Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Thành Tây Đô và vùng đất Vĩnh Lộc ( Thanh Hoá ) từ cuối thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XIX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.96 KB, 14 trang )



bộ giáo dục v đo tạo
Trờng đại học s phạm h nội



nguyễn thị thúy





thnh tây đô v vùng đất vĩnh lộc (thanh hóa)
từ cuối thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XIX


Chuyên ngành : Lịch sử Việt Nam cổ đại và trung đại
M số : 62.22.54.01




tóm tắt luận án tiến sĩ lịch sử



h nội - 2009


Công trình đợc hoàn thành


tại Trờng Đại học S phạm Hà Nội





Ngời hớng dẫn khoa học: PGS.TS Đào Tố Uyên
TS. Phạm Văn Đấu



Phản biện 1: GS.TS Nguyễn Quang Ngọc
Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển - ĐHQGHN
Phản biện 2: PGS.TS Nguyễn Trọng Văn
Đại học Vinh
Phản biện 3: PGS.TS Nguyễn Văn Nhật
Viện Nghiên cứu Lịch sử

Luận án đợc bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Nhà nớc tại
Trờng Đại học S phạm Hà Nội
Vào hồi giờ , ngày tháng năm 2009.



Có thể tìm hiểu luận án tại Th viện Quốc gia
và Th viện Trờng Đại học S phạm Hà Nội


những công trình của tác giả đ công bố
liên quan tới luận án


1. Nguyễn Thị Thúy (2002), "Tìm hiểu về sự thay đổi đơn vị hành chính ở
Thanh Hóa thời Nguyễn", Kỷ yếu Hội thảo khoa học Quốc gia:
Nghiên cứu và giảng dạy lịch sử thời Nguyễn, Trờng Đại học S
phạm Hà Nội.
2. Nguyễn Thị Thúy (2006), "Về sự thay đổi đơn vị hành chính vùng đất
Tây Đô từ thế kỷ X đến nay", Đặc san khoa học, (3), Trờng Đại
học Hồng Đức, tr. 65- 68.
3. Nguyễn Thị Thúy (2007), "Về mối quan hệ giữa họ Trịnh- họ Nguyễn
qua gia phả họ Đỗ (huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa)", Nghiên
cứu lịch sử, 5(373), tr. 43- 48.
4. Nguyễn Thị Thúy (2007), "Thành Tây Đô và những biến đổi của vùng
đất Vĩnh Lộc xa", Nghiên cứu lịch sử, 9(377), tr. 63- 68.
5. Nguyễn Thị Thúy (2007), "Bàn thêm về giá trị quân sự của thành Tây
Đô", Lịch sử quân sự, 9(189), tr. 47- 50.
6. Nguyễn Thị Thúy (2007), "Thành Tây Đô: Những ẩn số cần giải mã",
Nghiên cứu Đông Nam á, 10(91), tr. 68- 71.
7. Nguyễn Thị Thúy (2008), "Thành Tây Đô - Về việc khai thác và vận
chuyển đá", Nghiên cứu Đông Nam á, 3(96), tr. 61- 67.
8. Nguyễn Thị Thúy (2008), "Tình hình ruộng đất khu vực thành Tây Đô (Qua
một số địa bạ Minh Mạng)", Nghiên cứu lịch sử, 6(386), tr. 59- 65.
9. Nguyễn Thị Thúy (2008), "Không gian văn hóa Tây Đô (Một số biến
đổi từ khi trở thành Tây Đô)", Khoa học, Đại học Quốc gia Hà
Nội, (4), tập 23, tr. 203-209
1 2

Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Triều Hồ tồn tại không lâu, nhng là sự kiện lớn và quan trọng trong
lịch sử Việt Nam. Trong số các di sản nhà Hồ để lại, thành Tây Đô là một

công trình kiến trúc có giá trị về nhiều mặt. Nét đặc sắc của tòa thành
không chỉ ở quy mô đồ sộ, cấu trúc kiên cố mà còn là vì trình độ cao của
kỹ thuật xây dựng và mức độ tinh xảo của nghệ thuật thẩm mỹ. Một công
trình đặc biệt nh vậy lại đợc hoàn thành trong một thời gian rất ngắn là
một hiện tợng độc đáo và do đó, xung quanh việc xây dựng và bản thân
tòa thành có rất nhiều điều bí ẩn mà cho đến nay những kiến giải vẫn còn
đang để ngỏ.
Việc đi sâu nghiên cứu về thành Tây Đô và những diễn biến lịch sử
liên quan đến công trình kiến trúc này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Tây Đô đã từng một thời giữ vai trò là kinh đô của cả nớc. Đồng thời
đây là một căn cứ quân sự kiên cố vào bậc nhất trong số các thành lũy
đợc dựng lên trong lịch sử trung đại Việt Nam, là nơi đã diễn ra những
trận chiến ác liệt trong cuộc kháng chiến chống Minh và sau này còn
tham dự vào nhiều sự kiện lịch sử quan trọng khác.
Mặc dù chỉ tồn tại trong thời gian ngắn, nhng sự kiện Tây Đô trở
thành kinh đô đã có tác động nhiều mặt đến địa phơng, ngay cả trong
các giai đoạn lịch sử tiếp theo. Nghiên cứu về thành Tây Đô và diễn biến
lịch sử vùng đất Vĩnh Lộc từ khi trở thành kinh đô (thế kỷ XV) đến giữa
thế kỷ XIX sẽ góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề của lịch sử đất nớc mà
trớc hết là lịch sử huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa.
Tây Đô không chỉ là một công trình kiến trúc đặc sắc của Việt Nam
mà còn đợc đánh giá là một trong những tòa thành đá đẹp và lớn nhất
Đông Nam á. Hiện nay, chúng ta đang tích cực chuẩn bị hồ sơ đề nghị
UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới. Việc nghiên cứu toàn
diện Tây Đô sẽ góp phần xây dựng cơ sở khoa học cho việc đánh giá tổng
hợp giá trị của di sản văn hóa độc đáo này.
Việc nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề liên quan đến thành Tây
Đô và vùng đất Vĩnh Lộc- nhất là giai đoạn từ cuối thế kỷ XIV đến giữa
thế kỷ XIX còn góp phần vào việc giảng dạy lịch sử địa phơng và nâng
cao nhận thức về văn hóa - con ngời trong quá trình xây dựng, phát triển

vùng đất Vĩnh Lộc.
Là một cán bộ giảng dạy môn lịch sử Việt Nam tại trờng Đại học
Hồng Đức có nhiều gắn bó với vùng đất Vĩnh Lộc, đã từng có dịp tìm
hiểu về thành Tây Đô, tôi mạnh dạn chọn vấn đề Thành Tây Đô và vùng
đất Vĩnh Lộc (Thanh Hóa) từ cuối thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XIX làm
đề tài luận án tiến sĩ lịch sử với mong muốn sẽ góp một phần vào việc
nâng cao thêm một bớc nhận thức khoa học về thành Tây Đô và vùng
đất Vĩnh Lộc, Thanh Hóa.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Thành Tây Đô và gắn với nó là vùng đất Vĩnh Lộc đã đợc các học
giả trong và ngoài nớc đề cập đến ở từng khía cạnh khác nhau. Nhìn
chung, các công trình này chủ yếu khảo sát những vấn đề nổi bật nh di
tích lịch sử thành Tây Đô, nhân vật lịch sử, đặc sản địa phơng Nhng
cho đến nay cha có một công trình khoa học nào của các học giả trong
nớc cũng nh ngoài nớc nghiên cứu toàn diện và chuyên sâu về thành
Tây Đô và vùng đất Vĩnh Lộc nh
một không gian văn hóa trong suốt
thời kỳ cổ trung đại, nhất là từ cuối thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XIX.
3. Mục đích, đối tợng, phạm vi và nội dung nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
1. Nghiên cứu về quá trình xây dựng và diện mạo thành Tây Đô đồng
thời khôi phục lại sự phát triển của vùng đất Vĩnh Lộc trên một số
phơng diện chủ yếu qua các giai đoạn lịch sử từ cuối thế kỷ XIV đến
giữa thế kỷ XIX.
2. Tìm ra mối liên hệ giữa việc xây dựng thành Tây Đô, sự biến đổi
của vùng đất từng đợc chọn làm kinh đô với những đặc điểm về lịch sử,
văn hóa của huyện Vĩnh Lộc qua các thời kỳ.
3 4



3. Xây dựng một hệ thống t liệu lịch sử địa phơng, từ đó nâng cao
chất lợng dạy- học lịch sử Việt Nam - lịch sử địa phơng, giáo dục truyền
thống lịch sử dân tộc.
3.2. Đối tợng nghiên cứu
Đối tợng nghiên cứu chủ yếu của luận án là thành Tây Đô nh một
di tồn lịch sử tiêu biểu của thời Trần - Hồ và vùng đất Vĩnh Lộc nh một
không gian văn hóa có mối quan hệ tơng tác gắn bó với thành Tây Đô.
3.3. Giới hạn nghiên cứu
Không gian nghiên cứu đợc giới hạn trong địa bàn huyện Vĩnh Lộc
theo địa giới hành chính hiện nay và trong một chừng mực nhất định, mở
rộng tìm hiểu đến các vùng đất trong lịch sử đã từng thuộc huyện Vĩnh
Lộc xa với trung tâm là khu vực thành nội và các vùng phụ cận.
Thời gian nghiên cứu chủ yếu tập trung vào giai đoạn từ sau khi vùng đất
trở thành kinh đô (cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV) đến giữa thế kỷ XIX.
4. Nguồn tài liệu và phơng pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tài liệu
Luận án đợc xây dựng trên cơ sở một hệ thống t liệu từ nhiều
nguồn khác nhau, chủ yếu là các loại hình sau:
- Nguồn tài liệu thành văn là các sử liệu gốc, bao gồm các bộ sử do
triều đình phong kiến hoặc các cá nhân nh bộ sách Đại Việt sử ký toàn
th (thời Lê), Lịch triều hiến chơng loại chí, Khâm định Việt sử thông
giám cơng mục, Đại Nam nhất thống chí (thời Nguyễn) Các nguồn t
liệu địa phơng bao gồm các sách lịch sử, địa chí, địa bạ các làng liên
quan, gia phả của các dòng họ lớn, các bia ký, sắc phong và thần phả
- Nguồn t liệu vật chất bao gồm các hiện vật khảo cổ, bia ký trên
đất Vĩnh Lộc đợc phát hiện qua các thời kỳ, đặc biệt là những kết quả
khai quật khảo cổ học thành Tây Đô gần đây của các chuyên gia trong
chơng trình hợp tác nghiên cứu giữa Đại học Quốc gia Hà Nội với
trờng Đại học Showa (Nhật Bản). Các di tích, di vật lịch sử liên quan
đến tòa thành cũng đợc sử dụng làm t liệu nghiên cứu.

- Nguồn t
liệu văn hóa dân gian đợc su tầm, thu thập tại vùng
quanh thành nh ca dao, dân ca, tục ngữ, truyền thuyết là nguồn bổ
sung quan trọng cho các tài liệu thành văn.
- Nguồn tài liệu điền dã là những ghi chép tại thực địa của tác giả trong
các đợt khảo sát tại hiện trờng đợc sử dụng để đối chiếu, xác minh những
thông tin cha rõ ràng hoặc thiếu chính xác của các tài liệu thành văn.
Ngoài ra, luận án còn kế thừa đợc nhiều t liệu đã công bố trong các
công trình nghiên cứu đã công bố, nhất là các tài liệu do Ban Nghiên cứu và
biên soạn lịch sử Thanh Hóa và Ban Văn hóa huyện Vĩnh Lộc biên soạn.
4.2. Phơng pháp nghiên cứu
1. Phơng pháp tiếp cận lịch sử (chủ yếu) và một số phơng pháp
chuyên ngành khác nh khảo cổ học, dân tộc học, xã hội học.
2. Phơng pháp giám định và phân tích t liệu.
3. Phơng pháp nghiên cứu khu vực học.
4. Phơng pháp so sánh, thống kê, phân tích định lợng.
5. Đóng góp của luận án
1. Là công trình nghiên cứu đầu tiên có tính hệ thống về di tích lịch
sử thành Tây Đô, bổ sung thêm nhận thức về giá trị và thành tựu của văn
minh Đại Việt đặc biệt là dới thời Trần - Hồ, góp phần phục vụ công tác
chuẩn bị t liệu cho hồ sơ khoa học đề nghị UNESCO công nhận thành
Tây Đô là Di sản văn hóa Thế giới.
2. Đa ra một số t liệu mới có giá trị khoa học để lý giải thêm về vị trí
vùng đất Vĩnh Lộc và nguyên nhân Hồ Quý Ly chọn làm kinh đô, góp phần
nâng cao hiểu biết khoa học về những vấn đề có liên quan đến thành Tây Đô.
3. Nghiên cứu toàn diện về thành Tây Đô, vùng đất Vĩnh Lộc từ cuối
thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XIX, luận án góp một cái nhìn tổng quan về
vùng đất này trong suốt 5 thế kỷ, lấp chỗ trống về nhận thức trong nhận
thức khoa học và làm cơ sở cho việc xây dựng cuốn lịch sử vùng đất Vĩnh
Lộc trong tơng lai.

5 6


4. Tìm ra đợc mối quan hệ, tác động giữa việc xây dựng thành Tây Đô
và những biến chuyển, đặc điểm của vùng đất đã từng là kinh đô phong kiến
cũng nh sau khi trở thành cố đô. Đó sẽ là cơ sở cho việc hoạch định đờng
lối phát triển kinh tế, văn hóa và du lịch của khu vực thành Tây Đô.
5. Luận án còn là nguồn tài liệu tham khảo cho giáo viên và sinh viên
trờng Đại học Hồng Đức và các trờng phổ thông trung học khi dạy và học
bộ môn lịch sử Việt Nam - lịch sử địa phơng, dân tộc học, văn hóa học.
6. Cấu trúc của luận án
- Luận án có 199 trang, ngoài phần mở đầu (từ trang 1 - trang 14) và
kết luận (từ trang 195 - trang 199), có 3 chơng:
Chơng 1. Khái quát về vùng đất Vĩnh Lộc và việc chọn vị trí xây
thành Tây Đô của Hồ Quý Ly (từ trang 15 - trang 59).
Chơng 2. Thành Tây Đô (từ trang 60 - trang 131).
Chơng 3. Vĩnh Lộc từ cuối thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XIX (từ
trang 132 - trang 194).
- Có 239 tài liệu tham khảo: 168 tài liệu tiếng Việt, 3 tài liệu tiếng
Pháp và 68 tài liệu Hán Nôm (sử dụng bản dịch tiếng Việt).
- Phụ lục: 51 bản đồ, sơ đồ và ảnh; 44 trang t liệu.
Chơng 1
Khái quát về vùng đất Vĩnh Lộc v việc chọn vị trí
xây thnh Tây Đô của hồ Quý Ly
1.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và hệ thống giao thông
Tiếp cận từ góc độ địa - văn hóa, tác giả luận án trình bày điều kiện
tự nhiên, môi trờng sinh thái trong mối quan hệ tơng tác với quá trình
tộc ngời và hoàn cảnh lịch sử để trên cơ sở đó lý giải đặc trng văn hóa
của vùng đất Vĩnh Lộc.
Vĩnh Lộc là một huyện ở về phía Tây Bắc tỉnh Thanh Hóa, nằm

trong khu vực chuyển tiếp từ vùng núi xuống đồng bằng với những dãy
núi đá vôi bị phong hóa mạnh, đồi núi đất thấp xen kẽ các cánh đồng phù
sa cổ do các con sông Mã, sông Bởi bồi đắp.
Vĩnh Lộc là vùng đất bán sơn địa có núi đá vôi, núi thấp, đồi, có sông
suối xen kẽ với đồng bằng. Tính đa dạng và phức hợp về địa hình đã tạo
nên hình thế hiểm yếu, thuận tiện cho việc xây dựng một căn cứ phòng
thủ với tòa thành đá kiên cố, phù hợp với tầm nhìn quân sự của Hồ Quý
Ly. Môi trờng tự nhiên đó còn là tác nhân tạo nên đặc trng kinh tế - xã
hội và văn hóa của huyện.
ở vị trí hiểm yếu nhng Vĩnh Lộc lại là nơi gắn với hệ thống giao thông
thủy, bộ thuận tiện. Ngợc sông Mã có thể lên thợng nguồn qua các
huyện miền núi Thanh Hóa sang tận đất Lào, xuôi dòng nối với Thăng
Long. Từ trung tâm Vĩnh Lộc còn có trục đờng bộ liên huyện, liên tỉnh
và có thể liên hệ với phía Bắc hoặc phía Nam bằng con đờng thợng đạo.
Điều kiện tự nhiên, môi trờng đa dạng và phức tạp không những tạo
nên diện mạo tự nhiên và thế hiểm yếu mà còn tác động đến việc hình
thành, phát triển của Vĩnh Lộc và việc Hồ Quý Ly quyết định xây dựng
tòa thành đá với chiến lợc phòng thủ.
1.2. Sự thay đổi đơn vị hành chính qua các thời kỳ lịch sử
Thời kỳ dựng nớc đây là vùng đất thuộc Bộ Cửu Chân. Trong hơn
một nghìn năm Bắc thuộc, tuy có sự thay đổi về tên gọi cũng nh địa giới
hành chính vùng đất này vẫn thuộc quận Cửu Chân. Đến thời Ngô - Đinh -
Tiền Lê thuộc về huyện Nhật Nam của Châu ái.
Thời Lý, Vĩnh Lộc cũng nh các vùng đất thuộc Thanh Hóa do
Tổng trấn Lý Thờng Kiệt cai quản. Đến thời Trần, Vĩnh Lộc thành một
huyện riêng- huyện Vĩnh Ninh thuộc trấn Thanh Đô.
Quyết định xây thành và dời đô cuối thế kỷ XIV đã tạo ra một bớc
ngoặt trong lịch sử phát triển của vùng đất Vĩnh Lộc. Từ huyện Vĩnh
Ninh vùng đất này đã trở thành kinh đô.
Thời Minh thuộc, Vĩnh Ninh trở lại vị thế một huyện trực thuộc phủ

Thanh Hóa. Thời Lê Sơ, Vĩnh Lộc vẫn là huyện Vĩnh Ninh thuộc trấn
7 8


Thanh Đô. Thời Trung Hng đổi là Vĩnh Phúc lệ vào phủ Thiệu Thiên,
thời Tây Sơn huyện Vĩnh Phúc đổi thành huyện Vĩnh Lộc, địa giới hành
chính vẫn giữ nguyên nh thời Lê.
Thời Gia Long, Vĩnh Lộc lệ thuộc phủ Thanh Hóa đến năm Minh
Mệnh 16 (1835) tách huyện Vĩnh Lộc khỏi phủ Thiệu Hóa để cho phủ
Quảng Hóa kiêm lý và địa giới của huyện đợc phân định cụ thể.
1.3. Dân c
Trong các thành phần dân tộc ở Vĩnh Lộc, ngoài ngời Kinh có tỷ lệ
cao nhất, còn có ngời Mờng và Chăm. Ngời Kinh có nguồn gốc bản
địa, địa bàn c trú cổ của ngời Mờng là vùng giáp ranh huyện Thạch
Thành và Cẩm Thủy. Ngời Chăm chủ yếu là tù binh và nghệ nhân, hoặc
vũ nữ bị triều đình phong kiến đa về đây sau các cuộc chiến tranh.
Ngời Chăm ở xen kẽ cùng ngời Kinh và ngời Mờng. Địa bàn c
trú trớc kia thuộc hơng Đại Lại và các vùng đất lân cận, vốn là các trại, sở
đồn điền sử dụng lao động của tù binh, sau dần biến thành các làng Chăm.
1.4. Mục đích và việc chọn vị trí xây thành, dời đô của Hồ Quý Ly
Trên cơ sở phân tích tình hình cuối thế kỷ XIV, khi Đại Việt lâm vào
cuộc khủng hoảng sâu sắc và đất nớc đứng trớc nguy cơ ngoại xâm
đang cận kề, tác giả đã chỉ ra tính tất yếu của một cuộc cải cách sâu sắc.
Lĩnh nhận sứ mệnh cải cách là Hồ Quý Ly, ngời đã nắm gần nh toàn
bộ quyền lực triều đình. Với vị thế, trọng trách của mình và để thực hiện
những tham vọng chính trị cá nhân, ông đã đa ra những quyết định táo
bạo có ý nghĩa sống còn với vơng triều và bản thân ông. Xây thành và
dời đô về Thanh Hóa là một trong những quyết định đó.
Với ý nghĩa này, dời đô không chỉ nhằm mục đích tạo điều kiện cho
việc đoạt ngôi, mà còn xuất phát từ nhu cầu củng cố sức mạnh của chính

quyền trung ơng và gấp rút củng cố quốc phòng chuẩn bị chống ngoại xâm.
Mặc dù công việc xây thành, dời đô diễn ra trong một thời gian tơng
đối ngắn, nhng sự kiện này đã đợc chuẩn bị khá kỹ lỡng. Trong hoàn
cảnh "Thiên không thời" (tiến hành cải cách không đúng thời điểm)á
"Nhân không hòa"
(chính sách gây bất bình với một số tầng lớp xã hội,
nhất là quý tộc họ Trần), Hồ Quý Ly chọn An Tôn nh một vùng đợc
coi là "Địa lợi" để định đô. Vị trí nơi đây phù hợp với ý t duy chính trị -
quân sự và cả quan niệm về tâm linh, phong thủy của Hồ Quý Ly.
Để hiểu rõ thêm về tòa thành, luận án cũng đã tiến hành khảo cứu sự
thay đổi tên gọi của nó qua các thời kỳ lịch sử. Trong các thành cổ Việt
Nam, đây là tòa thành có nhiều tên gọi khác nhau. Ngoài tên gọi Tây Đô,
thành còn đợc biết đến với các tên gọi khác nh An Tôn, Tây Kinh, Tây
Giai, thành nhà Hồ Mỗi tên gọi đều gắn với những sự kiện, quan điểm
và ý nghĩa khác nhau. Đây chính là một trong những lý do tạo nên nét
đặc biệt của tòa thành này.
Từ khảo cứu điều kiện tự nhiên, dân c cho thấy Vĩnh Lộc là một
huyện có vị thế đặc biệt quan trọng trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa. Đặc
điểm phong phú về điều kiện tự nhiên, môi trờng sinh thái, đa dạng về dân
c đã có tác động không nhỏ đến kinh tế và tạo nên những đặc trng văn hóa
của các cộng đồng c dân Vĩnh Lộc.
Trải qua các thời kỳ lịch sử, địa d và danh xng huyện Vĩnh Lộc cũng
nhiều lần thay đổi. Việc dời kinh đô từ Thăng Long về Vĩnh Lộc đã khẳng
định vị thế quan trọng của vùng đất này trong chiến lợc quân sự phòng
thủ của Hồ Quý Ly, đồng thời còn tạo điều kiện cho Vĩnh Lộc có những
bớc phát triển về kinh tế, văn hóa.

Chơng 2
Thnh Tây Đô
2.1. Sự ra đời của thành Tây Đô

2.1.1. Vị thế của thành Tây Đô trong vùng đất Vĩnh Lộc
Luận án không đi sâu khảo tả di tích mà tập trung làm rõ vị thế của
thành Tây Đô trong vùng đất Vĩnh Lộc và đối với vơng triều Hồ. Theo
cách phân chia địa giới hiện nay, thành Tây Đô nằm ở Bắc Trung Bộ
thuộc phần đất phía Tây của huyện Vĩnh Lộc.
9 10


Lựa chọn vị thế này, Hồ Quý Ly đã có những tính toán về: điều kiện
tự nhiên, vị trí quân sự, hệ thống giao thông thủy - bộ và cả cái nhìn theo
thuật phong thủy.
2.1.2. Quá trình xây dựng thành Tây Đô
Tây Đô về cơ bản đợc hoàn tất ít nhất trong khoảng hơn một năm
(từ tháng giêng năm 1397 đến tháng 3 âm lịch năm 1398) chứ không phải
chỉ trong vòng 3 tháng nh vẫn thờng đợc quan niệm. Với quy mô và
độ tinh xảo của kiến trúc, đây vẫn là một thời gian kỷ lục.
Nguồn nhân lực đợc huy động vào công việc xây dựng, ngoài các
kiến trúc s, thợ kỹ thuật đến từ nhiều nơi (không loại trừ có cả những
nghệ nhân Chăm) lực lợng lao động phổ thông chủ yếu vẫn là dân địa
phơng và các vùng phụ cận.
Vật liệu xây thành gồm đá vôi khối lớn đợc khai thác tại ngọn núi
phía Tây và Tây Bắc thành, đất lấy từ các quả đồi xung quanh (hoặc tận dụng
từ việc đào hệ thống hào) trộn với cát sỏi khai thác ở sông Mã. Phần trên
tờng thành đợc xây bằng gạch.
Việc khai thác vận chuyển hàng vạn m
3
đá hoàn toàn không đơn
giản. Kết quả phân tích kỹ thuật và những di vật còn lại cho phép đoán
định đá đợc khai thác bằng phơng pháp thủ công và vận chuyển bằng
cộ (một loại xe kéo) và bi (một dạng con lăn). Đối với phơng pháp vận

chuyển bằng bi phải kết hợp với kỹ thuật làm nền đờng phẳng cứng.
Khi tiến hành nghiên cứu kỹ thuật xây dựng tờng thành, có một
phát hiện khá lý thú là từ trớc tới nay vật liệu xây thành Tây Đô thờng
đợc cho rằng chủ yếu là đá khối lớn, nhng thực tế lại không phải nh
vậy. Đá tảng lớn ốp kín các mặt tờng, nhng chỉ chiếm khoảng 1/3 khối
lợng vật liệu. Cả bốn bức tờng thành đều đợc kết hợp kỹ thuật xếp đá
phiến ốp mặt ngoài với việc chèn đá mồ côi ở giữa và đắp tờng đất trộn
cát sỏi bên trong, tạo thành ba lớp với các chất liệu, kỹ thuật và các chức
năng khác nhau. Nh vậy, phần chủ yếu của các bức tờng lại là đá nhỏ
và đất trộn với cát sỏi làm cốt bên trong.
Nếu toàn bộ mặt thành ngoài đợc ghép đá phẳng dựng đứng đòi hỏi
trình độ kỹ thuật và mỹ thuật cao thì mặt trong lại đợc đắp dốc thoải dần
bằng kỹ thuật ghép đá thô sơ hơn.
Kỹ thuật xây dựng tinh xảo đợc thể hiện tập trung ở cổng thành. Tại
hạng mục công trình này, đá khối lớn đợc ghè đẽo tinh vi, đạt mức độ
chuẩn xác cao theo kích cỡ và hình dáng định sẵn. Để xây dựng đợc các
vòm cửa cuốn riềm tò vò bằng đá, trớc hết ngời ta đắp đất, cát sỏi thành
hình vòm cửa bên trong làm cốt, làm bệ đỡ và tạo dáng các vòm cửa, sau đó
chỉ việc lắp đặt đá tảng bên trên theo hình vòm đất. Khi xây xếp đá xong, lõi
đất đợc khoét ra và vòm cuốn đồ sộ đã hình thành. Phần trụ của cổng thành
làm theo hình thang cân, dới choãi rộng trên thu dần nên rất vững chãi.
Cổng thành, vì vậy, có thể còn đợc xem là một công trình nghệ thuật.
2.2. Cấu trúc tòa thành
2.2.1. La thành và hào thành
Ngoài tòa thành bằng đá, chỉnh thể toàn bộ công trình còn có hệ
thống bảo vệ vòng ngoài, bao gồm la thành và hào thành.
La thành chính là lũy đất cách thành nội khoảng 2 km, chu vi ớc chừng
khoảng 4 km đợc đắp men theo bờ sông Mã phía Tây và sông B
ởi phía Đông,
nhập với các dãy đồi phía Bắc và chạy qua cánh đồng rộng ở phía Nam, tạo

nên một bức tờng thành. Để tăng độ hiểm trở, trên lũy đất đợc trồng tre gai.
Việc lợi dụng triệt để các địa hình địa vật để xây dựng, tạo nên hình
dáng độc đáo của La Thành cho thấy sự tiếp nối của kỹ thuật xây thành
truyền thống từng đợc thể hiện trong nhiều công trình thành lũy trớc đó.
Ngoài hệ thống hào tự nhiên (sông Mã và sông Bởi) vừa sâu vừa
rộng hình vòng cung vây bọc kinh thành, Hồ Quý Ly đã cho đào một hệ
thống hào sâu bao quanh và cho rải chông sắt phía trong lòng.
2.2.2. Thành nội
Xuất phát từ quan niệm truyền thống nên tất cả các tòa thành ở Việt
Nam đều mở hớng Nam. Thành Tây Đô cũng không ngoài quy luật đó.
Những số liệu mới nghiên cứu về Tây Đô cho thấy hớng của tòa thành lệch
11 12


Nam 12
0
. Hớng lệch Nam của tòa thành không chỉ chịu chi phối trực tiếp
bởi địa thế sông suối mà còn xuất phát theo cái nhìn của thuật phong thủy.
Trớc nay, các nguồn t liệu đều không thống nhất về kích thớc,
chênh lệch số đo giữa các cạnh và dẫn đến nhận định về cấu trúc thành
nội có sự khác nhau. Số liệu đo trực tiếp bằng phơng tiện thủ công hoặc
hiện đại đều cho biết Tây Đô có bình đồ gần vuông (chênh lệch giữa
chiều dài và rộng là 3m). Cấu trúc gần vuông của tòa thành là ảnh hởng
từ quan niệm phong thủy của ngời thiết kế.
Tờng thành đều đợc cấu tạo theo hình thang vuông; bên trong đắp
dốc bằng đất thoải dần, ở giữa đợc chèn bằng lớp đá nhỏ và bên ngoài
đợc ốp bằng đá tảng theo phơng thẳng đứng. Cấu trúc tờng thành đã
đáp ứng một trong hai yêu cầu của một kinh đô phong kiến mang nặng
tính quân sự phòng thủ (thành cao và hào sâu).
Bốn cổng thành Tây Đô (Đông, Tây, Nam và Bắc) đều đợc mở tại

trung điểm các mặt thành, riêng cửa Nam (cửa Tiền) với 3 vòm cửa cuốn
(vòm giữa to cao hơn, hai vòm bên nhỏ hơn), các cửa còn lại đợc xây theo
kiểu đơn môn (một vòm cuốn). Toàn bộ cổng thành đều đợc xây ghép bằng
đá phiến khéo léo, vòm cửa xây cuốn tò vò trên những tờng trụ hơi nghiêng
theo hình thang cân (trên nhỏ, dới to). Phía trên cửa Nam và cửa Bắc (cửa
Tiền và cửa Hậu) đợc xây lầu canh, dấu tích còn lại là các hàng lỗ cột.
Cấu trúc cổng thành đã tạo nên nét độc đáo của thành Tây Đô.
2.2.3. Các công trình kiến trúc trong thành
Các công trình kiến trúc trong thành nội hiện không còn, nhng kết
hợp các nguồn t liệu với dấu tích nền móng cũ còn lại trên bề mặt có thể
hình dung phần nào kiến trúc của hệ thống cung điện xa, theo đó,
Hoàng thành đợc chia làm 4 phần bởi hai trục đờng nối 2 cổng Bắc -
Nam và 2 cổng Đông - Tây. Di tích còn lại trên mặt đất là hai thành bậc
cung điện chạm rồng (đã bị cụt đầu) mang phong cách nghệ thuật thời
Trần, song ít nhiều vẫn thể hiện sự hồi tởng nghệ thuật thời Lý tạo nên
nét đặc biệt ở buổi giao thời Trần - Hồ.
2.2.4. Một số công trình kiến trúc có liên quan
Ngoài hệ thống thành lũy, khu vực thành Tây Đô còn phải kể đến
một số công trình kiến trúc có liên quan, trong đó trớc phải kể đến cung
Bảo Thanh. Đây là kiến trúc có từ trớc khi xây thành Tây Đô. Hồ Quý
Ly đã cho xây dựng cung Bảo Thanh với dự định ban đầu là dời đô đến
đây. Hiện các kiến trúc cung Bảo Thanh chỉ có dấu vết nền móng chìm
trong lòng đất đợc phát hiện qua các đợt khai quật khảo cổ học.
Trong tiến trình dời đô, cung Bảo Thanh có vai trò nh là
hành cung
của nhà Trần. Cùng với khu hoàng thành Tây Đô, cung điện Bảo Thanh
nằm trong hệ thống cung thất của một kinh đô thời Trần - Hồ.
Một công trình quan trọng khác là Đàn Nam giao. Công trình đợc
xây dựng trên núi Đốn sau khi vơng triều Hồ thiết lập (1402), hiện chỉ
còn dấu vết của nền móng. Dựa vào dấu tích đợc khảo cổ học phát hiện,

có thể biết Đàn Nam giao không chỉ có hình dáng gần vuông nh bình đồ
thành nội Tây Đô, mà còn là đặc trng của kiến trúc triều Hồ trong việc
sử dụng chất liệu đá phiến.
Cũng nh cung Bảo Thanh, Đàn Nam giao là một bộ phận nằm trong
quy hoạch kiến trúc của kinh thành.
2.3. Giá trị của thành Tây Đô
Với vai trò là kinh thành, Tây Đô từng là trung tâm chính trị, văn hóa và
kinh tế của cả nớc. Tại đây triều Hồ đã ban hành và thực thi nhiều chính
sách chính trị, quân sự và văn hóa. Tuy nhiên, tòa thành đợc biết đến nhiều
hơn với vai trò là một thành lũy quân sự. Tây Đô thực sự là một trong những
công trình kiến trúc quân sự độc đáo và kiên cố trong lịch sử Việt Nam.
Vợt qua thời gian hơn 6 thế kỷ, công trình thành Tây Đô đã khẳng
đợc giá trị trên cả hai phơng diện trình độ kỹ thuật và nghệ thuật kiến
trúc. Có thể nói kỹ thuật xây dựng thành đã đạt tới trình độ cao nhờ có sự
kế thừa những tinh hoa đúc kết trong kỹ thuật xây thành của ngời Việt
với kỹ thuật đơng đại. So với các thành lũy Việt Nam trớc đó, Tây Đô
là bớc phát triển sáng tạo vợt bậc trong kỹ thuật xây dựng thành lũy.
13 14


Thành Tây Đô là công trình kiến trúc có giá trị văn hóa đặc sắc, biểu
hiện một giá trị thẩm mỹ đặc biệt, một cảm quan nghệ thuật cao của dân
tộc. Không chỉ là một công trình kiến trúc quân sự kiên cố, thành Tây Đô
còn là một tác phẩm nghệ thuật độc đáo.
Bên cạnh những giá trị vật thể, công trình thành Tây Đô còn để lại
những kinh nghiệm và bài học lịch sử nh những giá trị phi vật thể. Trớc
hết là kinh nghiệm về tổ chức xây dựng và huy động sức dân. Để có thể xây
dựng đợc một trình kiến trúc đồ sộ đòi hỏi trình độ tổ chức rất cao. Cho đến
nay, đây vẫn còn là điều còn rất nhiều bí ẩn. Kinh nghiệm về việc tiếp thu kỹ
thuật truyền thống và tri thức đơng đại để xây dựng một tòa thành đạt giá trị

cao về kỹ thuật và nghệ thuật cũng là những vấn đề cần đợc nghiên cứu
thêm. Ngoài ra còn cần phải kể đến những kinh nghiệm về khai thác, vận
chuyển vật liệu một cách hợp lý để tiết kiệm đợc thời gian và công sức.
Tuy nhiên, bài học lịch sử lớn nhất có thể rút ra từ công trình kiến
trúc quân sự đồ sộ này là không một tòa thành nào vững chắc hơn lòng
dân. Đó cũng chính là căn nguyên sâu xa dẫn tới sự thất bại của Hồ Quý
Ly. Bài học xơng máu từ thất bại của họ Hồ là đã không hiểu đợc một
quy luật giản dị trong lịch sử chống xâm lợc của dân tộc Việt Nam là
"thành trì kiên cố không bằng bức thành của lòng dân".
2.4. Thành Tây Đô sau vơng triều Hồ
Cuộc kháng chiến chống Minh của Hồ Quý Ly bị thất bại (1407), kể
từ đây, thành Tây Đô chấm dứt vai trò là kinh đô.
Trong gần 20 năm đất nớc dới ách đô hộ, Tây Đô từ một kinh đô
trở thành căn cứ của quân Minh.
Khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi, thành Tây Đô đã trở thành phế tích.
Thời Trung hng, Tây Đô có vai trò quan trọng, trở thành "hành
doanh", một căn cứ quân sự lợi hại trong sự nghiệp "phò Lê diệt Mạc".
Đến giữa thế kỷ XIX cấu trúc thành Tây Đô không thay đổi nhiều so
với hiện trạng.
Nh vậy, trong số các thành lũy Việt Nam thời kỳ trung đại, có thể nói
Tây Đô là tòa thành kiên cố bậc nhất với kiến trúc độc đáo và xây dựng trong
thời gian nhanh nhất. Tòa thành là sự kết tinh sức lao động và trí sáng tạo của
ngời Việt. Sự độc đáo của thành Tây Đô chính là bình đồ gần vuông với hệ
thống tờng và các vòm cổng bằng đá đồ sộ, kiên cố. Cấu trúc tòa thành đã
chú ý kết hợp yếu tố thành và yếu tố thị của một kinh đô, đồng thời là sự
kết hợp kinh nghiệm truyền thống với kỹ thuật đơng đại. Dù không hoàn
thành sứ mệnh một kinh đô kháng chiến, nhng Tây Đô xứng đáng đợc
đánh giá cao nh một công trình kiến trúc quân sự đặc sắc.

Chơng 3

vĩnh lộc từ cuối thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XiX
3.1. Vĩnh Lộc từ cuối thế kỷ XIV đến đầu thế kỷ XV
3.1.1. Tình hình khai phá đất đai và lập làng trớc thời điểm xây
thành dời đô
Quá trình khai phá đất đai và lập làng đã diễn ra từ nhiều thế kỷ
trớc khi vùng đất Vĩnh Lộc trở thành kinh đô. Đây là vùng đất cổ từng
có con ngời sinh sống qua các thời đại.
Dấu tích văn hóa Sơn Vi đợc phát hiện ở Vĩnh Lộc đã khẳng định đây là
địa bàn hoạt động của ng
ời nguyên thủy. Dấu tích văn hóa Đông Sơn cho
thấy vai trò của vùng đất này trong thời kỳ vua Hùng dựng nớc Văn Lang.
Cùng với quá trình di dân, định c, khai phá đất đai và sự hình thành
nên các cánh đồng bãi đợc bồi đắp phù sa là sự hình thành làng xã. Trải
qua các thời kỳ phát triển, đến thời Trần vùng đất Vĩnh Ninh là thái ấp
của dòng họ Lê Phụ Trần, góp phần mở mang vùng đất Vĩnh Lộc.
3.1.2. Vĩnh Lộc thời kỳ là kinh đô
Sự kiện xây thành, dời đô vào cuối thế kỷ XIV đã tạo nên bớc ngoặt
trong quá trình phát triển của huyện Vĩnh Lộc. Vị thế chính trị mới
15 16


không chỉ làm thay đổi về kết cấu hạ tầng, tạo ra những nhu cầu mới kích
thích sự phát triển kinh tế - xã hội mọi mặt, đặc biệt là sự biến đổi về
ruộng đất và sự hình thành phát triển làng xã mà còn là cơ sở để khẳng
định vị thế quan trọng của vùng đất này.
Cùng với khu Hoàng thành, một trung tâm chính trị - quân sự đã hình
thành nên khu hành chính kinh đô và kích thích kinh tế phát triển. Khi trở
thành kinh đô, vùng đất Vĩnh Lộc "từ một làng quê đã dần dần trở thành
một đô thị, một trung tâm của trấn Thanh Đô".
3.2. Vĩnh Lộc từ đầu thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII

3.2.1. Từ đầu thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XVI
Sau khi mất vị trí là kinh đô, vùng đất Vĩnh Lộc cũng nh thành Tây
Đô là nơi chiếm đóng của quân xâm lợc Minh. Quân Minh đã biến tòa
thành này thành một căn cứ quân sự và một trị sở chính trị nhằm áp đặt chế
độ cai trị hà khắc và đàn áp các cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta.
Nhiều cuộc khởi nghĩa đã nổ ra trên đất Thanh Hóa, tiêu biểu là cuộc
khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi khởi xớng (1418) đã thu hút nhân tài vật
lực ở nhiều nơi tham gia. Trong số những ngời sớm gia nhập cuộc khởi
nghĩa có nhiều ngời quê ở Vĩnh Lộc, tiêu biểu nhất là Trịnh Khả.
Trong suốt cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, vùng đất Vĩnh Lộc là trọng
điểm của cuộc chiến, nhân dân Vĩnh Lộc đã tham gia và góp phần quan
trọng làm nên thắng lợi vĩ đại của dân tộc.
Kháng chiến chống Minh thắng lợi, nhà Lê thành lập, Vĩnh Lộc bớc
vào thời kỳ phát triển mới. Về kinh tế, do là quê hơng của nhiều khai quốc
công thần và là vùng đất có đóng góp quan trọng cho triều Lê nên Vĩnh Lộc
đợc hởng một số chính sách u đãi về ruộng đất. Điều này đã có tác động
đến ruộng đất công làng xã cũng nh các loại hình sở hữu đất t và đồn điền.
Chính sách ban cấp ruộng đất cho khai quốc công thần và chế độ lộc
điền cho quý tộc quan lại của vơng triều Lê mà Vĩnh Lộc là vùng đất có
nhiều khai quốc công thần nên ruộng đất đợc ban cấp ở đây chiếm một
khối lợng đáng kể. Đây là cơ sở để ruộng t ngày càng phát triển và
nhiều làng mới ra đời trên cơ sở trại ấp.
Triều đình đặc biệt quan tâm đến vấn đề thủy lợi nên Vĩnh Lộc vốn
là vùng đất bị tàn phá nặng nề nhng cũng đã nhanh chóng ổn định đợc
đời sống và sản xuất nông nghiệp sau chiến tranh.
Trên cơ sở phát triển kinh tế nông nghiệp, các ngành nghề thủ công
và thơng nghiệp ở Vĩnh Lộc tiếp tục đợc duy trì và mở rộng.
Về tổ chức hành chính, văn hóa và xã hội, mặc dù trải qua một số
lần thay đổi tên gọi và diên cách, vùng đất này luôn đợc triều Lê đặc
biệt quan tâm. Đây là thời kỳ phát triển rực rỡ của Nho học trên quy mô

cả nớc nên giáo dục khoa cử ở Vĩnh Lộc có điều kiện phát triển. Đây là
một trong những đất học của xứ Thanh. Vĩnh Lộc từng có nhiều ngời đỗ
đạt cao và hiển đạt trong chốn quan tr
ờng.
Văn hóa vật chất và tinh thần ở Vĩnh Lộc có nhiều nét đặc sắc, với nhiều
công trình kiến trúc có giá trị, đóng góp vào kho tàng văn hóa xứ Thanh.
3.2.2. Từ đầu thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XVIII
Không chỉ là đất phát tích của chúa Trịnh mà Vĩnh Lộc còn có vị trí
giao thông thủy - bộ quan trọng nên vùng đất này đã trở thành mắt xích
quan trọng bậc nhất trong cuộc chiến tranh Trịnh - Mạc.
Vùng đất Vĩnh Lộc mà trung tâm là thành Tây Đô - Biện Thợng đã
trở thành căn cứ, địa bàn quan trọng cho lực lợng phò Lê đứng đầu là
Nguyễn Kim sau đó là họ Trịnh khôi phục lại vơng triều Lê.
Từ nửa đầu thế kỷ XVI, Vĩnh Lộc trở thành chiến trờng nóng bỏng,
khốc liệt trong cuộc chiến tranh Nam - Bắc triều nên dân c loạn lạc,
ruộng vờn bỏ hoang Tuy có nhiều khó khăn nhng kinh tế nông nghiệp
Vĩnh Lộc vẫn có bớc phát triển đáng kể, nhất là khi chính quyền Lê -
Trịnh có những đặc ân đối với vùng đất này.
Trong suốt thời Lê Trung hng, Vĩnh Lộc vẫn duy trì đợc sự phát
triển trên mọi phơng diện. Một trong những tác nhân tạo nên sự phát
17 18


triển đó chính là những tiền đề đã có từ thời còn là kinh đô và những
chính sách u tiên của triều đình.
3.2.3. Vĩnh Lộc cuối thế kỷ XVIII
Cuối thế kỷ XVIII, Vĩnh Lộc và vùng đất Tây Bắc xứ Thanh trở
thành địa bàn của lực lợng nổi dậy chống lại triều đình đứng đầu là Lê
Duy Mật và Hoàng Công Chất. Những năm đầu thời kỳ Tây Sơn, tình
hình ruộng đất ở Vĩnh Lộc bị bỏ hoang nhiều do thiếu lực lợng lao động

trầm trọng. Dân phiêu tán do đời sống đói khổ. Nhờ chính sách khuyến
nông có hiệu quả và thuế khóa tơng đối hợp lý nên kinh tế nông nghiệp
Vĩnh Lộc nhanh chóng đuợc phục hồi và có điều kiện phát triển.
Do vị thế quan trọng nằm trên con đờng thợng đạo, và đặc biệt ở vị
trí phía Nam của hệ thống núi Tam Điệp cho nên vùng đất này đã có
nhiều đóng góp vào sự nghiệp chống quân xâm lợc Mãn Thanh dới sự
lãnh đạo của Hoàng đế Quang Trung.
3.3. Vĩnh Lộc nửa đầu thế kỷ XIX
3.3.1. Thiết chế chính trị
Dới thời Nguyễn, hệ thống quản lý hành chính ở địa phơng có
nhiều biến đổi. Trong các làng xã, ngoài bộ phận Lý dịch là những chức
sắc trong bộ máy quản lý chính thức, đã hình thành rõ nét một hình thức
quyền lực phi quan phơng bao gồm các kỳ mục. Ngoài ra, ở từng làng
còn có các tổ chức phi hành chính là xóm, họ, phe, giáp, phờng hội
Vĩnh Lộc còn là vùng đất mà Phật giáo và Thiên chúa giáo phát triển
nên các chức sắc tôn giáo (s sãi, linh mục) cũng là những ngời có vai
trò quan trọng và có ảnh hởng trong xã hội nên họ đã gián tiếp tham gia
vào quản lý, điều hành cộng đồng.
ở những vùng c trú của ngời Mờng, ngoài hệ thống trị của chính
quyền nhà Nguyễn, còn có chế độ Lang Đạo.
Tổ chức quản lý làng xã ở huyện Vĩnh Lộc mang đầy đủ đặc trng
của làng cổ truyền Việt Nam nói chung và xứ Thanh nói riêng.
3.3.2. Tình hình ruộng đất và kinh tế
Tình hình ruộng đất và kinh tế đã phản ánh những đặc trng của vùng
đất Vĩnh Lộc. Nếu nh đến đầu thế kỷ XIX, ruộng đất t hữu ở Thanh Hóa
cũng nh các vùng khác trong toàn quốc phát triển ngày càng mạnh mẽ, tỉ lệ
ruộng t so với tổng diện tích canh tác đã lên tới trên dới 80% thì bức tranh
về chế độ ruộng đất khu vực thành Tây Đô lại hoàn toàn khác.
Phân tích tình hình ruộng đất qua địa bạ thời Minh Mạng của một số
làng (trang) đợc thành lập từ thời Hồ d

ới tác động của việc xây thành
Tây Đô cho thấy cho đến nửa đầu thế kỷ XIX, ruộng đất t hữu ở đây còn
rất kém phát triển. Thậm chí ở trang Đông Môn t điền, t thổ hoàn toàn
thiếu vắng. Đây chính là một điểm khác biệt về ruộng đất của khu vực
thành Tây Đô mà chắc chắn là do tác động của chính trị. Điều này cũng
tơng t nh một số vùng khác trong cả nớc có vị trí kề cận hoặc trong
vòng kiểm soát của trung tâm chính trị qua các thời kỳ lịch sử.
Một hiện tợng khá đặc biệt khác là diện tích đất mộ địa - loại đất
dờng nh ở đâu cũng có và với diện tích không đáng kể, thì ở các địa
phơng đợc nghiên cứu lại chiếm tỉ lệ khá cao. Có xã đất mộ địa chiếm tới
48,4% tổng diện tích. Địa phơng thấp nhất mộ địa cũng chiếm tới 11,4%.
Có thể coi đây là hiện tợng không bình thờng. Phải chăng đây là chứng
tích của những trận giao tranh ác liệt ở khu vực thành qua các thời kỳ?
Là huyện đồng bằng nhng Vĩnh Lộc có đầy đủ các dạng địa hình đồng
bằng, thung lũng và núi rừng. Điều kiện tự nhiên có nhiều thuận lợi cho sự phát
triển các loại hình kinh tế, trong đó kinh tế nông nghiệp đóng vai trò chủ đạo.
Bên cạnh nông nghiệp, thủ công nghiệp ở Vĩnh Lộc cũng khá phát
triển. Các nghề thủ công nổi tiếng phải kể đến là nghề dệt và đi liền với
nó là nghề nhuộm vải. Cùng với nghề dệt, Vĩnh Lộc còn nổi tiếng với
nghề đan lát, nghề khai thác và chế tác đá, nghề làm gạch ngói Đó đều
là những nghề thủ công gắn với sự kiện lịch sử xây thành Tây Đô.
Đã từng một thời là kinh đô, thơng nghiệp Vĩnh Lộc cũng có những
chuyển biến. Tổng Biện Thợng có một nửa dân số chuyên nghề buôn bán
19 20


(nhất là Đông Biện, Kim Sơn). Đến nửa đầu thế kỷ XIX đã hình thành các
trung tâm kinh tế với các tụ điểm buôn bán lớn nh phố Giáng (huyện lị),
Tây Giai (chợ Tây Giai) và Ngã Ba Bông (các xã Đông Nam huyện và phố
Bồng) Đây là những trung tâm kinh tế gắn liền với hệ thống giao thông

đờng thủy đợc hình thành từ khá sớm, nhng từ sau khi Vĩnh Lộc trở
thành kinh đô, các trung tâm giao lu buôn bán với các thị trấn, thị tứ, các
phố phát triển hơn Ngoài hệ thống chợ còn có hệ thống các quán ở ven
đờng giao thông nh quán Phú Điền (xã Phú Điền) và quán Bản Thủy
(xã Bản Thủy). Hệ thống các trung tâm thơng nghiệp với các chợ, quán
đã góp phần không nhỏ vào việc lu thông hàng hóa và phát triển kinh tế
thơng mại không chỉ của riêng Vĩnh Lộc mà còn cho cả xứ Thanh.
3.3.3. Tình hình văn hóa và x hội
Vĩnh Lộc là vùng đất có truyền thống đỗ đạt và làm quan với các các
cự tộc Đỗ, Phạm, Nguyễn, Tống Sang đến thời Nguyễn, truyền thống
này vẫn đợc tiếp nối. Theo số liệu thống kê trong vòng hơn 100 năm
dới triều Nguyễn, huyện Vĩnh Lộc có 46 ngời (trong tổng số 390 ngời
Thanh Hóa) đỗ cử nhân, là huyện có ngời đỗ đạt xếp vị trí thứ 3 sau
huyện Hoằng Hóa (121 ngời) và Đông Sơn (47 ngời). Sách Đồng
Khánh d địa chí cũng đã nhận xét: "về việc học thì Vĩnh Lộc là nhất".
Trên đất Vĩnh Lộc, nhất là vùng Biện Thợng còn tồn tại một loạt
các di tích, địa danh nh vờn Thợng Uyển, Vờn Hoa, Dàn Trò, Bàn
Cờ, xóm Hát có liên quan đến hoạt động văn hóa - xã hội cung đình và
dân gian. Đây cũng là một vùng nổi tiếng về các sinh hoạt văn hóa quý tộc.
Vĩnh Lộc là nơi có nhiều ngôi chùa nổi tiếng của xứ Thanh và cũng
là một trong những nơi tiếp nhận và chịu ảnh hởng tơng đối sớm của
đạo thiên chúa giáo, nhng nét nổi bật của Vĩnh Lộc là một vùng văn hoá
truyền thống với nhiều hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian đặc sắc. Các
dân tộc nh Kinh, Mờng ở đây đều có những hình thức sinh hoạt văn
hóa dân gian đa dạng. Ngoài những lễ hội vào các dịp lễ tết nh các nơi
khác, ở đây còn có những lễ hội riêng của mình nh lễ hội đền Hàn, đền
Ông, đền Ba Bông, lễ hội đền thờ Trịnh Khả, Lễ hội đền Tam tổng Là
vùng đất có nhiều tộc ngời c trú, nên ngoài những sinh hoạt văn hóa
của ngời Việt, các lễ hội và các hình thức sinh hoạt văn hóa của ngời
Mờng, ngời Chăm nh hát Sét Bùa, hát đối đáp nam nữ đã làm cho lễ

hội dân gian ở vùng đất Vĩnh Lộc thêm đa dạng.
Đã từng là kinh đô, Vĩnh Lộc lu giữ nhiều phong tục, tập quán mang
dấu ấn của một trung tâm văn hóa. Trong huyện có nhiều địa phơng có truyền
thống giỏi ca hát (xã Hoa Nhai, tổng Cao Mật thuộc đất thuộc kinh đô cũ),
giỏi võ thuật (các xã Nhật Chiếu, Đông Môn và Phú Lâm, tổng Bỉnh Bút),
tục thi uống rợu (xã Nam Cai, tổng Nam Cai), tục đấu trí ở tổng Ngọ Xá
Từ khi trở thành kinh đô mới (cuối thế kỷ XIV), vùng đất Vĩnh Lộc
đã có nhiều thay đổi. Cấu trúc và đặc điểm chế độ ruộng đất qua các thời
kỳ nhất là tình hình ruộng đất quanh thành Tây Đô nửa đầu thế kỷ XIX
cho thấy dấu ấn lịch sử vẫn còn in đậm trên vùng đất đã từng là trung tâm
chính trị của cả nớc. Vĩnh Lộc có kết cấu kinh tế đa dạng và phong phú
với nhiều loại hình kinh tế, trong đó kinh tế nông nghiệp đóng vai trò chủ
đạo. Vĩnh Lộc còn là nơi diễn ra quá trình giao lu văn hóa của cả nớc
nên để lại nơi đây những dấu ấn văn hóa đa dạng và đặc sắc. Có thể nói,
vùng đất Vĩnh Lộc liên tục giữ vai trò nh một cái "sân sau" cho mọi hoạt
động chính trị từ cuối thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XIX.

Kết Luận
1. Vĩnh Lộc là một huyện có vị thế quan trọng của tỉnh Thanh Hóa.
Do vị trí chuyển tiếp giữa đồng bằng và miền núi nên từ xa xa vùng đất
này đã là nơi tụ hội của nhiều luồng c dân và là nơi diễn ra quá trình
giao thoa của những truyền thống văn hóa khác nhau. Với địa hình và
cảnh quan môi trờng phức hợp vừa tạo nên những thuận lợi cho việc
phát triển kinh tế - văn hóa, nhng đồng thời cũng đặt ra không ít những
thách thức buộc con ngời phải luôn sáng tạo để khắc phục và thích ứng.
21 22


Là một huyện nằm trên con đờng thợng đạo Bắc - Nam, là nơi hợp
lu của sông Bởi với sông Mã, Vĩnh Lộc có u thế về giao thông cả

đờng bộ lẫn đờng thủy. Tuy đất đai không thật phì nhiêu, nhng do
điều kiện tự nhiên đa dạng, phong phú và giao lu tiện lợi, vùng đất Vĩnh
Lộc có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế và văn hóa.
Xét từ phơng diện địa - chính trị và địa - quân sự, Vĩnh Lộc có
nhiều lợi thế phù hợp với việc xây dựng một trung tâm chỉ huy quân sự
trong thời kỳ có chiến tranh. Đây là vùng đất có thể tận dụng địa hình
hiểm trở với hệ thống núi, đồi liên hoàn để phòng thủ. Hơn thế, đá núi
còn là nguồn vật liệu tại chỗ có thể dùng vào việc xây dựng những công
trình quân sự kiên cố.
Môi trờng địa lý nhân văn thuận lợi, vị thế quân sự hiểm yếu của
vùng đất đã góp phần giúp triều Trần làm nên những kỳ tích trong sự
nghiệp chống ngoại xâm, tham gia hun đúc nên hào khí Đông A, nhng
cũng chính những lợi thế đó của xứ Thanh nói chung và Vĩnh Lộc nói
riêng lại là một trong những nhân tố để Hồ Quý Ly chọn động An Tôn
làm nơi định đô mới và thiết lập vơng triều Hồ.
2. Dời đô về Thanh Hóa là một quyết định có cân nhắc, tính toán của Hồ
Quý Ly. Kinh nghiệm rút ra từ cuộc kháng chiến chống xâm lợc Mông-
Nguyên diễn ra trớc đó cha lâu chắc chắn có tác động mạnh đến Hồ Quý Ly.
Trong những cuộc kháng chiến này tuy cuối cùng nhà Trần đều giành đợc
thắng lợi, nhng cả ba lần triều đình đều phải rút lui khỏi kinh thành. Trong
những lần rút lui chiến lợc đó, xứ Thanh từng trở thành hậu cứ quan trọng. Từ
cuối thế kỷ VIV đầu thế kỷ XV, nguy cơ một cuộc chiến tranh xâm lợc
quy mô lớn từ phía nhà Minh lại xuất hiện. Trong bối cảnh Hồ Quý Ly
đang tiến hành dở dang hàng loạt chính sách cải cách, những thế lực thủ cựu
đang tìm cách chống đối, việc tổ chức kháng chiến theo cách của nhà Trần đã
từng làm hoàn toàn không đơn giản. Vì vậy, Hồ Quý Ly đã sớm tính tới
khả năng chọn nơi có vị thế quân sự hiểm yếu để xây dựng kinh đô mới.
Trong bối cảnh đó, Vĩnh Lộc xứ Thanh là lựa chọn số một.
Trớc đây khi phân tích quyết định dời đô về Thanh Hóa, một số nhà
nghiên cứu thờng tập trung khai thác khía cạnh "mu đồ thoán đoạt ngôi

vua" của Hồ Quý Ly, cho rằng đây là một thủ đoạn nhằm tách triều đình
ra khỏi vùng quý tộc nhà Trần có ảnh hởng lớn để về nơi "quý hơng"
của họ Hồ. Chắc chắn những điều trên đây không nằm ngoài toan tính
của Hồ Quý Ly, nhng nghiên cứu sâu và tơng đối toàn diện về vùng đất
Vĩnh Lộc, có thể thấy quyết định dời đô không đơn giản chỉ vì một mục
đích duy nhất nh vậy. Có thể nói, dời đô còn là một giải pháp nằm trong
toàn bộ kế hoạch thực hiện những cải cách nhằm khôi phục lại sức mạnh
của chính quyền trung ơng, góp phần đa đất nớc thoát ra khỏi bế tắc
và nhất là để chuẩn bị cơ sở chống lại một cuộc chiến tranh xâm lợc quy
mô lớn từ phía nhà Minh đang đến gần. Vùng đất Vĩnh Lộc rất phù hợp
với t tởng quân sự của Hồ Quý Ly. Tuy nhiên, nhìn vào kết cục lịch sử,
có thể đây là một quyết định sai lầm mà hậu quả của nó đã hoàn toàn
nằm ngoài những trù tính của Hồ Quý Ly.
3. Trong lịch sử trung đại Việt Nam, Tây Đô không chỉ là thành lũy
quân sự từ trong dự kiến ban đầu cũng nh hiện thực mà tòa thành này
còn có thể coi là một đỉnh cao, kết tinh nghệ thuật kiến trúc và kỹ thuật
xây dựng. Đây là tòa thành đá kiên cố nhất với kiến trúc độc đáo và đợc
xây dựng trong thời gian nhanh nhất. Tây Đô còn đợc đánh giá là một
kiệt tác do con ngời sáng tạo và là một công trình kiến trúc có giá trị về
nhiều mặt, đó là kết tinh sức lao động và trí sáng tạo của các kiến trúc s
thời Hồ và nhân dân cả nớc.
Tìm hiểu kỹ cấu trúc và kỹ thuật xây thành có thể thấy công trình
này vừa kết hợp với phong cách xây thành truyền thống của ngời Việt
vừa có sự phát triển cao, rất khác với các công trình trình kiến trúc thành
luỹ trớc đây. Tiếp thu những kinh nghiệm truyền thống trong việc xây
dựng thành lũy, căn cứ vào địa hình với cách nhìn của thuật phong thủy,
Hồ Quý Ly đã xây dựng tòa thành với trình độ kỹ thuật cao nhất và là tòa
thành vào loại đẹp nhất ở khu vực Đông Nam á. Tính kế thừa truyền
thống của thành Tây Đô thể hiện rõ nhất ở kiến trúc La thành. Vòng
23 24



thành này cũng đợc đắp bằng đất có hình dáng uốn lợn theo địa hình tự
nhiên, kết nối với hệ thống sông, núi, giống nh hệ thống thành bao ở
Hoa L, Thăng Long thời Lý - Trần, có sự kết hợp hài hòa giữa công
năng sử dụng với địa hình tự nhiên, với hệ thống lũy đất bao bọc nơng
theo địa hình sông, hồ khiến cho vòng La thành không có hình dáng
thờng thấy ở các kiến trúc thành cổ.
Nhng điểm khác biệt của thành Tây Đô với tất cả những toà thành
trớc đó là vòng thành nội. Vòng thành này đợc xây dựng trên một bình đồ
gần vuông với hệ thống tờng đá đồ sộ, kiên cố xây bằng các khối đá lớn
đợc xem là tòa thành đặc sắc trong lịch sử thành cổ Việt Nam. Trong tổng
khối lợng tạo nên kiến trúc, chỉ khoảng 25 - 30% đợc làm bằng đá. Phần
còn lại tạo nên dáng vẻ bề thế, vững chãi của tòa thành lại chính là đất. Có
điều đất là phần cốt bên trong các lớp bọc bằng đá nên khó nhận ra khiến
ngời ta dễ nhầm lẫn Tây Đô là một tòa thành đợc xây hoàn toàn bằng đá.
Phải chăng, cấu trúc cốt đất bọc đá cũng là sự kết hợp kinh nghiệm truyền
thống với kỹ thuật hiện đại đơng thời.
Bốn cổng thành là những công trình thể hiện tài năng và trí sáng tạo
của kỹ thuật xây dựng kiến trúc đá có quy mô lớn bằng phơng pháp thủ
công. Ngoài khu nội thành đợc thiết kế theo truyền thống: thành cao,
hào sâu và phía ngoài là La thành lại đợc tạo dựng theo đồ án kết hợp
thành lũy tự nhiên với các công trình liên kết tạo thành những vòng thành
liên kết với nhau. Các nhà xây dựng thời Hồ đã lập nên kỳ tích trong việc
vận chuyển vật liệu có trọng lợng lớn bằng phơng tiện thô sơ, đã vợt
qua những hạn chế của kỹ thuật đơng thời để gia công những khối đá
lớn để có thể ghép vào nhau một cách hoàn hảo.
4. Khi trở thành trung tâm chính trị của cả nớc, trên vùng đất này đã
diễn ra nhiều biến đổi sâu sắc. Từ chỗ chỉ là một địa bàn giao thoa văn
hóa liên vùng, Tây Đô trở thành nơi giao tiếp của nhiều nền văn hóa trong

cả nớc. Đây chính là căn nguyên lý giải vì sao sau này Vĩnh Lộc trở
thành một vùng văn hóa đặc sắc của xứ Thanh.
Vĩnh Lộc là vùng đất có vai trò quan trọng của vơng triều Hậu Lê từ
buổi phất cao cờ đại nghĩa, thiết lập vơng triều Lê sơ cho đến buổi
Trung hng. Đây là nơi nghĩa quân Lam Sơn củng cố lực lợng, làm bàn
đạp tiến công ra Đông Quan, là căn cứ để họ Nguyễn, sau đó là họ Trịnh
tập hợp lực l
ợng phò giúp nhà Lê. Vĩnh Lộc còn là vùng ảnh hởng của
các chúa Trịnh trong thời kỳ lịch sử tiếp theo.
Vùng đất Vĩnh Lộc có nhiều đóng góp vào việc xây dựng phòng tuyến
và cuộc phản công chiến lợc đại phá quân xâm lợc Mãn Thanh của Hoàng
đế Quang Trung.
Từ một vùng "cuối nớc đầu non" đến thời Nguyễn vùng đất cố đô
Vĩnh Lộc có nhiều biến đổi, trong đó tình hình ruộng đất khu vực thành
Tây Đô cho thấy dấu ấn một thời là trung tâm chính trị - quân sự của cả
nớc vẫn còn in đậm trên vùng đất này.
5. Nằm trong xứ Thanh là một vùng ít có những biến động lớn về địa
giới hành chính, nhng huyện Vĩnh Lộc lại là nơi có những thay đổi về
địa giới. Từ một vùng đất thuộc bộ Cửu Chân thời Văn Lang cho đến
huyện Vĩnh Ninh, huyện Vĩnh Phúc và huyện Vĩnh Lộc là cả một chặng
đờng dài. Vĩnh Lộc luôn đợc coi là một vùng đất Địa linh - Nhân kiệt
của xứ Thanh.
Tuy chỉ tồn tại với t cách là kinh đô trong một thời gian ngắn nhng
thành Tây Đô đã khẳng định vị thế của nó trong lịch sử thành cổ Việt
Nam và giá trị văn hóa trong dòng chảy văn hóa dân tộc. Hơn sáu trăm
năm đã qua, giá trị lịch sử - văn hóa của tòa thành đã đợc xác nhận.
Trong xu hớng phát triển du lịch văn hóa hiện nay thành Tây Đô đã trở
thành điểm đến hấp dẫn trong hành trình du lịch xứ Thanh.
Trớc ngỡng cửa trở thành di sản văn hóa thế giới thành Tây Đô
đang đợc nhiều ngành quan tâm nghiên cứu và cần phải tiếp tục nghiên

cứu lâu dài. Luận án "Thành Tây Đô và vùng đất Vĩnh Lộc (Thanh Hóa)
từ cuối thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XIX" hy vọng góp phần vào việc nghiên
cứu làm sáng tỏ những giá trị văn hóa - lịch sử của dân tộc.

×