Tải bản đầy đủ (.pdf) (205 trang)

Thơ Nho Việt Nam từ giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.42 MB, 205 trang )


1
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Theo tiến trình vận động của thơ ca Việt Nam, đến giữa thế kỷ XIV ta
thấy thơ có dấu hiệu chuyển biến. Thơ Thiền phát triển mạnh và chiếm địa vị
chủ đạo từ thế kỷ X đến đầu thế kỷ XIV; nhưng đến giữa thế kỷ XIV thì lực
lượng sáng tác, số lượng tác phẩm thơ Thiền đã giảm thi
ểu. Thơ ca từ giữa
thế kỷ XIV về sau tiếp tục phát triển, nhưng lực lượng sáng tác chủ yếu là nhà
nho. Nhìn chung số lượng tác giả, tác phẩm thơ phát triển. Quan niệm nghệ
thuật, cảm hứng thơ ca thời gian này chủ yếu là thuộc về loại hình tác giả nhà
nho.
Nguyên nhân sâu xa của sự thay đổi này là sự thay đổi vị thế của tư
tưởng Phật giáo đối với xã hộ
i. Vị thế thượng tôn của tư tưởng Phật giáo trên
phương diện văn hóa xã hội được thay thế bởi tư tưởng Nho giáo. Giờ đây,
Nho giáo ảnh hưởng đến nhiều phương diện văn hóa - xã hội Đại Việt. Về văn
học, các nhà văn nhà thơ đã sáng tác bằng quan niệm nghệ thuật và cảm hứng
chịu ảnh hưởng Nho giáo. Quan niệm nghệ thuật và cảm hứng này
đã thay đổi
nhiều so với trước đây.
Hiện tượng Nho giáo thay thế địa vị Phật giáo và đi dần đến độc tôn cũng
đã diễn ra tương tự ở các nước Đông Á (tuy có những chênh lệch ít nhiều về
thời gian tùy theo hoàn cảnh từng quốc gia). Hiện tượng chuyển đổi địa vị văn
hóa của Thiền và Nho đã ảnh hưởng lớn đến diện mạo vă
n học, thơ ca các
quốc gia này. Ở nước ta, sau thế hệ Huyền Quang, thơ Thiền không còn
nhiều. Một số bài thơ ảnh hưởng Thiền như “Mai thôn phế tự”, “Đề Gia Lâm
tự”… (Trần Quang Triều và thi xã Bích Động); “Hạnh ngộ”, “Đề Cam Lộ
tự”, “Tương tịch, ký Nam Sơn thiền sư…” (Trần Minh Tông) (1300-1357) có


thể xem là những cố gắng duy trì ảnh hưởng của thơ Thiền. Cũ
ng từ đây, lực

2
lượng sáng tác đã có sự phân hóa, thơ Thiền cũng không còn thịnh như trước,
chất Thiền trong thơ cũng không còn đậm đà như trước.
Từ giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV thơ Nho đã hoán đổi vai trò
thượng tôn của thơ Thiền. Trong khoảng một thế kỷ này, thơ Nho đã thể hiện
tương đối trọn vẹn tính chất độc đáo của nó. Nó t
ồn tại và phát triển như một
mạch thơ, một dòng thơ, có tư tưởng – cảm hứng chủ đạo, có quan niệm nghệ
thuật và đặc điểm thể cách, ngôn ngữ khác biệt với thơ Thiền trước đó. Sự
khác biệt này gợi cho chúng ta nhiều suy nghĩ.
Trong khi đó nhiều công trình nghiên cứu về mảng văn học nhà Nho đã
tiếp tục ra đời. Những công trình nghiên cứu về v
ăn học nhà Nho cũng tiếp
tục phát triển song song với những công trình nghiên cứu về văn học Phật
giáo, văn học Thiền. Trong đó, ta có thể kể đến những công trình tiêu biểu
như “Nho giáo và văn học Việt Nam Trung cận đại” (Trần Đình Hượu). Cũng
trong mạch đó, công trình “Loại hình học tác giả văn học, nhà nho tài tử và
văn học Việt Nam” (Trần Ngọc Vương) (1995) [181]
đi vào nghiên cứu loại
hình tác giả nhà nho tài tử. Ở “Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn
chung” (1998), Trần Ngọc Vương bàn đến “văn chương Nho giáo” [184,
114], “Văn học nhà nho thế kỷ XIV – XVII” [184,134]. Tác phẩm “Văn học
Trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa” (Trần Nho Thìn) [153] đã có
những ý kiến nhận xét lại những di sản của tác giả Trần Đình Hượu trong
nghiên cứu vă
n học nhà nho. Những công trình này đã làm cho việc nghiên
cứu thơ văn nhà nho thêm nhiều sinh khí. Các nhà nghiên cứu đã thật sự chú ý

đến thơ văn nhà nho, thơ Nho. Nhiều công trình nghiên cứu về thơ văn nhà
nho đã tập trung chú ý đến thời gian từ giữa thế kỷ XV về sau.
Tuy nhiên vấn đề không chỉ đơn giản như vậy. Thơ Thiền tuy mất dần ưu
thế nhưng vẫn còn tồn tại. Một s
ố tác giả đã nghiên cứu về thơ Thiền trong
thời gian này. Thơ Thiền trong sự nghiệp thơ ca của Nguyễn Trãi đã được

3
nghiên cứu bởi nhiều công trình như quyển “Nguyễn Trãi” của Nguyễn Thiên
Thụ [155], “Từ tâm sự qua mọi giai đoạn của cuộc đời đến Thiền trong thơ
Nguyễn Trãi” của Thạch Trung Giả [39], “Về cảm quan Phật giáo trong thơ
văn Nguyễn Trãi” của Nguyễn Hữu Sơn [143], “Nguyễn Trãi: Huyễn – Thực
và Sắc – Không” (Trần Ngọc Ninh) [162]… (Nếu xét riêng thì mạch thơ
Thiền Lê - Nguyễn vẫn tiếp tục lưu chuyển thầm lặng qua Nguyễn Trãi,
Nguyễn Bỉnh Khiêm, Minh Hành, Nguyên Thiều, Ngô Thời Nhậm, Nguyễn
Du… Nó tồn tại khiêm tốn bên cạnh thơ Nho). Tính chất Thiền trong thơ đầu
thế kỷ XV (tiêu biểu là trong thơ Nguyễn Trãi) được nhiều nhà nghiên cứu
chú ý. Hiện tượng này đã nói lên tính phức tạp của vấn đề nếu tìm hiểu thơ
Nho thời điểm giữ
a thế kỷ XIV. Trong cùng một thời gian có sự xuất hiện hai
loại hình văn học chịu ảnh hưởng bởi hai tư tưởng triết học khác nhau.
Như vậy, từ sự thay đổi địa vị của Nho và Thiền về mặt văn hóa – xã hội
cũng như sự khác biệt về nội dung và nghệ thuật của thơ Nho và thơ Thiền đã
góp phần xác định sự khác biệt c
ủa hai mạch thơ Nho và thơ Thiền. Sự phức
tạp vì có cả thơ Thiền trong sáng tác của các nhà nho (như trường hợp
Nguyễn Trãi…) là lý do dẫn đến đề tài “Thơ Nho Việt Nam từ giữa thế kỷ XIV
đến giữa thế kỷ XV”. Việc nghiên cứu đề tài sẽ góp phần làm sáng tỏ những
phức tạp của thơ Nho Việt Nam trong khoảng một thế kỷ. Đó là một thế k


thơ Nho biểu hiện như một dòng thơ với những đặc điểm độc đáo trong lịch
sử thơ ca dân tộc.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Mục đích nghiên cứu của Luận án là nhằm tìm hiểu rõ hơn về khoảng
một thế kỷ thơ Nho với tư cách một dòng thơ. Nội dung đề tài là tìm hiểu,
nghiên cứu về nguồn gốc phát sinh, cơ sở
hình thành, diện mạo, đặc điểm của
dòng thơ này nhằm đóng góp thành quả vào lĩnh vực nghiên cứu thơ văn của
các nhà nho Việt Nam.

4
Từ việc xác định lý do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu, chúng ta
cần tìm hiểu lịch sử vấn đề thông qua những công trình nghiên cứu của những
người đi trước, những khuynh hướng nghiên cứu có liên quan.
3. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Từ lâu “thơ Nho” đã được giới nho sĩ quý trọng, sưu tập và lưu giữ. Qua
nhiều thế hệ, mỗi thế hệ có cách nhìn nhận,
đánh giá, nghiên cứu thơ Nho với
những định hướng và những mức độ khác nhau. Trong quá khứ và gần đây đã
có những ý kiến ít nhiều liên quan vấn đề thơ Nho.
Xác định được những giá trị vô giá của thơ ca nhà nho có thể kể đến
trước tiên là những công trình sưu tập – biên tập thơ Nho cổ. Các công trình
này cho ta nhiều thông tin có giá trị nghiên cứu thơ Nho. Trước hết qua các
tác phẩm thi lục, thi tuyển... các tác phẩm thơ ca củ
a các nhà nho chính thức
được lưu giữ, trân trọng cùng với những ý kiến đề cao. Đó là những tác phẩm
như: “Việt âm thi tập” (1433) (Phan Phu Tiên soạn, Lý Tử Tấn phê điểm,
tuyển thơ thời Trần - Lê), “Tân tuyển Việt âm thi tập” (1459) (Chu Xa, Lý Tử
Tấn, tuyển thơ thời Trần - Lê), “Cổ kim thi gia tinh tuyển” (Dương Đức
Nhan, tuyển thơ thời Trần, Hồ, Lê) (?), “Trích diễm thi tập” (1497) (Hoàng

Đức Lương, tuyển thơ thời Trần đến đầu thời Lê), “Toàn Việt thi lục” (1768)
(Lê Quý Đôn, tuyển thơ thời Lý đến đời Hồng Đức), “Hoàng Việt thi tuyển”
(1788) (Bùi Huy Bích, tuyển thơ thời Lý, Trần đến cuối thời Lê)... Các công
trình này có tác dụng lưu giữ những thi phẩm cổ trong đó có thơ Nho, đồng
thời còn ít nhiều cho thấy những quan niệm sáng tác, phê bình của những nhà
nho xưa. Các công trình này
đã lưu giữ những thi phẩm và những ý kiến, nhận
định quí báu của người xưa truyền lại cho đến ngày nay.
Trong những công trình thuộc loại này, các nhà nho vừa sưu tập, biên tập
vừa phản ánh suy nghĩ của mình về văn học dân tộc, với niềm tự hào về văn
hóa dân tộc. Lý Tử Tấn đã có những đóng góp quan trọng trong buổi đầu sưu

5
tập thơ văn cổ. Qua đó, ông bày tỏ niềm tự hào về nền thơ của Đại Việt:
“Nước Việt ta từ thời lập quốc đến nay, có nhiều nhà thơ nổi tiếng với đời”
(“Tân tuyển Việt âm thi tập”) [94, 51]. Trong số những nhà thơ đó ta thấy có
rất nhiều nhà thơ Nho. Càng ngày, phong trào sáng tác của các nhà nho càng
lên cao. Phan Phu Tiên nhận định về một thời đại rất xem trọng th
ơ văn. Ông
nhận xét là: “mấy đời gần đây, các bậc vua chúa, các quan công khanh và sĩ
đại phu chẳng ai mà không để tâm tới việc học thuật, sớm tối ngâm vịnh”
(“Đề tựa tập thơ Việt âm mới san định”- Phan Phu Tiên) [117, 74]. Thơ Nho
đã trở thành sinh hoạt tinh thần của kẻ sĩ. Thơ Nho trở thành nơi để gởi gắm ý
chí, khát vọng, tâm sự của nhà nho. Cho đến thời gian này, Hoàng Đức Lương
v
ẫn còn xem trọng thơ Thiền bên cạnh thơ Nho khi phân trần: “đâu phải nhà
nho không bằng nhà Phật học” (Tựa Trích diễm thi tập) [118, 431-432]. Qua
đó cho thấy vị thế của đội ngũ trí thức trẻ càng lớn mạnh nhưng thái độ tôn
trọng thơ Thiền vẫn còn. Nói chung nhờ vào đây, ta có được những nguồn tư
liệu tham khảo khi nghiên cứu về thơ Nho đồng thời những tài liệu này c

ũng
góp phần tái hiện không khí thời đại.
Bên cạnh những tài liệu về nguyên tác thơ Nho là các ý kiến nhận xét,
phê bình bổ sung vào kho tàng lý luận về thơ Nho. Nguyễn Dữ, Lê Quý Đôn,
Bùi Huy Bích... đều có một số ý kiến liên quan đến thơ Nho. Trong “Truyền
kỳ mạn lục”, Nguyễn Dữ đã có nhận định đề cao thơ Nho giữa thế kỷ XV trở
về trước và phê bình mạnh mẽ thơ Nho cuối thế
kỷ XV: “Thơ ông Chuyết Am
(Lý Tử Tấn) kỳ lạ mà tiêu tao,... thơ ông Cúc Pha (Nguyễn Mộng Tuân)... có
vẻ mềm mại, nhưng có thể khiến cho làng phong nhã thì chỉ duy những bài
thơ đầy lòng trung ái của Nguyễn Ức Trai...” [24, 251-252]. Đây là một trong
những nhận định đánh giá nhiều nhà thơ mà chủ yếu là những nhà thơ trong
giai đoạn chúng ta khảo sát.

6
Qua “Vân đài loại ngữ”, Lê Quý Đôn (1726 - 1784) đã thu thập những
kinh nghiệm lý luận, phê bình từ văn học cổ của Trung Quốc có liên quan đến
phương pháp phê bình và sáng tác thơ Nho (Quyển V: Văn nghệ) [34, 89 -
120]. Tiếp theo, học trò ông là Bùi Huy Bích (1741-1818) đã có ý thức về sự
vận động dựa trên tiêu chuẩn nghệ thuật khá chính xác. Bùi Huy Bích viết
trong “Lịch triều thi sao” (Tiểu dẫn) là: “Nước Việt ta từ đời Trần đến buổ
i
đầu Lê (giữa thế kỷ XV) khí thơ có hơi hồn hậu, đến thời Hồng Đức thì lời
thanh tao bóng bẩy, về sau dần dần yếu ớt, đến thời Trung hưng thì vụng
về...” (“Lịch triều hiến chương loại chí”– Văn tịch chí) [19, 181]. Từng giai
đoạn thơ Nho đã được ý thức với những nét cơ bản nhất của nó. Các tác giả

cũng không quên bình luận những điểm chung nhất của mỗi giai đoạn. Qua
đó, chúng ta thấy cách đánh giá, thẩm định của chính các nhà nho về thơ Nho.
Trong các thế hệ nhà nho, các bậc cao sĩ được nhiều người kính trọng đồng

thời cũng là những tác giả thơ Nho. Lê Quý Đôn đã dựa theo phong độ, phẩm
chất của họ để chọn ra những nhân vật tiêu biểu (Kiến văn tiể
u lục) [32, 298-
300]. Theo tiêu chí đó, ông chọn được ở triều Trần chỉ năm người: Chu An,
Đặng Tảo, Trương Đỗ, Bùi Mộng Hoa, Trần Đình Thâm. Thời Lê sơ theo Lê
Quý Đôn thì có thể chọn Nguyễn Thiên Tích, Bùi Cầm Hổ, Nguyễn Thì
Trung... Điều này lại trùng hợp ngẫu nhiên vì đó là những nhà nho nổi tiếng
trong khoảng giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV!
Từ giữa thế kỷ XV v
ề sau, phong độ kẻ sĩ như thời trước dần dần giảm
đi. Đến giữa niên hiệu Hồng Đức (Lê Thánh Tông) và từ những năm Đoan
Khánh (Lê Uy Mục) những người khí tiết khảng khái thật “thưa thớt”, đồng
thời “tập tục sĩ phu thối nát” [32, 301]. Như vậy, những nhà nho giữa thế kỷ
XIV đến giữa thế kỷ XV có vị trí đặc biệt trong các thế hệ nho s
ĩ nước ta qua
các thời đại. Thơ ca của họ vì thế cũng được các thế hệ quan tâm, tìm hiểu.
Các nhà nho xưa đánh giá rất cao các tác giả thơ Nho thời gian này. Nhìn

7
chung những nhà nho xưa vẫn lấy triều đại làm tiêu chí để phân kỳ thơ Nho
và đánh giá cao thơ thời Lý – đầu thời Lê. Tuy tiêu chí lấy triều đại làm cơ sở
cũng như lấy “đức nghiệp” để đánh giá có thể chưa thật sự đi vào bản chất
văn chương nhưng nó cũng có những bổ ích nhất định cho nghiên cứu và
đánh giá thơ văn nhà nho.
Đến đầu thế kỷ
XX, các học giả vẫn còn quan điểm tôn trọng thơ Nho.
Các nhà nghiên cứu đã có những ý kiến khác nhau, bổ sung cho những ý kiến
trước đó. Tác phẩm “Việt Hán văn khảo” của Phan Kế Bính tiếp tục những
quan niệm, những nguyên lý thơ văn cổ của các nhà nho. Tác giả này viết về
cái hay trong thơ, đó là “cái hay kỳ cổ, cái hay hào kiệt, cái hay hồn hậu, cái

hay thanh sảng...” [101, 342]. Những ý kiến đó không khác gì ý kiế
n các nhà
nho xưa. Đến Phan Kế Bính, ta vẫn chưa thấy gì khác nhiều so với những
quan niệm tương đối ổn định từ truyền thống.
Trong buổi giao thời, ở nhóm “Nam phong tạp chí” và một số nhà nghiên
cứu như Nguyễn Hữu Tiến (Nam âm thi văn khảo luận), Ôn Như Nguyễn Văn
Ngọc (Nam thi hợp tuyển)... vẫn quan tâm thơ văn nhà nho. Phạm Quỳnh viết
“Quan niệ
m về thơ của người ta người Tàu” (Nam Phong tạp chí, số 05).
Tùng Vân viết “Phái nhà nho khoảng 30 năm nay với sự học cũ” (số 195).
“Các bậc danh nho nước ta” (Nam Phong tạp chí, các số 53, 54, 55
(10/1921-01/1922). (Ở đây, nội dung trích lại từ “Lịch triều hiến chương loại
chí”). Quan niệm của Chương Dân về thơ đăng trong Nam Phong tạp chí vẫn
là quan niệm của thơ Nho nói chung: “Thơ làm ra c
ốt để tả cái tâm tình của
mình mà cũng có ích cho người xem” [22, 354]. Bên cạnh đó mục Văn uyển
của Nam Phong tạp chí thường tuyển cả thơ của những nhà nho xưa và những
thi nhân đương thời. Phạm Quỳnh chú ý đến cái khó trong thơ Đường luật và
bắt đầu phê bình thơ Đường luật – thể thơ quan trọng của nhà nho. Tác giả
thấy thơ Đường “hay quá, khéo quá, phần nhân công nhiều mà vẻ tự nhiên

8
ít” (Quan niệm về thơ của người ta người Tàu) [47, 261]. Đây cũng là một
đặc điểm của thể loại thơ Nho. Ngoài sự quan tâm, các nhà nghiên cứu đầu
thế kỷ XX cũng đã tìm hiểu một số khía cạnh khác nhau của thơ nhà nho. Đến
đầu thế kỷ XX thơ văn của các nhà nho nói chung vẫn tiếp tục được chú ý
nhưng đã bắt đầu có những nhận xét đánh giá lạ
i vấn đề một cách thích hợp
hơn.
Ngoài ra, những công trình nghiên cứu, tuyển tập, lịch sử văn học như

“Những áng văn hay” do Tr. N. K, Thiếu Sơn biên tập (Nam ký thư quán,
H,1933) và đặc biệt Dương Quảng Hàm với “Việt Nam văn học sử yếu”
(1943), “Việt Nam thi văn hợp tuyển” (1941), “Quốc văn trích diễm”
(1953)... đều chú ý đến tác giả, tác phẩm thơ Nho. Cả Vi
ệt Nam văn học sử
yếu lẫn Quốc văn trích diễm (Dương Quảng Hàm) đều có biểu liệt kê tác giả
tác phẩm theo thứ tự thời gian. Dương Quảng Hàm đã đánh giá cao thơ văn
nho thời Lý - Trần. Theo ông, các nhà nho phần nhiều đều có công nghiệp,
phẩm cách thanh cao. Hơn nữa, “người cầm quyền trong nước là người trong
phái nhà nho” [48, 78]. Nho sĩ đã được xem như một “phái”, “phái nhà nho”.
Trong phái đó, các tác gi
ả nổi bật cũng đồng thời là “các bậc cao sĩ nước
Nam”. Thơ của các tác giả nhà nho có một vị trí đặc biệt trong quan niệm của
các nhà nghiên cứu. Tuy đến thời điểm này, thơ văn nhà nho đã được tìm hiểu
với cái nhìn mới của người trí thức Tây học nhưng họ vẫn chưa tách thơ
Thiền, thơ Nho ra thành những mạch riêng. Quan niệm thơ của các nhà nho
vẫn
được nói chung, gồm cả thơ Thiền, thơ chịu ảnh hưởng tư tưởng Lão –
Trang.
Đối với các nhà nghiên cứu lịch sử văn học tiếp theo, họ có nhiều thời
gian hơn, công trình của họ có những nhận định liên hệ đến thơ Nho với
những mức độ khác nhau. Các nhà nghiên cứu lịch sử văn học có thể được
xếp theo các nhóm khác nhau. Nhóm các tác giả phân chia lịch sử văn học

9
theo giai đoạn lịch sử - xã hội - văn học có thể kể đến các công trình như
“Lịch sử văn học Việt Nam” (T2) (Đại học Sư Phạm Hà Nội), “Văn học Việt
Nam thế kỷ X – nửa đầu thế kỷ XVIII” (Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân, Mai
Cao Chương), “Lịch sử văn học Việt Nam” (T1) (Ủy Ban KHXH, 1980)…
Các nhà nghiên cứu lịch sử văn học theo lịch sử triề

u đại có thể kể đến Dương
Quảng Hàm, Nguyễn Đổng Chi (Việt Nam cổ văn học sử), Phạm Thế Ngũ
(Việt Nam văn học sử giản ước tân biên)… Cả hai nhóm tác giả các công
trình lịch sử văn học nói trên đều đánh giá cao thơ ca nhà nho thế kỷ XIV-
XV. Ngay cả những nhà nghiên cứu lịch sử văn học dựa theo thế hệ tác giả
như trường h
ợp Thanh Lãng cũng đánh giá cao thơ ca nhà nho thế kỷ XIV-
XV.
Một số công trình đã có những ý kiến cần tham khảo. Tài liệu văn học sử
của Phạm Thế Ngũ cho rằng thời Trần là thời “thịnh đạt nhất”, “thi gia nẩy
lên khắp làng nho” [121, 120]. Ngô Tất Tố đã viết “Trong rừng văn chương
hồi ấy (Lý – Trần), phái Nho giáo đã tiến bộ hơ
n phái Phật giáo” [163, 116].
Các tác giả đã có ý thức rõ về văn chương của “phái” Nho. Đồng thời các tác
giả cũng ý thức được sự phát triển của dòng văn chương này. Tuy vậy, thể
loại thơ và văn của nhà nho vẫn thường được khảo sát chung với nhau.
Mặt khác, khuynh hướng nghiên cứu lịch sử văn học dựa trên cơ sở các
dòng phái đã có xuất hiện. Cơ sở của những quan
điểm này thường chịu ảnh
hưởng những hệ hình và quan điểm của người phương Tây. Một số nhà
nghiên cứu đã thử đi theo hướng này. Theo khuynh hướng này, ta có thể kể
đến một số trường hợp như ở “Văn học phân tích toàn thư” (Thạch Trung
Giả) [40, 35]. Tác giả chia văn học Việt Nam gồm cả văn học cổ ra thành bốn
dòng: Tả thực, ấ
n tượng, tương trưng, thần bí (tương ứng với văn học thế
giới) [40, 473-483]. Công trình “Lịch sử văn học Việt Nam” (Lê Hữu Mục)
[111] có cách phân chia trường phái rõ nét. Tác giả này phân chia văn học cổ

10
Việt Nam thành ba trường phái: Trường phái văn học “Thiền tông” (Thế kỷ

XI – XIII), trường phái văn học “Cổ điển” (thế kỷ XIV – XVI), trường phái
văn học “Nôm na” (thế kỷ XVII – XIX). Ở tập I, tác giả chủ yếu kiến giải và
định hình hai trường phái văn học Thiền tông và văn học Cổ điển. Cơ sở của
trường phái ở đây được xác định dựa trên loại hình tác giả
. Hơn nữa nó còn là
quá trình đi dần đến “đoạn tuyệt” với phái văn học Phật giáo.
Theo tác giả này, trường phái văn học Cổ điển năm 1304 -1385 là sự thay
đổi giảm dần của văn học ảnh hưởng Phật giáo và tăng dần của văn học ảnh
hưởng Nho giáo. Đây là một cách tiếp cận sử dụng trường phái văn học làm
cơ sở. Có th
ể nói, các công trình viết về lịch sử văn học Việt Nam thời trung
đại thường quan tâm đến vấn đề văn học ảnh hưởng Nho giáo với những mức
độ khác nhau.
Bên cạnh những công trình lịch sử văn học, ta có thể kể đến một số công
trình xoay quanh vấn đề “ảnh hưởng của Nho giáo đối với văn học Việt
Nam”, “văn học nhà nho”. Trong đó, những bước đi
đầu có thể kể đến tác
phẩm “Tâm lý và tư tưởng của Nguyễn Công Trứ” (Nguyễn Bách Khoa)
(1944) [154, 121-227]. Có lẽ ông là người đầu tiên dùng khái niệm “nhà nho
tài tử”. Theo ông, nhà nho tài tử chỉ “thiên trọng về văn học” [154, 167].
Công trình này chỉ giới hạn trong phạm vi một tác giả văn học.
Tiếp đến, đó là bài “Ảnh hưởng của Hán học đối với văn học Việt Nam”
(Đặng Thai Mai phát biểu tại Việ
n Đông phương, Liên Xô cũ (1974) [18, 2].
Bài phát biểu chủ yếu quan tâm vào Hán học đối với văn học Việt Nam, đặc
biệt lưu ý văn học Lý – Trần.
Đến những năm cuối thế kỷ XX, các công trình nghiên cứu, các bài viết
công bố trên các tạp chí bàn về những vấn đề có liên quan đến thơ Nho khá
phong phú. Các nhà nghiên cứu đã bắt đầu đi sâu vào nghiên cứu thơ văn nhà
nho nói chung. Trong đó ta có thể kể đến những công trình tiêu bi

ểu như

11
“Nho giáo và văn học Việt Nam Trung cận đại” (Trần Đình Hượu). Tác giả
đã hướng vào trọng tâm là “văn học do nhà nho viết” [61, 09], “văn học nhà
nho viết theo quan niệm Nho giáo” [63, 10], “ảnh hưởng của Nho và nhà nho
đối với văn học” [61, 16]. Từ đây tác giả cũng xác định loại hình tác giả nhà
nho hành đạo, ẩn dật, tài tử như là cơ sở ban đầu để đi xa hơn trong nghiên
cứu.
Cũng trong mạch nghiên cứu đó, công trình “Loại hình học tác giả văn
học, nhà nho tài tử và văn học Việt Nam” (Trần Ngọc Vương) (1995) [181] đi
vào nghiên cứu loại hình tác giả nhà nho, đặc biệt là nhà nho tài tử với những
đặc điểm riêng. Từ đó, tác phẩm tìm hiểu những thế hệ nhà nho mang phẩm
chất tài tử, nhất là trong thơ ca Việt Nam từ thế kỷ XVIII về sau.
Ở tác phẩm “V
ăn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn chung” (1998),
Trần Ngọc Vương bàn đến “văn chương Nho giáo” [184, 114], “Văn học nhà
nho thế kỷ XIV – XVII” [184, 134]. Các nhà nghiên cứu nhìn chung đã đạt
nhiều thành tựu trong nghiên cứu loại hình văn học nhà nho. Ở các công trình
này, diện mạo văn học nhà nho được kiến giải ngày càng phong phú. Người
đọc có thể có cái nhìn bao quát về thơ văn nhà nho ở nước ta. Tuy nhiên các
công trình này vẫn chưa nghiên cứu thơ Nho như
là một dòng thơ có những
đặc điểm khác với thơ Thiền. Nó đã ít nhiều tiếp nối những thành tựu của thơ
Thiền Lý – Trần.
Ở một công trình khác, tác phẩm “Những vấn đề thi pháp văn học Trung
đại Việt Nam” (1999) đã xác định có sự phân biệt của hai loại hình tác giả.
Trong công trình này, tác giả Trần Đình Sử đã nhìn nhận: “Có thể phân biệt
nhà thơ Thiền và nhà thơ Nho”
[139, 12]. Tuy công trình này nghiên cứu rất

nhiều mặt của văn học Trung đại Việt Nam nhưng tác giả đã lưu ý đến thơ
Thiền và thơ Nho. Trường hợp này công trình chú ý đến loại hình tác giả văn

12
học. Từ cơ sở này, nhà nghiên cứu nói chung đã đi khá sâu vào nghiên cứu
văn chương Nho giáo.
Bên cạnh đó, những công trình về lý luận văn học và thơ ca cổ đã tiếp tục
tìm hiểu những quan niệm lý luận, phê bình của người xưa và nêu ra nhiều
nhận định thú vị. Những công trình như “Từ trong di sản” (1981) [167], “Về
quan niệm văn chương cổ Việt Nam” (Phương Lựu) (1985) [94], “Quan
niệm văn học của Nho gia” (Phương Lựu) [99, 24-37], “Người xưa bàn về
văn chương” (tập I) (Đỗ Văn Hỷ) [66], “Thơ trong con mắt người xưa”
(Phạm Quang Trung) [165]... đã có nhiều đóng góp, tiếp tục tìm hiểu, bổ sung
những cơ sở lý luận, cảm thụ, tiếp nhận thơ ca nhà nho. Ngoài ra, ở các bài
viết trên Tạp chí Văn học, các nhà nghiên cứu đều đưa ra những ý kiế
n có liên
quan về phương thức tiếp cận, đánh giá văn chương Nho giáo hoặc một số
phương diện cụ thể của thơ Nho. Các bài nghiên cứu có thể kể đến như: “Bàn
về một số khía cạnh trong thơ tình đời Trần” (Bùi Văn Nguyên) [115], “Các
yếu tố Phật Nho Lão được tiếp thu và chuyển hóa như thế nào trong đời sống
và văn hóa thời đại Lý Trần” (Nguyễn Huệ
Chi) [14], “Về diễn biến của thơ
trữ tình thời Trần” Nguyễn Phạm Hùng) [55], “Về ảnh hưởng nhiều mặt của
Nho giáo trong văn học Việt Nam Cổ, Cận đại” (Trần Đình Hượu) [62], “Mối
quan hệ giữa cái tôi nhà nho và thực tại trong văn chương cổ” (Trần Nho
Thìn) [150], “Giới hạn của nội dung nhân đạo chủ nghĩa văn chương Nho
giáo” (Trầ
n Ngọc Vương) [182],... Đây là những ý kiến thú vị đóng góp vào
lĩnh vực nghiên cứu thơ văn nhà Nho nhất là về mặt phương pháp luận.
Thời gian gần đây, trong tư thế đối sánh “khác chủng loại”, công trình

“Khảo sát một số đặc trưng nghệ thuật thơ Thiền Việt Nam thế kỷ XI – XIV”
(Đoàn Thị Thu Vân) (1996) đã có đề cập đến thơ Nho. Trong quá trình nghiên
cứu về th
ơ Thiền, tác giả đã xác định “Thơ Nho được hiểu là thơ của các tác
giả theo hệ tư tưởng Nho gia và đề cập đến những vấn đề thuộc phạm trù triết

13
học, đạo đức Nho giáo” [169, 143]. Đây là những cơ sở ban đầu để xác định
thơ Nho. Tác giả đã dùng quan niệm này để so sánh thơ Nho với thơ Thiền và
tìm thấy những dấu hiệu khác biệt của thơ Thiền và thơ Nho.
Nhìn chung ở nước ta, việc nghiên cứu trào lưu, trường phái nhất là trong
văn học cổ chưa được chú ý nhiều. Một số công trình nghiên cứu gần gũi với
nghiên c
ứu trường phái đã xuất hiện. Những công trình như “Nguồn suối
Nho học và thơ ca Bạch Vân cư sĩ” (Lê Nguyễn Lưu) (1999) [92], “Đoạn
trường tân thanh dưới cái nhìn của Nho gia – Thiền gia” (Nguyễn Thạch
Giang) (2005) [43],… đã ra đời. Qua đó ta thấy có một số ý kiến thú vị khi
nhìn tác giả, tác phẩm văn học dưới cái nhìn có cơ sở từ một hoặc hai trường
phái tư tưởng triết h
ọc. Thông thường ở đây thì dòng mạch văn học Nho
dường như được người ta chú ý hơn thơ Nho.
Cơ sở đặc điểm thơ Nho Việt Nam giữa thế kỷ XIV – giữa thế kỷ XV do
sự tác động của Nho giáo. Tuy nhiên Nho giáo đã tác động không đồng đều
đến từng tác giả. Thái độ và cách thức tiếp thu của các tác giả trong từng hoàn
cảnh và giai đoạn lịch sử cũng khác nhau.
Trong khi nghiên c
ứu văn chương nhà nho, yếu tố “Việt” trong tiếp thu
Nho giáo cũng được nghiên cứu, ví dụ “Một số đặc điểm của Nho Việt”
(Nguyễn Hùng Hậu) [51], “Việt Nho qua một số tác phẩm văn học trung đại
Việt Nam” (Bùi Duy Tân) [144]… Tuy chưa phải là những kết luận sau cùng

nhưng đó là những gợi mở về đặc điểm Nho giáo ở Việt Nam. Từ đó, việ
c
nghiên cứu về bản sắc thơ Nho có định hướng thích hợp. Tuy nhiên, luận án
không đi vào phân biệt Việt Nho với Hán Nho, Tống Nho mà chỉ tập trung
vào vấn đề thơ Nho Việt Nam.
Đã có một số công trình nghiên cứu có liên quan đến thơ Nho cùng với
tính chất dòng phái. Các công trình có liên quan đến phái thơ Nho có thể kể
đến tác phẩm “Trong dòng chủ lưu của văn học Việt Nam chủ nghĩa yêu

14
nước” của Trần Văn Giàu (1984) [45]. Tác phẩm đã có gợi ý khá lý thú về
thơ Nho Việt Nam với đỉnh cao Nguyễn Trãi. Trần Văn Giàu xem Nguyễn
Trãi là “người đứng đầu một văn phái yêu nước, thân dân” [45, 164]. Và theo
ông, ““văn phái” có nghĩa hạn chế là một số nhà văn cùng một thời kỳ lịch
sử, theo cùng một khuynh hướng nhất định, gồm một hệ thống nét đặc sắc
không thấy ở
những người khác, ở các thời khác” [45, 165]. Đây là môt cơ
sở có tính qui ước để tác giả đi sâu hơn nghiên cứu về chủ nghĩa yêu nước
trong văn học.
Các công trình nghiên cứu về văn học Nho giáo như “Nho giáo và văn
học Việt Nam trung cận đại” (Trần Đình Hượu) (1964,...) [61], “Mối quan hệ
giữa cái tôi nhà nho và thực tại trong văn chương cổ” (Trần Nho Thìn)
(1994) [150], “Loại hình học tác giả v
ăn học, nhà nho tài tử và văn học Việt
Nam” (Trần Ngọc Vương) (1995) [181], “Bi kịch tinh thần của nhà nho Việt
Nam với tính cách là một nhân vật văn hóa (khảo sát qua trường hợp Nguyễn
Trãi” (Trần Nho Thìn) (2001) [152], “Ý thức văn học cổ trung đại Việt Nam”
(Đoàn Lê Giang) (2001) [41]… cũng đã có tác dụng gợi mở về vấn đề thơ các
nhà nho. Các tác giả đã tìm ra những kinh nghiệm tiếp c
ận vấn đề khá lý thú,

đặc biệt là phương pháp loại hình trong nghiên cứu văn chương các nhà nho.
Tác phẩm “Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại” (Trần Đình
Hượu) [61] có một ý nghĩa quan trọng trong lịch sử nghiên cứu văn chương
nhà nho. Đặc biệt, bài “Về ảnh hưởng nhiều mặt của Nho giáo trong văn học
Việt Nam cổ cận đại” [61, 48-56] đã tập hợp những bài giảng từ
năm 1964 về
sau, trong đó tác giả dành nhiều tâm huyết cho việc “khảo sát văn học do nhà
nho viết, viết theo quan niệm Nho giáo...” [61, 10]. Trên nhiều phương diện,
tác giả đã đạt được những thành tựu quan trọng trong nghiên cứu văn chương
nhà nho nói chung.

15
Bên cạnh đó, Trần Ngọc Vương đã có một số công trình có ý nghĩa bổ
sung, hiện thực hóa có hệ thống những tư tưởng khoa học của Trần Đình
Hượu như “Loại hình học tác giả văn học, nhà nho tài tử và văn học Việt
Nam” (1995) [181], “Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn chung”
(1998) [184]. Ở “Loại hình học tác giả văn học, nhà nho tài tử và văn họ
c
Việt Nam” [181], tác giả đã đi vào tìm hiểu và phát hiện sự thay đổi của hệ
thống chủ đề, đề tài, hệ thống hình tượng [181, 114-170], sự thay đổi hệ thống
thể loại, ngôn ngữ [173-182] ở văn chương nhà nho tài tử. Tác giả tiếp tục
nghiên cứu về thơ văn nhà nho ở công trình tiếp theo - “Văn học Việt Nam
dòng riêng giữa nguồn chung”. Công trình này khai thác khá toàn diện về văn
chươ
ng nhà nho Việt Nam. Đặc biệt quan trọng là các bài: “Một số vấn đề lý
luận khi nghiên cứu văn chương Nho giáo ở Việt Nam” (Trần Ngọc Vương)
[184, 114-120], “Văn học nhà nho Việt Nam từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVII”
(Trần Ngọc Vương) [184, 134-146]. Một số vấn đề có tính chất phương pháp
luận trong nghiên cứu văn chương nhà nho đã được đặt ra trong tác phẩm.
Theo đó, Văn họ

c Việt Nam từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX có thể cho
thấy “nội hàm khái niệm “văn học dân tộc” gần như trùng khớp với nội hàm
khái niệm “văn học nhà nho ở Việt Nam” [184, 118]. Vì thế, vấn đề đặt ra là
người nghiên cứu cần giải quyết những vấn đề “về mặt lý luận mối quan hệ
giữa cái nội sinh bản địa và cái ngoại nhập, giữ
a những đặc trưng mang tính
thuần túy phản ánh bản sắc dân tộc với những thuộc tính mang tính khu vực”
(Trần Ngọc Vương) [184, 118]. Tác phẩm đã tiếp tục khuynh hướng nghiên
cứu đã được đặt ra từ nhà nghiên cứu đi trước - Trần Đình Hượu. Tác giả đã
đạt được nhiều thành công quan trọng, từ đó việc nghiên cứu thơ văn nhà nho
Việt Nam có được khá nhiều kinh nghiệm nghiên cứ
u.
Tuy nhiên gần đây, công trình “Văn học Trung đại Việt Nam dưới góc
nhìn văn hóa” (Trần Nho Thìn) (2003) [153] đã có những ý kiến nhận xét lại

16
những di sản của Trần Đình Hượu. Theo đó, tác giả đã nêu những vấn đề cần
quan tâm khi“nghiên cứu hiện tượng văn học sử trong khuôn khổ hệ thống
văn học của nhà nho” [153, 20-21]...
Bên cạnh đó, “Ý thức văn học cổ trung đại Việt Nam” (Đoàn Lê Giang)
(2001) đã bàn đến những quan niệm có liên quan đến thơ Nho: quan niệm về
mối quan hệ của “v
ăn học và vận mệnh đất nước” [41, 60 - 68], quan niệm về
“thơ và Chí, Tâm của kẻ sĩ quân tử” (Đoàn Lê Giang) [41, 68 - 76]... Nói
chung, những ý kiến này đã góp phần làm giàu thêm những cơ sở phương
pháp luận, những kinh nghiệm nghiên cứu văn học nhà nho và một số có thể
vận dụng trong nghiên cứu thơ Nho.
Ở nước ta, việc nghiên cứu thơ Nho Việt Nam đã có những tiền đề quan
trọng về n
ội dung, phương pháp. Nó đã có những gợi mở, thử nghiệm, thành

tựu, nhưng nhìn chung vẫn cần tiếp tục khai thác.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu chính của luận án là thơ Nho Việt Nam trong
khoảng một thế kỷ (từ giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV).
Thơ Nho ở đây là thơ của các tác giả nhà nho, chịu ảnh hưởng tư tưởng
Nho giáo, c
ảm hứng Nho giáo, quan niệm thẩm mỹ Nho giáo. Thơ Nho Việt
Nam là những bài thơ của các nhà nho Việt Nam, chịu ảnh hưởng tư tưởng
Nho giáo, cảm hứng Nho giáo, quan niệm thẩm mỹ Nho giáo.
Ở luận án, thơ Nho được nghiên cứu như một dòng văn học trong khoảng
thời gian từ giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV nhằm làm sáng tỏ diện mạo
và đặc điểm của nó trong khoả
ng thời gian một thế kỷ này.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong quá trình làm luận án, nhiều phương pháp khoa học khác nhau đã
được vận dụng. Tùy theo từng công đoạn, tùy theo từng trường hợp cụ thể mà
người viết vận dụng các phương pháp khoa học phù hợp để thực hiện luận án.

17
Về phương pháp luận nghiên cứu thơ Nho: Từ Nho giáo đến thơ văn nhà
nho nói chung đã có nhiều công trình, nhiều nhà nghiên cứu đã đạt nhiều
thành tựu đáng khâm phục. Thông thường ta có thể chọn hướng tiếp cận từ
Nho giáo tác động đến thơ văn nhà Nho. Tuy nhiên người viết vẫn phải căn
cứ, đối chiếu với văn hóa dân tộc, tâm lý dân tộc, yếu tố Việt trong tiếp thu
Nho giáo, sự tác độ
ng qua lại của Nho giáo và tư tưởng Thiền - Lão trong văn
học Nho giáo Việt Nam, tính chất dân tộc trong văn học.
Đối với thơ Nho, bên cạnh việc tìm thấy mối quan hệ của Nho đến thơ, ta
cần tìm thấy những tác động phức tạp của Nho đến thể loại, ngôn ngữ, giọng
điệu, không gian – thời gian trong thơ Nho. Mặt khác ta cũng cần đi vào tìm

hiểu sự tác động của Nho đến việ
c lựa chọn và triển khai các chủ đề, cái tôi
trữ tình trong thơ Nho cho đến những quan niệm nghệ thuật trong thơ Nho.
Trong đó những quan niệm nghệ thuật thơ Nho phản ánh tư tưởng nghệ thuật
Nho giáo thế nào trong môi trường văn hóa xã hội Việt Nam giữa thế kỷ XIV
đến giữa thế kỷ XV.
Để giải quyết nhiều vấn đề đặt ra, luận án cần phải sự dụng mộ
t số
phương pháp nghiên cứu nhất định như: Phương pháp lịch sử – xã hội,
phương pháp nghiên cứu theo thi pháp học, phương pháp liên ngành (kết hợp
những ưu thế từ nhiều ngành khoa học (Văn, Sử, Triết). Ngoài ra luận án còn
sử dụng thường xuyên các thao tác khoa học cơ bản: tổng hợp, phân tích, so
sánh...
Các phương pháp được vận dụng theo trình tự của luận án: Phương pháp
lịch sử – xã hội và phương pháp liên ngành dùng cho Ch
ương 1. Phương pháp
lịch sử – xã hội được vận dụng bên cạnh phương pháp liên ngành nhằm trình
bày những vấn đề chung nhằm làm cơ sở cho những chương sau.
Phương pháp phân tích - tổng hợp được sử dụng cho chương 2. Chương
này cũng vận dụng kết hợp với phương pháp liên ngành nhằm làm sáng tỏ

18
những đặc điểm nội dung của thơ Nho từ giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ
XV (căn cứ vào việc khảo sát những văn bản thơ Nho được sáng tác trong
thời gian này).
Người viết cũng vận dụng Thi pháp học để nghiên cứu đặc điểm nghệ
thuật thơ Nho ở chương 3. Ở chương này phương pháp phân tích – tổng hợp
cũng đượ
c vậnsử dụng nhằm làm sáng tỏ những đặc điểm nghệ thuật của thơ
Nho từ giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV (căn cứ vào việc khảo sát những

văn bản thơ Nho được sáng tác trong thời gian này).
Phương pháp liên ngành được vận dụng trong nghiên cứu từng chương và
liên hệ giữa các chương.
6. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
Thành quả nghiên cứ
u của Luận án “Thơ Nho Việt Nam từ giữa thế kỷ
XIV đến giữa thế kỷ XV” có một số đóng góp nhất định trong lĩnh vực khoa học
và thực tiễn.
- Ý nghĩa khoa học:
Qua những cố gắng nghiên cứu thơ Nho, luận án đi vào tìm hiểu đặc điểm
khoảng một thế kỷ thơ Nho từ giữa thế kỷ XIV đến giữa thế
kỷ XV.
- Ý nghĩa thực tiễn:
Việc nghiên cứu thơ Nho giữa thế kỷ XIV – giữa thế kỷ XV thông qua đặc
điểm nội dung và nghệ thuật của thơ Nho đóng góp một phần nhỏ vào việc
nghiên cứu và giảng dạy Lịch sử văn học thế kỷ XIV- XV cũng như thơ ca thế
kỷ XIV- XV.
7. CẤU TRÚC LUẬN ÁN
Luận án gồm phần mở đầ
u, phần nội dung (có ba chương), phần kết luận,
tài liệu tham khảo và phụ lục.
MỞ ĐẦU

19
Giới thiệu sơ lược về lý do chọn đề tài, lịch sử vấn đề, đối tượng và phạm
vi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu (Từ trang 01 đến trang 18).
CHƯƠNG 1. Những vấn đề chung của thơ Nho Việt Nam từ giữa thế
kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV (Từ trang 20 đến trang 86)
Đây là chương xác định khái niệm thơ Nho Việt Nam; bối cảnh lịch sử,
diện mạo thơ Nho giữa thế kỷ XIV – giữa thế kỷ XV. Trên cơ sở đó chúng tôi

phác họa con đường vận động của dòng thơ này.
CHƯƠNG 2. Những cảm hứng trong thơ Nho Việt Nam từ giữa thế
kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV (Từ trang 87 đến trang 123).
Chương này trình bày cảm hứng chủ đạo của thơ Nho Việt Nam từ giữa
thế kỷ XIV - gi
ữa thế kỷ XV.
CHƯƠNG 3. Một số phương diện thi pháp của thơ Nho Việt Nam từ
giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV (Từ trang 124 đến trang 174).
Chương này nghiên cứu về thể loại, ngôn ngữ, giọng điệu, hình tượng
con người, không gian – thời gian nghệ thuật của thơ Nho thời gian này.
KẾT LUẬN
(Từ trang 175 đến trang 179).
Nhận định khái quát về
thơ Nho Việt Nam từ giữa thế kỷ XIV đến giữa
thế kỷ XV, phương hướng nghiên cứu kế tiếp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
(Tài liệu tham khảo gồm có tất cả 192 tài liệu, trong đó có 185 tài liệu
tiếng Việt và 10 tài liệu nước ngoài) (trang 180 - 196).
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1. Những từ ngữ trong thơ Nho Việt Nam từ giữa thế kỷ XIV
đến giữa thế kỷ XV có liên quan đến “Nho”
(Từ trang 197 đến trang 201)
PHỤ LỤC 2. Nguyên tác bài “Thích An Nam sự thi” (Ý Tông triều cử
tử) (“Toàn Đường thi”, quyển 784) (Từ trang 202 đến trang 204).

20
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA THƠ
NHO VIỆT NAM GIỮA THẾ KỶ XIV ĐẾN GIỮA THẾ
KỶ XV
1. 1. VỀ KHÁI NIỆM “THƠ NHO”

Đối tượng nghiên cứu của Luận án là thơ Nho Việt Nam trong giới hạn
thời gian từ giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV. Việc xác định đối tượng và
phạm vi nghiên cứu này có liên quan đến một số khái niệm khác như Nho
hoc, Nho gia, nho sĩ, thơ Nho, thơ nhà nho, thi luận Nho gia...
Nho học: một học phái quan trọng thời cổ đại ở Trung Quốc. Về sau Nho
học trở thành tư t
ưởng chính trị chính thống của chế độ phong kiến Trung
Quốc và một số nước lân cận. Nho học lấy tư tưởng Nhân nghĩa (Trung thứ)
làm hạt nhân.
Nho gia: chỉ phương diện học phái của Nho học. Ở Việt Nam, nó còn bao
hàm nghĩa Nho sĩ (nhà nho).
Nho sĩ: người thời xưa theo Nho học hay có khi chỉ chung trí thức ở các
nước chịu ảnh hưởng Nho học.
Thơ Nho: xuấ
t hiện trong tương quan so sánh với thơ Thiền, trước hết
được xác định là những tác phẩm thơ sáng tác trong thời gian từ giữa thế kỷ
XIV đến giữa thế kỷ XV ở Việt Nam. Thơ Nho là thơ của các tác giả nhà nho
chịu ảnh hưởng tư tưởng Nho giáo, quan niệm văn học Nho giáo, cảm hứng
Nho giáo. Thơ Nho, do đó, không hoàn toàn đồng nhất với thơ nhà nho vì ở
thơ nhà nho
có khi có xen lẫn cả cảm hứng Thiền hoặc Lão – Trang.
Ở Trung Quốc người ta còn dùng đến khái niệm Thi luận (ví dụ “Trung
quốc thi luận sử”, “Khổng Tử luận thi và Khổng Tử thi luận”...). Đó là kho
tàng những lý luận thơ ca, những quan niệm về thơ nói chung vô cùng phong
phú và phát triển theo thời gian.

21
Thi luận chính thống của Nho gia Trung Quốc thường được nhắc đến
qua những quan niệm và lý luận thơ ca của Khổng Tử, Tuân Tử, Mạnh Tử,
Lưu Hướng, Mao Hanh - Mao Trành, Trịnh Huyền, Lưu Hiệp, Đỗ Phủ,

Nghiêm Vũ... Trong đó, phần lớn là những ý kiến mang tính chất kinh điển.
Qua đó, có thể thấy không ít những khác nhau về quan niệm nghệ thuật
thơ ca của nhà nho, những kiến giả
i khác nhau về mối quan hệ thơ với đạo,
chí, dụng, tình... Càng về sau những lý giải này càng thêm phong phú (Ví dụ
có những chú giải khác nhau về “Kinh thi”, có sự ra đời của rất nhiều “thi
thoại”, “thi phẩm”). Mạch thi luận này cũng là những vấn đề quan trọng của
Kinh học – môn học tìm hiểu và giải thích kinh điển Nho gia. “Văn dĩ tải đạo”
là mệnh đề được quan tâm của Kinh học, nó phản ánh sự ả
nh hưởng Nho giáo
đến thơ văn của các nhà nho .
Ở Việt Nam, “thi luận” của Nho gia được nhiều nho sĩ. Gần đây, một số
công trình về bàn về Nho giáo - văn học có thể thấy như “Quan niệm văn học
(và mỹ học) của phái Nho gia” trích trong “Tinh hoa lý luận văn học cổ điển
Trung Quốc” (Phương Lựu) [99, 23-30], phần “Sự tiến triển của quan niệm
Nho gia chính th
ống” trong “Cấu trúc và lịch sử của lý luận văn học cổ điển
Trung Hoa” (Phương Lựu) [100, 541-544]...
Thực trạng thơ Nho ở nước ta như một bức tranh có những nét riêng biệt,
độc đáo và sáng tạo. Thơ Nho Đại Viêt được hình thành với một lực lượng
sáng tác phong phú nhưng không đồng nhất. Đôi khi những tác giả nhà nho
lại có cả thơ Thiền như Trần Minh Tông, Phạm M
ại, Nguyễn Trãi… nên cũng
cần phải chú ý những bài thơ mang cảm hứng Thiền tông của các tác giả nhà
nho khi nghiên cứu.
Chọn lọc những tác phẩm thơ ca trong thời gian khoảng một trăm năm
này, trước hết cần chọn những tác phẩm chủ yếu chịu ảnh hưởng tư tưởng
Nho. Những tác phẩm chịu ảnh hưởng tư tưởng Thiền sâu đậm hay Lão –

22

Trang quá nhiều cũng cần nên cân nhắc cụ thể. Những tác phẩm như “Đình
Thủy vương công” (Chu An) [178, 54], “Tạp hứng, 2” (Lý Tử Tấn) [09, 364-
365], “Thuật chí” (Lý Tử Cấu) [09, 386-387]... chịu ảnh hưởng khá nhiều bởi
tư tưởng Lão Trang nên khó có thể xếp vào thơ Nho.
Những tác phẩm khác như “Lễ Để sơn” (Lê Thiếu Dĩnh) [09, 408]) và
gần một số bài thơ của Nguyễn Trãi (“Du Nam Hoa t
ự” [123, 383-384), Thu
dạ khách cảm” [123, 306, 307], ,“Tiên Du tự” [123, 37-373], “Mộc cận”
[123, 471])... lại là những bài thơ mang phong cách Thiền nên cũng không thể
xếp vào thơ Nho
Tính sơ lược trong “Thơ văn Lý Trần” (tập 3) [178], thấy có khoảng 11
tác phẩm chịu ảnh hưởng tư tưởng Thiền - Lão như: “Đề Dương Công Thủy
Qua đình” (Chu An) [178, 54-55], “Đề Huyền Thiên Cực cung” (Chu An)
[178, 157], “Đề Nguyệt Giản Đạ
o Lục...” (Trần Nguyên Đán) [178, 169],
“Ngẫu đề” (Trần Nguyên Đán) [178, 192], “Tống Lãm Sơ Quốc sư hoàn
sơn” (Phạm Nhân Khanh) [178, 315], “Du Côn Sơn” (Nguyễn Phi Khanh)
[178, 423], “Đề Huyền Thiên tự” (Nguyễn Phi Khanh) [178, 466], “Thiên
Khánh Hựu Quốc khởi Tảo” (Nguyễn Phi Khanh) [178, 474], “Cầu siêu” (Sư
chùa Yên Quốc) [178, 515], “Phong Thủy đình quan ngư” (Phạm Nhữ Dực)
[178, 569]... Những tác phẩm này cũng không thể xếp vào thơ Nho để nghiên
cứu. Tuy vậy trong thực tế có khá nhiều trường hợp các yếu tố Nho – Lão –
Phật hòa trộn vào nhau, hòa tan vào nhau trong bản thân người nho sĩ và trong
thơ văn mà họ sáng tác. Sự thâm nhập và hòa tan vào nhau này khá phức tạp
tùy thuộc vào từng tác giả và ở mỗi tác phẩm khác nhau.
Ở đây, cũng thấy có sự đan xen, sự tiếp thu văn học dân gian vào trong
thơ Nho, nổi bật nhất là trường hợp thơ Nôm của Nguyễn Trãi (“Quốc âm thi
tập”). Vấn đề yếu tố Việt trong thơ Nho cũng là một vấn đề rất phức tạp. Yếu
tố Việt vừa xâm nhập chính vào sự tiếp thu Nho giáo vừa trực tiếp đi vào thơ


23
Nho. Yếu tố Việt là yếu tố bản địa vừa là tố chất cơ bản của người sáng tác
thơ Nho. Các tác giả thơ Nho chủ yếu là những nhà nho Việt. Họ đã sáng tác
bằng tâm sự, nỗi lòng riêng tư của những trí thức Đại Việt. Thơ Nho cũng
mang hơi thở cuộc sống dân tộc, đi cùng với những thăng trầm của dân tộc.
Bản thân các tác giả th
ơ Nho chủ yếu là những quan lại và thậm chí là những
nhà vua. Họ là những người trực tiếp hoặc gián tiếp có những trọng trách
trong nhà nước phong kiến Đại Việt. Cũng vì thế yếu tố Việt trong thơ Nho là
một yếu tố quan trọng cùng tồn tại trong mỗi tác giả, trong mỗi bài thơ Nho.
Vấn đề thơ Nho từ giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV cần tìm hiể
u về
quá trình hình thành, xác định mốc thời gian, những giai đoạn chuyến biến
của thơ Nho có ý nghĩa quan trọng. Ban đầu, thơ Nho chỉ tồn tại khiêm tốn
bên cạnh thơ Thiền và nó bị phản ứng mạnh bởi tinh thần "bài Ngô". Chỉ khi
đất nước độc lập, các vua Lý – Trần chủ động vận dụng Nho giáo thì Nho học
mới có địa vị và từng bước hình thành dòng thơ Nho.
Cho đến đời Trầ
n, thơ Nho từng bước phát triển và hoàn thiện song song
với quá trình phát triển của thơ Thiền. Số lượng tác giả – tác phẩm thơ Nho
ngày càng nhiều, có thể thấy cuối đời Trần các thế hệ nho sĩ Chu An – Phạm
Sư Mạnh – Lê Quát… đã ảnh hưởng đến văn hóa đương thời. Hàn Thuyên
được đánh giá như là người mở đầu một phong trào cải cách văn hóa, nhiều
văn tập – thi tập đã ra
đời trong thời gian này. Nội dung các thi tập cho thấy
dấu vết Tống Nho nhưng bên cạnh đó tính dân tộc, tính khoan hoà, tính riêng
tư, tính “Việt” cũng rất đậm nét.
Dòng thơ Nho từng bước có diện mạo, định hình. Điều này đặc biệt có
dấu hiệu khá rõ vào nửa sau thế kỷ XIV. "Vào nửa sau thế kỷ XIV, khuynh
hướng Nho giáo trong văn học đã gia tăng” [125, 172]. Trong thời gian đó,

ngay cả Nguyễn Trung Ngạn cũ
ng đã nói lên cảm hứng Nho giáo trong bối
cảnh và không khí Phật giáo: “Giang sơn tín mỹ phi ngô thổ” (Du Nhạc Lộc

24
tự) [09, 135]. Càng ngày, các nho sĩ càng ý thức làm sáng tỏ những bản sắc
cao đẹp của thơ Nho, xác lập ưu thế của thơ Nho. Điều này đã diễn ra trong
một thời gian dài.
Đó là quá trình dài mà người Nho sĩ tự ý thức, tự hào với kỹ năng sống,
kỹ năng sáng tạo nghệ thuật mới. Các nhà nho thời này đã tự ý thức trách
nhiệm của mình. Ý thức mới của họ là
“đại công xuất nhậm thuộc ngô nho”
(Ra công gánh vác việc lớn, thuộc về nhà nho ta) (Tống Kinh Doãn Nguyễn
công... - Nguyễn Phi Khanh) [178, 420]. Ý thức mới này cũng góp phần hình
thành một quan niệm thơ riêng. Mặt nào đó ta có thể nhận thấy thơ Nho đã lấy
hệ tư tưởng Nho giáo và tư tưởng dân tộc làm “vốn văn hóa” trong khi văn
hóa Nho giáo đã phát huy ảnh hưởng từ thượng tầng đến hạ tầng xã hội. Các
tác gi
ả thơ Nho cũng không ngừng phát huy vai trò của mình trên nhiều lĩnh
vực, đặc biệt là lĩnh vực văn hóa - văn học.
Tuy xác định hơi muộn hơn thực tế đôi chút, nhưng trong “Tựa Quần
hiền phú tập” đã có những nhận định về phái (thơ văn) nhà nho trong bước
đầu xây dựng. Từ thời Trần đến đầu Lê, kẻ sĩ rất nhiều, thế mà văn ch
ương để
lại chỉ có vài người thôi: “Nguyễn Nhữ Bật (thời Vãn Trần, tác giả “Quan
Chu nhạc phú”) khơi nguồn, Đào Sư Tích (người phản đối Hồ Quý Ly), Lý
Chuyết Am (Tử Tấn), Nguyễn Cúc Pha (Mộng Tuân), Trình Mật Liên (Thuấn
Du) (Thông Phán châu Vũ Ninh nhà Hồ?), Nguyễn Ức Trai (Nguyễn Trãi)
làm cho gợn sóng” (Tựa Quần hiền phú tập) [179, 242-243]. Lời t
ựa “Quần

hiền phú tập” đã ví văn học Nho như một dòng sông linh động. Dù chưa đề
cập đến những thành tựu trước đó nhưng nó đã phản ánh quy luật vận động và
phát triển của thơ Nho từ khoảng giữa thế kỷ XIV đến khoảng giữa thế kỷ
XV. Người xưa đã xem Nguyễn Nhữ Bật thuộc thế hệ tiên phong vào cuối
đời
Trần, Đào Sư Tích tiếp nối (dẫn nước) và hàng loạt các nhà thơ danh tiếng Lý

25
Tử Tấn, Nguyễn Mộng Tuân, Trình Thuấn Du, Nguyễn Trãi tiếp tục truyền
thống…
Thơ Nho như một chuyến xe khởi hành trên một con đường, xuất phát từ
Đinh - Lý nhưng mở rộng và tự giác xác định từ nửa thế kỷ cuối đời Trần. Từ
Huyền Quang (1254-1334) đến Trương Hán Siêu (?-1354), Chu An (1292 –
1370) – những người được thờ ở Văn miếu - là một bước chuyển từ thơ Thi
ền
đến thơ Nho. (Lúc đó có sự chứng kiến của Trần Anh Tông – nhà vua, nhà
văn hoá). Đầu đời Lê, thơ Nho đã hoàn toàn trở thành một dòng thơ chính
thống, chiếm lĩnh toàn diện. Quá trình đó đã có nguồn gốc từ việc xây dựng
Văn miếu thời Lý, cho đến Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông cố vận động
phục hồi tinh thần dung hòa Tam giáo. Nhưng càng về sau, phần lớn triều
đình và giới trí thức mớ
i càng đề cao Nho giáo rất mạnh mẽ.
Ở nước ta, quá trình sinh thành thơ Nho được xem như hệ quả của quá
trình phát triển của giới nho sĩ xét về mặt chức năng kéo dài đến năm thế kỷ
(Thế kỷ X – XIV). Đó là quá trình đóng góp của nhiều thi nhân, nhiều thế hệ,
kể cả các nhà vua và quan lại triều đình. Giữa thế kỷ XIV đến giữa thế kỷ XV
là một thế kỷ th
ơ với những thành tựu đáng kể. Tuy là những thành tựu ban
đầu nhưng nó phản ánh gần như trọn vẹn những đặc điểm cơ bản của thơ Nho
về nội dung – nghệ thuật. Thơ Nho khoảng 100 năm này trong sáng, tích cực

và phản ánh đúng lý tưởng của người nho sĩ chân chính. Nó cũng phản ánh
trọn vẹn lý tưởng thẩm mỹ Nho học trong thi ca. Trong thời gian đó, Nguyễn
Trãi là dấ
u son, là đỉnh cao của đường biểu diễn dòng thơ Nho. Đến thế hệ
Nguyễn Trãi, thơ Nho đã bước qua giai đoạn hình thành và đi vào ổn định,
phát triển.
Tính từ khi Trung Hoa xâm lăng đất Việt cho đến khi dòng thơ Nho
chính thức hình thành đã hơn mười lăm thế kỷ. Bằng những phương thức,
những điều kiện, những mối tương tác khác nhau, văn hóa phương Bắc đã tác

×