Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Vị trí của Thế Lữ trong tiến trình văn học Việt Nam hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.14 KB, 12 trang )

Kết luận

1. Thế Lữ là nhà thơ nổi tiếng, đã cùng Lu Trọng L và một số ngời
khác mở đầu PTTM, trở nên nhà thơ tiêu biểu, xuất sắc nhất của thơ mới
buổi đầu, đánh dấu bớc ngoặt thay đổi về cơ bản diện mạo thi ca nớc nhà
từ thời kỳ trung đại sang thời kỳ hiện đại.
2. Thế Lữ là một trong những thành viên chủ chốt, có t tởng và hành
động nghệ thuật tiến bộ vào bậc nhất trong TLVĐ. Thế Lữ là một nghệ sĩ
duy nhất trong TLVĐ tham gia sâu vào cả ba thể loại rờng cột của văn học,
nghệ thuật hiện đại khi ấy: thơ trữ tình, văn xuôi nghệ thuật và sân khấu
kịch nói. Thế Lữ là một trong số ít những nhà văn đầu tiên góp phần lớn
hiện đại hoá truyện truyền kỳ, mở đầu truyện huyễn tởng hiện đại và cũng
mở đầu truyện trinh thám ở Việt Nam.
3. Cùng với Đoàn Phú Tứ, Thế Lữ là một trong hai ngời đầu tiên đa
hoạt động nghệ thuật biểu diễn kịch nói nớc ta trở thành chuyên nghiệp và
riêng Thế Lữ, ông là ngời đầu tiên và duy nhất cách tân nghệ thuật biểu
diễn kịch nói, kịch thơ, góp phần lớn đa hoạt động sân khấu của nớc nhà
trở nên hoàn chỉnh theo hớng chuyên nghiệp hoá và hiện đại hoá.
4. Khi Thế Lữ mở đầu thơ mới, cũng là khi ông mở đầu một quan niệm
nghệ thuật mới. Cái đẹp là hạt nhân của những quan niệm ấy. Quan niệm
nghệ thuật của Thế Lữ ban đầu còn mơ hồ nhng sớm trở thành ý thức tự
giác của chủ thể sáng tạo về nghệ thuật, bắt rễ, sàng lọc tích cực từ quan
niệm chung về văn hoá, văn học, nghệ thuật của tầng lớp trí thức tiểu t sản
thành thị tiến bộ đợc đào tạo trong trờng học Pháp - Việt, chịu ảnh hởng
của phơng Tây qua Pháp, nhuần thấm cách nghĩ, cách cảm của ngời Việt
và phơng Đông trong bối cảnh và môi trờng xã hội ba, bốn mơi năm
đầu thế kỷ XX đợc Âu hoá một cách mạnh mẽ.
5. Trong khi hầu hết những nhà thơ khác trong PTTM đợc coi chủ yếu
là những tác giả văn chơng thì Thế Lữ lại đợc tiếp cận cả ở khía cạnh con
ngời xã hội - nghệ thuật, một nhân cách văn hoá. Ông đứng ở vị trí tiên
phong trong tiến trình văn học, nghệ thuật hiện đại Việt Nam, giữ vai trò


gây dựng, tổ chức nền văn nghệ mới, dìu dắt, đào tạo bạn đồng nghiệp. Thế
Lữ có nhiều ảnh hởng tích cực và sâu sắc đến văn nghệ sĩ thuộc thế hệ ông
và sau ông.
Là một nghệ sĩ đa tài, với bản lĩnh sáng tạo vững vàng, Thế Lữ sớm có
tinh thần dân tộc và khát vọng xây dựng nền văn học, nghệ thuật n
ớc nhà
theo hớng hiện đại hoá. Cách mạng đã giúp ông xác định đúng đắn hơn,
sâu sắc hơn vai trò, trách nhiệm lớn lao và vinh quang của ngời nghệ sĩ
kiểu mới chân chính. Thế Lữ xứng đáng với Giải thởng Hồ Chí Minh về
văn học, nghệ thuật. Bằng sáng tác văn chơng nổi bật và bằng những hoạt
động văn hoá, văn học, nghệ thuật xuất sắc khác, đặc biệt là nghệ thuật biểu
diễn kịch nói, Thế Lữ có vị trí quan trọng trong tiến trình văn học, nghệ
thuật hiện đại Việt Nam.
Mở đầu

1. Lý do chọn đề ti
Theo hớng tổng kết mộ thế kỷ văn học, đã có một số công trình nghiên
cứu về thơ mới, về văn chơng Tự lực văn đoàn (TLVĐ) và từng tác giả.
Riêng Thế Lữ, nhà thơ mở đầu phong trào Thơ mới (PTTM), nhà thơ tiêu
biểu, xuất sắc nhất của thơ mới buổi đầu, là thành viên chủ chốt của TLVĐ,
một nghệ sĩ đa tài, hoạt động trong nhiều lĩnh vực, có vị trí đặc biệt quan
trọng trong tiến trình hiện đại hoá văn học, nghệ thuật Việt Nam, Nghệ sĩ
Nhân dân, Giải thởng Hồ Chí Minh, lại cha có một công trình nghiên cứu
công phu, toàn diện, sâu sắc.
Luận án này đi sâu nghiên cứu tác giả trong tiến trình hiện đại hoá văn
học Việt Nam dọc thế kỷ XX, cụ thể là Thế Lữ.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Nhận xét chung
- Cuộc đời và nghiệp văn của Thế Lữ ít phức tạp.
- Ngay từ khi mới sáng tác, Thế Lữ đã nổi tiếng, cho nên cũng có ngay

một số bài phê bình tác phẩm của ông theo hớng ngợi ca, khẳng định.
- Trong khi hầu hết những nhà thơ khác trong PTTM đợc coi chủ yếu là
những tác giả văn chơng thì Thế Lữ lại đợc tiếp cận cả ở khía cạnh con
ngời xã hội, một nhân cách văn hoá.
- Lịch sử đánh giá thơ văn Thế Lữ không nằm ngoài lịch sử đánh giá văn
học lãng mạn Việt Nam, cụ thể là Tự lực văn đoàn nói riêng và phong trào
Thơ mới nói chung, với "những bớc thăng trầm" (Lê Đình Kỵ).
2.2 Về thơ
2.2.1. ở miền Bắc trớc năm 1945
Từ buổi đầu của PTTM, ngay sau khi những bài thơ nổi tiếng của Thế Lữ
ra đời, khẳng định dứt khoát thế thắng hoàn toàn của thơ mới, nhiều tác giả
trong và ngoài TLVĐ đã đăng bài nhiệt liệt ủng hộ, cổ vũ, ngợi ca Thế Lữ.
Năm 1942, Hoài Thanh - Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam, Vũ
Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại và Dơng Quảng Hàm trong Việt Nam
văn học sử yếu đã viết về thơ Thế Lữ đạt đến một trình độ khái quát, sâu
sắc cần thiết.
2.2.2. ở miền Bắc từ sau năm 1945 đến trớc thời kỳ đổi mới
Mấy năm đầu sau Cách mạng tháng Tám, thơ mới và văn chơng TLVĐ,
bị phê phán nặng nề.
Từ khi hoà bình lập lại, thái độ đối với thơ mới dần dần đợc thay đổi
theo hớng tích cực. Năm 1957, các tác giả Đỗ Đức Hiểu, Vũ Đình Liên, Lê
Trí Viễn trong Lợc khảo văn học Việt Nam, nhận định : Thế Lữ đã góp
24 1
một phần lớn vào công cuộc phục hng nền thơ Việt Nam. Năm 1961,
Bạch Năng Thi trong Văn học Việt Nam cho rằng thời ấy, Thế Lữ cảm thụ
cái đẹp với một tâm hồn mới, ông lại diễn tả cái đẹp bằng một nghệ thuật
mới. Năm 1970, trong cuốn Bớc đầu viết văn của mình, Nguyên Hồng
dành hẳn một bài dài, đề cao Thế Lữ đến tuyệt đỉnh. Năm 1973, trong cuốn
Lịch sử văn học Việt Nam (1930-1945), Nguyễn Hoành Khung khẳng định
rằng Thế Lữ là ngời tiêu biểu nhất của cái tôi thơ mới buổi đầu, thơ ông mới

mẻ, tài hoa.
2.2.3. ở miền Nam trớc năm 1975
Từ năm 1965 trở đi, một số nhà nghiên cứu, giảng dạy văn học nh
Phạm Thế Ngũ, Thanh Lãng, Nguyễn Tấn Long và Nguyễn Hữu Trọng,
Uyên Thao, Thế Phong, Trần Tuấn Kiệt, Phan Canh, v.v. đã viết về Thế Lữ
với sự ngỡng mộ, đề cao.
Đến năm 1974, trên tạp chí Văn học (Sài Gòn) số tháng 10, có nhiều bài
của các tác giả P. Vĩnh Lộc, Khái Hng, Lê Huy Oanh nói về thân thế, sự
nghiệp và văn chơng Thế Lữ. Uyên Thao công bố một tiểu luận dài: Đợt
sóng mới của làng thơ Việt Nam : Thế Lữ. Cùng năm, trong cuốn Lợc sử
văn nghệ Việt Nam, Thế Phong nhận xét: Thế Lữ là nhà thơ mở đầu cho
loại thơ mới thành công ở nớc ta, vì chính ông mới là ngời gây đợc một
thái độ thơ mới.
2.2.4. Từ thời kỳ trớc và sau đổi mới
Năm 1982, cuốn Phong trào thơ mới của Phan Cự Đệ đợc tái bản lần
thứ nhất, trong đó những trang, dòng liên hệ đến thơ văn Thế Lữ đợc viết
công bằng hơn. Nhà xuất bản Văn học cho ra liên tiếp các tập tuyển thơ văn
của các nhà thơ mới. Tuyển tập Thế Lữ (một tập) do Lê Đình Kỵ, đợc
công bố lần đầu vào năm 1983. Ngoài Lời giới thiệu của Lê Đình Kỵ, còn
có tiểu luận Thơ Thế Lữ của Xuân Diệu. Cùng năm và những năm 1984,
1987 liên tiếp có nhiều bài về Thế Lữ. Trong Từ điển văn học, tập 1,
Nguyễn Hoành Khung khẳng định Mấy vần thơ là tập thơ tiêu biểu nhất của
thơ mới buổi đầu. Trong Từ điển văn học, tập 2, Trần Hữu Tá nêu rõ : Thế
Lữ đã góp phần đáng kể vào việc hiện đại hoá thơ ca Việt Nam, khẳng định
giá trị biểu hiện sinh động của thơ mới
. Trong Từ điển văn học bộ mới
(Nhà xuất bản Thế giới, 2004), hai mục từ nói trên đợc in lại, có sửa chữa
và bổ sung theo hớng khẳng định nhiều hơn những u điểm của văn nghiệp
Thế Lữ.
Tháng 2-1989, Hà Minh Đức khi viết Khải luận Phong trào Thơ mới

Việt Nam thời kỳ 1930 - 1945, đã nhận xét : Thế Lữ, ngời mở đầu cho
PTTM, ông hoàng của chủ nghĩa lãng mạn, đã kết hợp đợc trong thơ tình
cảm chân thực và mở rộng với chất lãng mạn, thanh cao".
Thế Lữ sắm khoảng hai mơi sáu vai kịch, hầu hết là vai chính trong chính
những vở diễn do ông đạo diễn hoặc tham gia viết kịch bản.
4.4.5. Thế Lữ với kịch hát và kịch thơ
4.4.5.1. Nhà chỉ đạo kịch đoàn, đạo diễn kiêm biên kịch, diễn viên Thế
Lữ tận tâm tận sức với kịch nói kiểu châu Âu đợc du nhập sang nớc ta từ
nớc Pháp, lại chính là ngời hơn ai hết chú ý đặc biệt đến công việc bảo tồn, nuôi
dỡng kịch hát dân tộc ở mức độ có thể và triệt để sử dụng những u điểm
của kịch hát truyền thống vào sáng tạo kịch nói hiện đại.
Trong hai cuộc hội nghị tranh luận, một về kịch (1949), một về sân khấu
(1950) ở Việt Bắc, Thế Lữ cổ vũ tuồng, chèo một cách mạnh mẽ.
4.4.5.2. Kịch thơ là kịch nói thiên về trữ tình, lời thoại của vai diễn chủ
yếu bằng lời thơ, diễn viên ngâm hoặc đọc diễn cảm theo nhạc điệu của thơ,
phù hợp với cấu trúc vở diễn và hành động nghệ thuật, xung đột kịch. Kịch
thơ không nảy sinh từ kịch hát dân tộc. Kịch thơ là một loại hình sân khấu
riêng, là biến thái của kịch nói. Kịch thơ Việt Nam cũng không thuộc
PTTM. Nh kịch nói, kịch thơ hiện đại xuất hiện vào thế kỷ XVIII ở một số
nớc châu Âu. ở Việt Nam, kịch thơ cũng xuất hiện sau kịch nói.
4.4.5.3. Thế Lữ có rất ít tác phẩm kịch thơ nhng lại là ngời rất say mê,
có nhiều tâm huyết đối với kịch thơ, có ý thức học hỏi, nghiên cứu, cách tân
kịch thơ.
Thế Lữ sáng tác hai vở kịch thơ, đồng thời ông cũng làm đạo diễn và
sắm vai chính. Vở Tục lụy công diễn vào ngày đầu thành lập Ban kịch Thế
Lữ (1942). Khi mới chuyển sang Ban kịch Anh Vũ (1943), Thế Lữ soạn và
dàn dựng ngay vở Dơng Quí Phi.
Thế Lữ cố gắng tìm tòi cái mới trong kịch thơ. Thế Lữ chủ trơng diễn
viên chỉ cần nói và đọc diễn cảm, có nhạc điệu, mà không ngâm một cách
đều đều, đơn điệu, ít thay đổi, để miễn sao vở diễn vẫn là kịch thơ, không

phải kịch nói.
4.4.6. Thế Lữ, bậc thầy của giới biểu diễn kịch nói Việt Nam
Cùng với Đoàn Phú Tứ, Thế Lữ là một trong hai ngời đầu tiên đa hoạt
động nghệ thuật biểu diễn kịch nói nớc ta trở thành chuyên nghiệp và riêng
Thế Lữ, từ đầu những năm 30 cho đến cuối những năm 70 của thế kỷ XX,
suốt hơn bốn mơi năm bền bỉ, tận tâm tận sức trên các cơng vị đạo diễn,
diễn viên, biên kịch và quản lý kịch đoàn, quản lý ngành kịch, ông là ngời
duy nhất đầu tiên cách tân nghệ thuật biểu diễn kịch nói, kịch thơ về nhiều
phơng diện, góp phần lớn đa hoạt động sân khấu kịch nói của nớc ta trở
nên hoàn chỉnh theo hớng chuyên nghiệp hoá, hiện đại hoá. Thế Lữ là
ngời anh cả của sân khấu hiện đại, bậc thầy của giới biểu diễn kịch nói
Việt Nam.
2 23
Năm 1936, Đoàn Phú Tứ và Thế Lữ cùng nhiều nghệ sĩ tài danh khác
thành lập Ban kịch Tinh hoa. Ban kịch có một dàn diễn viên tài giỏi. Ban
kịch Tinh hoa ra mắt vào tối 13-3-1937 tại Nhà hát thành phố Hà Nội với
hai vở diễn do Đoàn Phú Tứ viết kịch bản, Thế Lữ đạo diễn. Năm 1942, khi
kịch bản kịch nói đã nhiều, Thế Lữ thành lập ban kịch mang tên ông. Tuy
năm 1942 mới chính thức ra mắt, Ban kịch Thế Lữ đã có dấu hiệu hình
thành từ Nhóm những ngời yêu kịch. Đến năm 1943, do nhiều khó khăn,
kiến trúc s Vũ Đức Diên do có tâm huyết với kịch nói nớc nhà, lại có điều
kiện về tài chính, đã giúp đỡ và mời Thế Lữ và ban kịch của ông thành lập
ban kịch mới mang tên Anh Vũ. Thế Lữ vẫn là linh hồn, là ngời chỉ đạo
nghệ thuật ban kịch này.
Sau năm 1945, Thế Lữ tiếp tục cùng ngời bạn đời là nghệ sĩ Song Kim
và các bạn đồng nghiệp, lên chiến khu Việt Bắc hoạt động sân khấu phục vụ
cách mạng.
4.4.3. Thế Lữ, ngời rất tâm huyết đối với nghệ thuật kịch nói
Thế Lữ đánh giá cao vai trò, tác dụng của sân khấu. Thế Lữ mong ớc
đóng góp trí tuệ, sức lực của mình vào công cuộc xây dựng nền sân khấu

hiện đại của nớc nhà, làm cho nghệ thuật biểu diễn kịch nói trở thành một
nghề cao quí, có tính chuyên nghiệp, có tác dụng tích cực đối với xã hội mới
Thế Lữ cho rằng đã là một đất nớc thì phải có sân khấu, phải có kịch
nói và không thể gọi diễn viên là xớng ca vô loài.
Thế Lữ khuyến khích học rộng và sâu, đồng thời ông cũng khuyên mọi
ngời "phải chủ động trong việc tiếp thu". Sau khi nêu ba vấn đề cấp thiết
nhất cần dồn vào đó trí tuệ, công sức, là kịch bản, kỹ thuật và khán giả, Thế
Lữ đề nghị phải nhanh chóng thiết lập kịch viện Việt Nam.
4.4.4. Thế Lữ trong vai trò ngời tổ chức, chỉ đạo kịch đoàn, đạo diễn,
diễn viên, biên kịch
Thế Lữ đã dàn dựng và cùng bạn nghề dàn dựng khoảng năm mơi vở
diễn. Cùng với Đoàn Phú Tứ, Thế Lữ đã đa vào nền sân khấu kịch nói dân
tộc một không khí mới, một chất lợng nghệ thuật mới. Đối với Thế Lữ, dù
ở trờng hợp nào, ông cũng tận tâm tận sức nhằm làm cho mọi biểu hiện bề
ngoài hoặc hoạt động nghệ thuật trên sàn diễn đợc chỉnh tề, chững chạc,
đến mức hoàn mỹ nhất.
Thế Lữ quan tâm đặc biệt đến diễn xuất. Ông rất có công trong việc dìu
dắt, đào tạo diễn viên, đạo diễn. Nhờ ông mà nhiều diễn viên, đạo diễn kịch
nói đã trở nên những nghệ sĩ nổi tiếng.
Thế Lữ cũng quan tâm đặc biệt đến đối tợng phục vụ, đó là khán giả.
Một mặt, Thế Lữ muốn nâng cao trình độ của biên kịch, đạo diễn, diễn viên,
mặt khác, ông cũng muốn công chúng ngời xem phải theo kịp bớc phát
triển của sân khấu kịch nói hiện đại.
Một cái mốc đáng nhớ là cuộc Hội thảo về văn chơng TLVĐ do Khoa Ngữ
văn trờng Đại học Tổng hợp và Nhà xuất bản (Nxb) Đại học và Trung học
chuyên nghiệp phối hợp tổ chức vào ngày 25-5-1989. Báo Giáo dục và Thời
đại đăng bài tờng thuật cuộc hội thảo và các bài tham luận, trong đó có
tham luận của Lê Đình Kỵ về thơ Thế Lữ. Vào dịp kỷ niệm 60 năm PTTM,
hai năm 1992, 1993 có những mốc đáng ghi nhớ, liên quan đến Thế Lữ.
Nguyễn Trác trong Lịch sử văn học Việt Nam 1930 - 1945, dành hẳn một

chơng viết về Thế Lữ và tập Mấy vần thơ. Năm 1992, bộ sách tái bản 12
cuốn thơ mới, có nhan đề chung Phong trào Thơ mới - những tập thơ tiêu
biểu do Hội Nhà văn và Hội nghiên cứu và giảng dạy văn học Thành phố
Hồ Chí Minh liên danh xuất bản, ra mắt bạn đọc, trong đó có tập thơ Mấy
vần thơ. Cùng năm, cuộc họp mặt các nhà thơ mới tại Hà Nội đợc tổ chức.
Đỗ Lai Thúy có tiểu luận Ngời bộ hành phiêu lng.
Năm 1993, cuốn Nhìn lại một cuộc cách mạng trong thi ca, do Huy
Cận và Hà Minh Đức chủ biên, ra mắt bạn đọc. Cuốn sách có bài của Hà
Minh Đức nói về cuộc bình chọn những bài thơ mới tiêu biểu. Thế Lữ đợc
chọn hai bài là Nhớ rừng và Cây đàn muôn điệu.
Mấy năm cuối thế kỷ trớc có những bài viết về Thế Lữ đáng chú ý.
Năm 1997, có bài Thế Lữ, nghệ sĩ hai lần tiên phong của Phan Trọng
Thởng, các bài của Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Xuân Sanh, v.v.
Năm 1998, Lê Đình Kỵ có tiểu luận Thế Lữ in trong cuốn Thơ mới
những bớc thăng trầm của ông. Năm 2000, Nxb Khoa học xã hội công bố
tập 25 do Hà Minh Đức su tầm, biên soạn trong hệ thống trọn bộ 42 tập
của Tổng tập văn học Việt Nam. Bài Khải luận "Phong trào thơ mới Việt
Nam thời kỳ 1930 - 1945" của Hà Minh Đức đợc in lại (có sửa chữa và bổ
sung). Cuốn sách tuyển in sáng tác thơ của nhiều nhà thơ mới, trong đó, tập
Mấy vần thơ, tập mới của Thế Lữ đợc in lại toàn bộ.
Năm 2002, có tiểu luận Thế Lữ, ngời mở đầu một trào lu thơ ca của
Hà Minh Đức và tiểu luận Ngời thơ đến với sân khấu của Hoài Anh.
2.2.5. Bình những bài thơ hay
Thế Lữ có hàng chục bài thơ hay, trong đó có những bài đợc tuyển vào
Thi nhân Việt Nam. Riêng các bài Nhớ rừng, Cây đàn muôn điệu, Tiếng
sáo Thiên Thai, Tiếng trúc tuyệt vời, v.v. có nhiều bài bình hởng ứng. Đặc
biệt, bài Nhớ rừng trở thành danh tác, có giá trị cổ điển, đ
ợc nhắc đi nhắc
lại khi nói đến thơ mới nói chung và thơ Thế Lữ nói riêng,
2.2.6. Học tập và nghiên cứu khoa học về Thế Lữ trong trờng học

Trong nhiều năm, thơ văn lãng mạn đợc giảng dạy và học tập một cách
đơn giản và dè dặt. Học sinh ở cấp trung học phổ thông biết đến ba bài thơ :
Nhớ rừng, Tiếng sáo Thiên Thai, Cây đàn muôn điệu, riêng hai bài sau
22 3
thuộc phần đọc thêm. Văn của Thế Lữ không đợc nhắc đến. Thế Lữ cũng
không đợc biết đến ở phơng diện là một nhà báo, nhà phê bình văn học,
nhà dịch thuật, một nghệ sĩ đa tài, từng là đạo diễn sân khấu, biên kịch, diễn
viên.
Cha có luận án tiến sĩ về Thế Lữ mà chỉ có một số luận văn thạc sĩ.
2.3. Về văn xuôi nghệ thuật
Thế Lữ viết và công bố truyện rất sớm. Ngời đầu tiên nghiên cứu văn
xuôi nghệ thuật của Thế Lữ đạt mức độ công phu nhất định là Vũ Ngọc
Phan. (Nhà văn hiện đại, 1942).

Hơn hai mơi năm sau, tại Sài Gòn, Phạm Thế Ngũ trong cuốn Việt Nam
văn học sử giản ớc tân biên (tập 3) đã dành 11 trang nói về những truyện
kinh dị, lãng mạn và trinh thám của Thế Lữ.
Bớc sang thời kỳ đổi mới, các nhà nghiên cứu Hà Minh Đức, Phan Cự
Đệ, Lê Đình Kỵ, Phan Trọng Thởng, Nguyễn Hoành Khung, Trần Hữu Tá,
v.v. đã đề cập sáng tác văn xuôi của Thế Lữ. Các ý kiến đều đánh giá cao
truyện rùng rợn và truyện trinh thám của Thế Lữ.
2.4. Về hoạt động sân khấu
Từ những năm bảy mơi đến nay mới có nhiều bài báo, chơng sách
(hầu hết ở miền Bắc) viết về sự nghiệp sân khấu của Thế Lữ. Đáng chú ý là
những bài báo hoặc chơng sách của các tác giả Phan Kế Hoành và Trần
Việt Ngữ, Phan Kế Hoành và Huỳnh Lý, Lu Quang Vũ, Phan Trọng
Thởng, Nguyễn Thị Minh Thái, Hoài Anh, Tất Thắng, Song Kim, Nguyễn
Đình Nghi, Phạm Văn Đôn, Cao Nhị, Trần Vợng, Tào Mạt, Hoàng
Chơng, v.v. Hầu hết các ý kiến đều đề cao vai trò đạo diễn của Thế Lữ.
3. Phạm vi nghiên cứu

Luận án tiếp cận tác phẩm văn chơng của Thế Lữ công bố từ khoảng
năm 1932 đến khoảng năm 1954. Đó là 48 bài thơ in trong hai tập Mấy vần
thơ (Nhà xuất bản Đời nay, 1935), Mấy vần thơ, tập mới (Nhà xuất bản Đời
nay, 1941) và một số ít bài khác, cùng một số tác phẩm văn xuôi nghệ thuật,
một số ít kịch bản sân khấu.
Luận án cũng nghiên cứu về các hoạt động văn hoá, văn học, nghệ thuật
khác - đặc biệt là sân khấu - của Thế Lữ ở mức độ cần thiết.
4. Phơng pháp nghiên cứu
Luận án vận dụng đồng thời các phơng pháp nghiên cứu: phơng pháp
lịch sử, phơng pháp phân tích thẩm mỹ truyền thống và phơng pháp thống
kê, phơng pháp so sánh, phơng pháp hệ thống, phối hợp với Thi pháp học.
5. Đóng góp mới của luận án
Lần đầu tiên, vị trí của Thế Lữ trong tiến trình văn học hiện đại Việt
Nam đợc nghiên cứu một cách kỹ lỡng, có hệ thống. Lần đầu tiên, sáng
Trớ trêu thay, Thế Lữ lại chính là ngời ngăn chặn thế hệ sau can đảm đi
tìm những chân trời mới lạ, khi hoàn cảnh xã hội đã chuyển biến rất cơ bản
sau năm 1945. Sự việc là, đến năm 1949, xảy ra cuộc tranh luận về thơ
Nguyễn Đình Thi ở Việt Bắc. Thế Lữ bộc lộ quan niệm nghệ thuật bảo thủ,
trì trệ. Ông đa ra nhiều lời phán xét nghiệt ngã nhất về thơ Nguyễn Đình Thi.
4.3. Hoạt động dịch thuật
4.3.1. Buổi đầu dịch thuật Việt Nam
Sự có mặt của ngời Pháp cùng với chữ Quốc nhữ vào cuối thế kỷ XIX
đã khiến hoạt động dịch thuật văn học ở nớc ta có một bớc chuyển biến
mới, để rồi đến đầu thế kỷ XX, nền dịch thuật văn học Việt Nam đợc chính
thức khai sinh. Hoạt động dịch thuật thật sự sôi nổi từ năm 1932 trở đi.
4.3.2. Hoạt động dịch thuật của Thế Lữ
Chỉ sau năm 1945 - tập trung từ năm 1951 đến trớc khi mất (1989) -
Thế Lữ mới lu tâm nhiều đến dịch thuật. Ông tập trung vào việc dịch kịch
bản kịch nói, kịch thơ và những tài liệu giúp nâng cao trình độ nghề nghiệp.
ở phần việc này, Thế Lữ có nhiều đóng góp đáng đợc giới sân khấu ghi

nhận và biết ơn. Thế Lữ đã đợc trao giải B Giải thởng Văn nghệ 1951 -
1952 cho toàn bộ bản dịch kịch.
Thế Lữ dịch khoảng mời lăm kịch bản kịch nói, cụ thể là kịch bản của
các tác giả Pháp, Trung Quốc, Nga - Xô viết, Anh, Đức. Thế Lữ quan tâm
nhiều đến việc dịch kịch thơ.
4.4. Hoạt động sân khấu
4.4.1. Buổi đầu sân khấu kịch nói Việt Nam
Khác thơ và văn xuôi nghệ thuật, kịch nói Việt Nam xuất hiện vào đầu
thế kỷ XX, không hề có một nguồn mạch truyền thống nào mà là một loại
hình nghệ thuật hoàn toàn mới. Kịch nói ra đời do, một là kết quả của cuộc
tiếp biến văn hoá giữa các nớc châu á, các nớc phơng Đông với các
nớc châu Âu và cả các nớc phơng Tây nói chung và giữa Việt với Pháp
nói riêng, mà phía Việt Nam là phía bị động, bị áp đặt, trải qua các quá trình
phản ứng, chống đối, cộng sinh và hoà nhập; hai là do qui luật tất yếu của
xu hớng tiếp cận đời sống của văn học, nghệ thuật theo hớng hiện thực
chủ nghĩa; ba là do thị hiếu đổi mới của tầng lớp thị dân và trí thức tiểu t
sản, nảy sinh trong hoàn cảnh xã hội đô thị.
Kịch Pháp du nhập sang Việt Nam ban đầu là kịch bản đăng nhiều trên
Đông Dơng tạp chí và một vài tờ báo, tạp chí khác. Lịch sử sân khấu kịch
nói Việt Nam từng ghi nhận tác giả Vũ Đình Long, với vở kịch Chén thuốc
độc công diễn vào tối 22 - 10 - 1921, là ngời mở đầu kịch nói Việt Nam.
4.4.2. Quá trình hoạt động sân khấu của Thế Lữ
Từ năm 1923, khi còn là cậu thiếu niên đang học ở Hải Phòng, Thế Lữ
đã biết đến kịch nói và say mê bộ môn nghệ thuật này. Thế Lữ nể phục kịch
nớc Pháp, lấy sân khấu nớc này làm mẫu để theo.
4 21
đã đi cùng, tạo điều kiện và góp phần mở đờng cho sáng tác văn chơng,
thì nghị luận, phê bình văn học lại hình thành muộn.
Quan niệm mới cùng với các cuộc tranh luận văn học kéo dài hầu nh
suốt cả 13 năm, hơn hai mơi tờ báo đã đăng bài. Những cuộc tranh luận ấy

cùng những quan niệm mới về văn nghệ đã thúc đẩy hoạt động phê bình.
4.2.2. Hoạt động phê bình văn học của Thế Lữ
Đối với Thế Lữ, quan niệm về cái đẹp của cuộc sống khách quan bao
gồm cả quan niệm về cái đẹp của tác phẩm nghệ thuật. Đây là quan niệm
nghệ thuật của Thế Lữ ở cấp độ thực tiễn. Thế Lữ chủ trơng văn học, nghệ
thuật cần có phẩm chất t tởng, phẩm chất nghệ thuật theo hớng hiện đại
hoá và phẩm chất bản sắc dân tộc trên cơ sở tiếp thu văn hoá, văn học
phơng Tây.
4.2.2.1. Ngoài những ý kiến phê bình không đợc sắp xếp hệ thống thành
bài, Thế Lữ còn viết một số bài phê bình nh những tác phẩm riêng biệt.
Những bài phê bình ấy có tầm khái quát cao, nêu bật đợc đặc trng của đối
tợng khảo sát, có cách cảm thụ tinh tế, lời văn cô đúc, mềm mại, giàu sức
biểu cảm, đọc nghe du dơng, ngân vang nh văn sáng tác.
4.2.2.2. Quan niệm của Thế Lữ về văn học, nghệ thuật nói chung và về
tác phẩm nói riêng đợc thể hiện ở nhiều chỗ trong các bài, tin báo nghiêng
về phía chỉ ra những hạn chế của tác phẩm. Thế Lữ không chấp nhận thói a
dua, theo đuôi, lai căng, sáo ngôn, sính chữ, kệch cỡm, giả dối, cẩu thả, dễ
dãi, lời biếng, đểnh đoảng
Trớc hết, Thế Lữ coi trọng phẩm chất t tởng của tác phẩm ngay từ khi
ông còn là một nhà văn tiểu t sản chủ trơng nghệ thuật vị nghệ thuật.
Thế Lữ cũng coi trọng phẩm chất nghệ thuật của tác phẩm. Nhà phê bình
vốn là một nhà thơ mở đầu PTTM này rất dị ứng với việc tác giả trình bày
luân lý đạo đức lộ liễu, vụng về, dài dòng mà xem nhẹ hoặc non kém về mặt
sáng tạo nghệ thuật.
Đối với Thế Lữ, phẩm chất nghệ thuật theo hớng hiện đại hoá đợc cụ
thể hoá ở các yếu tố nh: xúc cảm thẩm mỹ, cái mới, cái thật.
Là một nhà thơ, Thế Lữ đặc biệt chú ý đến xúc cảm của ngời nghệ sĩ và
xúc cảm do tác phẩm tạo ra cho ngời đọc, ngời xem.
Thế Lữ quan tâm đặc biệt đến cái mới. Ngay từ những ngày đầu bớc
vào làng văn, Thế Lữ đã ý thức sâu sắc rằng làm nghệ thuật là phải tìm đợc

cái mới, phải dứt khoát làm ra cái mới, chính vì thế mà ông trở thành ngời
mở đầu một trào lu thơ ca.
4.2.2.3. Thuộc những nhà thơ mới chịu ảnh hởng phơng Tây sớm nhất,
Thế Lữ lại là nhà thơ rất Việt Nam, rất dân tộc. Ưu điểm ấy đợc thể hiện
rất rõ trong sáng tác, do ông có quan niệm đề cao phẩm chất bản sắc dân tộc
của văn học.
tác thơ và truyện của Thế Lữ đợc tiếp cận và khảo sát sâu ở từng thể loại,
đồng thời khảo sát mối tơng quan chuyển hoá giữa hai thể loại. Lần đầu
tiên, những đóng góp mang ý nghĩa mở đầu của Thế Lữ vào tiến trình hiện
đại hoá sân khấu nói chung và nghệ thuật biểu diễn kịch nói nói riêng đợc
nhìn từ góc độ văn học.
6- Cấu trúc của luận án
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận cùng với phần th mục đặt ở cuối,
trong phần nội dung, luận án đợc triển khai thành bốn chơng: Chơng
một: Quá trình sáng tác và quan niệm nghệ thuật; Chơng hai: Thơ Thế Lữ;
Chơng ba: Văn xuôi nghệ thuật của Thế Lữ; Chơng bốn: Thế Lữ với
những hoạt động văn hoá, văn học, nghệ thuật khác

Chơng một: Quá trình sáng tác v quan niệm
nghệ thuật của thế lữ

1.1. Những tiền đề xã hội - văn hoá
1.1.1. Bối cảnh văn hoá Việt Nam đầu thế kỷ XX
Từ cuối thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp đặt chân đến Việt Nam và toàn
cõi Đông Dơng, khiến đô thị t sản hoá xuất hiện cùng ý thức hệ t sản
kiểu phơng Tây đợc hình thành, thì đất nớc Việt Nam bắt đầu chuyển
biến mạnh mẽ và sâu sắc về nhiều phơng diện.
Nếu xem chữ viết là thành tố hàng đầu của văn hoá và văn học viết là bộ
phận tiêu biểu nhất của văn hoá, thì có thể khẳng định rằng việc loại bỏ chữ
Hán, để thay vào đó là việc sử dụng chữ Quốc ngữ, là một trong những sự

kiện to lớn, một bớc đột phá ngoạn mục của lịch sử, làm biến đổi nền văn
hoá, văn học, nghệ thuật Việt Nam theo hớng hiện đại hoá.
1.1.2. Những trí thức, tác gia tiêu biểu nửa đầu thế kỷ XX và sự xuất
hiện của Thế Lữ
1.1.2.1. Từ cuối thế kỷ XIX đến những năm 30 của thế kỷ XX, lần lợt
xuất hiện ba thế hệ trí thức Việt Nam là những tác giả thơ, văn, su tầm,
khảo cứu, nghị luận, phê bình, dịch thuật, trong đó có nhiều ngời giao lu
với văn hoá phơng Tây.
1.1.2.2. Thế Lữ cũng thuộc một kiểu trí thức nghệ sĩ mới tiểu t sản ở
một nớc thuộc địa nửa phong kiến trong số những văn nghệ sĩ, những nhà
hoạt động khoa học xã hội - nhân văn nói trên. Ông xuất hiện từ năm 1932
và trởng thành trong 13 năm (1932 - 1945) rực rỡ nhất trong tiến trình hiện
đại hoá văn học nớc nhà.
20 5
1.2. Thế Lữ, từ cuộc đời đến văn nghiệp
1.2.1. Tóm tắt tiểu sử Thế Lữ
Thế Lữ sinh ngày 6 tháng 10 năm 1907 tại ấp Thái Hà, Hà Nội trong một
gia đình viên chức nhỏ. Thuở nhỏ ở Lạng Sơn, sau đó về Hải Phòng học sơ
học và thành chung. Năm 1929, học xong năm thứ ba bậc thành chung thì
về Hà Nội thi đỗ dự thính vào trờng Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dơng, học
đợc một năm thì bỏ.
Khi còn ở tuổi mời tám đôi mơi, sống ở Hải Phòng, Thế Lữ đã viết
truyện, làm thơ. Ông sắm vai kịch nói từ năm 1928. Năm 1932, Thế Lữ
đợc mời làm báo Phong hóa, sau đó gia nhập TLVĐ, là ngời góp phần
sáng lập văn phái này. Ông là nhà báo, ngời biên tập nòng cốt, mẫn cán
của hai tờ báo Phong hóa và Ngày nay.
Khi gia nhập TLVĐ, Thế Lữ càng quan tâm đến nghệ thuật biểu diễn
kịch nói nhiều hơn. Từ năm 1937, ông chuyển hớng mạnh sang hoạt động
biểu diễn kịch nói, mặc dù vẫn ở trong TLVĐ, đều đặn làm biên tập, viết
báo, sáng tác và công bố tác phẩm văn chơng.

Cuối năm 1938, ông kết hôn với ngời vợ sau là diễn viên Song Kim.
Thế Lữ sớm có t tởng tiến bộ. Năm 1928, ông tham gia Thanh niên
cách mạng đồng chí hội ở Hải Phòng. Trớc Cách mạng tháng Tám, Thế Lữ
chỉ đạo đoàn nghệ thuật đi biểu diễn nhiều nơi dọc đất nớc. Sau đó, ông có
mặt ở chiến khu Việt Bắc, tiếp tục tổ chức kịch đoàn, biểu diễn phục vụ
kháng chiến.
Năm 1957, Hội nghệ sĩ sân khấu Việt Nam đợc thành lập, Thế Lữ đợc
bầu làm Chủ tịch, ông giữ cơng vị này liên tục đến năm 1977. Cũng từ năm
1957, Thế Lữ là hội viên thế hệ sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam.
Năm 1977, Thế Lữ nghỉ hu.
Năm 1979, sau nhiều năm xa cách gia đình đầu tiên, Thế Lữ vào thành
phố Hồ Chí Minh sống với ngời vợ đầu và các con.
Ngày 3 tháng 6 năm 1989, Thế Lữ qua đời tại thành phố Hồ Chí Minh.
Năm 2001, Thế Lữ đợc Nhà nớc truy tặng Giải thởng Hồ Chí Minh.
1.2.2. Thế Lữ, thành viên chủ chốt của TLVĐ
Thế Lữ đợc TLVĐ rất đề cao. Chính Nhất Linh là ngời đầu tiên có bài
viết về thơ văn Thế Lữ với thái độ rất trân trọng, ngỡng mộ. Thế Lữ đã góp
phần lớn gây thanh thế cho TLVĐ ngay từ những tháng ngày đầu tiên ra
mắt. Và sau này, Thế Lữ đã góp phần làm cho TLVĐ vững chãi từ những
hoạt động cải cách đầu tiên, tạo nên PTTM và văn xuôi lãng mạn.
Chơng bốn: Thế lữ với những hoạt động văn hoá,
văn học, nghệ thuật khác

4.1. Hoạt động báo chí
4.1.1. Buổi đầu báo chí Việt Nam
Mãi đến cuối thế kỷ XIX, báo chí Việt Nam mới chính thức ra đời ở
Nam Kỳ cùng với sự có mặt vào buổi đầu của thực dân Pháp, và đến đầu thế
kỷ XX thì phát triển rầm rộ.
Quá trình khai sinh, phát triển và trởng thành của báo chí Việt Nam
trớc năm 1945 có thể phân làm hai giai đoạn lớn. Từ năm 1865 đến năm

1930 là bớc khởi đầu. Từ năm 1930 đến năm 1945, báo chí tiếp tục phát
triển, trởng thành, ổn định, mang tính chuyên nghiệp cao, theo hớng hiện
đại hoá, trở thành một nghề, một nghiệp đối với một bộ phận trí thức tiểu t
sản theo tân học, góp phần quan trọng vào quá trình hiện đại hoá văn học,
nghệ thuật dân tộc.
4.1.2. Hoạt động báo chí của Thế Lữ
4.1.2.1. Là một trong số ít ỏi tám thành viên của hai tờ báo Phong hoá và
Ngày nay tự nhận lấy vai trò lớn trong công cuộc cải cách văn hoá - xã hội
và nhất là cải cách văn chơng, Thế Lữ đã đảm trách nhiều phần việc quan
trọng, từ tổ chức đội ngũ bạn viết đến việc biên tập và viết bài mang tính
thời sự để in trên những trang mục thờng xuyên. Bút danh Thế Lữ và bút
danh thứ hai dùng khi viết báo là Lê Ta gắn liền với tên tuổi hai tờ báo của TLVĐ.
Thế Lữ là một biên tập viên cần mẫn, thẳng thắn, trung thực, có trách
nhiệm cao và nhiều tình thân ái đối với bạn đọc, bạn viết báo, bạn văn
chơng. Ông trân trọng thơ của các nhà thơ vợt qua ông.
4.1.2.2. Những năm ba mơi đầu thế kỷ XX, Phong hoá và Ngày nay
đợc nhìn nhận nh là những tờ báo trào phúng đầu tiên của báo chí Việt
Nam.
Yếu tố hài hớc trong những bài báo của Thế Lữ thờng thờng mang
hai mục đích, một là phê phán, hai là vui vẻ, giải trí, phù hợp với chủ trơng
của TLVĐ. Nếu yếu tố hài hớc chỉ xuất hiện thoáng qua trong văn chơng
của Thế Lữ thì nó lại có mặt thờng xuyên trong nhiều bài báo của ông.
4.1.2.3. Sau năm 1945, trong kháng chiến chống Pháp, tại chiến khu Việt
Bắc, Thế Lữ tiếp tục tham gia hoạt động báo chí trong một thời gian ngắn.
Năm 1948, Thế Lữ làm việc ở tạp chí Văn nghệ, tiền thân của báo Văn nghệ
thuộc Hội Nhà văn Việt Nam hiện nay. Ông giữ cơng vị Uỷ viên ban Biên tập.
4.2. Hoạt động phê bình
4.2.1. Buổi đầu phê bình văn học Việt Nam
ở buổi đầu của tiến trình hiện đại hoá văn học Việt Nam, nếu su tầm, khảo
cứu, dịch thuật về mọi lĩnh vực khoa học xã hội và khoa học tự nhiên

6 19
tiết. Ông chú ý nhiều đến vẻ đẹp ngoại hình của nhân vật chính diện. Những
nhân vật phản diện ít khi đợc khai thác vẻ đẹp ngoại hình.
Riêng phụ nữ, hầu nh bất cứ ai, ở đâu, làm việc gì, Thế Lữ cũng dành
cho họ nhiều nhan sắc.
3.5.2.2. Thế giới nội tâm của nhân vật đợc Thế Lữ chú ý khai thác. Nội
tâm nhân vật nam đợc Thế Lữ chú ý hơn. Nhân vật nữ đợc bù bằng vẻ đẹp
ngoại hình.
Khi miêu tả nội tâm, Thế Lữ cũng chú ý phân tích tâm lý. Tâm lý đợc
Thế Lữ miêu tả nhiều trong truyện huyễn tởng và truyện trinh thám, ở đó
chứa đựng dày đặc những va đập nghịch lý trong quá trình vừa thởng
ngoạn cái kỳ bí vừa tìm đến sự thật.
3.5.3. Miêu tả đối tợng qua cảm giác
Đây cũng là điểm mạnh của Thế Lữ. Cảm giác ngạc nhiên, ghê sợ và
cảm giác đợi chờ một cách nóng ruột các bí mật đợc khám phá là những
yếu tố gây hấp dẫn chủ yếu trong truyện huyễn tởng, truyện trinh thám nói
chung và truyện của Thế Lữ nói riêng. Cảm giác của nhân vật tạo nên cảm
giác cho ngời đọc.
3.5.4. Miêu tả cảnh trí thiên nhiên
Cũng nh trong thơ, nhiều trang văn xuôi nghệ thuật của Thế Lữ đợc
tác giả khắc hoạ cảnh trí thiên nhiên khá hấp dẫn. Hình ảnh thiên nhiên
trong văn chơng của Thế Lữ là giao cảm nhịp nhàng, đằm thắm, giàu chất
trữ tình, thi vị giữa âm thanh, đờng nét và màu sắc. Ông nh đang làm thơ,
vẽ tranh, tấu nhạc trên những trang văn.
3.5.5. Sáng tạo ngôn ngữ
Những câu văn dài lê thê, mang dáng vẻ biền ngẫu, kiểu cổ hoặc trúc
trắc, ít xúc cảm, nhiều luận lý kiểu phơng Tây, khó tìm thấy trong truyện
của Thế Lữ. Nhợc điểm mà Thế Lữ cha khắc phục đợc là ông còn dùng
một số từ sáo cũ, ớc lệ.
Văn phong Thế Lữ vừa hớng tới u điểm khúc chiết của phơng Tây

vừa hớng tới sự trau chuốt, mềm mại, giàu hình ảnh, thể hiện rõ tính hiện
đại của văn chơng TLVĐ.
1.3. Quá trình sáng tác và tác phẩm
1.3.1. Quá trình sáng tác
Sự nghiệp sáng tác văn chơng của Thế Lữ diễn ra chủ yếu trong thời
gian nhà thơ hoạt động trong TLVĐ. Ngoài thơ, Thế Lữ còn viết và công bố
nhiều tác phẩm văn xuôi nghệ thuật, đó là truyện huyễn tởng, truyện trinh
thám và truyện lãng mạn.
1.3.2. Tác phẩm
Thơ và truyện của Thế Lữ hầu hết in trên báo Phong hoá và Ngày nay,
sau đó gom lại thành sách. Ông có ít ra khoảng năm chục bài thơ, đã đ
a
vào hai tập Mấy vần thơ và Mấy vần thơ, tập mới 48 bài.
Về truyện, Thế Lữ có gần 40 tác phẩm, trong đó có 6 truyện vừa, còn lại
là truyện ngắn. Những truyện ấy đợc gom vào khoảng mời cuốn sách. Có
4 cuốn sách là những đơn vị tác phẩm đơn nhất, là truyện vừa, đó là Mai
Hơng và Lê Phong, Trại Bồ Tùng Linh, Gói thuốc lá, Đòn hẹn
Thế Lữ là đạo diễn của nhiều tác phẩm sân khấu kịch nói. Ông có rất ít
kịch bản văn học sân khấu đợc viết riêng.
1.4. Quan niệm nghệ thuật
1.4.1. Tác giả đầu tiên của những quan niệm nghệ thuật mới
Khi Thế Lữ mở đầu thơ mới, đồng thời góp phần quan trọng mở đầu và
thúc đẩy mạnh mẽ tiến trình hiện đại hoá văn học Việt Nam, thì cũng là khi
nhà thơ bớc ra giữa không gian rộng mở, rộn ràng sắc màu, âm thanh cùng
với quan niệm nghệ thuật riêng lạ lẫm của mình mà trớc đó cha nhà thơ nào đề
xuất.
Cơ sở ban đầu của quan niệm ấy xét về mặt triết học là hệ t tởng t sản
và về mỹ học là chủ nghĩa lãng mạn thịnh hành ở phơng Tây khoảng thế
kỷ XIX.
Quan niệm nghệ thuật của Thế Lữ đợc hình thành từ các nguyên nhân

khách quan và chủ quan, trong đó có nguyên nhân trực tiếp là yêu cầu đổi
mới cảm xúc nghệ thuật trong khuôn khổ của qui luật tất yếu đổi mới từ bên
trong nền văn hóa, văn học, nghệ thuật dân tộc.
1.4.2. Quan niệm nghệ thuật của Thế Lữ
1.4.2.1. Hệ thống quan niệm nghệ thuật của Thế Lữ gồm hai cấp độ: cấp
độ lý thuyết và cấp độ thực tiễn.
Trớc tiên, với cái nhìn duy mỹ về thế giới tạo vật và thế giới con ngời,
Thế Lữ đã tạo cho mình một quan niệm nghệ thuật hoàn toàn hớng đến cái
đẹp. Cái đẹp, với ý nghĩa chung nhất, là quan niệm nghệ thuật của Thế Lữ ở
cấp độ thứ nhất, cấp độ lý thuyết.
18
7
Đối với Thế Lữ, quan niệm về cái đẹp của cuộc sống khách quan bao
gồm cả quan niệm về cái đẹp của tác phẩm nghệ thuật. Đây là quan niệm
nghệ thuật của Thế Lữ ở cấp độ thực tiễn.
1.4.2.2. Thế Lữ có quan niệm chung nhất về cái đẹp . Cái đẹp của ngời nghệ sĩ,
của văn chơng, nghệ thuật và nghiệp văn đợc Thế Lữ quan tâm trớc tiên. Bao
trùm lên quan niệm này là cái thiêng. Đối với Thế Lữ, ngời nghệ sĩ, văn
chơng và nghề văn thuộc về cõi thiêng lộng lẫy và kỳ vĩ
Cái đẹp theo Thế Lữ quan niệm còn là cái đẹp siêu việt mang tính nữ.
Thế Lữ đến với các Nàng : từ Nàng Mỹ thuật, Nàng Thơ, Nàng Ly Tao qua
các Nàng Tiên, Nơng Tử ở cõi thiêng rồi quay lại mĩ nữ, giai nhân tuyệt
sắc ở đời thờng tục lụy. Nh vậy, cái đẹp trong quan niệm của Thế Lữ
đợc cụ thể hóa bằng những hình ảnh đẹp trừu tợng. Nàng Mỹ thuật, Nàng
Thơ, Nàng Ly Tao là những biểu tợng về cái đẹp nghệ thuật. Nàng Tiên là cái
đẹp mơ ớc, linh diệu. Rồi cái đẹp cũng đợc cụ thể hóa bằng những hình
ảnh ở trần gian : ngời con gái đẹp.
Cái đẹp tồn tại bằng những biểu tợng mang tính nữ hoặc cái đẹp của
con ngời vừa là nội dung quan niệm nghệ thuật của Thế Lữ lại vừa là hiện
thực, đối tợng cần chiếm lĩnh, phản ánh của chủ thể sáng tạo.

Thế Lữ sớm có quan niệm nghệ thuật tiến bộ ở một mức độ nhất định từ
trớc năm 1945 do ông tham gia vào nghệ thuật biểu diễn kịch nói phục vụ
công chúng ngời xem. Sau năm 1945, quan niệm văn hoá, văn học, nghệ
thuật mới đã giúp Thế Lữ thực hiện xuất sắc bổn phận một nghệ sĩ chân chính.

Chơng hai: Thơ Thế Lữ

2.1. Cảm xúc thi ca về thiên nhiên
2.1.1. Thiên nhiên tơi đẹp và rộng mở
Thơ Thế Lữ giàu hình ảnh thiên nhiên. Thiên nhiên trong thơ Thế Lữ là
thiên nhiên của không gian, một không gian rộng mở, rộn ràng sắc màu và
thanh âm. Cái tôi cá nhân cá thể Thế Lữ luôn luôn muốn đi, muốn xuôi
ngợc, muốn vợt thoát.
2.1.2. Không gian cõi Tiên
Bớc vào thế giới thơ Thế Lữ, chúng ta còn đợc cùng nhà thơ lạc vào
một thiên nhiên lý tởng, đó là thế giới bồng lai tiên cảnh. ở đây, cõi Tiên
không cao xa, tách bạch khỏi cõi Trần. Cõi Tiên chính là một trong những
quê hơng thi ca của Thế Lữ, một vùng quê là ảo ảnh trong đời sống trần gian
nhng lại có thật trong cảm nhận của riêng nhà thơ.
Cặp đôi Lê Phong - Mai H
ơng là một kiểu quan hệ tình yêu trai tài - gái
sắc tiểu t sản, thơ mộng, đậm màu sắc lãng mạn chủ nghĩa thời hiện đại,
gặp gỡ phần nào mô hình tình yên tài tử - giai nhân trong văn học truyền
thống Việt Nam và Trung Hoa.
So với truyện trinh thám hiện đại thế giới đã chín muồi về nghệ thuật
biểu hiện sau hơn nửa thế kỷ phát triển, thì truyện trinh thám của Thế Lữ và
cả Phạm Cao cũng nữa, cũng còn non yếu.
Tuy nhiên, nhìn bao quát, truyện trinh thám của Thế Lữ giàu âm hởng
lãng mạn và trữ tình, đáp ứng nhu cầu của một bộ phận độc giả muốn đợc
thởng thức một hơng vị riêng độc đáo, quyến rũ.

3.4. Truyện lãng mạn và truyện về cuộc sống đời thờng
3.4.1. Truyện lng mạn
Những truyện lãng mạn đợc Thế Lữ viết ra nhằm thoả mãn khát vọng tự
do, vợt thoát khỏi không gian đô thị ồn ào để trở về với thiên nhiên, trở về
với tình yêu nguyên sơ, trong trẻo buổi đầu mà ở thể loại thơ ông không thể
giãi bày hết đợc.
3.4.2. Truyện về cuộc sống đời thờng
Với những truyện loại này, Thế Lữ có xu hớng tiến gần đến chủ nghĩa
hiện thực. Một số truyện có yếu tố hiện thực phê phán. Đáng chú ý là các
truyện Một ngời hiếm có, Thoa.
3.5. Một số biện pháp nghệ thuật
Là nhà thơ viết văn xuôi trong TLVĐ, lại là nhà thơ tiêu biểu, xuất sắc
nhất của thơ mới buổi đầu, Thế Lữ đã đa vào truyện yếu tố lãng mạn đằm
thắm cùng với chất thơ mát tơi, ngọt ngào.
3.5.1. Cốt truyện và kết cấu
Cốt truyện tác phẩm TLVĐ nói chung và của Thế Lữ nói riêng hầu hết
khá linh hoạt, luôn luôn đổi thay, không tuân theo trình tự diễn biến của các
sự kiện hoặc lời kể vốn chỉ đáp ứng tâm lý tiếp nhận thông thờng là cái đến
trớc nói trớc, cái đến sau nói sau.
Thế Lữ từng sử dụng cốt truyện hai bớc. Đó là kiểu cốt truyện lồng
ghép, tiếp nối, một đặc điểm của tiểu thuyết hiện đại. Bớc thứ nhất là bớc
chuẩn bị, tạo đà cho bớc thứ hai là cốt truyện chính.
Về kết cấu, trong truyện huyễn tởng và truyện trinh thám, Thế Lữ xây
dựng kết cấu tình tiết xen lẫn kết cấu tâm lý. Còn ở truyện lãng mạn, chủ
yếu là kết cấu tâm lý.
3.5.2. Ngoại hình, nội tâm và tâm lý nhân vật
3.5.2.1. Nhân vật của Thế Lữ là nhân vật lãng mạn, dù là kẻ gây ra nỗi kinh
hoàng hay thám tử. Thế Lữ miêu tả ngoại hình nhân vật khá cụ thể, chi
8
17

thể nói, trong số những truyện huyễn tởng của Thế Lữ, Trại Bồ Tùng Linh
có chất lãng mạn và chất trữ tình đậm đà nhất.
Đọc Thế Lữ, không thể không liên hệ đến Lan Khai và Tchya (Đái Đức
Tuấn), hai cây bút viết truyện huyễn tởng có đóng góp riêng, đều chịu ảnh
hởng ở Liêu trai chí dị Lan khai nói nhiều về những con ngời vừa chất
phác, thơ ngây vừa tiêu biểu cho những số phận nghèo túng, cơ cực. Lan
Khai ở trong nhìn ra, sống thật, nghiêng về hiện thực. Còn Thế Lữ, ông ở
ngoài nhìn vào, sống với dân miền núi bằng nhớ lại, và mợn rừng đẻ viết.
Từ năm 1943 trở đi, truyện huyễn tởng của Thế Lữ đã bị loại truyện yêu
ngôn của Nguyễn Tuân vợt qua rất xa.
3.3. Truyện trinh thám
3.3.1. Nguồn gốc
Theo cách hiểu quen thuộc, truyện trinh thám và truyện đậm yếu tố trinh
thám hiện đại trên thế giới có lịch sử khoảng dới hai trăm năm, xuất hiện
gần nh đồng thời ở nhiều nớc vào đầu thế kỷ XIX.
Truyện trinh thám hiện đại Việt Nam ra đời muộn, cho thấy về căn bản
không có nguồn mạch bản địa hoặc khu vực, mà ngay từ buổi đầu đã mô
phỏng truyện trinh thám hiện đại phơng Tây. Thế Lữ, tác giả loại hình
huyễn tởng với tác phẩm kinh dị có yếu tố trinh thám là Vàng và máu
(1934) lại chính là một trong hai ngời mở đầu loại hình văn học phiêu lu
bằng một số truyện trinh thám hấp dẫn. Phạm Cao Củng đi cùng Thế Lữ
bằng những truyện in trên báo từ năm 1932 nhng in sách sau Thế Lữ.
3.3.2. Truyện trinh thám của Thế Lữ
Truyện phiêu lu dạng trinh thám (gọi tắt là trinh thám nh đã qui ớc)
của Thế Lữ không nhiều, hầu hết là truyện vừa. Tác giả viết đến đâu, in báo
ngay đến đó. Tác phẩm đầu tiên in sách là truyện vừa Gói thuốc lá (1934),
sau đó là Mai Hơng và Lê Phong, Lê Phong phóng viên, Những nét chữ
và tác phẩm cuối cùng công bố trớc năm 1945 là truyện vừa Đòn hẹn
(1937).
Chủ nghĩa duy lý trong truyện trinh thám phơng Tây, tập trung cao ở

E.A. Poe, đã ảnh hởng trớc tiên, trực tiếp và sâu sắc đến truyện của Thế
Lữ. Từ tả cảnh, tả ng
ời đến nêu sự việc, Thế Lữ đều viết một cách cụ thể,
rành mạch, nhiều khi rất tỉ mỉ.
Lê Phong và Mai Hơng cùng những nhân vật trinh thám khác của Thế
Lữ là những nhân vật lãng mạn tuân theo duy lý.
Thế Lữ đi tìm cái đẹp chỉ vì cái đẹp thì nhân vật của ông xem nghề
phóng viên trinh thám cũng là một nghệ thuật, là cái đẹp, anh ta không quan
tâm đến cái gì khác ngoài làm nghề một cách có nghệ thuật, làm cho đẹp.
2.2. Cảm xúc thi ca về con ngời
2.2.1. Hình tợng cái Tôi và cái tôi phân thân
2.2.1.1. Lần đầu tiên trong văn học Việt Nam, nhờ thơ Thế Lữ, cái Tôi
đợc tôn vinh theo một ý nghĩa, một quan niệm mới. Thế Lữ là nhà thơ mới
đầu tiên xng danh bằng ngôi thứ nhất, bằng tên khai sinh nhiều nhất. Ông
cũng là nhà thơ đầu tiên của giai đoạn văn học mới xng danh hiệu, lặp lại
nhiều lần.
Thế Lữ cũng là một trong số những nhà thơ cùng thời với ông có nhiều
bài thơ tự hoạ, tự trào nhất. ý chí khẳng định cái tôi cá nhân cá thể của Thế
Lữ thật mạnh mẽ, quyết liệt.
Cái tôi trong thơ Thế Lữ không chỉ cô đơn theo nghĩa là biểu hiện của
một cách nói nghệ thuật, mà hơn thế, cái tôi ấy mang nặng tâm sự thời thế,
thân phận với nhiều buồn thơng, xót xa, nuối tiếc, nghi ngại, chán
chờng Bất lực, cái tôi ấy không chỉ bớc vào thiên nhiên, vào cõi Tiên,
vào thế giới nghệ thuật để tìm cái đẹp mình thờ phụng mà còn náu vào
chính mình, nơng vào nỗi riêng, nỗi một mình. Thơ Thế Lữ không chỉ là
những âm vang xã hội mà hơn thế, lần đầu tiên trong thơ hiện đại, nỗi niềm
buồn chán về sự bất an của những quan hệ cá nhân ở đời thờng mang tính
đạo đức đợc nói đến khá rõ.
2.2.1.2. Hình tợng cái tôi trong thơ Thế Lữ không thuần nhất. Bên cạnh,
bên trong và cả bên trên cái tôi tự ý thức rộng mở, mộng tởng, hồi tởng ấy

là cái tôi phân thân. Thế Lữ mâu thuẫn trong thống nhất trên cơ sở cái tôi
phân thân ấy, cụ thể là cái tôi phân thân nhị nguyên.
Thế Lữ đợc (hoặc bị) phân thân, cụ thể là phân đôi trong chính số phận
mình, ngay từ thời thơ bé trong gia đình có ngời mẹ theo đạo Thiên chúa.
ấy là Đạo và Đời. Đến tuổi tám mơi, khi chuyển c vào thành phố Hồ Chí
Minh sống với ngời vợ đầu, trạng thái phân thân vẫn không rời bỏ ông. ấy
là Tình và Nghĩa. Tâm lý và tình cảm phân thân của Thế Lữ ảnh hởng sâu
sắc và chi phối hoạt động văn học, nghệ thuật của ông, thể hiện cụ thể trên
các trang văn, ở các hành vi sáng tạo. Nguyên tắc sáng tác của chủ nghĩa
lãng mạn phù hợp với trạng thái phân thân sẵn có của Thế Lữ, khiến ông đi
giữa hai khuynh hớng lãng mạn và hiện thực, làm nghệ thuật thuần tuý vì
nghệ thuật và làm nghệ thuật vì đời sống xã hội của con ngời.
2.2.2. Hình tợng khách chinh phu
Thế Lữ là tác giả đầu tiên nói đến hình ảnh ngời khách chinh phu và để
lại nhiều d vang nhất trong thơ mới. Hình ảnh ngời khách chinh phu bên
cạnh hình ảnh ngời tài tử lạc loài là một khía cạnh thuộc hồn thơ rộng mở
theo không gian của Thế Lữ. Hai con ngời này có điểm chung là thể hiện
khát vọng vợt thoát không gian của hồn thơ Thế Lữ, đậm chất thi vị lãng
16 9
mạn chủ nghĩa, điểm khác là hình tợng khách chinh phu mang ý nghĩa xã
hội rõ hơn, còn chàng tài tử kia chỉ là một kẻ bộ hành phiêu lãng, kẻ bộ
hành ngơ ngác, tự tách mình ra khỏi xã hội.
Nhân vật ngời khách chinh phu trong thơ Thế Lữ vừa thấp thoáng bóng
dáng Kinh Kha của văn học Trung Hoa, vừa là bạn bè gần gũi của các nhân
vật Dũng, Thái, Trúc (Đoạn tuyệt) và Phạm Thái, Quang Ngọc, Nhị Nơng
(Tiêu sơn tráng sĩ) trong văn chơng TLVĐ. Mặt khác, quan trọng hơn,
ngời khách chinh phu trong thơ Thế Lữ có nét riêng, đó là một cái tôi cá
nhân cá thể luôn luôn ở thế phân thân nhị nguyên, nh đã nêu.
2.2.3. Hình tợng mỹ nữ, Nàng Tiên trong mối quan hệ với cái đẹp và
tình yêu

2.2.3.1. Trong thơ Thế Lữ, hình ảnh mỹ nữ, Nàng Tiên thuộc thế giới con
ngời và Nàng Thơ thuộc thế giới nghệ thuật, lặp lại với tần số rất cao, trở
nên những hình tợng nghệ thuật khi thì đơn, khi thì kép, giữ vai trò vừa là
cái đẹp, vừa là đối tợng mà chủ thể thẩm mỹ hớng tới để kết bạn, để yêu.
Riêng mỹ nữ - trong đó có Nàng Tiên - cùng với cái đẹp và tình yêu là
những đề tài từng đợc Thế Lữ nói đến nhiều không chỉ trong thơ mà còn
trong các khu vực khác nh văn xuôi nghệ thuật, sân khấu kịch nói, kịch thơ.
2.2.3.2. Trong thơ Thế Lữ, Nàng Tiên từ lâu đã giáng thế, lúc hoá thành
Nàng Thơ, lúc hoá thành mỹ nữ ngời trần. Cõi Tiên là biểu tợng của khát
vọng tự do trong không gian - cả không gian thiên nhiên và không gian tâm
tởng - còn Nàng Tiên lại thuộc một phạm trù khác: biểu tợng về cái đẹp
lý tởng mang tính nữ.
2.2.3.3. Lẽ thờng, trong văn chơng cổ kim đông tây, giữa mỹ nữ và
tình yêu có một mối liên hệ qua lại rất gần gũi nh một quy luật tất yếu.
Trong thơ Thế Lữ lại khác. Thế Lữ viết về em, cô em, tiên nữ, viết về
tình yêu nửa mơ nửa thực, nửa tiên giới nửa trần gian, hầu nh không
nhuốm đậm sắc màu nhục cảm mà thiên hẳn về thanh cao, xa lánh đời
thờng.
Nhìn chung, tình yêu trong thơ Thế Lữ là tình yêu mộng ảo, thoảng qua,
ớc ao, nuối tiếc, một tình yêu ngắm nhìn, ngợi ca từ phía xa. Trong thơ Thế
Lữ không phải mọi ngời con gái đẹp đang ở tuổi yêu (kể cả Nàng Tiên)
đều là đối tợng của tình yêu lứa đôi. Đó là đối tợng để nhà thơ gửi gắm
mơ ớc, quan niệm về tình yêu, hạnh phúc, bày tỏ tình yêu rộng mở, nhiều
sắc thái của mình đối với chính tình yêu, đối với những cô gái mà nhà thơ
thấy họ nên yêu và có quyền đợc hởng tình yêu, nhng họ không phải là
đối t
ợng để yêu của chính cái tôi trữ tình. Tuy nhiên, Thế Lữ cũng có hai
bài thơ yêu thuần túy, đó là bài Yêu và bài Khúc hát trên sông.
3.2. Truyện huyễn tởng
3.2.1. Nguồn gốc

Truyện huyễn tởng có từ xa xa ở phơng Đông và mấy trăm năm trớc
ở nhiều nớc trên thế giới. ở vùng viễn Đông, chủ yếu là Trung Quốc,
huyễn tởng có một phần cội rễ xa xôi là truyền kỳ, từng tồn tại qua nhiều
thế kỷ.
Truyền kỳ Việt Nam xuất hiện sau Trung Quốc nhiều thế kỷ, chịu ảnh
hởng của truyền kỳ Viễn Đông nói chung và Trung Quốc nói riêng.
Trong lịch sử văn học nhân loại, có văn học truyền kỳ từ xa xa và văn
học huyễn tởng hiện đại xuất hiện vào đầu thế kỷ XX. Tuy nhiên, huyễn
tởng hiện đại không phải là bớc phát triển cao hơn theo một mạch thẳng
của truyền kỳ.
3.2.2. Truyện huyễn tởng kinh dị và truyện huyễn tởng kỳ lạ của
Thế Lữ
3.2.2.1. Có thể tạm phân chia truyện huyễn tởng của Thế Lữ ra làm hai
tiểu loại hình: kinh dị và kỳ lạ. Truyện kinh dị khai thác cảnh rùng rợn đến
mức kinh hoàng, khiến ngời đọc vô cùng sợ hãi, còn truyện kỳ lạ thì khai
thác cảnh khác thờng, có yếu tố hoang đờng, gây tò mò, có tạo nên nỗi sợ
hãi nhng không nặng nề.
Truyện huyễn tởng của Thế Lữ có sức cuốn hút mạnh đối với ngời
đọc. Cốt truyện hấp dẫn, bố cục chặt chẽ, cách kể lôi cuốn, tạo đợc không
khí. Thế Lữ có trí tởng tợng bay bổng, óc quan sát tinh tế và sắc sảo, cách
hành văn đợc chăm sóc kỹ càng, vừa mềm mại, vừa khúc chiết, lại giàu
hình ảnh.
3.2.2.2. Nhiều tác phẩm huyễn tởng xuất sắc của Thế Lữ thuộc loại
kinh dị. Tiêu biểu cho loại này là Vàng và máu. Tác phẩm này chịu ảnh
hởng truyện của E.A.Poe.
Trong tất cả các tác phẩm huyễn tởng, Thế Lữ đều giải thích hiện tợng
kỳ dị, bí hiểm bằng tri thức khoa học hiện đại hoặc nguyên nhân dễ hiểu ở
đời th
ờng.
2.2.2.3. Tìm hiểu sang truyện huyễn tởng kỳ lạ của Thế Lữ, thấy hầu

hết đuối tầm, vì chỉ nói đến việc vụn vặt, vô lý.
Riêng Trại Bồ Tùng Linh nổi bật lên, vợt rất xa những truyện vừa nêu.
Nh tên gọi và cả trên thực tế, Trại Bồ Tùng Linh viết theo bút pháp Liêu
trai chí dị. Trong truyện này, vẻ đẹp mỹ nữ và những cuộc hoan lạc nhục
cảm đợc che phủ bởi hơng hoa, ánh đêm mờ ảo và tâm tởng chập chờn
nửa tỉnh nửa mê của chàng trai si tình, khiến cho yếu tố kinh dị giảm đi,
nhờng chỗ cho yếu tố kỳ lạ. Câu chuyện tựa hồ những bài thơ ghép lại. Có
10
15
từ bản gốc hoặc qua bản dịch đăng trên Đông Dơng tạp chí và tạp chí Nam
Phong.
Tác phẩm của các nhà văn Việt Nam vừa đợc thừa hởng những yếu tố
nghệ thuật truyền thống trong văn học trung đại nớc nhà và văn học Trung
Quốc, lại vừa mô phỏng những yếu tố nghệ thuật hiện đại phơng Tây, vợt
ra ngoài quốc gia và khu vực. ở trong TLVĐ, Thế Lữ không đi theo hớng
của Nhất Linh, Khái Hng, Hoàng Đạo mà đi riêng một hớng khác, theo
cách gọi quen thuộc là: truyện kinh dị, truyện trinh thám và truyện lãng mạn
đờng rừng.
3.1.2. Xác định loại hình và thể loại
3.1.2.1. "Truyện đờng rừng" thờng đợc dùng để gọi truyện kinh dị
(hoặc rùng rợn) của Thế Lữ và Lan Khai. Còn "Truyện lãng mạn đờng
rừng", cũng lấy bối cảnh rừng núi, nhng viết theo bút pháp lãng mạn là chủ
yếu.
3.1.2.2. Thế Lữ có viết một số truyện lãng mạn và truyện về cuộc sống
đời thờng. Loại hình truyện lãng mạn nằm trong hệ thống truyện quen
thuộc, nhiều nhà văn từng sáng tác.
Nh vậy, khái niệm truyện lãng mạn, truyện thế sự (hoặc truyện hiện
thực, truyện về cuộc sống đời thờng) đã quá rõ ràng. Riêng truyện kinh dị
và truyện trinh thám là hai loại hình mới, tên gọi không thống nhất.
3.1.2.3. Xa nay, trên thế giới và ở Việt Nam từng tồn tại loại truyện kỳ

ảo, kinh dị, rùng rợn. Loại truyện này có biên độ phản ánh hiện thực rất
rộng, vì thế nó có rất nhiều tên gọi. Chúng tôi đồng ý với nhà nghiên cứu
Nguyễn Văn Dân khi ông đề xuất thuật ngữ "cái huyễn tởng".
3.1.2.4. Xa nay, những truyện có các yếu tố điều tra, truy tìm, phán
đoán, giải đáp, v.v. mọi bí mật khó hiểu, nghịch cảnh, tai hoạ, v.v. thờng
thờng đợc gọi là truyện trinh thám. Thật ra, nh ý kiến phát biểu hợp lý
mới đây của Phan Cự Đệ, thì tiểu thuyết trinh thám là một bộ phận của tiểu
thuyết phiêu lu.
Về cách gọi tên, do thuật ngữ "trinh thám" đã quá quen thuộc, chúng tôi
gọi trực tiếp thuật ngữ này.
3.1.2.5. Ngời Việt Nam tr
ớc kia gọi một đơn vị tác phẩm văn xuôi
nghệ thuật là tiểu thuyết theo nghĩa đặt nó trong hệ thống trờng thiên tiểu
thuyết, trung thiên tiểu thuyết và đoản thiên tiểu thuyết. Về sau, có dùng
thêm thuật ngữ truyện ngắn để phân biệt, tuy nhiên, sự lẫn lộn vẫn kéo dài.
Trong luận án này, chúng tôi gọi chung những áng văn xuôi của Thế Lữ
là truyện.
2.3. Cảm xúc thi ca về thế giới nghệ thuật
2.3.1. Thế giới nghệ thuật là một khách thể thẩm mỹ
Thơ Thế Lữ là thế giới của một hoà âm nghệ thuật ngân vang rộn ràng,
reo vui của tiếng đàn, tiếng hát, tiếng sáo cùng các bức tranh với những gam
màu dịu nhẹ, tinh tế của mây trời, sông, nớc, cỏ cây, ở đó ẩn hiện lộng lẫy
những Nàng Tiên và những mỹ nữ trần gian.
2.3.2. Hình tợng Nàng Thơ
Thế Lữ có mối quan hệ thân thiết với Nàng Thơ ngay từ những tháng
năm đầu ông mới sáng tác. Nàng Thơ còn thuộc một khái niệm trong hệ
thống quan niệm về cái đẹp và một biểu tợng đi cùng với quan niệm ấy.
Nàng Tiên và Nàng Thơ là những nhân vật ảo mang tính nữ, thể hiện cái
đẹp lý tởng trong mơ ớc, tởng tợng của nhà thơ. Riêng Nàng Tiên, nhân
vật này thiên về tợng hình vật thể, có mối liên hệ theo chiều ngang đối với

con ngời. Vì vậy, chung quanh Nàng Tiên thờng thờng xuất hiện một
màn sơng mù tình yêu, gần với tình yêu hiểu theo nghĩa đen. Còn Nàng
Thơ lại là nguồn cảm hứng sáng tạo (Nàng Ly Tao, mợn tên một tác phẩm
của Khuất Nguyên), thuộc thế giới nghệ thuật, thiên về giá trị tinh thần, giá
trị phi vật thể.
Tình yêu đối với Nàng Thơ không có mối liên hệ theo chiều ngang với
tình yêu trai gái bình thờng. Đó là một tình yêu đặc biệt, khác thờng, cao
hơn tất thảy.
2.4. Giọng điệu, biểu tợng và những biện pháp nghệ thuật
2.4.1. Giọng điệu thơ Thế Lữ
2.4.1.1.Thơ Thế Lữ mới trớc hết ở giọng điệu. Chất giọng của thơ Thế
Lữ đợc hé lộ rõ ràng, đậm nét ngay từ những bài thơ đầu tiên đến những
bài thơ cuối cùng của ông. Giọng điệu buồn thơng, trong trẻo, bâng
khuâng, man mác gây đợc sự chú ý nhiều nhất.
Có một giọng điệu thơ cũng rất tiêu biểu cho thơ Thế Lữ buổi đầu, nh là
ngợc lại giọng điệu bâng khuâng, man mác, tập trung ở tác phẩm trứ danh
Nhớ rừng, đó là giọng điệu bi thiết, khoáng đạt, đậm chất anh hùng ca. Thơ
Thế Lữ còn có các giọng điệu khác: giọng điệu u hoài thời thế, giọng điệu
buồn nản, chán ghét pha chút trào lộng và giọng điệu tuyệt vọng.
2.4.2. Biểu tợng trong thơ Thế Lữ
Thơ Thế Lữ gây ấn tợng sâu sắc và lâu dài trong tâm trí nhiều thế hệ
bạn đọc, một phần lớn do năng lực cảm hóa mạnh mẽ của những biểu tợng.
Nói đến thơ Thế Lữ hoặc cả PTTM là nói ngay đến con hổ nhớ rừng. Cõi
tiên, Nàng Tiên, hồ nớc,v.v. cũng là những biểu tợng thơ Thế Lữ.
14
11
2.4.3. Thơ Thế Lữ là sự hoà hợp của một thế giới hình nét, màu sắc và
âm thanh.
2.4.3.1. Thơ Thế Lữ là cuộc đối thoại dài của một thế giới phức hợp rộn
ràng hình nét, màu sắc và âm thanh. Âm thanh vang lên rộn ràng, ríu rít,

bổng trầm, thánh thót và ngân nga ở mọi nơi, mọi lúc trong thế giới thơ Thế
Lữ. Lật các trang thơ, chúng ta không chỉ đợc đọc bằng mắt, cảm bằng hồn
mà còn nh luôn luôn đợc nghe bằng tai với một trực cảm thính giác có
thật. ở đây, có ba loại âm thanh thuộc ba khu vực của hiện thực. Đó là âm
thanh về thế giới nghệ thuật, về thiên nhiên và về cuộc sống hằng ngày.
Biện pháp hữu hình hoá âm thanh và âm thanh hoá sắc màu, hình nét
đợc Thế Lữ sử dụng để lập tứ, dựng hình tợng trong nhiều bài thơ, điển
hình là hai bài Tiếng sáo Thiên Thai và Tiếng gọi bên sông.
2.4.3.2. Xét về khả năng sử dụng hình ảnh, cụ thể là hình nét, màu sắc
thì Thế Lữ là một hoạ sĩ trong thơ. Cảnh thiên nhiên trong thơ Thế Lữ phần
nhiều giống nh bức tranh bột màu, thuốc nớc, cũng có khi là tranh lụa,
với gam màu vừa thắm tơi vừa dịu nhẹ, mơ màng, đợc kết đan bằng
những từ chỉ sắc thái, mức độ hoặc trạng huống đổi thay tinh tế của màu
sắc. Bên cạnh đó còn có gam màu khác của chất liệu sơn dầu, sơn mài trong
thơ Thế Lữ. Và cũng thấy ở đó, do chịu ảnh hởng một phần của văn xuôi
nghệ thuật phơng Tây qua Pháp, mà Thế Lữ sử dụng triệt để bút pháp tả
thực.
2.4.3.3. Thơ Thế Lữ giàu tính nhạc. Các nhà thơ lãng mạn chủ trơng
thoát khỏi nhợc điểm gò bó khuôn thớc cứng nhắc cũ, chịu ảnh hởng
nhiều của văn xuôi, dẫn đến việc mở rộng câu thơ, đoạn thơ, khổ thơ. Thế
Lữ là ngời đi đầu làm theo chủ trơng này, kết quả là thơ ông lu lại lâu
dài trong lòng bạn đọc ấn tợng về nhạc điệu riêng. Đó là nhạc điệu vừa
cuồn cuộn, trào dâng, vừa sôi nổi, dạt dào, lại vừa uyển chuyển, bồng bềnh,
lại vừa ngân nga, trầm lắng.
Nhạc điệu chung nhất trong thơ Thế Lữ là uyển chuyển, nhịp nhàng và
du dơng.
2.4.4. Câu thơ mới
Thơ Thế Lữ là một dẫn chứng đầu tiên, cụ thể và khá đầy đủ về một số
biện pháp nghệ thuật mới, xuất phát từ t duy mới, đó là hiện tợng mở rộng
biên độ và xác lập hình dáng mới cho bài thơ cùng với đoạn thơ, khổ thơ và

riêng câu thơ, là sự xuất hiện những thể thơ mới trên cơ sở những yếu tố nội
sinh và ngoại sinh.
Trong thơ Thế Lữ, câu thơ vừa có vai trò, vị trí riêng nh là chính bản
thân nó với biên độ mở ra có hạn định hoặc phóng túng khi co dãn, lại vừa
có trách nhiệm với "bạn đồng nghiệp": kết dính với câu tiếp theo (bắc cầu)
và cả đoạn thơ (biến thái của bắc cầu).
Hiện tợng bắc cầu trong thơ Thế Lữ, ban đầu chỉ nhằm thoả mãn nhu
cầu mở rộng câu thơ, dòng thơ, sau đó biến thái sang cấp độ khác với một
sắc thái khác là kết dính cả khổ thơ, đoạn thơ thành một mạch liền nhằm
thoả mãn nhu cầu mở rộng ý khi cảm xúc tuôn trào và hiện thực đời sống
phong phú, cần đợc phản ánh.
2.4.5. Thể thơ mới
Nhìn chung, từ thơ Thế Lữ trở đi, thơ mới sử dụng phổ biến các thể thơ 7
và 8 âm tiết, hoặc 8 và 9 âm tiết kết hợp, cuối cùng là hợp thể.
Thế Lữ đã sử dụng 11 thể thơ. Điều này chứng tỏ trong bớc chuyển
mạnh mẽ từ thơ cũ sang thơ mới, Thế Lữ là ngời đầu tiên có ý thức bung
phá, đi tìm bằng đợc những cái mới và ông dừng lại ở hai thể 7 âm tiết và 8
âm tiết phù hợp với ông, với điệu hồn thời đại, bên cạnh đó là thể lục bát.
2.4.6. Ngôn ngữ thơ mới
2.4.6.1. Thế Lữ đã bỏ ra rất nhiều công sức để sửa chữa tác phẩm thơ
nhằm làm mới ngôn ngữ thơ. So với các nhà thơ mới, Thế Lữ là tác giả sửa
chữa tác phẩm của mình, sau khi đợc công bố, một cách công phu nhất, từ
đó, đối với một tác phẩm nổi tiếng nhất (Nhớ rừng), ông tạo ra nhiều văn
bản nhất.
2.4.6.2. Thế Lữ có đóng góp vào việc sáng tạo những hình thức thơ độc
đáo. Ngoài những bài thơ có cách diễn đạt chung, phổ biến, PTTM còn có
một số bài thơ độc đáo, thiên về tìm tòi thuần tuý hình thức, thể hiện ở cấu
trúc bài thơ, câu thơ hoặc thanh điệu.
Thế Lữ rất chú ý đến thanh điệu của thơ. Hà Minh Đức đã phát hiện ra
một bài thơ độc đáo của Thế Lữ (bút danh Lê Ta), có tên là Tình hoài. Bài

thơ Tình hoài cho thấy Thế Lữ là một cây bút tài hoa về việc sử dụng thanh
điệu tiếng Việt trong sáng tạo thơ ca.
Dới bút danh Lê Ta, Thế Lữ còn là tác giả của những câu thơ độc đáo
khác. Ông khai thác đặc điểm của từ láy và phụ âm.

Chơng ba : Văn xuôi nghệ thuật của Thế Lữ


3.1. Bối cảnh xuất hiện. Xác định loại hình và thể loại
3.1.1. Bối cảnh xuất hiện
Ngay từ hai thập niên cuối thế kỷ XIX, sáng tác văn xuôi viết bằng chữ
Quốc ngữ đã xuất hiện.
Mọi nhà viết văn xuôi Việt Nam đầu thế kỷ XX đều chịu ảnh hởng
nhiều từ văn xuôi của những nhà văn Pháp cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX,
12
13

×