Tải bản đầy đủ (.docx) (50 trang)

đề tài nghiên cứu ảnh hưởng của lãi suất đến giá cổ phiếu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (495.98 KB, 50 trang )

[BÀI BÁO CÁO NHÓM THỰC TẾ GIÁO TRÌNH]
MỤC LỤC
[NHÓM 3 – K44TCNH] GVHD: TS. Trần Thị Bích Ngọc
[BÀI BÁO CÁO NHÓM THỰC TẾ GIÁO TRÌNH]
DANH MỤC
CHỮ CÁI
VIẾT TẮT
[NHÓM 3 – K44TCNH] GVHD: TS. Trần Thị Bích Ngọc
CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT TRONG BÀI
BĐS Bất động sản
DNNN Doanh nghiệp nhà nước
NĐT Nhà đầu tư
NHNN Ngân hàng nhà nước
NHTM Ngân hàng thương mại
TTCK Thị trường Chứng khoán
VCSH Vốn chủ sở hữu
[BÀI BÁO CÁO NHÓM THỰC TẾ GIÁO TRÌNH]
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1: Tình hình biến động chỉ số VN-Index giai đoạn 2000-2005
Biểu đồ 2.2: Tình hình biến động chỉ số VN-Index năm 2006
Biểu đồ 2.3:Tình hình biến động chỉ số VN-Index năm 2007
Biểu đồ 2.4:Tình hình biến động chỉ số VN-Index năm 2008
Biểu đồ 2.5:Tình hình biến động chỉ số VN-Index năm 2009
Biểu đồ 2.6:Tình hình biến động chỉ số VN-Index năm 2010
Biểu đồ 2.7:Tình hình biến động chỉ số VN-Index năm 2011
Biểu đồ 2.8:Tình hình biến động chỉ số VN-Index năm 2012
Biểu đồ 2.9: Tình hình biến động lãi suất huy động giai đoạn 2000-2005
Biểu đồ 2.10: Tình hình biến động lãi suất huy động năm 2006 (nhìn k thẳng)
Biểu đồ 2.11:Tình hình biến động lãi suất huy động năm 2007
Biểu đồ 2.12:Tình hình biến động lãi suất huy động năm 2008
Biểu đồ 2.13:Tình hình biến động lãi suất huy động năm 2009


Biểu đồ 2.14: Tình hình biến động lãi suất huy động năm 2010
Biểu đồ 2.15:Tình hình biến động lãi suất huy động năm 2011
Biểu đồ 2.16:Tình hình biến động lãi suất huy động năm 2012
Biểu đồ 3.1: Dữ liệu hồi quy giai đoạn 2006-2012
Biểu đồ 3.1: Dữ liệu hồi quy giai đoạn 2006-2012
Biểu đồ 3.2: Mối tương quan giữa biến độc lập và phần dư
Biểu đồ 3.3: Đồ thị phân dư đối với logarit nepe của lãi suất
[NHÓM 3 – K44TCNH] GVHD: TS. Trần Thị Bích Ngọc
[BÀI BÁO CÁO NHÓM THỰC TẾ GIÁO TRÌNH]
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 3.1: Kiểm định phân phối của VNI và R
Bảng 3.2: Kiểm định tính dừng các biến VNI và R
Bảng 3.3: Kiểm định nghiệm đơn vị phần dư
Bảng 3.4: Kiểm định phân phối các biến LnVNI và LnR
Bảng 3.5: Kiểm định tính dừng các biến LnVNI và LnR
Bảng 3.6: kết quả hồi quy ảnh hưởng của LnR đến LnVNI
Bảng 3.7: Kiểm định Breusch-Godfrey đối với phần dư
Bảng 3.8: Kiểm định Jarque-Bera đối với phần dư
Bảng 3.9: Kiểm định White
Bảng 3.10: Kết quả mô hình hồi quy một số nước ở Châu Á
[NHÓM 3 – K44TCNH] GVHD: TS. Trần Thị Bích Ngọc
[BÀI BÁO CÁO NHÓM THỰC TẾ GIÁO TRÌNH]
DANH MỤC SƠ ĐỒ
Sơ đồ 1.1: Mô hình quy trình nghiên cứu
[NHÓM 3 – K44TCNH] GVHD: TS. Trần Thị Bích Ngọc
[BÀI BÁO CÁO NHÓM THỰC TẾ GIÁO TRÌNH]
LỜI MỞ ĐẦU
hị trường chứng khoán Việt Nam sau một thời gian hình thành và đi vào
hoạt động đã có những đóng góp nhất định cho sự phát triển của nền
kinh tế nước ta. Tuy nhiên, đây vẫn là một thị trường mang tính rủi ro

cao và tiềm ẩn nhiều biến động bất thường.Xuất phát từ mục đích đưa ra
các dự báo cũng như phòng ngừa cho những kế hoạch đầu tư, chúng tôi đã tiến hành
việc kiểm định các mô hình kinh tế lượng để có cái nhìn tổng quan hơn về thị trường
chứng khoán cũng như sự biến động của chỉ số VN – Index trong giai đoạn 2006-
2012.(cô nói tại sao chỉ trong giai đoạn ni, chắc vứt phần ni đi)
T
Mặt khác, trên thị trường lãi suất là một yếu tố rất nhạy cảm và có tác động lớn
đến nền kinh tế. Do đó, phân tích sự tác động giữa nhân tố lãi suất đến giá cổ phiếu
giúp chúng ta giải quyết các câu hỏi: Lãi suất có tác động giá cố phiếu hay không?Nếu
có thì tác động như thế nào? Mức độ ra sao?Qua quá trình nghiên cứu, đề tài đã liên hệ
giữa lý thuyết với thực tiễn. Kết quả phân tích các mô hình hồi quy hoàn toàn phù hợp
với những gì đã được học.
Cuối cùng, do giới hạn về thời gian cũng như khối lượng kiến thức, đề tài
không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Nhóm chúng tôi rất mong nhận được
những phản hồi và góp ý tích cực từ phía thầy cô và các bạn để bài báo cáo được hoàn
thiện hơn.
Nhóm xin chân thành cám ơn!
Sinh viên thực hiện
[NHÓM 3 – K44TCNH] GVHD: TS. Trần Thị Bích Ngọc
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do thực hiện đề tài
Lãi suất là một yếu tố rất nhạy cảm đối với nền kinh tế của các nước. Ở Việt
Nam, Ngân hàng Nhà nước đã rất linh hoạt trong việc sử dụng công cụ lãi suất nhằm
tác động tích cực đến nền kinh tế trong quá trình chuyển đổi. Trong nền kinh tế hiện
nay, lãi suất là một chỉ số rất quan trọng và được theo dõi chặt chẽ hằng ngày. Mỗi
mức lãi suất được công bố sẽ ảnh hưởng đến những quyết định của cá nhân cũng như
doanh nghiệp; quyết định đầu tư hay gừi tiết kiệm và mỗi quyết định đó dù nhỏ nhưng
cũng góp phần tác động đến sự phát triển kinh tế của cả một quốc gia. Chính vì những
lý do đó mà từ năm 2007 đến nay, vấn đề được quan tâm nhất là lãi suất hay cuộc đua
lãi suất giữa các ngân hàng thương mại. Không chỉ có những nhà kinh tế, các doanh

nghiệp mà các cá nhân cũng rất quan tâm. Sự biến động của lãi suất trên thị trường
tiền tệ tuy có tác động gián tiếp nhưng rất nhạy cảm đến thị trường chứng khoán. Lãi
suất tăng sẽ thu hút nhu cầu gửi tiền vào hệ thống ngân hàng vì mức sinh lời khi gửi
tiền tăng, khiến cho dòng tiền đổ vào thị trường chứng khoán bị ảnh hưởng. Lãi suất
tăng cũng khiến cho lợi suất kỳ vọng trên thị trường chứng khoán phải tăng (nhà đầu
tư đòi hỏi lợi suất đầu tư chứng khoán cao hơn), trong bối cảnh này thì giá thị trường
của cổ phiếu sẽ bị sụt giảm.
Mặt khác, lãi suất biến động sẽ kéo theo sự ảnh hưởng của các nhân tố khác, hệ
quả là doanh thu của các doanh nghiệp bị ảnh hưởng, dẫn đến kỳ vọng vào lợi nhuận
tương lai của doanh nghiệp bị ảnh hưởng, làm giá cổ phiếu doanh nghiệp trên thị
trường sa sút. Hơn nữa, giá cổ phiếu và các tài sản tài chính là một trong những thước
đo quan trọng nhất thể hiện sức khoẻ của nền kinh tế hiện đại. Trong những năm gần
đây, sự suy giảm tăng trưởng kinh tế bởi ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu
làm thị trường chứng khoán có nhiều biến động, đặc biệt là giá cổ phiếu có những
phiên thay đổi bất thường. Do đó, để cung cấp đầy đủ bức tranh về tình hình cũng như
mối quan hệ giữa giá cổ phiếu và các biến số kinh tế vĩ mô cơ bản mà cụ thể ở đây là
lãi suất trên thị trường chứng khoán nước ta, với đề tài “Phân tích sự tác động của lãi
suất đến giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam” chúng tôi sẽ cung cấp
các luận cứ khoa học để giúp các nhà làm chính sách xây dựng các chiến lược thúc đẩy
[NHÓM 3 – K44TCNH] GVHD: TS. Trần Thị Bích Ngọc Page
sự phát triển của thị trường chứng khoán nói riêng và nền kinh tế quốc dân nói chung.
(Phần ni cô nói đi vô đề tài quá dài. 7 dòng -> rút lại 2-3 dòng thôi!)
2. Mục đích nghiên cứu
Xác định được tính cấp thiết và thực tiễn (bỏ) đề tài tập trung giải quyết một số
mục tiêu cụ thể sau:
o Đánh giá tình hình biến động của chỉ số VN-Index và lãi suất trên thị trường chứng
khoán Việt Nam từ năm 2006 đến 2012.
o Nghiên cứu sự ảnh hưởng và tác động của lãi suất đến giá cổ phiểu bằng cách sử dụng
mô hình hồi quy đơn, dựa trên phương pháp xử lí dữ liệu thời gian.
3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu

Đề tài tập trung nghiên cứu sự tác động giữa lãi suất mà cụ thể ở đây là lãi suất
huy động đến giá của các cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu ở đây là chỉ số VN-Index niêm yết tại Sàn giao dịch chứng
khoán TP Hồ Chí Minh HOSE trong giai đoạn từ năm 2006-2012. Lãi suất huy động
giai đoạn từ năm 2006-2012. (Bỏ đi)
+ Không gian: chỉ số VN-Index tại Sàn giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh
HOSE và lãi suất huy động của NHTM.
+ Thời gian: nghiên cứu trong giai đoạn từ 1/2006 đến 12/2012.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1 Nghiên cứu định tính
Nghiên cứu này áp dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu (tổng quan lịch sử).
Một số nghiên cứu cùng mục tiêu của các tác giả trên thế giới, ở Việt Nam và nghiên
cứu khoa học của sinh viên Trường Đại học Kinh tế Huế đã được sử dụng làm tài liệu
tham khảo, giúp xác định sự tác động của lãi suất đến giá của các cổ phiếu trên thị
trường chứng khoán Việt Nam.
Các sách, bài báo về ngân hàng, tài chính, marketing, các số liệu sơ cấp lấy từ
các trang web cophieu68.com, cafef.vn…, thông tin về lãi suất huy động của các ngân
hàng trên trang web của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (sbv.com.vn), laisuat.vn, dữ
liệu thống kê của IMF và Bloomberg.
[NHÓM 3 – K44TCNH] GVHD: TS. Trần Thị Bích Ngọc Page
Tìm hiểu lý thuyết
Đưa ra tập hợp nhân tố và biến quan sát
Thảo luận
Phân !ch dữ liệu
Kết luận
4.2. Nghiên cứu định lượng
Dựa trên sự phù hợp với đặc thù về thông tin và kinh tế Việt Nam, nhân tố lãi
suất được xem xét tương quan với thị trường chứng khoán Việt Nam. Vì vậy mô hình
nghiên cứu có dạng:
Nghiên cứu định lượng nhằm thu thập thông tin, phân tích dữ liệu phục vụ cho

mục đích nghiên cứu.Đồng thời sử dụng phương pháp xử lí số liệu chuỗi thời gian
bằng phần mềm Eviews 6 để phân tích các số liệu thu thập được và kết hợp với các
kiến thức về thống kê, kinh tế lượng,… để đưa ra những kết luận cụ thể.
 Quy trình nghiên cứu:
Sơ đồ 1.1: Mô hình quy trình nghiên cứu
5. Kết cấu đề tài
Nội dung đề tài nghiên cứu gồm có 3 phần lớn:
 Phần I:Đặt vấn đề
 Phần II: Nội dung và kết quả nghiên cứu. Phần này được chia thành 3 chương chính
như sau:
o Chương 1: Tổng quan về lãi suất và tác động của lãi suất đến giá cổ phiếu
o Chương 2:Tình hình biến động lãi suất và chỉ số VN-Index trên Thị trường Chứng
khoán Việt Nam
[NHÓM 3 – K44TCNH] GVHD: TS. Trần Thị Bích Ngọc Page
o Chương 3:Trình bày kết quả nghiên cứu về sự tác động của lãi suất đến giá cổ phiếu
trên Thị trường Chứng khoán Việt Nam
 Phần III:Kết luận

[NHÓM 3 – K44TCNH] GVHD: TS. Trần Thị Bích Ngọc Page
PHẦN II: NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ LÃI SUẤT VÀ TÁC ĐỘNG CỦA
LÃI SUẤT ĐẾN GIÁ CỔ PHIẾU
1. Cở sở lý luận về lãi suất
1.1. Những vấn đề cơ bản về lãi suất
• Khái niệm và phân loại
o Khái niệm:
Lãi suất là giá cả của quyền sử dụng một đơn vị vốn vay trong một đơn vị thời
gian nhất định. Đây là loại giá cả đặc biệt vì nó được hình thành trên cơ sở giá trị sử
dụng chứ không trên cơ sở giá trị. Khi đến hạn, người đi vay sẽ phải trả cho người cho
vay khoản tiền dôi ra ngoài số tiền vốn gọi là tiền lãi. Tỷ lệ phần trăm của số tiền lãi

trên số tiền vốn gọi là lãi suất.
Ở trong tầm kinh tế vi mô, lãi suất là cơ sở cho các cá nhân cũng như các doanh
nghiệp đưa ra quyết định kinh tế của mình như: chi tiêu hay để dành tiết kiệm; đầu tư
số vốn tích lũy được gửi vào danh mục đầu tư này hay danh mục đầu tư khác.
Mặt khác ở tầm kinh tế vĩ mô, lãi suất lại là công cụ điều tiết cho vay nhạy bén
và hiệu quả; thông qua việc thay đổi mức và cơ cấu lãi suất trong từng thời kỳ nhất
định. Lãi suất cao hay thấp do quan hệ cung cầu vốn quyết định. Khi cung lớn hơn cầu
thì lãi suất giảm, khi cầu lớn hơn cung thì lãi suất tăng. Giới hạn cao nhất của lãi suất
bao giờ cũng phải thấp hơn tỷ suất lợi nhuận bình quân, nếu bằng thì không có người
nào đi vay. Theo Marshall: Lãi suất là cái giá phải trả cho việc sử dụng vốn trên thị
trường bất kỳ; lãi suất vươn tới một mức cân bằng sao cho tổng cầu về vốn trên thị
trường đó với lãi suất đó bằng tổng cung về vốn được cung ứng trên thị trường đó với
lãi suất đó.
o Phân loại:
 Căn cứ vào hình thức tín dụng
- Lãi suất tín dụng thương mại: áp dụng khi các doanh nghiệp cho nhau vay
dưới hình thức mua bán chịu hàng hóa.
- Lãi suất ngân hàng: áp dung trong quan hệ tín dụng ngân hàng. Bao gồm các
loại lãi suất tiền gửi, lãi suất cho vay, lãi suất chiết khấu của NHTM, lãi suất chiết
khấu của NHTW, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất liên ngân hàng, lãi suất cơ bản.
[NHÓM 3 – K44TCNH] GVHD: TS. Trần Thị Bích Ngọc Page
- Lãi suất tín dụng Nhà nước: áp dung khi Nhà nước đi vay của các chủ thể
khác nhau trong xã hội dưới hình thức phát hành tín phiếu hoặc trái phiếu.
 Căn cứ vào thời hạn của tín dụng
- Lãi suất ngắn hạn: áp dụng đối với các khoản tín dụng ngắn hạn.
- Lãi suất dài hạn: áp dụng đối với các khoản tín dụng trung hạn và dài hạn.
 Căn cứ vào tính chất ổn định của lãi suất
- Lãi suất cố định: là lãi suất áp dụng cố định trong suốt thời hạn vay.
- Lãi suất biến đổi: lã lãi suất có thể thay đổi lên xuống và có thể báo trước hoặc
không báo trước. Điều chính theo biến động của lãi suất trên thị trường.

 Căn cứ vào phương pháp trả lãi
- Lãi suất chiết khấu: áp dụng khi lãi của khoản cho vay được khấu trừ ngày từ
đầu kỳ vào giá trị vốn cho vay. Nó được tính bằng tỷ lệ % trên mệnh giá của giấy tờ có
giá trị và được khấu trừ ngay khi ngân hàng phát tiền vay cho khách hàng.
- Lãi suất coupon: là lãi suất được hoàn trả định kỳ cố định cho đến ngày đáo hạn.
- Lãi suất mãn hạn: là lãi suất được hoàn trả toàn bộ vào lúc cuối kỳ. Có thể
được xác định theo phương pháp lãi suất đơn hoặc theo phương pháp lãi suất kép.
1.2. Vai trò của lãi suất đối với nền kinh tế
 Lãi suất với quá trình huy động vốn
Vốn đối với nền kinh tế là hết sức quan trọng. Do đó việc tích lũy và sử dụng
vốn như thế nào là rất cần thiết đối với nền kinh tế của một quốc gia. Một chính sách
vốn đúng sẽ giúp cho nguồn vốn được phát huy tối đa vai trò cũng như chức năng của
nó. Và chính sách lãi suất là một trong những nhân tố tác động lên chất lượng nguồn
vốn. Lãi suất phải bảo tồn được giá trị vốn vay, đảm bảo giá trị tích luỹ cho cả người
cho vay và người đi vay. Chúng ta có thể cụ thể như sau:
Lãi suất tiền gửi phải lớn hơn tỷ lệ lạm phát để bảo đảm quyền lợi giữa người
cho vay vốn và người gửi tiền. Để có lợi nhuận, ngân hàng phải thực hiện một lãi suất
cho vay lớn hơn lãi suất tiền gửi, nhưng không được lớn hơn tỷ suất lợi nhuận bình
quân. Nếu lớn hơn sẽ làm cho việc kinh doanh của doanh nghiệp không có lời, dẫn đến
thua lỗ phá sản, mất khả năng trả nợ cho ngân hàng, làm ngân hàng bị ảnh hưởng và
cuối cùng là ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế.
Bên cạnh đó, lãi suất ngắn hạn phải nhỏ hơn lãi suất dài hạn đối với cả hai
khoản tiền gửi và vay nhằm đảm bảo tính ốn định cho khoản vốn.
 Lãi suất với quá trình đầu tư
Việc đầu tư vào một tài sản cố định hay một dự án được thực hiện khi doanh
nghiệp dự tính lợi nhuận thu được lớn hơn số tiền họ phải bỏ ra để thực hiện khoản
vay đó. Khi lãi suất thấp các doanh nghiệp có xu hướng đi vay nhiều hơn để mở rộng
[NHÓM 3 – K44TCNH] GVHD: TS. Trần Thị Bích Ngọc Page
đầu tư và ngược lại. Ngay cả khi doanh nghiệp thừa vốn thì chính sách lãi suất vẫn ảnh
hưởng đến doanh nghiệp, vì nếu lãi suất cao doanh nghiệp sẽ tiến hành gửi vào ngân

hàng chứ không mở rộng đầu tư. Do đó lãi suất và đầu tư có mối quan hệ tỷ lệ nghịch
với nhau.
 Lãi suất với tiêu dùng và tiết kiệm
Đối với nguồn thu nhập của gia đình, số tiền này sẽ được dùng để thực hiện hai
mục tiêu: tiêu dùng và tiết kiệm. Sự phân chia giữa tiêu dùng và tiết kiệm sẽ phụ thuộc
vào nhu cầu con người, giá cả hàng hóa và lãi suất tiền gửi. Lãi suất ảnh hưởng trực
tiếp đến giá cả hàng hóa và tỷ suất tiền gửi, do đó tác động trực tiếp đến nguồn thu
nhập. Khi lãi suất thấp, giá cả hàng hóa thấp, người ta sẽ tiêu dùng hàng hóa nhiều hơn
so với việc tiết kiệm. Ngược lại, khi lãi suất cao, con người ta có xu hướng gửi tiền
vào ngân hàng để hưởng lợi nhuận, làm tiêu dùng giảm, tiết kiệm tăng.
 Lãi suất với tỷ giá hối đoái và hoạt động xuất nhập khẩu
Sự thay đổi của lãi suất đồng nội tệ và ngoại tệ sẽ ảnh hưởng lên tỷ giá hối đoái
quốc gia. Nếu lãi suất danh nghĩa tăng, chúng ta xét hai trường hợp. Thứ nhất là tăng
do tỷ lệ lạm phát tăng, lãi suất thực không đổi, thì điều này sẽ làm cho đồng nội tệ
giảm giá, tỷ giá tăng. Trường hợp thứ hai lãi suất danh nghĩa tăng do lãi suất thực tăng,
lạm phát không đổi, người ta sẽ chuyển sang nắm giữ đồng nội tệ nhiều hơn làm cầu
nội tệ tăng, nội tệ lên giá làm tỷ giá giảm.
Lãi suất thay đổi ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái, từ đó ảnh hưởng đến hoạt động
xuất nhập khẩu của quốc gia. Tỷ giá tăng sẽ làm cho hàng hóa trong nước ở nước
ngoài trở nên đắt hơn và hàng nước ngoài đối với trong nước sẽ rẻ hơn, từ đó nhập
khẩu tăng, xuất khẩu giảm làm giảm xuất khẩu ròng. Tương tự khi lãi suất giảm sẽ làm
tăng xuất khẩu ròng.
 Lãi suất với lạm phát
Lãi suất và lạm phát có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong thời kỳ lạm phát
tăng cao, việc tăng lãi suất sẽ có ý nghĩa làm giảm lượng tiền lưu thông, giúp kìm hãm
sự gia tăng của lạm phát. Tuy nhiên không nên lạm dụng vì khi tăng lãi suất sẽ làm
giảm tổng cầu, tổng đầu tư, đẩy nền kinh tế không phát triển.
 Lãi suất với quá trình phân bổ các nguồn lực
Lãi suất là một loại giá cả đặc biệt, nó có vai trò quan trọng trong việc phân bổ
hiệu quả các nguồn lực giữa các ngành kinh tế. Vai trò đó được hiểu như sau: Khi

quyết định đầu tư vào một dự án, một lĩnh vực, một ngành kinh tế nào đó thì điều
chúng ta xem xét đầu tiên chính là dự án có mang lại lợi nhuận không và lợi nhuận này
[NHÓM 3 – K44TCNH] GVHD: TS. Trần Thị Bích Ngọc Page
có đảm bảo hiệu quả kinh doanh, có đảm bảo khả năng chi trả khoản lãi cho số tiền
vay là chi phí ban đầu hay không. Để đánh giá quyết định phân bổ nguồn lực, ta phải
xem xét đến sự chênh lệch giữa nguồn thu nhập đem lại và số tiền vay phải trả. Khi
chênh lệch này là dương, thì nguồn lực sẽ được phân bổ có hiệu quả.
 Lãi suất với Ngân hàng thương mại:
Với vai trò là “đi vay để cho vay”, muốn hoạt động tốt ngân hàng thương mại
phải xác định cho mình một chính sách lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay hợp lí nhất.
Nếu lãi suất huy động tiền gửi quá thấp sẽ không thu hút được các doanh nghiệp và
người dân gửi tiền vào, điều đó sẽ làm ngân hàng không có đủ nguồn vốn để đáp ứng
nhu cầu khách hàng. Bên cạnh đó, nếu lãi suất cho vay quá cao các doanh nghiệp sẽ
không thể vay nữa, vì lợi nhuận tạo ra không đủ để bù đắp phần lãi vay, nên việc kinh
doanh sẽ bị thu hẹp hoặc ngừng hoạt động. Một chính sách lãi suất phù hợp sẽ là đòn
bẩy vừa giúp ngân hàng làm ăn có lãi, có lời, vừa giúp nền kinh tế phát triển. Do đó có
thể nói lãi suất ngân hàng là nhân tố quan trọng quyết định kết quả hoạt động kinh
doanh của ngân hàng thương mại và khách hàng, là công cụ quản lý vĩ mô của Nhà
nước và công cụ điều hành vi mô của các ngân hàng thương mại.Sự thay đổi của lãi
suất góp phần điều tiết sản xuất và tiêu dùng, cung và cầu hàng hóa, là công cụ để thực
hiện mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia.
Ngoài ra, lãi suất còn là một trong những công cụ dự báo tình hình nền kinh tế.
Sự biến động của lãi suất có thể dự báo được một số yếu tố của nền kinh tế. Từ đó các
ngân hàng hoặc doanh nghiệp có điều kiện để chuẩn bị và lựa chọn phương án kinh
doanh cho phù hợp.
2. Các nhân tố ảnh hưởng tới giá cổ phiếu
Rủi ro là những thiệt hại mà nhà đầu tư không muốn xảy ra trong tương lai đối
với một danh mục đầu tư. Bao gồm rủi ro không hệ thống và rủi ro có hệ thống. Cấu
thành nên rủi ro là các nhân tố trong nền kinh tế có tác động tiêu cực đến danh mục
đầu tư. Vậy những nhân tố nào ảnh hưởng đến giá cổ phiếu và ảnh hưởng như thế nào?

Trong phần này, chúng ta sẽ làm rõ điều đó.
Đối với chứng khoán nói chung và từng loại cổ phiếu nói riêng, khi lưu thông
trên thị trường đều tuân theo quy luật của thị trường. Giá của cổ phiếu được hình thành
dựa trên quy luật cung-cầu và sự mất cân bằng trên thị trường sẽ dẫn đến sự biến động
[NHÓM 3 – K44TCNH] GVHD: TS. Trần Thị Bích Ngọc Page
về giá cả hàng hóa. Những nhân tố làm thay đổi lượng cung-cầu của cổ phiếu trên thị
trường, chính là những nhân tố làm thay đổi giá cổ phiếu đó. Có rất nhiều yếu tố ảnh
hưởng đến giá cổ phiếu, ta có thể chia làm 2 nhóm nhân tố chính: nhóm nhân tố cơ bản
và nhóm nhân tố vĩ mô. Khi tiến hành giao dịch trên thị trường, các nhà đầu tư thường
dựa trên những nhân tố cơ bản lẫn nhân tố vĩ mô để đưa ra những quyết định mua bán
với giá cả phù hợp nhất.
2.1 Nhân tố cơ bản
Trên thị trường, giá cổ phiếu được xác định dựa trên nền tảng các yếu tố cơ bản là:
(1) Tình hình lợi nhuận (ví dụ chỉ tiêu thu nhập trên mỗi cổ phiếu – EPS. EPS
là thước đo để xác định phần lợi nhuận công ty tạo ra trên mỗi cổ phiếu).
(2) Hệ số định giá (ví dụ hệ số giá trên thu nhập mỗi cổ phiếu – P/E).
(3) Tính thanh khoản của một loại cổ phiếu phản ánh mức độ quan tâm của
công chúng đầu tư.
Cần lưu ý rằng, EPS là một thước đo phổ biến, nhưng ngoài ra còn có những
thước đo kế toán khác cũng được sử dụng để đánh giá tình hình lợi nhuận, ví dụ như
cổ tức trên mỗi cổ phiếu hay dòng tiền trên mỗi cổ phiếu. Đồng thời, bản thân EPS
cũng có thể được điều chỉnh theo những nguyên tắc tài chính nhằm tạo ra những con
số phản ánh chính xác hơn về tình hình lợi nhuận của công ty.
Vì vậy, khi mua một cổ phiếu nào đó nghĩa là bạn mua một phần tương ứng của
dòng lợi nhuận công ty có thể tạo ra trong tương lai. Đây chính là cơ sở cho việc xác
định P/E, hay P/E thể hiện mức giá bạn sẵn sàng trả cho một phần của dòng lợi nhuận
được hưởng trong tương lai từ việc đầu tư vào cổ phiếu đó. Một phần của dòng lợi
nhuận được tạo ra này sẽ được chia dưới dạng cổ tức hay cổ phiếu thưởng; phần còn
lại sẽ được công ty giữ lại để tái đầu tư mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Dòng
lợi nhuận tương lai là kết quả của mức lợi nhuận hiện tại và tỷ lệ tăng trưởng trong

tương lai.
Đối với hệ số định giá như P/E, thước đo này được quyết định bởi tỷ lệ tăng
trưởng lợi nhuận trong tương lai và tỷ lệ chiết khấu được dùng để quy dòng lợi nhuận
trong tương lai về giá trị hiện tại. Nghĩa là một công ty có tỷ lệ tăng trưởng dự kiến
cao sẽ dẫn đến hệ số định giá cao, nhưng tỷ lệ chiết khấu cao sẽ khiến cho hệ số định
[NHÓM 3 – K44TCNH] GVHD: TS. Trần Thị Bích Ngọc Page
giá thấp. Tỷ lệ chiết khấu phụ thuộc vào mức độ rủi ro của loại cổ phiếu đó những yếu
tố vĩ mô như lạm phát hay lãi suất cơ bản trong nền kinh tế.
2.2 Nhân tố vĩ mô
Nhóm nhân tố vĩ mô bao gồm tất cả những tác động bên ngoài đến việc hình
thành nên giá cổ phiếu. Có rất nhiều nhân tố tác động đến giá cổ phiếu và tùy vào mỗi
yếu tố đều có những ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp và ở những mức độ khác nhau.
Do đó chúng ta có thể kể đến 3 yếu tố có tác động lớn nhất trong hoạt động kinh tế của
mỗi quốc gia nói chung và TTCK nói riêng bao gồm tỷ giá hối đoái, lạm phát và lãi
suất.
 Tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái có tác động đến TTCK trên cả 2 giác độ là môi trường tài chính
và môi trường doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp nhập nguyên liệu hay
tiêu thụ sản phẩm ở nước ngoài. Tỷ giá hối đoái tăng cao sẽ là chất xúc tác cho thị
trường chứng khoán, thu hút nguồn đầu tư từ các nguồn vốn nước ngoài, tạo động lực
cho thị trường phát triển. Tuy nhiên, việc tỷ giá hối đoái tăng mạnh gây tác động tiêu
cực khiến các nhà đầu tư nước ngoài rút vốn khỏi thị trường, một lượng vốn lớn nhanh
chóng bị rút khỏi thị trường sẽ làm giá chứng khoán giảm và điều này sẽ tác động làm
tăng lãi suất. Nếu lãi suất tăng sẽ trở thành gánh nặng cho kinh tế và ngược lại.
 Lạm phát
Là sự mất giá của đồng tiền, nó làm thay đổi hành vi tiêu dùng và tiết kiệm của
dân cư và doanh nghiệp. Tỷ lệ lạm phát không hợp lý sẽ gây khó khăn cho hoạt động
sản xuất kinh doanh, ngăn cản sự tăng trưởng và đổi mới doanh nghiệp.
Lạm phát tăng thường là dấu hiệu cho thấy sự tăng trưởng của nền kinh tế sẽ
không bền vững, lãi suất sẽ tăng lên, khả năng thu lợi nhuận của doanh nghiệp bị hạ

thấp khiến giá cổ phiếu giảm. Lạm phát càng thấp thì càng có nhiều khả năng cổ phiếu
sẽ tăng giá và ngược lại. Thông thường, giá cổ phiếu có xu hướng tăng khi nền kinh tế
phát triển tốt và có xu hướng giảm khi nền kinh tế giảm sút. Nếu dự đoán được xu
hướng phát triển của nền kinh tế, thì có thể dự báo được xu thế phát triển chung của
TTCK. Vì vậy việc dự đoán tình hình kinh tế để xem xét các ảnh hưởng của nó đến giá
chứng khoán cũng rất quan trọng đối với các nhà đầu tư.
 Lãi suất
[NHÓM 3 – K44TCNH] GVHD: TS. Trần Thị Bích Ngọc Page
Lãi suất trái phiếu Chính phủ được coi là lãi suất chuẩn, những thay đổi trong
lãi suất trái phiếu Chính phủ sẽ làm ảnh hưởng tới giá chứng khoán. Khi lãi suất chuẩn
tăng làm cho giá cả của các loại chứng khoán khác giảm xuống, ngược lại lãi suất
chuẩn giảm lại làm cho giá của chứng khoán tăng lên.
Thông thường, lãi suất thực chất không là gì khác hơn ngoài chi phí mà một
người phải trả cho việc sử dụng tiền của người khác. Thế nhưng câu chuyện về lãi suất
khi nó chạy sang thị trường chứng khoán lại không dừng lại ở đó. Mối quan hệ giữa lãi
suất và giá trái phiếu là mối quan hệ trực tiếp và ngược chiều nhau. Giá của trái phiếu
là giá trị hiện tại của các dòng tiền. Khi lãi suất thị trường càng cao thì các dòng tiền bị
chiết khấu với lãi suất càng lớn, do vậy dẫn đến giá trái phiếu càng nhỏ. Do đó, giữa
lãi suất thị trường và lãi suất trái phiếu có quan hệ tỷ lệ nghịch: khi lãi suất ngân hàng
tăng cao hơn lãi suất trái phiếu, giá trái phiếu sẽ sụt giảm. Không chỉ vậy, quan hệ
quan hệ giữa lãi suất thị trường và lãi suất chứng khoán là mối quan hệ gián tiếp tác
động đến giá của chứng khoán. Nếu lãi suất thị trường cao hơn lãi suất chứng khoán
thì giá chứng khoán sẽ giảm, điều này khiến cho hoạt động trên thị trường chứng
khoán giảm sút vì người ta thích gửi tiền vào ngân hàng hơn là mua chứng khoán.
Ngoài sự tác động của hai nhân tố nêu trên, giá cổ phiếu còn chịu ảnh hưởng
của các nhân tố khác như:
 Môi trường chính trị
Cũng có ảnh hưởng rất lớn đến TTCK, xã hội luôn có những tác động nhất định
đến hoạt động của TTCK. Yếu tố chính trị bao gồm những thay đổi về Chính phủ và
các hoạt động chính trị. Tuy nhiên ở nước ta tình hình chính trị tương đối ổn định nên

ta có thể bỏ qua yếu tố này.
 Môi trường xã hội và pháp luật
Hệ thống chính sách có tác động rất lớn đến bản thân TTCK và hoạt động của
các doanh nghiệp. Mỗi thay đổi chính sách có thể kéo theo các tác động làm giá chứng
khoán tăng hoặc giảm, nhất là trong những thời điểm nhạy cảm. Đây là những yếu tố
phi kinh tế nhưng cũng ảnh hưởng không nhỏ đến giá chứng khoán trên thị trường.
Nếu những yếu tố này có khả năng ảnh hưởng tích cực tới tình hình kinh doanh của
doanh nghiệp thì giá cổ phiếu của doanh nghiệp sẽ tăng lên.
 Sự tiến triển của nền kinh tế quốc dân, tình hình kinh tế khu vực và thế giới
Thông thường, giá cổ phiếu có xu hướng tăng khi nền kinh tế phát triển (và có
xu hướng giảm khi nền kinh tế yếu đi). Bởi khi đó, khả năng về kinh doanh có triển
[NHÓM 3 – K44TCNH] GVHD: TS. Trần Thị Bích Ngọc Page
vọng tốt đẹp, nguồn lực tài chính tăng lên, nhu cầu cho đầu tư lớn hơn nhiều so với
nhu cầu tích luỹ và như vậy, nhiều người sẽ đầu tư vào cổ phiếu.
 Tâm lý nhà đầu tư
Theo thuyết lòng tin về giá cổ phiếu, yếu tố căn bản trong biến động của giá cổ
phiếu là sự tăng hay giảm lòng tin của nhà đầu tư đối với tương lai của giá cổ phiếu,
của lợi nhuận doanh nghiệp và của lợi tức cổ phần. Vào bất cứ thời điểm nào, trên thị
trường cũng xuất hiện 2 nhóm người: nhóm người lạc quan và nhóm người bi quan.
Khi số tiền do người lạc quan đầu tư chiếm nhiều hơn, thị trường sẽ tăng giá và khi số
tiền bán ra của người bi quan nhiều hơn, thị trường sẽ hạ giá. Tỷ lệ giữa 2 nhóm người
này sẽ thay đổi tuỳ theo cách diễn giải của họ về thông tin, cả về chính trị lẫn kinh
doanh, cũng như những đánh giá của họ về nền kinh tế nói chung và TTCK nói riêng.
Chính vì thế, cùng một loại chứng khoán, có người cho rằng, xấu quá cần phải
bán đi, nhưng ngược lại có người cho rằng, tương lai của nó rất sáng lạn cần phải mua
vào. Điều này cũng lý giải tại sao trên TTCK lúc nào cũng có người mua, người bán.
Ngoài ra, các hành động lũng đoạn, tung tin đồn nhảm, các biện pháp kỹ thuật
của nhà điều hành thị trường, ý kiến của các nhà phân tích cũng có thể khiến thị giá
cổ phiếu biến động.
3. Tác động của lãi suất đến giá cổ phiếu

Như đã phân tích ở trên, TTCK là một chủ thể chịu tác động của nhiều nhân tố
bao gồm các nhân tố kinh tế vĩ mô và vi mô. Đối với nhân tố lãi suất, về mặt lý thuyết,
về mặt lý thuyết,(bỏ đi) lãi suất huy động tăng sẽ dẫn đến lãi suất cho vay tăng theo,
làm tăng chi phí vay vốn của các doanh nghiệp, hạn chế mở rộng quy mô sản xuất
kinh doanh và qua đó làm giảm lợi nhuận, khiến cổ phiếu của các doanh nghiệp trở
nên kém hấp dẫn hơn. Trên thực tế đã có một thuyết cơ bản, chính thống và quy ước
được dùng để giải thích sự vận động của giá cổ phiếu thông qua lợi nhuận của doanh
nghiệp. Đó là thuyết quy ước về giá cổ phiếu (Conventinal Theory of Stock Prices).
Theo thuyết này, nguyên nhân cơ bản của sự vận động giá cả là sự dự đoán lợi nhuận
doanh nghiệp. Lợi nhuận của doanh nghiệp là nhân tố trực tiếp quan trọng nhất trong
việc quyết định giá cổ phiếu. Bởi giá cổ phiếu chính là giá trị hiện tại (Present Value)
của tất cả lợi tức cổ phần trong tương lai. Do đó, khi lợi nhuận doanh nghiệp thay đổi,
giá cổ phiếu sẽ thay đổi và khi lãi suất thay đổi thì chi phí vay vốn của doanh nghiệp
[NHÓM 3 – K44TCNH] GVHD: TS. Trần Thị Bích Ngọc Page
cũng thay đổi, điều này làm ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Nếu
lợi nhuận công ty tạo ra thấp, dòng tiền tạo ra giảm cùng với lãi suất chiết khấu tăng
lên sẽ làm giảm giá trị của cổ phiếu. Đặc biệt, đối với những doanh nghiệp có tỷ trọng
các khoản nợ vay ngân hàng lớn hơn VCSH, thì lãi suất tăng sẽ làm cho doanh nghiệp
dễ lâm vào tình trạng khủng hoảng tài chính và phải đối mặt với nguy cơ phá sản. Lúc
này nhà đầu tư lại yêu cầu mức bù rủi ro cao hơn và giá cổ phiếu tiếp tục giảm xuống.
Ta có thể thấy rõ qua công thức định giá doanh nghiệp:
Ngoài ra, khi chi phí vay vốn doanh nghiệp tăng, chi phí này được chuyển cho
các cổ đông (viết lại) vì nó sẽ hạ thấp lợi nhuận mà doanh nghiệp dùng để thanh toán
cổ tức. Cùng lúc đó, cổ tức hiện có từ cổ phiếu thường sẽ tỏ ra không mấy cạnh tranh
đối với nhà đầu tư tìm lợi tức, sẽ làm họ chuyển hướng sang tìm nguồn thu nhập tốt
hơn ở bất cứ nơi nào có lãi suất cao (giả dụ lãi suất tiết kiệm). Hơn nữa, lãi suất tăng
còn gây tổn hại cho triển vọng phát triển của doanh nghiệp vì nó khuyến khích doanh
nghiệp giữ lại tiền mặt nhàn rỗi hơn là liều lĩnh dùng số tiền đó khuếch trương kinh
doanh. Ngược lại, lãi suất giảm có tác động tốt cho doanh nghiệp vì chi phí cho vay
mượn xuống thấp, và giá cổ phiếu thường tăng lên.

Bên cạnh đó, nếu lãi suất huy động trong nước tăng cũng có tác dụng thu hút
luồng ngoại tệ đổ vào, gián tiếp giúp đồng nội tệ tăng giá và do vậy tác động làm giảm
tỷ giá hối đoái. Các doanh nghiệp xuất khẩu trong bối cảnh này sẽ gặp phải khó khăn
do hàng hóa xuất khẩu bị đắt lên, đồng thời trước đó đã chịu thêm chi phí vốn vay do
lãi suất tăng. Hệ quả là doanh thu của các doanh nghiệp này sẽ bị ảnh hưởng, dẫn đến
kỳ vọng vào lợi nhuận tương lai bị ảnh hưởng theo, làm giá cổ phiếu doanh nghiệp
trên thị trường sa sút. Tuy nhiên, đối với nhóm doanh nghiệp phải nhập khẩu phần lớn
nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất kinh doanh, thì bối cảnh trên lại là lợi thế cho họ.
Nhưng do ảnh hưởng của chi phí vốn vay tăng lên, phần lợi thế này có nguy cơ bị triệt
tiêu.
Như vậy có thể thấy rằng, lãi suất và giá cổ phiếu có mối quan hệ ngược chiều.
Một ví dụ điển hình mà lãi suất có liên quan chặt chẽ tới TTCK: Vào tháng 2/2007,
các ngân hàng đồng loạt tăng lãi suất VND do TTCK “bốc hỏa”. Khi đó, nhiều người
dân rút tiền tiết kiệm để đổ vào chứng khoán, buộc các ngân hàng phải tăng lãi suất để
[NHÓM 3 – K44TCNH] GVHD: TS. Trần Thị Bích Ngọc Page
giữ chân khách hàng và cạnh tranh với kênh đầu tư chứng khoán. Tháng 8/2007,
TTCK trở nên trầm lắng và bắt đầu chuyển biến theo hướng ngược lại. Các công ty
chứng khoán, các công ty niêm yết và những nhà đầu tư cá nhân chùn chân, rủ nhau
đem gửi tiền ở các ngân hàng
1
.
Hay một ví dụ khác tại Việt Nam trong thời gian qua, việc lãi suất gửi tiết kiệm
giảm đã sẽ làm giảm mức độ hấp dẫn của kênh đầu tư này và khiến một phần dòng
tiền chuyển sang kênh đầu tư khác. Các kênh đầu tư truyền thống như vàng, bất động
sản và ngoại tệ đều đang hàm chứa nhiều rủi ro nên khó thu hút vốn đầu tư. Giá vàng
thế giới đang trong xu hướng giảm cộng thêm chênh lệch giá vàng trong nước và thế
giới quá cao, khiến kênh đầu tư này khá rủi ro. Bất động sản hiện đang đóng băng và
thanh khoản thấp khiến khả năng chôn vốn của các nhà đầu tư là cao. Tỷ giá
VND/USD khá ổn định và chưa cho thấy khả năng biến động mạnh khi lạm phát tại
Việt Nam được kiềm chế và thặng dư cán cân thanh toán của Việt Nam vẫn khá tốt, do

đó kênh đầu tư ngoại tệ hiện tại cũng không tiềm năng. Với các lý do trên, cộng thêm
xu hướng hồi phục của nền kinh tế Việt Nam thì một phần dòng tiền tiết kiệm đã
chuyển vào chứng khoán.
Tuy nhiên chúng ta phải luôn nhớ rằng, lãi suất không phải là yếu tố có tính
quyết định đối với giá chứng khoán và có rất nhiều cách thức khác nhau để xem xét sự
thay đổi của giá chứng khoán và khuynh hướng thị trường. Do vậy, không ai có thể tự
tin nói rằng một công bố gia tăng lãi suất huy động của ngân hàng có thể tạo nên ảnh
hưởng xấu đến toàn bộ giá chứng khoán.
Mối quan hệ giữa các biến kinh tế vĩ mô mà cụ thể là nhân tố lãi suất với chỉ số
chứng khoán – đại diện cho tình hình của thị trường chứng khoán – cũng (thêm) đã
được nhiều sinh viên và các chuyên gia trong và ngoài nước nghiên cứu.
Luận văn thạc sỹ của Nguyễn Văn Mỹ – Trường Đại học Kinh tế Hồ Chí Minh
đã sử dụng phương pháp tập hợp các thông tin thứ cấp và những nhận định của chuyên
gia về chứng khoán để “Phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến giá cổ phiếu trên sàn
giao dịch chứng khoán Hồ Chí Minh HOSE”. Tác giả cho rằng 3 nhân tố tác động đến
giá cổ phiếu: nhân tố ngoại sinh (lãi suất, lạm phát ), nhân tố nội sinh (gắn với công
ty cổ phần) và nhân tố can thiệp (tâm lý nhà đầu tư, đầu cơ).
1 />[NHÓM 3 – K44TCNH] GVHD: TS. Trần Thị Bích Ngọc Page
Công trình dự thi giải thưởng nghiên cứu khoa học sinh viên của nhóm sinh
viên Trường Đại học Kinh tế Hồ Chí Minh đã sử dụng mô hình OLS, GARCH,
EGARCH để nghiên cứu “Mối liên hệ giữa các nhân tố kinh tế vĩ mô và thị trường
chứng khoán Việt Nam” và nhóm cũng chỉ ra rằng giá cổ phiếu trên TTCK có mối
tương quan ngược chiều với lãi suất.(sửa lại: lãi suất có sự tác động ngược chiều đến
giá cổ phiếu trên TTCK -> câu ni hợp lý k hè???)
Đề tài “Phân tích tác động của các nhân tố kinh tế vĩ mô đến Thị trường Chứng
khoán Việt Nam” của PGS.TS Phan Thị Bích Nguyệt và Ths Phạm Dương Phương
Thảo đã sử dụng mô hình OLS, kết quả cho thấy khi các nhân tố khác không đổi tại
Việt Nam thì: nhân tố cung tiền, lạm phát, giá dầu và sản lượng công nghiệp có tương
quan dương, còn lãi suất, tỷ giá có tương quan9 âm với thị trường chứng khoán.
Zhou (1996) cũng đã nghiên cứu mối quan hệ giữa lãi suất và giá cổ phiếu sử

dụng phân tích hồi quy. Ông thấy rằng lãi suất có tác động quan trọng đến lãi cổ phiếu,
đặc biệt là trong dài hạn, nhưng giả thuyết cho rằng lợi nhuận cổ phiếu dự kiến sẽ di
chuyển một đối một với lãi suất cũ bị từ chối. Ngoài ra, kết quả của ông cho thấy lãi
suất dài hạn giải thích một phần quan trọng trong sự thay đổi trong tỷ lệ giá cổ tức và
cho thấy sự biến động cao của thị trường chứng khoán có liên quan đến sự biến động
cao của lãi suất trái phiếu dài hạn, điều này có thể được tính bằng cách thay đổi dự báo
về tỷ lệ chiết khấu.
Lee (1997) sử dụng hồi quy trong ba năm để phân tích mối quan hệ giữa thị
trường chứng khoán và ngắn hạn lãi suất lãi suất ngắn hạn (câu k có ý nghĩa??? Vứt
nghiên cứu ông ni đi, hoặc sửa lại). Ông đã cố gắng dự báo lợi nhuận vượt quá (tức là
sự khác biệt giữa lợi nhuận thị trường chứng khoán và các rủi ro lãi suất ngắn hạn)
trên các chỉ số Standard & Poor 500 với mức lãi suất ngắn hạn, nhưng phát hiện ra
rằng mối quan hệ này không ổn định theo thời gian. Nó dần dần thay đổi từ tiêu cực
đáng kể đến không có mối quan hệ, hoặc thậm chí đến một tác động tích cực mặc dù
mối quan hệ không đáng kể.
Jefferis và Okeahalam (2000) làm việc tại thị trường Nam Phi, Botswana và
Zimbabwe, cho thấy lãi suất cao hơn sẽ dẫn đến việc ép giá cổ phiếu thông qua việc
thay thế có hiệu lực (lãi suất cao trở nên hấp dẫn hơn so với cổ phiếu), tăng tỷ lệ chiết
[NHÓM 3 – K44TCNH] GVHD: TS. Trần Thị Bích Ngọc Page
khấu (và do đó giảm giá trị hiện tại của lợi nhuận kỳ vọng trong tương lai), hoặc tác
động làm giảm đầu tư và do đó trong tương lai giảm lợi nhuận dự kiến.
Arango (2002) cho thấy một số bằng chứng về mối quan hệ phi tuyến và nghịch
đảo giữa giá cổ phiếu trên Thị trường chứng khoán Bogota và lãi suất tính theo ngân
hàng lãi suất cho vay liên, ở một mức độ bị ảnh hưởng bởi chính sách tiền tệ.
Hsing (2004) thông qua một mô hình VAR cấu trúc cho phép xác định đồng
thời nhiều biến nội sinh như đầu ra, lãi suất thực suất, tỷ giá , chỉ số thị trường chứng
khoán và phát hiện ra rằng có một mối quan hệ nghịch đảo giữa giá chứng khoán và lãi
suất.
[NHÓM 3 – K44TCNH] GVHD: TS. Trần Thị Bích Ngọc Page
CHƯƠNG 2: TÌNH HÌNH BIẾN ĐỘNG LÃI SUẤT VÀ CHỈ SỐ

VN-INDEX TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
1. Tình hình biến động chỉ số VN-Index giai đoạn từ 2006 - 2012
Giai đoạn từ năm 2000 - 2005:
Biểu đồ 2.1: Tình hình biến động chỉ số VN-Index giai đoạn 2000-2005
(Nguồn: cophieu68.com)
- Giai đoạn đầu: Từ khi ra đời cho đến hết năm 2000, chỉ số chứng khoán VN-Index đã
tăng “phi mã” từ 100 điểm lên 571 điểm – gấp 5,7 lần trong vòng 6 tháng.
- Giai đoạn thứ 2: bắt đầu từ năm 2001 đến giữa năm 2004, chỉ số VN-Index gần như
“rơi tự do” từ 571 điểm xuống còn trên 130 điểm.
- Giai đoạn thứ 3: từ nửa cuối năm 2004, chỉ số VN-index tăng dần lên trên 200 điểm
và đến hết năm 2005 đã vượt qua mốc 300 điểm.
Giai đoạn từ năm 2006 - 2012
 Năm 2006 T kéo biểu đồ cho nó biến động rồi đó
Biểu đồ 2.2: Tình hình biến động chỉ số VN-Index năm 2006
(Nguồn: cophieu68.com)
Thị trường giao dịch tập trung những tháng đầu năm 2006 đã chứng kiên sự lên
điểm nhanh chóng của chỉ số VN-Index. Sau một thời gian dài xoay quanh mức 300
điểm, VN-Index đã vượt ngưỡng 400 điểm vào phiên giao dịch ngày 01/3/2006. Đến
cuối tháng, vào phiên giao dịch ngày 31/3/2006, ngưỡng 500 điểm cũng bị phá vỡ. Kết
thúc phiên giao dịch ngày 25/4/2006 VN-Index đạt 632,69 điểm - con số cao nhất kể
từ khi TTCK Việt Nam được hình thành năm 2000. Cùng với sự lên điểm của VN-
Index, khối lượng và giá trị giao dịch cũng tăng cao. Khối lượng cổ phiếu khớp lệnh
bình quân phiên cho 5 tháng đầu năm 2006 là 1,7 triệu cổ phiếu, giá trị đạt hơn 84 tỷ
đồng, cao lần lượt gấp 3 và 5 lần so với mức bình quân của 4 tháng cuối năm 2005.
Chỉ số giá chứng khoán VN-Index của phiên giao dịch cuối cùng của năm
(ngày 29/12) tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh ở mức
751,77 điểm, tăng mạnh so với mức 307,5 điển của phiên giao dịch cuối cùng năm
2005. Như vậy tính chung, so với đầu năm, chỉ số VN-Index đã có mức tăng trưởng
[NHÓM 3 – K44TCNH] GVHD: TS. Trần Thị Bích Ngọc Page
tới 146%. Đây là mức tăng mà các thị trường trên thế giới phải thừa nhận là quá ấn

tượng.
 Năm 2007
Tiếp nối thành công của năm 2006, TTCKViệt Nam tiếp tục có những bước
chuyển mình trong năm 2007. Với những phát triển vượt bậc về quy mô, chất lượng,
TTCK đã và đang chứng minh vị thế và tẩm ảnh hướng đáng phải có của nó với đời
sống kinh tế đất nước.
TTCK chính thức có một bước nhảy vọt cả về số lượng các công ty niêm yết,
chất lượng hàng hóa và quy mô giao dịch. Làn sóng các công ty niêm yết cuối năm
2006 nhằm hưởng ưu đãi thuế đã không gây ra khủng hoảng như một số chuyên gia dự
báo, mà trái lại, đã trở thành một lực đẩy tích cực. Với sự góp mặt của FPT, PVD,
PPC, SSI, DPM,…, số lượng các cổ phiếu lớn có ảnh hưởng liên thông gần với VN-
Index tăng lên. Thị trường không còn chịu tác động chỉ từ một hai mã cổ phiếu nên độ
cân bằng cao hơn.
Biểu đồ2.3:Tình hình biến động chỉ số VN-Index năm 2007
(Nguồn: cophieu68.com)
Khởi đầu năm 2007 với con số 751,77 điểm, chỉ sau hơn 3 tháng VN-Index đã
vọt lên đỉnh 1170,67 điểm ngày 12/3. Đây chính là giai đoạn thăng hoa nhất trong lịch
sử 8 năm vận hành của TTCK. Trái “ bong bóng chứng khoán” trở thành chiếc túi
không đáy hút liên tục các nguồn tiền khác nhau.
 Năm 2008
Biểu đồ2.4:Tình hình biến động chỉ số VN-Index năm 2008
(Nguồn: cophieu68.com)
Sức tàn phá của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế đã lan ra toàn
cầu, hầu hết các quốc gia đều bị ảnh hưởng một cách nặng nề, các TTCK trên thế giới
đều sụt giảm từ 40–70%.
Với độ mở của nền kinh tế khá lớn thì cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái
kinh tế toàn cầu vẫn ảnh hưởng rất lớn đến Việt Nam. Sự ảnh hưởng này thông qua sự
[NHÓM 3 – K44TCNH] GVHD: TS. Trần Thị Bích Ngọc Page
sụt giảm của sản lượng xuất khẩu và thu hút các dòng vốn. Đây là 2 nhân tố quan
trọng cho sự phát triển của kinh tế Việt Nam.

Tăng trưởng vượt bậc trong năm 2007 đã đẩy giá cổ phiếu các công ty tăng lên
quá cao, bong bóng trên TTCK được bơm phồng. Sự xấu đi của các yếu tố kinh tế vĩ
mô và các chính sách thắt chặt của Chính phủ đã làm cho bóng bóng này xì hơi, chỉ số
VN-Indexgiảm trên 65% trong năm 2008. Có cổ phiếu đã giảm giá đến 94%, nhiều cổ
phiếu giảm trên 80% giá trị. Hầu hết các công ty chứng khoán gặp khó khăn do sự sụt
giảm chung của thị trường khiến thiệt hại từ nghiệp vụ tự doanh bị thua lỗ và các
nghiệp vụ kinh doanh khác đều đình đốn. Với quy định vốn tối thiểu cho các nghiệp
vụ kinh doanh của công ty chứng khoán sắp được áp dụng chắc chắn làn sóng sáp
nhập và phá sản công ty chứng khoán là không thể tránh khỏi.
 Năm 2009
Biểu đồ2.5:Tình hình biến động chỉ số VN-Index năm 2009
(Nguồn: cophieu68.com)
Cuộc khủng hoàng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã tác động mạnh tới
Việt Nam,dù kinh tế gặp nhiều khó khăn nhưng 2009 vẫn là một năm đánh dấu bước
phát triển mạnh mẽ của TTCK Việt Nam. Mặc dù về những tháng cuối năm, TTCK
Việt Nam đã có điều chỉnh giảm do tác động của chính sách thắt chặt tiền tệ của Chính
phủ nhưng nhìn chung với một chu kỳ tăng điểm kéo dài hơn 8 tháng trong những
tháng giữa năm thì cả năm 2009 TTCK Việt Nam có một năm tăng trưởng rất ấn
tượng, chỉ số VN-Index đã phục hồi mạnh trên 50%. Số lượng công ty mới niêm yết
tăng vọt, trong đó nhiều doanh nghiệp lớn được niêm yết trên sàn. Điều đặc biệt là giai
đoạn thị trường hồi phục từ đáy 234,66 điểm chủ yếu được dẫn dắt nhờ khối nhà đầu
tư cá nhân. So với các kênh đầu tư khác như vàng, USD, bất động sản, tiết kiệm, có
thể nói kênh đầu tư chứng khoán rất hấp dẫn và đem lại lợi nhuận lớn nhất ở Việt Nam
trong năm 2009. Đây lànăm đầu tiên TTCK Việt Nam bắt đầu có sự liên hệ chặt chẽ
với TTCKthế giới, là một tín hiệu tích cực vì nó cho thấy TTCK và kinh tế Việt Nam
bước đầu trở thành một bộ phận của nền kinh tế thế giới chứ không còn là thị trường
biệt lập.
 Năm 2010
[NHÓM 3 – K44TCNH] GVHD: TS. Trần Thị Bích Ngọc Page

×