C
Khoa: Kinh tế đối ngoại


Tiểu luận Tài chính – Tiền tệ

- Lãi suất chiết khấu là lãi suất các ngân hàng áp dụng cho các
khoản vay dưới hình thức chiết khấu thương phiếu hay các giấy tờ có
giá ngắn hạn khác chưa tới kỳ thanh tốn. Đây là hình thức lãi suất
được trả trước cho ngân hàng.
- Lãi suất tái chiết khấu tương tự như lãi suất chiết khấu, nhưng là
lãi suất mà Ngân hàng Trung Ương cho các ngân hàng thương mại vay
trong trường hợp các ngân hàng thương mại khơng có đủ tiền mặt cho
thanh toán. Lãi suất tái chiết khấu thường nhỏ hơn lãi suất chiết khấu,
tuy nhiên trong một số trường hợp cần hạn chế tín dụng, Ngân hàng

Trung ương có thể đặt mức lãi suất tái chiết khấu cao hơn.
- Lãi suất liên ngân hàng là lãi suất mà các ngân hàng thương mại
cho vay lẫn nhau. Lãi suất liên ngân hàng đóng vai trị quan trọng
trong hoạt động của hệ thống ngân hàng và chịu sự chi phối của lãi
suất tái chiết khấu.
- Lãi suất cơ bản là lãi suất cơ sở để các ngân hàng ấn định lãi suất
tín dụng và lãi suất tền gửi. Lãi suất cơ bản có tính chất định hướng
cho các loại lãi suất khác và là cơ sở giới hạn lãi suất tín dụng (ở Việt
Nam, Ngân hàng Trung Ương có thể kiểm soát trực tiếp lãi suất cơ bản
và theo Quyết định 16/2008/QĐ-NHNN ngày 16/5/2008 lãi suất tín
dụng khơng được vượt quá 150% lãi suất cơ bản). Đây là một công cụ
hiệu quả mà Chính phủ có thể tác động tới nền kinh tế thơng qua tín
dụng.
Các loại lãi suất này tuy biến động phức tạp nhưng thường thay đổi
cùng chiều và khá tương đồng theo nguyên tắc tăng dần: lãi suất cơ
bản, lãi suất liên ngân hàng, lãi suất nhận gửi, lãi suất cho vay. Trong

Nguyễn Ngọc Phương Huyền
Phạm Văn Tuấn

Stt: 33
Stt: 38

- Trang 7 -

Lớp: Anh 5 - K46C
Khoa: Kinh tế đối ngoại


Tiểu luận Tài chính – Tiền tệ


đó lãi suất tín dụng có vai trị quan trọng nhất, tác động trực tiếp tới
tiết kiệm, đầu tư và ảnh hưởng lớn nhất tới nền kinh tế. Do đó, trong
phạm vi của bài tiểu luận, nhóm nghiên cứu chỉ chủ yếu đề cập đến lãi
suất tín dụng ngân hàng - lãi suất mà người đi vay phải trả cho ngân
hàng.
Lãi suất cũng là một biến số nằm trong mối quan hệ với các biến số
kinh tế khác nên cũng chịu tác động của các biến số đó. Khi xét các
nhân tố ảnh hưởng tới lãi suất ta thường sử dụng hai mơ hình: “Khn
mẫu tiền vay” và mơ hình “Khn mẫu ưa thích tiền mặt”:
- Mơ hình “Khn mẫu tiền vay” xác định lãi suất cân bằng trên thị
trường các công cụ nợ (các khoản vay) với các nhân tố ảnh hưởng: lợi
tức dự tính; lạm phát dự tính; rủi ro; tính lỏng của các cơng cụ nợ… và
tình hình ngân sách Chính phủ.
- Mơ hình “Khn mẫu ưa thích tiền mặt” xác định lãi suất cân
bằng trên thị trường tiền tệ dưới sự tác động của: thu nhập; mức giá;
cung tiền…
Trong điều kiện kinh tế thông thường, các yếu tố trên cùng với nhân
tố nước ngoài như lãi suất quốc tế, đầu tư nước ngoài, tài trợ, viện trợ
quốc tế… tác động lên thị trường tạo ra mức lãi suất cân bằng. Mức lãi
suất này thể hiện đúng bản chất của lãi suất như đã nêu trên: chi phí
của việc sử dụng vốn của người đi vay và là lợi nhuận của người cho
vay.
Tuy nhiên, trong giai đoạn nền kinh tế không ổn định, suy thối hay
khủng hoảng thì lãi suất cịn chịu sự tác động của nhiều yếu tố khác
Nguyễn Ngọc Phương Huyền
Phạm Văn Tuấn

Stt: 33
Stt: 38


- Trang 8 -

Lớp: Anh 5 - K46C
Khoa: Kinh tế đối ngoại


Tiểu luận Tài chính – Tiền tệ

như tình hình chính trị, quân sự,… và có diễn biến rất phức tạp. Trong
giai đoạn gần đây, dưới tác động của khủng hoảng tài chính tồn cầu,
lãi suất Việt Nam biến động tương đối mạnh và đạt mức cao kỷ lục
21%/năm, bằng với mức lãi suất tối đa. Điều này được xem là một
trong những biểu hiện xấu nhất của khủng hoảng, làm đình trệ hoạt
động sản xuất kinh doanh, là dấu hiệu của suy thoái trong giai đoạn
tiếp theo. Phần tiếp sau đây sẽ đưa ra cơ chế ảnh hưởng của lãi suất tới
hoạt động của các doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế.

2. Ảnh hưởng của lãi suất đến hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp:
Như chúng ta đã tìm hiểu ở trên, lãi suất có ảnh hưởng sâu sắc tới
nền kinh tế, có vai trị định hướng hoạt động tiết kiệm và đầu tư của
các chủ thể kinh tế:
- Quyết định của các cá nhân: chi tiêu hay để dành, mua nhà hay
mua trái phiếu hay gửi tiền vào một tài khoản tiết kiệm.
- Quyết định các doanh nghiệp như: đầu tư mua thiết bị mới cho các
nhà máy hoặc để gửi tiết kiệm trong một ngân hàng.
Dưới đây chúng ta sẽ tìm hiểu cách thức tác động của lãi suất đến
hoạt động của các doanh nghiệp để có thể thấy rõ tầm quan trọng của
lãi suất đối với hoạt động sản xuất kinh doanh.

Trong hoạt động của các doanh nghiệp, vốn đóng vai trị là một
trong những yếu tố đầu vào quan trọng nhất. Các doanh nghiệp muốn
mở rộng hoạt động đều phải dựa trên cơ sở gia tăng lượng vốn đầu tư.
Trong đó, hình thức huy động vốn phổ biến, nhanh chóng và hiệu quả
Nguyễn Ngọc Phương Huyền
Phạm Văn Tuấn

Stt: 33
Stt: 38

- Trang 9 -

Lớp: Anh 5 - K46C
Khoa: Kinh tế đối ngoại


Tiểu luận Tài chính – Tiền tệ

nhất là huy động vốn thơng qua kênh tín dụng ngân hàng. Ở đó, lãi
suất cho vay phản ánh giá cả của đồng vốn mà người sử dụng vốn là
các doanh nghiệp phải trả cho người cho vay là các NHTM. Đối với
các doanh nghiệp, lãi suất cho vay hình thành nên chi phí vốn – một
trong những chi phí đầu vào quan trọng nhất của q trình sản xuất.
Có thể nói, mọi loại hình doanh nghiệp: doanh nghiệp thương mại hay
doanh nghiệp sản xuất đều coi yếu tố lãi suất là một trong những nhân
tố có tính chất định hướng cho mọi quyết định của mình. Do đó, mọi
biến động về lãi suất trên thị trường đều tác động trực tiếp và mạnh mẽ
đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Khi lãi suất tăng làm tăng chi phí đầu vào của doanh nghiệp và đẩy
giá thành sản phẩm lên cao, do đó làm suy giảm lợi nhuận và khả năng

cạnh tranh của doanh nghiệp. Nếu lãi suất lên cao tới một mức nào đó
cịn có thể gây ra tình trạng thua lỗ thậm chí là phá sản trong hoạt động
sản xuất kinh doanh, nhất là đối với các doanh nghiệp có tiềm lực tài
chính yếu hoặc doanh nghiệp mới thành lập. Xu hướng tăng lãi suất
cho vay của các ngân hàng thương mại sẽ dẫn đến xu hướng cắt giảm,
thu hẹp qui mô và phạm vi của các hoạt động sản xuất, đầu tư. Đó
chính là dấu hiệu của một nền kinh tế bất ổn và cũng là dấu hiệu của
sự suy thối, khủng hoảng.
Ngược lại, khi lãi suất tín dụng giảm sẽ làm giảm chi phí đầu vào và
giá thành sản phẩm của doanh nghiệp, do đó doanh nghiệp có thể tăng
lợi nhuận và tiến tới mở rộng sản xuất kinh doanh. Điều này tạo tiền
đề cho sự tăng trưởng bền vững của nền kinh tế.

Nguyễn Ngọc Phương Huyền
Phạm Văn Tuấn

Stt: 33
Stt: 38

- Trang 10 -

Lớp: Anh 5 - K46C
Khoa: Kinh tế đối ngoại


Tiểu luận Tài chính – Tiền tệ

Ở Việt Nam, do thị trường tài chính chưa thật sự phát triển, các
kênh huy động vốn khác cịn yếu kém thì vai trị của lãi suất tín dụng
ngân hàng đối với các doanh nghiệp càng tỏ ra hết sức quan trọng. Bên

cạnh đó, có tới 87,9% doanh nghiệp Việt Nam là các doanh nghiệp
nhỏ và vừa với số vốn chỉ khoảng 20% tổng nguồn vốn kinh doanh
của các doanh nghiệp (2008), thường xuyên nằm trong tình trạng thiếu
vốn thì vai trị của lãi suất tín dụng ngân hàng càng trở nên đặc biệt
quan trọng đối với nền kinh tế. Trong năm 2008, lãi suất cho vay của
các NHTM trên thị trường đã có những biến động bất thường và gây ra
nhiều xáo trộn trong nền kinh tế, trong đó khu vực doanh nghiệp là nơi
chịu nhiều ảnh hưởng nhất. Những tác động tiêu cực của lãi suất đến
các doanh nghiệp trong năm vừa qua có thể khái quát lại như sau:
- Do lãi suất cho vay tăng cao, hiệu quả sản xuất kinh doanh của
hầu hết các doanh nghiệp đã bị giảm sút, nhiều doanh nghiệp bị thua
lỗ, khả năng trả nợ bị suy giảm.
- Lãi suất vay cao, cùng với nguồn cung tín dụng bị hạn chế đã
dẫn đến tình trạng hầu hết các doanh nghiệp buộc phải cơ cấu lại hoạt
động sản xuất, cắt giảm việc đầu tư, thu hẹp quy mơ và phạm vi hoạt
động.
- Nhiều doanh nghiệp có quy mơ nhỏ, vốn ít, khơng chịu đựng
được mức lãi suất cao, khơng có khả năng huy động vốn để duy trì
hoạt động sản xuất kinh doanh đã phải ngừng hoạt động, giải thể và
phá sản.
Có thể thấy lãi suất đóng vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động
của các doanh nghiệp, đặc biệt với đặc điểm nền kinh tế Việt Nam thì

Nguyễn Ngọc Phương Huyền
Phạm Văn Tuấn

Stt: 33
Stt: 38

- Trang 11 -


Lớp: Anh 5 - K46C
Khoa: Kinh tế đối ngoại


Tiểu luận Tài chính – Tiền tệ

ảnh hưởng của lãi suất tới nền kinh tế tương đối sâu sắc và tồn diện.
Lãi suất có thể gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế
nhưng đây cũng có thể là một công cụ hiệu quả mà các nhà hoạch định
chính sách có thể sử dụng để định hướng sản xuất kinh doanh, kích
thích phát triển kinh tế.

II. Chương trình hỗ trợ lãi suất của Việt Nam:
1. Bối cảnh thực hiện: khủng hoảng kinh tế vĩ mô Việt Nam và
thế giới (cuối năm 2008)
a. Tình hình thế giới:
Cuối năm 2008, nền kinh tế thế giới đang rơi vào tình trạng suy
thối do khủng hoảng tài chính tồn cầu gây ra. Bắt đầu từ nước Mỹ,
cuộc khủng hoảng nhanh chóng lan sang Châu Âu, Nhật Bản, Trung
Quốc, Hàn Quốc… và tạo thành cuộc khủng hoảng “tồi tệ nhất trong
vòng 60 năm” (Olivier Blanchard – kinh tế trưởng của IMF).
Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ bắt nguồn từ làn sóng vay tiền để
mua nhà ở của người dân Mỹ giai đoạn 2004-2006. Hàng triệu hộ gia
đình Mỹ sở hữu những căn nhà vay từ vốn vay tín dụng bất động sản
dưới chuẩn đã đẩy nguồn vốn này lên tới 20% tổng dư nợ cho vay bất
động sản ở Mỹ năm 2005 và 2006. Những khoản vay rủi ro này lại
được chuyển thành MBS-chứng khoán được đảm bảo bằng bất động
sản dể bán cho các nhà đầu tư. Các ngân hàng đầu tư và ngân hàng
thương mại mua MBS đồng thời cho quỹ rủi ro và nhà đầu tư khác vay

để mua MBS. Khi giá nhà giảm, thị trường chứng khốn đóng băng
Nguyễn Ngọc Phương Huyền
Phạm Văn Tuấn

Stt: 33
Stt: 38

- Trang 12 -

Lớp: Anh 5 - K46C
Khoa: Kinh tế đối ngoại


Tiểu luận Tài chính – Tiền tệ

vào năm 2007, các ngân hàng phát hiện trong sổ sách có khoảng 600
tỷ USD tài sản tài chính được thiết kế trên các MBS, CDO… và các
loại chứng khoán khác mà giá trị của chúng không thể xác định được.
Tổng mệnh giá của chúng lên tới 2500 tỷ USD, do ngân hàng và các
nhà đầu tư nắm giữ. Tình trạng nợ xấu và xiết nợ giữa các ngân hàng
và các hộ gia đình làm cho “bong bóng kinh tế Mỹ” vốn đã phình to
càng trở nên dễ vỡ.
Khi tình trạng mất ổn định xảy ra, người ta soi xét giá trị nền tảng
của nhiều loại cơng cụ tài chính. Giá thị trường của các hợp đồng phái
sinh tăng từ 75000 tỷ USD trong năm 1997 lên tới 600000 tỷ USD
trong năm 2007, tức là gấp hơn 10 lần GDP tồn cầu.
Tình trạng thiếu hụt thanh khoản ngay sau đó đẩy nền cơng nghiệp
ơ tô Mỹ tới bờ vực phá sản, các hãng ô tô châu Âu, Nhật Bản , Hàn
Quốc, Trung quốc cũng phải nhận hỗ trợ từ chính phủ. Doanh số bán
hàng các công ty sụt giảm, tỷ lệ thất nghiệp tăng lên. Sau sự sụp đổ

của Lehman Brother – ngân hàng đầu tư lớn nhất của Mỹ, ngày
15/9/2008 thì cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ đã lộ rõ thành một
cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu hết sức nghiêm trọng, cả về phạm
vi, cấp độ, sức lan tỏa (Tổng số nợ thế chấp nhà ở được chứng khốn
hóa vào năm 2006 đã lên tới 14.000 tỷ USD, tương đương GDP của
Mỹ). Năm 2008, Mỹ cắt giảm 2 triệu việc làm, trong đó riêng tháng 11
là gần nửa triệu việc làm, tỷ lệ thất nghiệp bị đẩy lên tới 6,7%. Công
nghiệp chế biến của Mỹ, khu vực đồng Euro, Anh, Nhật Bản và cả
Trung Quốc đều suy giảm. Tới tháng 11/2008 xuất khẩu của Nhật Bản
giảm 27% so với cùng kỳ năm trước, Đài Loan là 24% và Hàn Quốc là
Nguyễn Ngọc Phương Huyền
Phạm Văn Tuấn

Stt: 33
Stt: 38

- Trang 13 -

Lớp: Anh 5 - K46C
Khoa: Kinh tế đối ngoại


Tiểu luận Tài chính – Tiền tệ

18%. Singapore và Hong Kong liên tiếp giảm tốc độ tăng trưởng
trong hai quý liên tiếp, Trung Quốc cũng phải đối mặt với suy giảm
xuất khẩu sau 7 năm liên tục tăng trưởng, giá nhà Thượng Hải giảm tới
20% trong quý 3 năm 2008… Cuối năm 2008 nhiều nước châu Âu đã
phải nhận trợ giúp của IMF.
b. Tình hình Việt Nam:

Trước tình hình khủng hoảng tồn cầu, Việt Nam cũng khơng nằm
ngồi vùng ảnh hưởng do là một nước nhỏ, nhập siêu, có độ mở cửa
cao (khoảng 160%), phụ thuộc nhiều vào kinh tế thế giới. Cuộc khủng
hoảng có tác động xấu tới nền kinh tế Việt Nam qua các mặt chủ yếu
sau:
Thứ nhất, xuất khẩu có xu hướng giảm do Việt Nam có tới trên
50% nhu cầu xuất khẩu đến từ Mỹ, Nhật Bản và châu Âu (năm 2007:
Mỹ 26%, Nhật 16%, châu Âu 19%) . Kim ngạch xuất khẩu Việt nam
xấp xỉ 70% GDP nên sự suy giảm này có thể tác động mạnh tới kinh tế
Việt Nam, đặc biệt là qua tiêu dùng.
Thứ hai, dự trữ ngoại tệ của Việt Nam giảm do: đầu tư nước ngoài,
du lịch và kiều hối đều có xu hướng giảm. Điều này tác động rất xấu
tới một nền kinh tế nhỏ, mở cửa và có tỷ lệ “Đơla hóa” khá cao như
Việt Nam. Vốn FDI đăng ký năm 2008 ở Việt Nam là 60 tỷ USD
nhưng chỉ có một lượng nhỏ phần vốn này được giải ngân, Financial
Times dự báo FDI toàn cầu sẽ giảm mạnh trong 2009, khoảng 15%.
Nhiều doanh nghiệp Việt Nam rơi vào tình trạng thiếu tín dụng trầm
trọng, khơng thể vay hoặc phải trả lãi suất quá cao, có thể dẫn tới phá
sản.
Nguyễn Ngọc Phương Huyền
Phạm Văn Tuấn

Stt: 33
Stt: 38

- Trang 14 -

Lớp: Anh 5 - K46C
Khoa: Kinh tế đối ngoại



Tiểu luận Tài chính – Tiền tệ

Cuối cùng, ngân sách Chính phủ có thể bị thâm hụt lớn hơn do giá
hàng hóa cơ bản giảm, nguồn thu từ các loại thuế đều có xu hướng
giảm. Thuế VAT, thuế xuất nhập khẩu và thụ tiêu thụ đặc biệt chiếm
tới 16% ngân sách Chính phủ đều giảm. Sự thâm hụt ngân sách kéo
dài có thể đẩy nền kinh tế vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng hơn
khi Chính phủ buộc phải tăng cung tiền để bù đắp bội chi ngân sách.
Tóm lại, có thể thấy cuộc khủng hoảng làm suy giảm sản lượng của
những nền kinh tế hàng đầu thế giới, kéo theo là đà suy giảm tồn cầu,
trong đó có Việt Nam. Tiêu dùng và đầu tư trong nước giảm, thương
mại quốc tế, các dòng vốn và đầu tư bị thu hẹp… Nhiều nước được dự
đốn sẽ có mức tăng trưởng âm trong năm 2009. Các nước đang phát
triển giảm tăng trưởng khoảng 30%. Các nền kinh tế lớn đều hạn chế
suy thối bằng hạ lãi suất, khơi phục thanh khoản và chỉ tiêu ngân
sách. Trong khi đó khủng hoảng tồn cầu lại làm Việt Nam bị giảm
đầu tư trong nước và kim ngạch xuất khẩu nên sẽ bị giảm cầu nội địa.
Năm 2008, nhiều chỉ số kinh tế của Việt Nam diễn biến phức tạp,
không đạt mục tiêu kế hoạch:
- GDP thực tế tăng 6,23% (trong khi năm 2007 là 8,48% và mục
tiêu kế hoạch điều chỉnh là 7,0%), trong đó khu vực nơng, lâm nghiệp
và thuỷ sản tăng 3,79%, đóng góp 0,68 điểm phần trăm; khu vực cơng
nghiệp và xây dựng tăng 6,33%, đóng góp 2,65 điểm phần trăm; khu
vực dịch vụ tăng 7,2%, đóng góp 2,9 điểm phần trăm. Đặc biệt năm
2008 khu vực xây dựng gần như khơng có tăng trưởng.

Nguyễn Ngọc Phương Huyền
Phạm Văn Tuấn


Stt: 33
Stt: 38

- Trang 15 -

Lớp: Anh 5 - K46C
Khoa: Kinh tế đối ngoại


Tiểu luận Tài chính – Tiền tệ

- Giá tiêu dùng tăng khá cao và diễn biến phức tạp; kết quả là giá
tiêu dùng tháng 12 năm 2008 so với tháng 12 năm 2007 tăng 19,89%
và chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm tăng 22,97%.
- Bội chi ngân sách Nhà nước năm 2008 ước tính bằng 13,7% tổng
số chi, trong đó 77,3% được bù đắp bằng nguồn vay trong nước và
22,7% được bù đắp từ nguồn vay nước ngoài.
- Xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ đều tăng. Xuất khẩu tăng
mạnh chủ yếu do giá thế giới tăng. Trong khi đó nhập khẩu hàng hóa
nguyên vật liệu chững lại ở những cuối năm do sản xuất có dấu hiệu
đình trệ, cịn nhập khẩu hàng tiêu dùng có xu hướng tăng lại thể hiện
sự “tấn công” của hàng tiêu dùng nước ngồi vào thị trường Việt Nam.
Ước tính nhập siêu năm 2008 là 17,5 tỷ USD, tăng 24,1 % so với năm
2007, bằng 27,8% tổng kim ngạch xuất khẩu.
- Thất nghiệp gia tăng, đời sống nhân dân cịn nhiều khó khăn. Tỷ lệ
thất nghiệp của lao động trong độ tuổi khu vực thành thị ước tính
4,65%. Thiên tai, dịch bệnh trên gia súc, gia cầm xảy ra liên tiếp thêm
vào đó giá cả hàng hố tiêu dùng, xăng dầu và vật tư nông nghiệp tăng
cao đã tác động không nhỏ đến sản xuất và đời sống của nông dân.
Theo báo cáo của các địa phương, năm 2008 cả nước có 957,5 nghìn

lượt hộ thiếu đói, tăng 32,3% và 4 triệu lượt nhân khẩu thiếu đói, tăng
32,7% so với năm 2007.
Có thể thấy mặc dù Việt Nam chưa hội nhập sâu rộng vào nền kinh
tế thế giới nhưng tác động của cuộc khủng hoảng tới tăng trưởng kinh
tế nước ta là khơng nhỏ. Nếu Chính phủ khơng có những hành động
đúng đắn can thiệp vào nền kinh tế thì Việt Nam có thể sẽ suy giảm
Nguyễn Ngọc Phương Huyền
Phạm Văn Tuấn

Stt: 33
Stt: 38

- Trang 16 -

Lớp: Anh 5 - K46C
Khoa: Kinh tế đối ngoại


Tiểu luận Tài chính – Tiền tệ

mạnh trong 2009 (hầu hết các tổ chức quốc tế như Ngân hàng phát
triển châu Á ADB, quỹ tiền tệ thế giới IMF, BMI, Citigroup đều dự
đoán năm 2009 Việt nam chỉ đạt mức tăng trưởng khoảng 5%, nhiều tổ
chức còn đưa ra những con số thấp hơn). Do đó việc kích thích tổng
cầu, tăng đầu tư là một trong những chiến lược tất yếu nhằm nhanh
chóng đưa Việt Nam ra khỏi khủng hoảng và tăng trưởng ổn định trở
lại. Một trong những hành động kích thích nền kinh tế đầu tiên của
Việt Nam là chương trình hỗ trợ lãi suất 4% cho các hoạt động đầu tư.
2. Nội dung chương trình hỗ trợ lãi suất:
Chương trình hỗ trợ lãi suất cho các tổ chức, cá nhân vay vốn ngân

hàng để sản suất - kinh doanh. Đây là một quyết định quan trọng của
Chính phủ trong gói kích cầu và duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh
nhằm giảm giá thành sản phẩm và tạo việc làm năm 2009.
a. Hỗ trợ vay vốn ngắn hạn:
Ngày 23/01/2009, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
131/QĐ-NHNN về việc cho vay vốn ngắn hạn cho hoạt động sản xuất
kinh doanh với nội dung như sau:
- Các tổ chức tín dụng thực hiện chương trình cho vay theo quy
định của pháp luật bao gồm tất cả các loại hình ngân hàng thương mại
đang hoạt động tại Việt Nam: Ngân hàng thương mại Nhà nước, Ngân
hàng thương mại Cổ phần, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng
nước ngoài hoạt động tại Việt Nam, ngân hàng 100% vốn nước ngồi
và Quỹ tín dụng nhân dân trung ương.

Nguyễn Ngọc Phương Huyền
Phạm Văn Tuấn

Stt: 33
Stt: 38

- Trang 17 -

Lớp: Anh 5 - K46C
Khoa: Kinh tế đối ngoại


Tiểu luận Tài chính – Tiền tệ

- Đối tượng vay vốn: tất cả các tổ chức (doanh nghiệp, hợp tác xã,
tổ hợp tác, hộ gia đình …), cá nhân vay vốn lưu động để sản xuất kinh doanh, đặc biệt chú trọng khu vực sản xuất vật chất, xuất khẩu.

- Các khoản vay: chương trình hỗ trợ cho các khoản vay ngắn và
trung hạn bằng VND theo các hợp đồng tín dụng được ký kết và giải
ngân trong năm 2009.
- Thời hạn vay được hỗ trợ lãi suất tối đa là 8 tháng đối với các
khoản vay theo hợp đồng tín dụng được ký kết và giải ngân trong
khoảng thời gian từ 1/2/2009 - 31/12/2009.
- Mức hỗ trợ lãi suất cho khách hàng vay là 4%/năm, tính trên số
tiền vay và thời hạn cho vay thực tế nằm trong khoảng thời gian quy
định nêu trên; khi thu lãi cho vay, các ngân hàng thương mại giảm trừ
số tiền lãi phải trả cho khách hàng vay.
- Tổng giá trị chương trình hỗ trợ là 17000 tỷ đồng (1 tỷ USD trong
tổng 8 tỷ USD của gói kích cầu – xấp xỉ 10% GDP), tương đương với
khoảng 420000 tỷ đồng vốn vay sẽ được giải ngân.
b. Hỗ trợ vay vốn trung và dài hạn:
Bổ sung cho chương trình hỗ trợ vốn vay ngắn hạn, ngày
04/04/2009 các NHTM bắt đầu thi hành hỗ trợ lãi suất cho vay vốn
trung và dài hạn theo tinh thần quyết định 443/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ. Nội dung của Quyết định tương tự như việc cho vay vốn
ngắn hạn.
- Các khoản vay được hỗ trợ lãi suất là vay trung, dài hạn bằng
đồng Việt Nam.
Nguyễn Ngọc Phương Huyền
Phạm Văn Tuấn

Stt: 33
Stt: 38

- Trang 18 -

Lớp: Anh 5 - K46C

Khoa: Kinh tế đối ngoại


Tiểu luận Tài chính – Tiền tệ

- Đối tượng vay vốn: các tổ chức, cá nhân thực hiện đầu tư mới để
phát triển sản xuất - kinh doanh, kết cấu hạ tầng theo các hợp đồng tín
dụng ký kết trước và sau ngày 1/ 4 2009, được giải ngân (một hoặc
nhiều lần) trong khoảng thời gian từ ngày 1/4 đến 31/12/2009, thuộc
các ngành, lĩnh vực kinh tế:
Ngành nông, lâm nghiệp
Ngành thủy sản
Công nghiệp khai thác mỏ
Ngành công nghiệp chế biến
Ngành cơng nghiệp sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước
Ngành xây dựng( trừ cơng trình xây dựng văn phịng(cao ốc)
cho th, cơng trình xây dựng, sửa chữa mua nhà để bán)
Ngành thương nghiệp, sửa chữa xe có động cơ, mô tô, xe máy,
đồ dùng cá nhân và gia đình
Ngành vận tải, kho bãi và thơng tin liên lạc
Hoạt động khoa học và công nghệ
- Mức lãi suất hỗ trợ cho khách hàng vay là 4%/năm, tính trên số
tiền vay và thời hạn cho vay thực tế.
- Thời gian thực hiện: từ ngày 01 tháng 4 năm 2009 đến 31 tháng 12
năm 2011.
- Thời hạn vay được hỗ trợ lãi suất tối đa là 24 tháng, kể từ ngày
giải ngân đối với các khoản vay theo hợp đồng tín dụng ký kết trước
và sau ngày 01 tháng 4 năm 2009 mà được giải ngân trong khoảng thời
gian từ ngày 01 tháng 4 đến 31 tháng 12 năm 2009.
Nguyễn Ngọc Phương Huyền

Phạm Văn Tuấn

Stt: 33
Stt: 38

- Trang 19 -

Lớp: Anh 5 - K46C
Khoa: Kinh tế đối ngoại


Tiểu luận Tài chính – Tiền tệ

Trong điều kiện nền kinh tế thế giới đang lâm vào suy thoái việc
thực hiện kích cầu nhằm vào bảo đảm an sinh xã hội, đặc biệt hướng
tới hỗ trợ người nghèo, cho đồng bào ở vùng sâu, vùng xa...là định
hướng rất đúng đắn của Chính phủ. Cụ thể 420000 tỷ đồng vốn vay hỗ
trợ 4% lãi suất cho hoạt động sản xuất kinh doanh có thể được coi là
hành động tương đối “mạnh tay” của Việt Nam đầu năm 2009. Tuy
nhiên, theo ý kiến của nhiều chun gia, gói kích cầu sẽ phản tác dụng
nếu chúng ta chi tiêu không hiệu quả và sẽ gây ra tái lạm phát cao do
cơ sở hạ tầng Việt Nam con nhiều yếu kém và bất cập. Việc tăng tín
dụng đột ngột sẽ tạo đà cho lạm phát quay trở lại và khuyến khích
nhập khẩu trong khi nguồn dự trữ ngoại tệ của Việt Nam rất thấp
(khoảng 250 USD/người, so với 1500USD/người của Trung Quốc)
khó có thể tài trợ cho nhập khẩu. Bên cạnh đó tín dụng tăng nhanh sẽ
tạo ra bong bóng tài sản, đạc biệt là trên thị trường chứng khoán và bất
động sản, ảnh hưởng tới sự bền vững của tăng trưởng. Để tránh tình
trạng thất thốt, lãng phí các nguồn vốn vay, gia tăng gánh nặng nợ
nần và các hiện tượng "đầu cơ nóng" với các dự án vay chất lượng

thấp hoặc triển khai kém, giải ngân khơng đúng mục đích; Chính phủ
cần theo sát hoạt động của chương trình, đảm bảo cho vay kịp thời,
đúng đối tượng, hiệu quả. Nếu thực hiện tốt thì gói kích cầu sẽ tạo ra
“cú hích” thúc đẩy tăng trưởng, đảm bảo cân đối vĩ mô và cịn có thể
kiểm sốt được lạm phát.

3. Tình hình giải ngân của chương trình hỗ trợ lãi suất 6 tháng
đầu năm 2009:
Nguyễn Ngọc Phương Huyền
Phạm Văn Tuấn

Stt: 33
Stt: 38

- Trang 20 -

Lớp: Anh 5 - K46C
Khoa: Kinh tế đối ngoại



×