Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Nghiên cứu tự do hoá ngôn ngữ thơ tiếng Việt hiện đại thế kỷ XX (trên tư liệu các tập thơ của một số tác giả)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (452.25 KB, 15 trang )





























Đại học Quốc gia Hà Nội
Trờng Đại học Khoa học X hội và Nhân văn





Nguyễn Thị Phơng Thùy





Nghiên cứu sự tự do hóa
Ngôn ngữ thơ tiếng Việt hiện đại thế kỷ XX
(trên t liệu các tập thơ của một số tác giả)






Chuyên ngành: Lý luận ngôn ngữ
Mã số: 62 22 01 01





Tóm tắt luận án Tiến sĩ ngôn ngữ học



Hà Nội- 2008




Luận án đợc hoàn thành tại:
Khoa Ngôn ngữ học
Trờng Đại học Khoa học X hội và Nhân văn



Ngời hớng dẫn khoa học: GS.TS. Đinh Văn Đức



Phản biện 1: GS.TS. Đỗ Thị Kim Liên


Phản biện 2: GS.TS. Mai Ngọc Chừ


Phản biện 3: PGS.TS. Hà Quang Năng





Luận án sẽ đợc bảo vệ trớc Hội đồng chấm luận án cấp Nhà
nớc họp tại Khoa Ngôn ngữ học, Trờng Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn
Vào hồi giờ ngày tháng năm



Có thể tìm hiểu luận án tại:
Th viện Quốc gia Việt Nam
Trung tâm thông tin - Th viện, Đại học Quốc gia Hà Nội
Danh mục các công trình khoa học của tác giả
có liên quan đến luận án

1. Đinh Văn Đức, Nguyễn Phơng Thùy (2003) Bớc đầu nhận xét về sự tự
do hóa ngôn ngữ thơ mới bảy chữ tiếng Việt, Tạp chí Khoa học, Đại học
Quốc gia Hà Nội, số 1, từ trang 6 đến trang 17.
2. Nguyễn Thị Phơng Thùy (2003) Một số nhận xét về thơ mới bảy chữ
tiếng Việt trên t liệu Gửi hơng cho gió của Xuân Diệu và Từ ấy của Tố
Hữu, Kỷ yếu Hội nghị Ngữ học trẻ 2003, Hội Ngôn ngữ học Việt Nam,
Hà Nội, từ trang 535 đến trang 540.
3. Nguyễn Thị Phơng Thùy (2004) Vần, thanh điệu, nhịp điệu trong câu
thơ mới bảy chữ (Trên t liệu các tập thơ của Xuân Diệu, Tố Hữu), Tạp
chí Ngôn ngữ, số tháng 11, từ trang 68 đến trang 79.
4. Đinh Văn Đức- Nguyễn Phơng Thùy (2004) Chơng IV Ngôn ngữ văn
học thế kỉ XX: ngôn ngữ thơ mới bảy chữ tiếng Việt trong quá trình tự do
hóa trong Phần tám Sự biến đổi và phát triển của ngôn ngữ văn học
Việt Nam thế kỉ XX, sách Văn học Việt Nam thế kỉ XX do Phan Cự
Đệ chủ biên, NXB Giáo dục, từ trang 899 đến trang 926.
5. Nguyễn Thị Phơng Thùy (2005) Một vài nhận xét về bài thơ và cấu trúc
đề- thực- luận- kết trong khổ thơ bảy chữ của Nguyễn Bính (trên t liệu
Tuyển tập Nguyễn Bính), Kỷ yếu Hội nghị Ngữ học trẻ 2005, Hội Ngôn
ngữ học Việt Nam, Hà Nội, từ trang 405 đến trang 410.
6. Nguyễn Thị Phơng Thùy, Phan Thị Huyền Trang (2005) Một vài nhận
xét về phép đối thanh điệu bằng- trắc và cách gieo vần trong khổ thơ của
Hàn Mặc Tử qua hai tập thơ Lệ Thanh thi tập và Xuân Nh ý, Kỷ
yếu Hội nghị Ngữ học trẻ 2005, Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Hà Nội, từ

trang 410 đến trang 415.
7. Nguyễn Thị Phơng Thùy (2005) Một vài nét về sự chuyển biến và cách
tân của cấu trúc thơ từ 1945 đến 1975 trên t liệu thơ của một số nhà
thơ-nhà giáo, bài gửi đăng Tạp chí Ngôn ngữ, số tháng 11, từ trang 53
đến trang 67. .
8. Nguyễn Thị Phơng Thùy (2006) Sự cách tân cấu trúc của thơ Việt Nam
hiện đại (trên t liệu phân tích chùm thơ 3 bài của Nguyễn Trọng Hoàn),
Tạp chí Ngôn ngữ, số tháng 11, từ trang 66 đến trang 74.
9. Nguyễn Thị Phơng Thùy (2007) Phân tích bài thơ Trăng vàng trăng
ngọc (trong tập Đau thơng) của Hàn Mặc Tử từ góc độ ngôn ngữ học,
Tạp chí Ngôn ngữ, số 11, từ trang 55 đến trang 60.
10. Nguyễn Thị Phơng Thùy (2007) Phân tích nhịp điệu trong một bài thơ
và các khả năng ngắt nhịp trong một câu thơ ở giai đoạn kháng chiến
chống Pháp, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Những vấn đề Ngôn ngữ học:
Học tập ngôn ngữ Hồ Chí Minh- tiếng Hà nội với ngôn ngữ văn hóa Việt
Nam, từ trang 362 đến trang 375.


1
mở đầu
1. Mục đích nghiên cứu của luận án
1.1. Thơ Việt Nam trớc thế kỉ XX chịu ảnh hởng nhiều của luật thơ truyền
thống, nhất là thơ Đờng (Trung Quốc) nên tuân thủ những quy tắc nghiêm ngặt. Thơ
Việt trong thế kỉ XX, từ phong trào thơ Mới đến nay đã phát triển theo nhiều khuynh
hớng khác nhau, tuyệt đại bộ phận các thể loại thơ đã đợc tự do hóa.
1.2. Ngôn ngữ là chất liệu hình thức của thơ nên sự tự do hóa thơ gắn liền với sự
hiện đại hóa ngôn ngữ thơ. Vì thế, việc nghiên cứu sự tự do hóa, hiện đại hóa hình
thức thơ gắn liền với sự đổi mới nội dung thơ sẽ giúp chúng ta thấy đợc mối quan hệ
qua lại giữa hình thức và nội dung một cách biện chứng, khách quan hơn. Nói khác đi
là: việc nghiên cứu sự cách tân về ngôn ngữ thơ sẽ góp phần chỉ rõ sự cách tân về t

tởng thơ, nội dung thơ.
1.3.

Việt Nam, ngôn ngữ thơ cũng đợc nhiều ngời quan tâm. Tuy thế, các bài
viết về sự tự do hóa ngôn ngữ thơ và hiện đại hóa thơ Việt thì lẻ tẻ, rải rác còn sách về
ngôn ngữ thơ thì phần nhiều nghiên cứu theo hớng thi pháp. Tức là, cha có công
trình nào nghiên cứu sự tự do hóa ngôn ngữ thơ nh một chuyên luận. Vì thế, luận án
này nghiên cứu sự tự do hóa ngôn ngữ thơ- một điểm nóng của mảng nghiên cứu
ngôn ngữ văn học. Với đề tài Nghiên cứu sự tự do hóa ngôn ngữ thơ tiếng Việt
hiện đại thế kỷ XX (trên t liệu các tập thơ của một số tác giả) luận án có mục đích
tìm hiểu, khai thác và tìm ra khâu đột phá của thơ và ngôn ngữ thơ Việt Nam thế kỷ
XX để góp phần làm rõ mối tơng quan biện chứng giữa hình thức và nội dung: chính
sự cách tân về hình thức là nhằm thể hiện, phản ánh sự cách tân về nội dung. Hớng
nghiên cứu này báo hiệu lý luận ngôn ngữ thơ sẽ phát triển hơn, đồng thời, các nhà
sáng tác thơ có thêm công cụ để sáng tạo, phát huy khả năng thơ của mình trên cơ sở
lý luận về ngôn ngữ thơ.
2. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tợng nghiên cứu của luận án chính là những đặc điểm ngôn ngữ trong
quá trình tự do hóa thơ Việt Nam thế kỉ XX, trên cơ sở t liệu thơ của một số tác giả
cụ thể.
2.2. Nói về cấu trúc ngôn ngữ thơ, ngời ta thờng nói đến các cấp độ bài thơ, khổ
thơ, câu thơ, bớc thơ. ở đây, luận án tập trung vào nghiên cứu những biến đổi của
cấu trúc theo hớng tự do hóa ở 3 cấp độ: bài thơ, khổ thơ, câu thơ trên cơ sở khảo sát
các bài thơ thuộc các thể loại khác nhau nh thơ 5 chữ, 7 chữ, 8 chữ, tự do (để có
cái phông tơng đối khái quát và có sự so sánh, đối chiếu cơ bản mang tính chất
nền) nhng lấy tâm điểm khai thác nghiên cứu chủ yếu là thơ 7 chữ và 8 chữ (so
sánh với thơ tự do).

2
2.3. Luận án hớng tới việc nghiên cứu cấu trúc của ngôn ngữ thơ (tổ chức, mô

hình, niêm luật, vần, nhịp, thanh điệu) là chủ yếu nhng đồng thời cũng đặt việc
nghiên cứu cấu trúc ngôn ngữ thơ trong mối tơng quan với thi pháp học ngôn ngữ
thơ, phân tích diễn ngôn ngôn ngữ thơ, chức năng ngôn ngữ thơ Từ đó có một cách
tiếp cận thơ theo hớng ngôn ngữ học.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận án này đợc thực hiện nhằm giải quyết các nhiệm vụ sau đây:
3.1. Làm rõ khái niệm tự do hóa ngôn ngữ thơ Việt trong thế kỉ XX.
3.2. Miêu tả những biến đổi theo hớng tự do hóa trên cứ liệu các tập thơ cụ thể của
một số tác giả, nghiên cứu chi tiết sự tự do hóa trong các thể thơ ở các cấp độ bài,
khổ, câu. Từ đó mà tìm ra sự khu biệt của thơ mới với thơ cũ, thấy đợc sự biến đổi
của ngôn ngữ thơ Việt qua các giai đoạn.
3.3. Bình luận (nhận xét, đánh giá) về quá trình biến đổi, những đặc điểm trong sự
biến đổi cấu trúc thơ.
3.4. Tìm ra sự cách tân về ngôn ngữ tác giả, ngôn ngữ tác phẩm thơ đồng thời dự
báo khuynh hớng phát triển, biến đổi của ngôn ngữ thơ tiếng Việt sau này.
4. Phơng pháp nghiên cứu
Đề tài đợc thực hiện chủ yếu theo nguyên tắc quy nạp, trên cơ sở thu thập, thống
kê, phân tích, xử lý, so sánh t liệu mà tìm ra sự biến đổi, quá trình tự do hóa của
ngôn ngữ thơ tiếng Việt hiện đại thế kỷ XX. Từ đó, đề tài bàn luận và đa ra những
kết luận đánh giá chung về vấn đề đợc nghiên cứu.
Đề tài đợc thực hiện trên cơ sở một số phơng pháp sau:
4.1. Phơng pháp mô tả: mô tả và phân tích mô hình các bài thơ, phép đối thanh,
gieo vần, niêm trong khổ thơ, khả năng ngắt nhịp câu thơ
4.2. Phơng pháp phân tích diễn ngôn: nghiên cứu thơ trong mối liên hệ đa chiều
với ngữ cảnh, môi trờng giao tiếp, tác giả, độc giả
4.3. Phơng pháp phân tích theo lí luận thi học của Roman Jakobson [191] để tìm
hiểu 6 chức năng cơ bản của thơ: chức năng thể hiện, chức năng thi ca, chức năng tiếp
xúc, chức năng siêu ngôn ngữ, chức năng biểu cảm, chức năng tác động trong thơ
tiếng Việt của một số tác giả đợc chọn.
4.4. Phơng pháp thống kê định lợng: số lợng mô hình bài, khổ, cách gieo vần,

ngắt nhịp, tính tỉ lệ%, lập bảng biểu.
4.5. Phơng pháp so sánh: so sánh thơ các giai đoạn, các tác giả.
4.6. Phơng pháp phân tích thể loại: phân tích những đặc trng của thể loại thơ
đợc biểu hiện ở bài thơ, khổ thơ, câu thơ.
5. Nguồn t liệu

3
5.1. Về ngữ liệu: Nguồn t liệu về thơ tiếng Việt thế kỉ XX rất phong phú. Vì thế,
luận án này phải chọn mẫu, tức là chọn những tập thơ, những bài thơ điển hình nhất.
Tác giả luận án thống kê, phân tích và xử lý t liệu các tập thơ:Từ ấy của Tố Hữu,
Gửi hơng cho gió của Xuân Diệu; một số tập:Gái quê, Đau thơng, Lệ
Thanh thi tập, Xuân Nh ý của Hàn Mặc Tử; 50 bài thơ của Chế Lan Viên trong
Chế Lan Viên- Ngời làm vờn vĩnh cửu, 81 bài thơ trong 3 tập thơ của Phạm Tiến
Duật (Vầng trăng quầng lửa, Thơ một chặng đờng,

hai đầu núi; 164 bài
thơ ở 2 tập thơ của Hoàng Nhuận Cầm (Những câu thơ viết đợi mặt trời,Xúc xắc
mùa thu) và ở 1 tập thơ của Lê Đạt (Bóng chữ); Tuyển thơ Nhà thơ- Nhà giáo (có
nhiều tác giả nổi tiếng); Tuyển tập thơ tình Việt Nam thế kỷ XX. Đồng thời, luận án
cũng sử dụng t liệu đã đợc xử lý của một số khóa luận tốt nghiệp của sinh viên
(xem phụ lục 2 trong luận án).
5.2. Về phơng diện nghiên cứu, luận án đã tham khảo các quan điểm, các ví dụ
của các giáo trình, công trình nghiên cứu về ngôn ngữ thơ, về thơ Việt Nam các giai
đoạn, đặc biệt là thơ Việt Nam thế kỷ XX.
6. Một vài tiên liệu về đóng góp của luận án.
6.1. Về giá trị lý luận:
6.1.1. Luận án này là công trình đầu tiên khảo sát sự tự do hóa ngôn ngữ thơ Việt
thế kỉ XX nh là một chuyên luận, có đóng góp vào lý luận ngôn ngữ thơ ở chỗ tìm ra
những đặc điểm, những vấn đề cụ thể, cơ bản của sự tự do hóa và sự hình thành thể
loại thơ mới, sự đổi mới của ngôn ngữ thơ tiếng Việt hiện đại thế kỷ XX nh: một số

động lực của sự biến đổi ngôn ngữ thơ; sự biến đổi ngôn ngữ thơ ở 3 cấp độ: bài thơ,
khổ thơ, câu thơ và hệ quả của nó; đặc điểm phong cách thơ của một số tác giả.
6.1.2. Luận án sẽ góp phần làm sáng tỏ thêm một vài vấn đề lý luận về phong cách
học tiếng Việt, làm rõ lịch sử ngôn ngữ văn học Việt Nam trong thế kỷ XX: sự cách tân
về hình thức nhằm đáp ứng sự phát triển về t tởng và phục vụ sự đổi mới về nội
dung;
6.2. Về giá trị thực tiễn:
6.2.1. Đề tài này sẽ có những đóng góp mới vào việc nghiên cứu ngôn ngữ văn
học Việt Nam, đặc biệt là ở góc độ ngôn ngữ thơ với lối tiếp cận ngôn ngữ học.
6.2.2. Đề tài sẽ có đóng góp vào việc tìm kiếm và đổi mới cách dạy môn văn cho
ngời Việt ở các bậc đào tạo khác nhau (phổ thông trung học, đại học, sau đại học).
6.2.3. Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể đợc sử dụng trong việc giảng dạy và
biên soạn giáo trình về ngôn ngữ thơ bậc đại học và sau đại học.
7. Dung lợng và bố cục của luận án.
Luận án gồm 199 trang chính văn, 3 trang mục lục, 3 trang chú thích, 19 trang
th mục tài liệu tham khảo gồm 294 đầu mục với 122 sách tiếng Việt, 22 sách tiếng

4
Anh, 152 bài tạp chí và phần phụ lục 50 trang với 23 bảng thống kê số liệu cùng 35
biểu đồ về sự phân bố tỉ lệ thống kê.
Phần chính văn, ngoài mở đầu, kết luận thì nội dung gồm 4 chơng là:
Chơng 1. Cơ sở lý thuyết: những vấn đề lí luận liên quan đến nội dung luận án.
Chơng 2. Sự tự do hóa ngôn ngữ thơ tiếng Việt thế kỷ XX ở cấp độ bài thơ.
Chơng 3. Sự tự do hóa ngôn ngữ thơ tiếng Việt thế kỷ XX ở cấp độ khổ thơ.
Chơng 4. Sự tự do hóa ngôn ngữ thơ tiếng Việt thế kỷ XX ở cấp độ câu thơ.

Nội dung chính của luận án
Chơng 1. Cơ sở lý thuyết:
Những vấn đề liên quan đến nội dung luận án
Chơng 1 trình bày nhận thức về thơ, khái niệm thơ tự do, sự tự do hóa thơ và tự

do hóa ngôn ngữ thơ; ý thơ, tứ thơ, cấu trúc của thơ (bài, khổ, câu). Tiếp đến là những
cách tiếp cận khác nhau trong khi nghiên cứu thơ, những lối nghiên cứu thơ từ truyền
thống đến hiện đại của Việt Nam (thơ cũ, thơ mới).
1. 1. Nhận thức về thơ
1.1.1. Nhận thức về mặt lịch sử sáng tác và thi pháp
Từ thời cổ đại, các học giả vĩ đại nh Aritxtốt, Điđơrô, sau đó là Lý Bạch, Đỗ
Phủ, N.G.Tsecnsepkiđều bàn đến những vấn đề của thơ ca. Arixtốt trong cuốn
Nghệ thuật thơ ca [1] gọi tất cả các loại hình thơ ca (sử thi, bi kịch, hài kịch, tửu
thi) là các nghệ thuật mô phỏng hay là sự mô phỏng. Nhng điều đó hoàn toàn không
có nghĩa là tác phẩm thơ ca chỉ đơn giản là sự tái hiện bản thân hiện thực bằng các
hình tợng đợc tạo nên bởi các phơng tiện ngôn ngữ- tức là tái hiện những cái đã
xảy ra trong chính hiện thực mà nó phải là sự sáng tạo của nhà thơ. Bạch C Dị (đời
nhà Đờng, Trung Quốc) qua th gửi Nguyễn Chẩn đã viết Cái gọi là thơ thì cảm
hóa nhân tâm không gì bằng tình cảm. Không thể bắt đầu bằng cái gì khác ngoài
ngôn ngữ. Không gì thân thiết bằng âm thanh. Không gì sâu sắc bằng nghĩa lý. Gốc
của thơ là tình cảm. Lá của thơ là ngôn ngữ. Hoa của thơ là âm thanh. Quả của thơ là
nghĩa lý(Văn nghệ số 5 ngày 10-12-1994). ở Việt Nam cũng có các học giả Ngô Thì
Nhậm, Nguyễn Trãi, Lê Quý Đôn có những quan niệm về thơ. Trong số đó, có tác
giả thiên về tình, có tác giả thiên về ý, có tác giả thì bàn đến cả tình và ý trong thơ.
ở thời kỳ hiện đại cũng có nhiều quan niệm khác nhau về thơ nh: quan niệm về
thơ của các nhà thơ (Tố Hữu, Sóng Hồng, Chế Lan Viên, Lê Đạt đều quan niệm
theo hớng thơ gắn liền với cuộc đời); quan niệm về thơ của các nhà phê bình, lí luận
(Phạm Quang Trung, Lê Hữu Trác, Mã Giang Lân (Thơ là một thông báo thẩm mỹ
trong đó kết hợp 4 yếu tố
ý
- Tình- Hình- Nhạc)); quan niệm về thơ của những ngời
nghiên cứu theo thi pháp học (A.N. Vexêlốpxki, V.Ia. Prốp, M.M. Bakhtin, V.V.

5
Vinôgrađốp, M.B. Khrapchencô, N.L. Crápxốpcủa Liên xô cũ, Đỗ Đức Hiểu,

Nguyễn Xuân Kínhcủa Việt Nam) và quan niệm về thơ theo cách nhìn của các nhà
ngôn ngữ học (R.Jakobson, Phan Ngọc, Nguyễn Phan Cảnh, Nguyễn Hữu Đạt, Mai
Ngọc Chừ, Bùi Công Hùng).
Theo Hữu Đạt trong [32, tr.25] thì: Thơ là một thể loại của văn học đợc trình
bày bằng hình thức ngắn gọn và súc tích nhất với các tổ chức ngôn ngữ có vần điệu và
các quy luật phối âm riêng của từng ngôn ngữ nhằm phản ánh cuộc sống tập trung và
khái quát nhất, dới dạng các hình tợng nghệ thuật.
Bùi Công Hùng trong [65] khẳng định thơ quan trọng về vần và điệu, trong đó
điệu chính là cách tổ chức, hòa phối ngữ âm.
1.1.2. Nhận thức của tác giả luận án
Có thể tập hợp các định nghĩa về thơ theo 3 khuynh hớng chính. Thứ nhất là
những định nghĩa thiên về mặt hình thức của thơ. Thứ hai là những định nghĩa thiên
về mặt nội dung của thơ. Thứ ba là những định nghĩa chú ý đến cả hai mặt nội dung
và hình thức của thơ. Luận án ủng hộ khuynh hớng thứ ba coi thơ là phải đảm bảo cả
về mặt nội dung và mặt hình thức. Hình thức của thơ phải đạt đến độ tơng xứng để
ngời ta có thể nhận biết, phân biệt thơ với các thể loại không phải là thơ. Đồng thời,
hình thức đó phải truyền tải đợc nội dung, nghĩa lý của thơ. Hình thức và nội dung
thơ- hai mặt này không thể thiếu trong thơ, luôn có tác dụng hỗ trợ lẫn nhau theo tính
chất tơng tác hai chiều. Luận án tán thành định nghĩa về thơ của Bạch C Dị, Mã
Giang Lân, Hữu Đạt để tiến đến những vấn đề cụ thể hơn liên quan tới ngôn ngữ thơ
nh ý thơ, tứ thơ, bài thơ, khổ thơ, câu thơ.
1.2. Nhận thức về sự tự do hóa ngôn ngữ thơ
1.2.1. Khái niệm thơ tự do
Bàn luận về thơ tự do, có rất nhiều ý kiến khác nhau, và đều có tính hợp lý của
nó. Luận án này cho rằng, cái đợc gọi là thơ tự do có thể hiểu theo nghĩa rộng và
nghĩa hẹp. Theo nghĩa hẹp thì thơ tự do đợc viết theo cách bỏ hết vần, chỉ giữ lại âm
điệu, âm hởng thơ) (Mã Giang Lân trong [79, tr 273->274]. Theo nghĩa rộng, có thể
hiểu thơ tự do theo hớng linh hoạt hơn, thể hiện trong một số ý kiến của Phan Hạo
Nhiên hay Thanh Thảo.
1.2.2. Sự tự do hóa thơ và tự do hoá ngôn ngữ thơ

1.2.2.1. Vì sao có sự tự do hóa thơ và ngôn ngữ thơ
Theo Đinh Văn Đức trong [40, tr.825->826] thì Sự chuyển biến của ngôn ngữ
văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX lẽ ra phải bắt đầu từ vận văn (văn vần) vì đó là cái
pháo đài về thể loại của văn học truyền thống. Thế nhng, sự chuyển biến thực tế của
ngôn ngữ văn học Việt Nam đã không theo lộ trình cải biến cái cũ mà là kiến tạo và
thiết lập cái mới: bắt đầu từ kiến tạo ngôn ngữ báo chí, rồi từ ngôn ngữ báo chí kiến

6
tạo ngôn ngữ văn xuôi của các thể loại văn học. Rồi sau cùng, chính văn xuôi mới tạo
ra áp lực làm tự do hóa ngôn ngữ thơ. Phong trào Thơ mới 1932-1945 là kết quả trực
tiếp của quá trình phát triển này.
Bên cạnh các yếu tố nh bối cảnh xã hội, sự hình thành văn xuôi và ngôn ngữ báo
chí thì sự tiếp xúc văn hóa Pháp- Việt (đặc biệt là những ảnh hởng của thơ Pháp vào
tiếng Việt và đến những ngời đọc, chép, dịch, tập làm thơ) là cơ sở cho sự tự do hóa
thơ và ngôn ngữ thơ.
1.2.2.2. Thế nào là sự tự do hóa thơ
Có thể hiểu đó là quá trình biến đổi, vận động của thơ theo hớng phá dần
những quy tắc, luật lệ của thơ cũ và tạo ra những hình thức biểu hiện mới, những thể
loại mới cho phù hợp với hồn thơ mới, nội dung, t tởng, tình cảm, đề mục, thi hứng
mới.
1.2.2.3. Sự tự do hoá ngôn ngữ thơ
Ngôn ngữ là cơ chế tổ chức ngôn từ theo quy luật nhất định. Ngôn ngữ thơ là cơ
chế tổ chức ngôn từ theo quy luật có vần, có điệu tạo nên âm hởng thơ làm thành
phơng tiện hình thức thể hiện nội dung thơ. Vì thế, sự tự do hoá thơ gắn liền với sự tự
do hoá ngôn ngữ thơ, tức là sự đổi mới, cách tân về cơ chế tổ chức ngôn ngữ thơ nh
vần, điệu/nhịp, niêm, thể loại
Sự tự do hóa ngôn ngữ thơ tiếng Việt thế kỉ XX thể hiện sự tìm tòi sáng tạo ngôn
ngữ thơ tiếng Việt. Sự tìm tòi, sáng tạo đó là cơ sở để hình thành những cái mới trong
thơ. Vì thế, luận án quan tâm đến một số vấn đề nh: sự tự do hóa thể hiện dới
những dạng nào? Thế nào là thơ theo thể truyền thống? Thế nào là sự cách tân? Luận

án quan tâm về sự tự do hóa ở 3 cấp độ bài thơ, khổ thơ, câu thơ; tự do hóa về thể loại,
cấu trúc, trật tự kết hợp
Thơ theo thể truyền thống là thơ đợc làm theo cách của một số thể thơ Trung
Quốc nh Đờng thi và Cổ phong, cụ thể là tứ tuyệt, thất ngôn, bát cú hoặc đợc
làm theo cách của một số thể thơ truyền thống của dân tộc Việt Nam nh lục bát,
song thất lục bát.
Cách tân có thể đợc hiểu là cách làm mới. Thơ đợc cách tân là thơ đợc sáng
tạo theo cách mới. Ví dụ: làm thơ không theo niêm luật, không theo quy cách của thơ
cũ, làm thơ mà bỏ vần, tạo ra những cách diễn đạt mới trong thơ (VD: thơ giàu ngôn
ngữ tự sự, trần thuật hoặc đối thoại), tạo ra các loại cấu trúc, bố cục mới
Sự tự do hóa mà luận án bàn đến gắn liền với sự hiện đại hóa. Thơ hiện đại hoá
đợc là nhờ có sự tự do hóa: thơ chứa đựng nhiều t tởng mới. Ngôn ngữ thơ đợc
hiện đại hóa theo mô hình tam phân: t duy thơ, nghệ thuật/ thi pháp thơ và ngôn ngữ
thơ đợc phản ánh từ phía công chúng. Chính sự hỗ trợ từ phía công chúng đã khẳng
định giá trị của thơ: thơ đợc công chúng chấp nhận hay không chấp nhận. Sự hiện

7
đại hóa ngôn ngữ thơ gắn liền với việc đổi mới và nâng cao chất lợng thơ. Đồng thời,
sự hiện đại hóa thơ đợc đánh giá đa chiều, đó là: t duy thơ đợc thể hiện trong ngôn
ngữ với một thi pháp mới. Chính việc tổ chức ngôn ngữ thơ là nhằm thể hiện đợc t
duy thơ. Theo quan điểm của luận án thì thơ Việt Nam giai đoạn 1956 ở miền Bắc có
thể đợc coi là một giai đoạn tìm tòi hình thức thể hiện mới chứ không phải là một sự
tự do hóa về thơ nh ở giai đoạn thơ Mới 1932-1945 và giai đoạn thơ Việt Nam sau
năm 1975 với nhiều hình thức, thể loại thơ theo các khuynh hớng khác nhau. Luận
án đa ra ý kiến của một số nhà thơ, nhà phê bình lý luận về thơ Việt Nam các giai
đoạn khác nhau để có thể chọn lựa và có cách tiếp cận vấn đề một cách rõ ràng sau
khi so sánh các góc nhìn, các quan điểm, nhận định khác nhau về một vấn đề.
1.3. ý thơ và tứ thơ
ý thơ là khái niệm rút ra từ cuộc sống. Tứ thơ là cách thể hiện ý, là kết quả của
kiểu t duy hình tợng trong thơ.

1.4. Cấu trúc của thơ (bài thơ, khổ thơ, câu thơ)
Thơ đợc tổ chức theo các cấp độ, có quan hệ tôn ti tầng bậc với nhau: bài thơ,
khổ thơ, câu thơ. Mỗi bài thơ có thể đợc làm theo một trong những thể sau: thể 4
chữ, 5 chữ, 7 chữ, 8 chữ, tự do Mỗi thể thơ có những quy tắc riêng về số chữ trong
câu, khổ, bài, về cách gieo vần, về luật đối, về niêm. Khổ thơ cũng đợc chia thành
nhiều loại: khổ tứ tuyệt, khổ bát cú, khổ tự dotùy theo số câu trong khổ. Câu thơ
đợc phân loại theo số chữ, nhịp điệu trong câu Vì thế, phần này dành để tìm hiểu
thế nào là bài thơ, khổ thơ, câu thơ và một số nguyên tắc tổ chức của thơ ở những cấp
độ ấy.
1.4.1. Bài thơ
Luận án tìm hiểu một số quan niệm về bài thơ của hai tác giả Lê Lu Oanh, Mã
Giang Lân và tạm chấp nhận quan niệm: bài thơ đợc hiểu là công trình sáng tác có
nội dung tơng đối hoàn chỉnh nhng không dài mà cô đọng, ngắn gọn, là những
ngôn từ sáng giá đứng trong những trật tự hoàn hảo[79, trang 18].
1.4.2. Khổ thơ
Từ các định nghĩa của một số tác giả nh Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Hà Minh
Đức về khổ thơ và những ý kiến bàn luận của chúng tôi về những định nghĩa đó,
luận án này quan niệm: khổ thơ là sự kết hợp của một số câu thơ/ dòng thơ thành một
đơn vị có quy cách nhất định về vần luật, âm thanh, nhịp điệu, cú pháp biểu thị ý
nghĩa tơng đối hoàn chỉnh. Mỗi khổ thơ đợc kết thúc bằng một khoảng nghỉ dài.
Đây là cơ sở lý luận phục vụ cho thao tác xử lý t liệu (phân loại khổ) và cho việc bàn
luận về khổ thơ.
1.4.3. Câu thơ

8
Nếu bài thơ là một văn bản thì khổ thơ tơng ứng với các đoạn văn và câu thơ là
đơn vị nhỏ hơn khổ thơ. Luận án thấy quan niệm của Lê Lu Oanh về câu thơ là
tơng đối hợp lý, thuận tiện cho việc khảo sát nhịp điệu, thanh điệu, các cách kết hợp
từ (trật tự từ) trong câu thơ. Nh vậy, có thể thống nhất là: mỗi câu thơ đợc biểu
hiện bằng một dòng thơ (ngoại trừ thể lục bát).

1.5. Những cách tiếp cận khác nhau trong nghiên cứu thơ
1.5.1. Hớng nghiên cứu thi pháp học và theo lý thuyết hệ thống và cấu trúc
Luận án đợc thực hiện theo phơng pháp nghiên cứu của ngôn ngữ học, đồng
thời cũng vận dụng thi pháp học (thi học) và lý thuyết về tính hệ thống và cấu trúc. Vì
thế, luận án này sẽ lấy một số quan điểm sau đây để làm cơ sở lý luận:
1.5.1.1. Quan niệm về hệ thống, cấu trúc của Ferdinand De Saussure trong
giáo trình Ngôn ngữ học đại cơng
1.5.1.2. Quan niệm về ngôn ngữ học và thi học của Roman Jakobson trong
[191, tr.51->58
Roman Jakobson khẳng định rằng ngôn ngữ phải đợc nghiên cứu trong tất cả
các chức năng khác nhau của nó và Trớc khi bắt tay vào nghiên cứu chức năng thi
ca, ta phải xác định xem vị trí của nó giữa các chức năng khác của ngôn ngữ nh thế
nào. Ông cho rằng những nhân tố hữu cơ khác nhau của việc giao tiếp ngôn ngữ có
thể đợc trình bày bởi lợc đồ:
Chu cảnh
Ngời gửiThông điệp Ngời nhận
Tiếp xúc

Theo ông thì mỗi nhân tố trong 6 nhân tố trên đều sinh ra một chức năng ngôn ngữ
khác nhau. Sáu chức năng cơ bản tơng ứng với các nhân tố đó là: chức năng thể hiện,
chức năng thi ca, chức năng tiếp xúc, chức năng siêu ngôn ngữ, chức năng biểu cảm,
chức năng tác động.
Điều khá quan trọng là ông đa ra ý kiến: Chức năng thi ca đem nguyên lý tơng
đơng của trục tuyển lựa chiếu lên trục kết hợp.. Việc sử dụng những phơng tiện
thi ca để phục vụ một ý định xa lạ đối với thi ca không thể che lấp cái bản chất
nguyên sơ của nó, cũng nh những yếu tố ngôn ngữ biểu cảm đợc sử dụng trong thi
ca không hề mất sắc thái biểu cảm của nó. Đặc biệt, ở phần kết luận, tác giả có một
nhận định rất quan trọng, một trong những cơ sở cho chúng tôi thực hiện luận án này:
Việc phân tích câu thơ hoàn toàn thuộc lĩnh vực thi học và thi học có thể đợc định
nghĩa là cái bộ phận của ngôn ngữ học nghiên cứu chức năng thi ca trong mối quan

hệ của nó với các chức năng khác của ngôn ngữ. Thi học hiểu theo nghĩa rộng quan
tâm đến chức năng thi ca không phải chỉ trong thơ ca, là nơi mà chức năng này chiếm

9
u thế so với các chức năng khác của ngôn ngữ, mà cả bên ngoài thơ ca, là nơi mà
một chức năng này hay một chức năng khác chiếm u thế so với chức năng thi ca.
[191, tr.58].
1.5.1.3. Các kết quả nghiên cứu của Nguyễn Phan Cảnh trong [7] về thơ theo
hớng ngôn ngữ học, phong cách học
Trong cuốn sách này, tác giả đã đa ra những kiến giải rất mạch lạc, rõ ràng và
có tính hệ thống về các vấn đề nh: cách tổ chức kép các lợng ngữ nghĩa hay bản
chất các phơng thức chuyển nghĩa có tính chất ẩn dụ, nhạc thơ= cơ chế tự điều chỉnh
của các hệ thi pháp, nét khu biệt và nét d trong ngôn ngữ thơ, phơng thức tổ chức
của ca dao, hệ thống tổ chức ngôn ngữ trong thơ cổ điển, sự khai thác về mặt tổ chức
ngôn ngữ của thơ hiện đại.
Có một vấn đề mà luận án này quan tâm, đó là: thơ hiện đại tập trung khai thác
hệ kết hợp: để sử dụng sự liên kết về thời gian, ngời ta vặn câu; và để tạo bất ngờ về
thời gian, ngời ta lắp ghép.
1.5.1.4. Quan niệm về thi pháp thơ của Đỗ Đức Hiểu trong
[
59, tr.16
]

Thơ khác văn xuôi chủ yếu ở nhịp điệu, nhịp điệu là linh hồn của thơ. Có thể
nói: thơ là văn bản đợc tổ chức bằng nhịp điệu của ngôn từ.
1.5.1.5. Quan niệm của IU.M. LOTMAN trong Cấu trúc văn bản nghệ
thuật [84]
1.5.2. Lý thuyết ngữ cảnh: Ngữ cảnh là tình huống tạo ra diễn ngôn, giúp hiểu diễn
ngôn. Lý thuyết này đề cao ngữ cảnh trong phân tích diễn ngôn.
1.5.3. Lý thuyết phân tích diễn ngôn của George Yule trong Dụng học- một số

dẫn luận nghiên cứu ngôn ngữ [128]; David Nunan trong Dẫn nhập phân tích diễn
ngôn [94] cũng đợc vận dụng vào việc thực hiện luận án này.
1.6. Những lối nghiên cứu thơ từ truyền thống đến hiện đại của Việt Nam
Có nhiều lối nghiên cứu thơ từ truyền thống đến hiện đại ở Việt Nam. Trong đó,
các nhà nghiên cứu khai thác một số đặc điểm về thơ cũ và thơ mới, tiêu biểu là tác
giả Dơng Quảng Hàm (Việt Nam văn học sử yếu, 1943), Bùi Văn Nguyên, Hà Minh
Đức (Thơ ca Việt Nam, hình thức và thể loại, 1971).

Chơng 2. Sự tự do hóa ngôn ngữ thơ tiếng Việt thế kỷ XX
ở cấp độ bi thơ
Chơng này nghiên cứu theo trình tự: nêu kết quả khảo sát theo diện bằng
phơng pháp định lợng các loại bài thơ từ tập S1đến S6. Trên cơ sở các bảng thống
kê, luận án so sánh, đánh giá kết quả số liệu về thể thơ, về các mô hình bài thơ ở một
vài tác giả và theo giai đoạn. Sau đó, luận án trình bày kết quả khảo sát theo điểm
bằng phơng pháp định lợng và định tính về 4 tập thơ của Hàn Mặc Tử, 50 bài thơ

10
đặc sắc của Chế Lan Viên, một số bài thơ của các nhà thơ- nhà giáo thời kỳ 1945-
1975. Cuối chơng là tiểu kết.
2.1. Kết quả khảo sát theo diện bằng phơng pháp định lợng
Một trong những dấu hiệu đầu tiên để nhìn nhận sự đột phá của thơ Việt thế kỷ XX
là sự đa dạng hóa về thể loại thơ, khi bắt đầu xét ở cấp độ bài thơ.
Luận án lập bảng thống kê phân loại 514 bài/6 tập thơ rồi so sánh, đánh giá khái
quát số liệu về thể thơ, theo cột dọc và hàng ngang trong bảng, tiếp đó so sánh, đánh
giá các số liệu với nội dung cụ thể hơn nh các mô hình bài thơ tính theo khổ/bài và
câu/khổ.
2.1.1. Kết quả khảo sát, thống kê một số tập thơ
2.1.1.1. Trong Tuyển tập thơ tình Việt Nam thế kỷ XX, luận án khảo sát 115 bài
thơ chọn ngẫu nhiên (giai đoạn 1900-1945: 68 bài thơ/49 mô hình; giai đoạn 1945-
2000: 50 bài thơ/43 mô hình).

2.1.1.2. Một số tập thơ của một vài tác giả đợc chọn (Hàn Mặc Tử, Chế Lan
Viên, Phạm Tiến Duật, Hoàng Nhuận Cầm, Lê Đạt).
2.1.1.3. Xét 514 bài thơ ở các tập thơ trên, ta có bảng số liệu phân loại các bài
thơ theo thể thơ:
Số l-ợng bài và Tỉ lệ %
Thể
thơ
1900-1945
(tập S1)
1945-2000
(tập S2)
4 tập HMT
(tập S3)
Tập thơ CLV
(tập S4)
3 tập PTD
(tập S5)
2 tập NHC +1
tập LĐ (tập
S6)
Tổng cộn
g
2
chữ
1
1/1=100%
0

0 0 0 0
1

1/514~0,2
%
4
chữ
0
1
1/7~14,29%
1
1/7~14,29%
0
3
3/7~42,86%
2
2/7~28,57%
7
7/514~1,3
6
5
chữ
7
7/37~18,92%
6
6/37~16,22%
7
7/37~18,92%
3
3/37~8,11%
6
6/37~16,22%
8

8/37~21,62%
37
37/514~7,
2
6
chữ
1
1/5=20%
2
2/5=40%
1
1/5=20%
0 0
1
1/5=20%
5
5/514~0,9
7
7
chữ
27
27/105
~25,71%
6
6/105
~5,71%
56
56/105
~53,33%
5

5/105
~4,76%
7
7/105
~6,67%
4
4/105
~3,81%
105
105/514
~20,43%
8
chữ
8
8/35~22,86%
1
1/35~2,86%
21
21/35=60%
3
3/35~8,57%
0
2
2/35~5,71%
35
35/514~6,8
1
Lục
bát
13

13/47~27,66%
12
12/47~25,53%
5
5/47~10,64%
0
9
9/47~19,15%
8
8/47~17,02%
47
47/514~9,1
4
Son
g
0 0 2 0 0 0 2

11
thất
lục
bát
2/2=100% 2/514~0,39%
Tự do
11
11/271~4,06%
22
22/271~8,12%
8
8/271~2,95%
35

35/271~12,92
%
56
56/271~20,66
%
139
139/271~51,29
%
271
2
71/514~52,72%
Chủ
yếu
là 8
chữ
0 0 0
3
3/3=100%
0 0
3
3/514~0,58%
Chủ
yếu
là 9
chữ
0 0 0
1
1/1=100%
0 0
1

1/514~0,2%
Tổn
g

cộng
68
68/514~13,23%
50
50/514~9,73%
101
101/514~19,65%
50
50/514~9,73%
81
81/514~15,76
%
164
164/514~31,91
%
514
(100%)
2.1.2. So sánh, đánh giá kết quả số liệu về thể thơ
2.1.3. So sánh và đánh giá về các mô hình bài thơ
2.2. Kết quả khảo sát theo điểm bằng phơng pháp định lợng và định tính
ở mục 2.2 này, luận án phân tích thơ theo điểm (phối hợp định lợng và định
tính), tức là phân tích thơ của một số tác giả (4 tập thơ của Hàn Mặc Tử, tập 50 bài thơ
đặc sắc của Chế Lan Viên, một số bài thơ của các nhà thơ- nhà giáo thời kỳ 1945-
1975). Sau đây là ví dụ minh hoạ:
VD1: Về bài thơ Trăng vàng trăng ngọc của Hàn Mặc Tử.
*Chủ đề về trăng là quen thuộc nhng rao bán trăng thì quá mới, quá lạ.

*Chất khẩu ngữ và tự sự trữ tình đợc sử dụng với mật độ dày đặc, biến đổi đột ngột
qua từng khổ thơ: vừa là lời rao đã chuyển sang lời mời, lời hỏi, chuyển sang phủ
định, giao hẹn, yêu cầu, đột ngột phủ định, giải thích, nhận xét, khuyên nhủ, dùng câu
hỏi tu từ để khẳng định, reo vui, kể chuyện, miêu tả; có lời vỗ về, an ủi, tâm sự, sẻ
chia, cầu nguyện
VD2: Về bài Non bộ của Chu Thị Thơm trong Tuyển thơ nhà thơ- nhà giáo.
Cũng mờ ảo khói sơng, cũng mịt mờ sóng nớc. Tự ru mình trong khoảng trống
thinh không. Quay tám hớng vẫn quay về một góc, giữa lùm xanh thấp thoáng bóng
tiên đồng.
Mênh mông quá một ánh nhìn h ảo, khi Phật Bà ban phớc khắp muôn nơi. Phép
nhiệm màu đựng trong bình nhỏ thế, đủ làm sao cho tất cả muôn ngời?
Nhà thơ có dụng ý rõ ràng khi viết các câu trong một khổ liền mạch. Về mặt hình
thức, dù có tính nhạc, câu thơ vẫn chảy trong khổ nh hình thức của câu văn vần chảy

12
trong đoạn. Phải chăng, cấu trúc bài thơ, khổ thơ, câu thơ nh ở VD2 phản ánh sự ảnh
hởng của dòng thơ dịch vào thơ Việt Nam.
2.3. Tiểu kết
Chơng 2 đặt ra việc xem xét sự tự do hóa ngôn ngữ thơ ở cấp độ bài thơ và nhấn
mạnh vào sự chuyển biến và đa dạng hóa, sự phát triển theo khuynh hớng mở về mặt
thể loại thơ. Chính sự bùng nổ về mặt thể loại của thơ các giai đoạn (1900-1945,
1945-2000) và thơ của một số tác giả là một trong những minh chứng về sự tự do hóa
thơ.

Chơng 3. Sự tự do hóa ngôn ngữ thơ tiếng Việt thế kỉ XX
ở cấp độ khổ thơ
Chơng 3 tập trung chủ yếu ở khổ thơ thể 7 chữ (so sánh với khổ thơ thể 8 chữ và
khổ thơ thể tự do) với các vấn đề: các loại khổ thơ (từ khổ 1 câu đến khổ nhiều câu),
luật đối, niêm, gieo vần trong khổ. Vấn đề các loại khổ thơ sẽ chỉ đợc trình bày ở
dạng khái quát nhất. Còn lại, chơng 3 đi sâu vào khai thác 3 vấn đề chính: đối thanh

điệu bằng-trắc (có bàn thêm về đối âm vực cao-thấp), niêm và hiện tợng gieo vần
trong khổ, trong đó phần chủ yếu dành cho phép đối thanh điệu bằng-trắc và hiện
tợng gieo vần.
3.1. Về các loại khổ thơ
Ngoài những loại khổ thơ truyền thống, đã có thêm những khổ thơ không bị giới
hạn về số câu trong khổ, vẫn đợc tổ chức theo khổ nhng khổ giống nh đoạn văn
trong văn xuôi.
3.2. Về vấn đề đối thanh điệu bằng-trắc trong khổ thơ (và đối âm vực cao-thấp)
3.2.1. Loại khổ có 4 câu/khổ của bài 7 chữ (so sánh với khổ của bài 5 chữ, 8
chữ)
3.2.1.1. Có phép đối thanh điệu bằng-trắc
VD3: Tập Gửi hơng cho gió có:
Các trờng hợp đối thanh điệu bằng-trắc
trong các câu thơ của 1 khổ
Mô hình
(TH1) (TH2) (TH3) (TH4)
K1 x (III)
Buồn K2 x (II) (II)
Trăng K3 x (II) (II)
K4 x (II) (II)
(TH1: câu 1, 2 đối nhau; câu 3, 4 không đối nhau. TH2: câu 1, 2 không đối nhau; câu
3, 4 đối nhau. TH3: câu 1, 2 đối nhau; câu 3, 4 đối nhau. TH4: câu 1, 2 không đối
nhau; câu 3, 4 không đối nhau).

13
3.2.1.2. Không có phép đối thanh điệu bằng-trắc
Trong 214 khổ thơ ở Gửi hơng cho gió và Từ ấy, chỉ số này là 169 khổ.
3.2.1.3. Mục này đi sâu phân tích các trờng hợp có phép đối thanh điệu và
không có phép đối thanh điệu trong khổ thơ 7 chữ có 4 câu/khổ.
VD4: Ai tởng thiên đờng sao nhấp nhánh

B t B b B t t
Tài hoa tinh kết, ngọc long lanh
B b B t T b b (XD- DD, khổ 7, tr 49)
Hai câu thơ có sự phân bố thanh theo âm vực khá cân xứng: 5 thanh cao, 2 thanh
thấp. Tuy vậy, câu 1 có 4 thanh bằng/ 3 thanh trắc còn câu 2 có 5 thanh bằng/2 thanh
trắc. Vì thế, câu thứ nhất có không gian bổng, sôi động còn câu thứ hai có phần trầm
lắng hơn, êm đềm hơn. Tại các vị trí xét phép đối 2, 4, 6, 7 có sự phân bố khá đều về
âm vực, tạo ra thế đối bằng trắc ở cả 4 vị trí nhng chỉ tạo ra thế đối âm vực ở 2 vị trí
2, 4. Chính thế đối đó (tởng- trắc thấp/ hoa- bằng cao; đờng- bằng thấp/ kết- trắc
cao; nhấp- trắc cao/ long- bằng cao; nhánh- trắc cao/ lanh- bằng cao) tạo ra sự hài
hòa về thanh điệu giữa hai câu thơ trong thế đối nhau (đối bằng-trắc ở 4 vị trí, đối cao-
thấp ở 2 vị trí) chứ không đẩy hai câu thơ về tận cùng hai cực của phép đối (ở cả 4 vị
trí đều là vừa đối bằng-trắc, vừa đối cao-thấp). Do đó, âm hởng chung của hai câu là
âm hởng phấn chấn, vui tơi.
* Các trờng hợp không có phép đối thanh điệu b-t ở cặp câu trong khổ hoặc
trong cả khổ: ở 2 tập thơ có 13 mô hình thuộc các trờng hợp TH1 (2 câu cuối không
đối bằng-trắc), TH2 (2 câu đầu không đối bằng-trắc), TH4 (cả 4 câu trong khổ thơ
không xuất hiện phép đối thanh điệu bằng-trắc).
3.2.2. Vấn đề đối thanh điệu bằng- trắc trong thơ tự do đợc xét theo hai kiểu
sau: khổ không dài, số chữ ở 1 dòng ít (khổ có số câu chẵn và số câu lẻ), khổ dài, số
chữ ở 1 dòng không ít và có kết quả: tỉ lệ các cặp tiếng có phép đối cao hơn các cặp
tiếng không có phép đối vài lần.
3.3. Vấn đề niêm trong khổ thơ
Luận án khảo sát từng khổ thơ ở 2 tập Gửi hơng cho gió và Từ ấy để xem
có niêm hay không, thống kê hiện tợng niêm của các câu thơ trong khổ thơ 7 chữ ở
từng tập thơ dới dạng bảng biểu, đa ra nhận xét và ví dụ.
VD5: về trờng hợp câu 1 niêm với câu 2 theo thanh bằng:
Bóng về
cội, cây không dới mát
b

Nóng thiêu
đầu, nóng rát chân trơn
b (TH-DT, khổ 2, tr 164)
3.4. Vấn đề gieo vần trong khổ thơ

14
Ngoài khái niệm về vần trong phần cơ sở lý luận, ở phần này, chúng tôi nhắc đến
một số quan niệm khác về vần của các tác giả Mai Ngọc Chừ, Lê Lu Oanh.
3.4.1. Hiện tợng gieo vần trong thơ 7 chữ ở hai tập Gửi hơng cho gió và
Từ ấy: các trờng hợp gieo vần ở các khổ cụ thể đợc thống kê theo các bảng số
liệu (xem phụ lục 3 ở luận án).
3.4.2. Hiện tợng gieo vần trong 4 tập Gái quê, Đau thơng, Xuân Nh
ý, Lệ thanh thi tập của Hàn Mặc Tử
3.4.3. Hiện tợng gieo vần trong 2 tập thơ Những câu thơ viết đợi mặt trời
và Xúc xắc mùa thu của Hoàng Nhuận Cầm (ở thể thơ 5 chữ, 6 chữ, 7 chữ, 8 chữ,
thơ tự do)
3.4.4. Hiện tợng gieo vần trong 3 tập thơ của Phạm Tiến Duật
Có 3 cách gieo vần truyền thống của thơ tứ tuyệt và 9 cách gieo vần mới.
3.4.5. Nhận xét về hiện tợng gieo vần (so sánh khổ thơ cổ điển với khổ thơ có
tính chất cầu nối và khổ thơ tự do)
3.5. Bàn luận
3.5.1. Về loại khổ thơ
Chính sự phát triển theo hớng đa dạng hóa về loại khổ và tăng cờng sự chuyển
biến về cấu trúc khổ thơ đã làm cho thơ đảm bảo và phát huy đợc xu hớng cách tân
hình thức để truyền đạt nội dung tơng ứng một cách phù hợp. Mặt khác, chính sự đổi
mới nội dung thơ Mới, thơ 2 giai đoạn kháng chiến và thơ sau1975 đã đòi hỏi hình
thức thơ phải có những bớc nhảy tơng thích để phản ánh kịp thực tiễn cuộc sống
và thực tiễn làm mới, cách tân thơ Việt thế kỉ XX.
3.5.2. Về phép đối thanh điệu bằng-trắc trong khổ
3.5.2.1. Trong thơ 7 chữ của Xuân Diệu, Tố Hữu, Hàn Mặc Tử

Phép đối thanh điệu trong thơ Xuân Diệu, Tố Hữu, Hàn Mặc Tử đợc biến hóa
theo 4 trờng hợp với 7 mô hình khác nhau. Đồng thời, còn có những trờng hợp
không xuất hiện phép đối thanh điệu, do có sự phá vỡ thế đối thanh điệu ở một số vị
trí trong cặp đối theo các trờng hợp khác nhau (thơ Xuân Diệu và Tố Hữu: 13 mô
hình, thơ Hàn Mặc Tử: 17 mô hình). Sự xuất hiện của nhiều mô hình cho thấy nhu cầu
mở phép đối thanh điệu bằng-trắc là một nhu cầu tự nhiên ở cả 3 nhà thơ, dù thơ
của họ là thơ lãng mạn hay thơ cách mạng, là thơ thiên về chức năng tác động hay
chức năng xúc cảm. Bên cạnh đó, các mô hình khổ không có phép đối thanh điệu do
bị phá vỡ cấu trúc đối cũng bộc lộ xu hớng bứt phá, giật tung quy tắc đối của
thơ cổ điển theo muôn hình vạn trạng, phản ánh t duy lựa chọn và sáng tạo, không
trùng lặp và rập khuôn trong cách tháo nút cho phép đối đợc thoát thai, thoải
mái, không bị ràng buộc.
3.5.2.2. Trong thơ tự do

15
Thơ tự do là thơ gần nh không theo quy luật nào cả về số câu, số chữ Nó bứt
phá khỏi những ràng buộc về hình thức lẫn chủ đề, nội dung, thi hứng cho nên nó
cũng sẽ có sức bật để tung ra khỏi sự ràng buộc của phép đối (đối thanh, đối ý) nói
chung của thơ cũ.
Luận án này đã phân tích một số ví dụ cụ thể về phép đối thanh điệu bằng-trắc
theo các trờng hợp: các khổ không dài, số chữ ở một dòng ít và các khổ dài, số chữ ở
một dòng không ít thì thấy rằng, đến thơ tự do, phép đối thanh điệu bằng-trắc đợc
phân chia theo nhiều trờng hợp, nhiều khả năng, tùy theo hoàn cảnh cụ thể và đối
tợng tiếp nhận mà đợc lý giải khác nhau. Điều đó tạo ra hớng mở cho cả ngời
sáng tác và ngời tiếp nhận, cảm thụ thơ tự do.
3.5.3. Về niêm
3.5.3.1. Tuy các nhà thơ đã chịu những ảnh hởng về niêm của thơ cổ điển song
bản thân cách kết cấu của bài tứ tuyệt đã tạo điều kiện cho các nhà thơ phóng túng
hơn trong việc tạo các tiếng niêm với nhau.
3.5.3.2. Từ 1945- nay, vấn đề niêm trong thơ Việt cũng có chút cách tân nhng

không thật nhiều lắm. Đối với thể thơ 8 chữ, trong 1 khổ thất ngôn bát cú cũng có thể
có trờng hợp thất niêm, tức là có 1 cặp (trong số 4 cặp 1-8, 2-3, 4-5, 6-7) có 2 câu
trong đó không niêm với nhau.
3.5.4. Về hiện tợng gieo vần
3.5.4.1. Các nhà thơ đã tạo thêm đợc các cách gieo vần mới, đa dạng hơn các
cách gieo vần truyền thống (xét ở thơ mới 7 chữ)
VD6: Trong Đau thơng, Hàn Mặc Tử vẫn sử dụng 3 loại vần truyền thống và
sáng tạo thêm các cách gieo vần mới là: 1, 2 (L3); 2,3 (L4); 2,3,4 (L6); 1,2,3,4 (L7);
1,4 (L8).
3.5.4.2. Về các khổ không có hiện tợng gieo vần (ở thơ mới 7 chữ) thì tổng cả
hai tập Gái quê và Đau thơng có 45 trờng hợp, chiếm tỉ lệ: 45/18424, 436%.
Còn Lệ thanh thi tập và Xuân nh ý cũng có tỉ lệ khá cao: 15/36 (41.67%). Chỉ số
đó ở 2 tập thơ của Xuân Diệu và Tố Hữu là 21 trờng hợp.
3.4.5.3.

thể thơ 8 chữ của Hàn Mặc Tử có 18 cách gieo vần khác nhau thể hiện
sự tự do về cách gieo vần (vị trí gieo vần) nhng điều đáng nói là bên cạnh những khổ
thơ đợc gieo vần thì còn có những khổ không vần: 17 khổ/ 56 khổ.
3.4.5.4. Đến thơ tự do, yếu tố vần cũng vẫn đợc lu giữ. Vần tạo nên sự liên kết
về âm hởng giữa các câu thơ. Nếu trong một văn bản, các câu, các đoạn đợc liên
kết với nhau bằng các phép liên kết văn bản và bằng mạch lạc thì có thể thấy, vần
cũng nh một thứ mạch lạc đợc dùng để liên kết các câu thơ, các khổ thơ trong
bài. Nhng cũng có hiện tợng, nhiều khổ thơ tự do đã bỏ hẳn vần, không gieo vần,
chỉ giữ lại âm điệu, âm hởng của khổ thơ, bài thơ. Những khổ thơ đó bật ra nh

16
một kiểu diễn ngôn đặc biệt, diễn ngôn ngắt thành từng dòng, có thể giản dị nh
đang kể một câu chuyện hàng ngày.
Chơng 4. Sự tự do hóa ngôn ngữ thơ tiếng Việt thế kỉ XX
ở cấp độ câu thơ

Chơng 4 lấy quan niệm câu thơ là dòng thơ làm cơ sở để khảo sát, xử lý t liệu
và bàn luận về câu thơ ở một số nội dung nh: nhịp điệu, thanh điệu và vần. Trong đó,
vấn đề trọng tâm là nhịp điệu. Chơng 4 gồm các phần cụ thể sau:
- Trình bày khái niệm nhịp thơ, các cơ sở ngắt nhịp, kết quả thống kê các cách ngắt
nhịp, một số bàn luận về nhịp điệu ở các tập thơ của Xuân Diệu, Tố Hữu, Hàn Mặc
Tử, Chế Lan Viên, Phạm Tiến Duật. Sau đó, luận án phân tích một số nhịp điệu cụ thể
và các khả năng ngắt nhịp khác nhau của cùng một câu thơ.
- Trình bày kết quả khảo sát định lợng về thanh điệu, phân tích vài kiểu tập trung
thanh điệu trong câu thơ.
- Phân tích một số loại vần và sự tập trung vần trong câu thơ.
- Tiểu kết chơng 4.
4.1. Nhịp điệu
4.1.1. Cơ sở ngắt nhịp câu thơ
4.1.1.1. Trớc hết, đó là các dấu câu: các dấu phẩy, dấu chấm cảm
VD7: Đời thờng,/ tẻ nhạt,/ lại trôi qua. (XD-TC, khổ 4, câu 2)
4.1.1.2. Ngoài ra, ngữ nghĩa của một cú đoạn hoặc một ngữ đoạn trong một câu
thơ chính là cơ sở để phân định nhịp thơ, một nhịp tơng ứng với một cú đoạn hay
một ngữ đoạn:
VD8: Trăng thơng,/ trăng nhớ,/ hỡi trăng ngần
cú đoạn 1 cú đoạn 2 cú đoạn 3
Đàn buồn,/ đàn lặng,/ ôi đàn chậm
cú đoạn 1 cú đoạn 2 cú đoạn 3 (XD-NC, khổ 1, câu 2,3)
4.1.1.3. Nhịp thơ còn đợc phân tách tơng đơng với một vế của câu so sánh:
VD9: Mỗi giọt rơi tàn/ nh
lệ ngân.
vế 1 vế 2 (XD-NC, khổ 1, câu 4)
4.1.2. Một số bàn luận
Từ các số liệu thống kê (phụ lục 3 của luận án), luận án bàn luận về nhịp điệu
trong các tập thơ của một số tác giả. Sau đó luận án bàn về một số nhịp điệu cụ thể, về
nhịp câu trong bài Đèo Cả của Hữu Loan, về các khả năng ngắt nhịp khác nhau của

cùng một câu thơ.
* Về một số nhịp điệu cụ thể
Dựa vào dấu hiệu ngôn ngữ, ta có thể ngắt nhịp nh trên. Kết quả khảo sát cho thấy
các nhịp thơ mới đợc hình thành một phần là nhờ thao tác chuyển hóa từ một số nhịp

17
thơ truyền thống hoặc đợc tạo ra nhờ sự luân chuyển giữa các kiểu ngắt nhịp khác
nhau. Điều đó góp phần tạo khả năng diễn tả một cách nhuần nhị, uyển chuyển các
nội dung, t tởng và hình tợng nghệ thuật trong thơ.
Từ cách ngắt nhịp truyền thống, ban đầu, các nhà thơ chỉ thêm một thao tác là
ngắt đôi nhịp 4 để tạo nhịp 2/2/3. Xét các ví dụ:
VD10: Hoa bởi thơm rồi:/đêm đã khuya (XD-BT, khổ 4, câu 4)
VD11: Đời thờng,/tẻ nhạt,/lại trôi qua. (XD-TC, khổ 4, câu 2)
Chỉ có 2 nhịp, ở VD10 câu thơ dờng nh ngắn lại, hành động đợc miêu tả cô
đọng, dồn nén lại. Sự việc, sự tình đợc phân định rõ ràng: hoa bởi thơm rồi/đêm đã
khuya. Trong khi đó, khi nhịp 4 đợc cắt đôi thành 2/2, không gian và thời gian của
câu thơ nh đợc giãn ra, tạo cảm giác đằng đẵng, mênh mang.
* Về nhịp điệu câu thơ trong bài Đèo cả của Hữu Loan
Việc xem xét nhịp điệu câu thơ có lúc còn phải đặt nó vào trong phông nền
chung của cấp bậc cao hơn câu (khổ hoặc bài). Bởi vì có những nhịp thơ, khi đợc đặt
trong bối cảnh chung của cả bài, nó mới tạo nên các bớc thăng trầm về nhạc điệu,
làm nổi bật dụng ý nghệ thuật của nhà thơ nh bài Đèo cả của Hữu Loan. Chính
những đoạn gấp khúc, đầy trăn trở và dằn vặt đợc cắt mạnh và đột ngột ở từng nhịp
ngắn, mỗi nhịp có khi chỉ có 1 từ hoặc 2 từ, mỗi nhịp đồng thời tơng đơng với một
câu thơ đã làm cho bài Đèo cả có số lợng nhịp rất lớn (98 nhịp), có sức vóc của
một bài thơ đột phá, đột phá ngay từ nhịp điệu từng câu và trong toàn bài. Tính đặc
biệt của nhịp điệu bài thơ gợi cho ta sự gập ghềnh, trắc trở của không gian hiện thực ở
Đèo Cả tạo nên tính tợng hình đậm nét của không gian nghệ thuật in dấu trong mỗi
dòng thơ và trong cả bài thơ. Nhịp 1 tiếng, nhịp 2 tiếng nhịp 5 tiếng rắn rỏi, khoẻ
khoắn, ngắt đến đâu là chốt ý đến đó. Đèo Cả hiện lên rõ nét với hình ảnh đầu tiên

đầy ấn tợng: cao ngút và hòa nhập vào không gian của mây trời. Cái thế cao ngút
của Đèo Cả lại đợc đặt trong thế đối lập với độ sâu của tâm trạng sầu đại dơng
làm cho những dòng thơ mở đầu đã dội ngợc lên đến đỉnh điểm của 2 chiều đối lập:
độ cao của đèo- độ sâu của tâm trạng buồn (Đèo cả!/ Đèo cả!/ Núi cao ngút!/ Mây
trời Ai lao/sầu đại dơng!/). Đặc biệt, những đoạn nhấn theo kiểu từng từ một
đợc vắt từ dòng này sang dòng khác tạo ra một bức họa về sự trắc trở nối tiếp của
Đèo Cả.
Bên quán Hồng quân 1 nhịp 4 tiếng
ngời 1 nhịp 1 tiếng
ngựa 1 nhịp 1 tiếng
mỏi 1 nhịp 1 tiếng
Có thể nói, chính nhịp điệu đợc tạo ra một cách chủ ý, đợc phân bổ theo kết
cấu vắt dòng đã làm những câu thơ trong Đèo Cả của Hữu Loan rất Mới, Sống,

18
những câu thơ nh biết ngọ nguậy, có Hồn. Cũng chính nhịp thơ ấy làm từng câu
đợc chảy ra nh từng nốt nhạc đợc nhạc sĩ đánh ngắt quãng để tạo ra các tiêu điểm
thông tin, để rót vào thính giác cảm xúc của độc giả những biến tấu mạnh, nhanh,
khoẻ của từng tiếng thơ. Sự đột phá về nhịp điệu của Đèo Cả là một trong những
ngọn hải đăng góp phần không nhỏ vào sự tự do hóa thơ Việt thế kỉ XX ở cấp độ
câu thơ và bài thơ.
*Về các khả năng ngắt nhịp khác nhau của cùng một câu thơ
Có câu thơ chỉ có một cách ngắt nhịp duy nhất, song, cũng có những câu thơ có
nhiều khả năng ngắt nhịp khác nhau. Chính các khả năng ngắt nhịp đó đã tạo ra
hớng mở trong việc hiểu nghĩa và bình luận thơ, tạo nên tính đa diện và nhiều
chiều trong việc truyền tải thông tin thơ. Ví dụ cho các khả năng ngắt nhịp của câu
thơ sau đây là một câu thơ của Nguyễn Đình Thi trong bài Đất nớc:
VD12: Ngời ra đi, đầu không ngoảnh lại
Sau lng thềm nắng lá rơi đầy (NĐT- ĐN)
Câu thứ 2 có thể đợc ngắt thành 26 kiểu nhng trong thực tế thì ngời ta thờng

hiểu câu này theo 3 cách ngắt nhịp 2/2/3; 3/4; 4/3: Sau lng/thềm nắng/ lá rơi đầy. (
nhịp 2/2/3); Sau lng thềm/nắng lá rơi đầy.( nhịp 3/4); Sau lng thềm nắng/ lá
rơi đầy. ( nhịp 4/3).
4.2. Thanh điệu
Thanh điệu tạo ra âm sắc trầm bổng và giai điệu, tính nhạc cho câu thơ. Đa phần,
các câu thơ có sự hài hòa, cân xứng về thanh điệu. Song, những trờng hợp tập trung
nhiều thanh bằng hoặc nhiều thanh trắc, thậm chí là chỉ toàn thanh bằng hoặc toàn
thanh trắc trong một câu sẽ tạo ra ấn tợng sâu sắc cho độc giả.
4.2.1. Kết quả khảo sát định lợng
Luận án khảo sát đợc 3 kiểu tập trung thanh bằng/ trắc trong câu thơ mới 7 chữ
ở hai tập Gửi hơng cho gió của Xuân Diệu và Từ ấy của Tố Hữu; 4 kiểu tập
trung thanh điệu bằng- trắc trong câu thơ ở 3 tập thơ của Phạm Tiến Duật.
4.2.2. Bàn luận
Sự hài hoà, cân đối của câu thơ đợc xác định bởi nhiều yếu tố nh: cách gieo
vần, phép đối, niêm Với một câu thơ, sự tập trung một thanh điệu nhất định tạo nên
dấu ấn xúc cảm của nhà thơ.
4.3. Vần trong câu thơ
Kết quả khảo sát các câu thơ có vần ở thơ 7 chữ trong 2 tập Gửi hơng cho gió
và Từ ấy(phụ lục 3 của luận án) cho thấy số lợng các cặp từ có vần với nhau trong
1 câu thuộc 1 khổ thơ ở 2 tập thơ là 196 trờng hợp. Trong đó, Gửi hơng cho gió
có 116 trờng hợp, chiếm tỉ lệ 116/19659, 184% và Từ ấy có 80 trờng hợp,
chiếm tỉ lệ 80/19640, 816%.

19
Một số nhận xét:
Vần trong khổ thơ đợc Xuân Diệu và Tố Hữu sử dụng rất linh hoạt, sáng tạo.
Trong một câu thơ có thể có một loại vần hoặc có thể có tới hai loại vần.
Sự tập trung vần trong một câu thể hiện điểm nhìn của các tác giả.
4.4. Tóm lại, chơng 4 khảo sát và bàn về một số vấn đề ở cấp độ câu thơ nh nhịp
điệu, thanh điệu, vần để khẳng định một số nội dung sau đây:

4.4.1. Việc gieo vần ngay trong một câu thơ tạo ra sự cân đối, hài hòa, tính nhạc
cho câu thơ.
4.4.2. Về thanh điệu, các nhà thơ đã tạo ra những điểm nhấn nghệ thuật bằng cách
tập trung loại thanh điệu nhất định, tạo cảm giác mạnh trong câu thơ. Câu thơ có sự
tập trung thanh bằng thờng gợi cảm giác êm đềm, hài hòa, nhẹ nhàng, không gian
đợc rộng mở, thời gian nh đợc kéo dài hơn. Câu thơ có sự tập trung thanh trắc
thờng tạo ra cảm giác về sự bất trắc, không bình yên, không bằng phẳng.
4.4.3. Về nhịp điệu, luận án đa ra đợc 14 cơ sở (tiêu chí) và khoảng 90 dấu hiệu
cụ thể (thuộc 90 trờng hợp đợc nêu từ ví dụ VD86 đến VD193) để ngắt nhịp câu
thơ. Đây là các cơ sở và dấu hiệu ngắt nhịp đợc nhận diện và thực hiện nhờ các thao
tác ngôn ngữ học (dựa trên kết cấu ngữ pháp, nghĩa của từ, của các vế, của dòng thơ-
câu thơ) chứ không phải chỉ dựa vào cảm giác hay sự cảm thụ đơn thuần. Kết quả
nghiên cứu về nhịp điệu thơ cho thấy: sự cách tân, tự do hóa câu thơ, bài thơ của các
nhà thơ đã mở đờng cho sự cách tân và sự tự do hóa trong việc tiếp nhận. Nh vậy là
có yếu tố cái mới, cái tự do không chỉ ở ngời sáng tác (chủ thể sáng tác), ở văn
bản thơ mà còn ở cả ngời tiếp nhận văn bản thơ nữa. Đó cũng là một vấn đề đáng lu
tâm khi xem xét sự tự do hóa câu thơ (thậm chí là khổ thơ, bài thơ).
Kết luận
Luận án này, trên cơ sở miêu tả định lợng và những nghiên cứu định tính, đã tìm
ra những sự đột phá về cấu trúc, thể loại ở các cấp độ bài thơ, khổ thơ, câu thơ trong các
giai đoạn khác nhau để thấy đợc cái mới của thơ Việt thế kỉ XX trên cả hai phơng
diện hình thức và ngữ nghĩa.
Luận án đã đạt đợc một số kết quả nghiên cứu nh sau:
1. Nghiên cứu đợc phần nào sự tự do hóa ngôn ngữ thơ Việt thế kỉ XX. Tự do hóa
ngôn ngữ thơ là một hiện tợng ngôn ngữ- văn học- văn hóa của thế kỉ XX. Những biến
đổi đó xuất hiện do những động lực khác nhau về mặt xã hội, văn học và ngôn ngữ
nhng chủ yếu là do một số yếu tố sau:
* Đầu thế kỉ XX, văn học Việt Nam chịu nhiều ảnh h
ởng của nền giáo dục Pháp
học và phong trào Tân th. Trong khi đó, ảnh hởng của chữ Hán giảm xuống. Con

ngời thời kỳ đó tuy chịu hai lần nô lệ nhng cá tính đợc giải phóng. Động lực của xã
hội ảnh hởng đến nghệ thuật.

20
* Trong các tầng lớp xã hội, đặc biệt là trong giới trí thức đã có sự đổi mới và phát
triển về mặt t tởng. Nhận thức của con ngời mở rộng hơn trên nhiều phơng diện.
Nhu cầu đòi hỏi thơ phải có sự thoát xác đợc ơm mầm, nảy hạt trong những ngời
sáng tác thơ, trong giới phê bình lý luận và ở đông đảo công chúng tiếp nhận, thụ đắc
thơ.
- Về phía những ngời sáng tác thơ, nhu cầu bộc lộ cảm xúc, phản ánh hiện thực
cuộc sống một cách mới mẻ ngày càng đợc tăng lên. Có nhiều dòng chảy đan xen
trong t duy thơ mới. Chủ thể sáng tác có lúc thiên về khẳng định cái Tôi (giai đoạn
1932-1945), có lúc lại muốn hoà mình vào sức nóng chung của dân tộc, của thời đại
(giai đoạn 1956-1975, giai đoạn 1975 đến cuối thế kỉ XX).
- Về phía những nhà phê bình lý luận, thực tiễn cuộc sống làm t duy phê bình lý
luận cũng đợc giải phóng, phát triển đa diện chứ không bị gò bó trong những khuôn
thớc t duy cũ. Bên cạnh đó, thực tiễn sáng tác và hoạt động của những ngời sáng tác
thơ cũng là động lực kích hoạt giới phê bình lý luận phải đáp ứng nhịp bớc song hành
để phản ánh kịp thời, đồng bộ những sự cách tân, sự tự do hóa, hiện đại hóa trong thơ
Việt thế kỉ XX.
- Về phía công chúng tiếp nhận các sáng tác thơ, nhu cầu về cảm thụ, tiếp nhận văn
học nói chung, thơ ca nói riêng của đông đảo công chúng ngày càng tăng lên. Việc nâng
cao đời sống tinh thần là một nhu cầu tất yếu trong xã hội hiện đại và phát triển. Thơ
cũng là một món ăn tinh thần không thể thiếu đợc trong cuộc sống. Đến thế kỉ XX,
thực tiễn cuộc sống góp phần làm giải phóng t tởng của mọi tầng lớp xã hội, từ đó
cũng giải phóng t tởng trong việc tiếp nhận, đánh giá chất lợng thơ. Kèm theo đó là
nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao của công chúng đối với thực tiễn sáng tác thơ: thơ phải
đợc cách tân về cả phơng diện nội dung và hình thức. Khi t tởng của con ngời
đợc giải phóng thì sự đòi hỏi về chất lợng thơ sẽ có phần khắt khe hơn do công
chúng có nhu cầu cao hơn về thởng thức nghệ thuật.

* Động lực xã hội và sự phát triển về t tởng làm cho văn bản thơ có nhiều biến
động. Diễn ngôn thơ cũng là một cách hiện đại hóa ngôn ngữ thơ. Khi văn bản thơ biến
động thì dẫn đến hệ quả là tuyệt đại bộ phận các thể loại thơ đợc tự do hóa.
2. Sự tự do hoá ngôn ngữ thơ diễn ra ở nhiều cấp độ khác nhau. Trong một giới hạn
nhất định, luận án này chủ yếu xem xét sự biến đổi ngôn ngữ thơ ở 3 cấp độ: bài thơ,
khổ thơ, câu thơ (những biến đổi cụ thể và hệ quả của nó).
*

cấp độ bài thơ, luận án nhấn mạnh vào sự chuyển biến và đa dạng hóa, sự phát
triển theo khuynh hớng mở về mặt thể loại thơ. Chính sự bùng nổ về mặt thể loại của
thơ các giai đoạn (1900-1945, 1945-2000) và ở thơ của một số tác giả là một trong
những minh chứng về sự tự do hóa thơ. Đặc biệt, ở ngay trong một thể thơ thì bài thơ
cũng đợc nhân lên cả về số lợng và chất lợng theo nhiều kiểu mô hình, nhiều kiểu

21
cấu trúc rất phong phú. Các kiểu cấu trúc, mô hình bài thơ khác biệt nhau chính là cái
vỏ để truyền tải cái chất- những nội dung tơng ứng một cách linh hoạt, uyển chuyển,
muôn màu muôn vẻ, đáp ứng đợc nhu cầu tăng lên cả về bề rộng và chiều sâu của bài
thơ sau giai đoạn 1932-1945.
Riêng thơ giai đoạn 1945-1975 có một số nét mới về cấu trúc. Thứ nhất, cấu trúc
thơ khá đa dạng. Ngoài thể thơ 5 chữ, 7 chữ, còn xuất hiện một số thể loại thơ có khổ
thơ rất ngắn hoặc có câu thơ khá ngắn giống một hình thức khá đặc biệt của văn bản
nói. Thứ hai, bắt đầu có dấu hiệu của sự tiếp nối liền mạch về hình thức giữa câu 6
tiếng và câu 8 tiếng trong khổ thơ có 2 câu/ khổ, tạo ra một sự gần gũi về hình thức giữa
2 câu/ khổ thơ với 1 câu thơ đợc diễn xuôi. Cấu trúc bài không còn là nguyên khối nh
bài song thất lục bát với những khổ song thất lục bát nữa mà đã cách tân và đợc đa
dạng hóa ở các mức độ khác nhau. Tuy nhiên, thơ thời kỳ 1945-1975 vẫn không đoạn
tuyệt, không mất đi hoàn toàn mối dây liên hệ với thơ truyền thống. Thứ ba, đã có
những hình thức mới, không theo quy luật tạo nên sự đa dạng về cách thức, hình thức
thể hiện (bài có 1 khổ đến 9 khổ; khổ có 1 câu đến 41 câu). Thứ t, đã có sự cải

tiến, cách tân và hiện đại hoá về hình thức thể hiện ý tởng thơ, đã xuất hiện các mô
hình cấu trúc mô phỏng hình ảnh thơ nh mô hình chữ C, mô hình vắt dòng kiểu bậc
thang. Thứ năm, đã có nhiều khổ thơ dài trong đó chỉ chữ cái đầu câu khổ thơ đợc viết
hoa còn các chữ cái ở đầu mỗi câu sau trong khổ thơ đó đều đợc cố ý không viết hoa.
ở một số bài thơ, có những khổ giàu chất tự sự làm cho bài thơ gần gũi hơn với câu văn
diễn xuôi, làm câu thơ đậm đặc chất tự sự hơn.
*

cấp độ khổ thơ thì không chỉ kiểu loại khổ thơ khá đa dạng, phong phú mà cấu
trúc khổ thơ ngày càng chuyển biến theo nhiều kiểu khác nhau.
- Về phép đối thanh điệu bằng-trắc: Phép đối trong khổ ở thơ 7 chữ đợc biến
hóa theo 4 trờng hợp với 7 mô hình khác nhau. Đồng thời, còn có những trờng hợp
không xuất hiện phép đối thanh điệu, do có sự phá vỡ thế đối thanh điệu ở một số vị
trí trong cặp đối, bộc lộ xu hớng bứt phá, giật tung quy tắc đối của thơ cổ điển theo
muôn hình vạn trạng. Chính các cách phá vỡ thế đối đó đã phản ánh t duy lựa chọn
và sáng tạo, không trùng lặp và rập khuôn trong cách tháo nút cho phép đối đợc
thoát thai, thoải mái, không bị ràng buộc. Điều đó cũng phản ánh tính linh hoạt và
uyển chuyển trong t duy thơ Việt thế kỉ XX, phản ánh cách thức mới, con đờng mới
để cách tân thơ theo hớng tự do hóa.
Đến thơ tự do, phép đối thanh điệu bằng-trắc đợc phân chia theo nhiều trờng
hợp, nhiều khả năng tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể và đối tợng tiếp nhận. Điều đó tạo ra
hớng mở cho cả ngời sáng tác và ngời tiếp nhận, cảm thụ thơ tự do.
- Về niêm, từ 1945 đến nay, niêm không còn giữ đợc khuôn thớc nh trớc
nữa. Nó có những biến đổi nhất định theo hớng mở, đợc cách tân từng bớc, dần

22
dần, tùy thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau (chủ quan hoặc khách quan, cố ý hoặc ngẫu
hứng). Nó phù hợp với xu thế cách tân của thơ Việt về mặt hình thức ở nhiều phơng
diện khác (phép đối, vần, nhịp) nhằm đáp ứng nhu cầu tự do hóa thơ để tạo ra những
bớc phát triển thơ theo nhiều khuynh hớng.

- Về hiện tợng gieo vần.


thơ mới 7 chữ, 8 chữ, các nhà thơ đã tạo thêm đợc các cách gieo vần mới, đa
dạng hơn các cách gieo vần truyền thống đồng thời có sự phá cách về việc gieo vần
không giống nhau hoặc không gieo vần (25-42%). Kết quả đó cho thấy t duy thơ mới
đã đẩy vần thơ truyền thống lên một bậc và mở rộng để phá đi trạng thái ứ đọng cũ,
vần thơ không khuôn lại chỉ trong một vài vần nhất định theo quy tắc thơ cổ nữa.
Đến thơ tự do, yếu tố vần vẫn đợc lu giữ. Vần tạo nên sự liên kết về âm hởng
giữa các câu thơ, vần cũng nh một thứ mạch lạc đợc dùng để liên kết các câu thơ,
các khổ thơ trong bài. Nhng cũng có hiện tợng, nhiều khổ thơ tự do đã bỏ hẳn vần,
không gieo vần, chỉ giữ lại âm điệu, âm hởng của khổ thơ, bài thơ. Những khổ thơ đó
bật ra nh một kiểu diễn ngôn đặc biệt, diễn ngôn ngắt thành từng dòng, có thể
giản dị nh đang kể một câu chuyện hàng ngày.
*

cấp độ câu thơ:
- Việc gieo vần ngay trong một câu thơ tạo ra sự cân đối, hài hòa, tính nhạc cho câu
thơ.
- Về thanh điệu, các nhà thơ đã tạo ra những điểm nhấn nghệ thuật bằng cách tập
trung loại thanh điệu nhất định, tạo cảm giác mạnh trong câu thơ.
- Về nhịp điệu, luận án đa ra đợc 14 cơ sở (tiêu chí) và khoảng 90 dấu hiệu cụ thể
để ngắt nhịp câu thơ nhờ các thao tác ngôn ngữ học. Đây là một nét mới và cũng là một
điểm nhấn quan trọng của luận án khi khảo sát nhịp điệu thơ. Đồng thời, luận án rút ra
một đặc điểm quan trọng của sự cách tân, tự do hoá thơ Việt thế kỉ XX là: sự cách tân,
tự do hóa câu thơ, bài thơ của các nhà thơ đã mở đờng cho sự cách tân, sự tự do hóa
trong việc tiếp nhận. Nh vậy là có yếu tố cái mới, cái tự do không chỉ ở ngời sáng
tác (chủ thể sáng tác), ở văn bản thơ mà còn ở cả ngời tiếp nhận văn bản thơ nữa.
* Có thể nói, việc xem xét sự tự do hóa ngôn ngữ thơ Việt thế kỉ XX ở 3 cấp độ
(bài, khổ, câu) chủ yếu chỉ mới là xem xét về sự biến đổi cấu trúc. Nhng, chính sự biến

đổi về mặt cấu trúc đó dẫn đến sự tự do hóa về mặt thi pháp nhằm đảm bảo truyền tải
nội dung ngữ nghĩa theo xu hớng tự do hóa, đa ngôn ngữ thơ Việt Nam sang một giai
đoạn mới về chất: nhà thơ đợc quyền phản ánh thông tin và cảm xúc với dung lợng
mở rộng, không gian đợc nhìn nhận đa diện, thời gian đợc nhận thức lại Ngôn ngữ
thơ Việt thế kỉ XX có sự biến đổi đó do nó đã đợc tự do hóa trong một quá trình từ
1932 đến cuối thế kỉ XX, khoảng 70 năm (thậm chí là đến nay) và đợc chia thành
nhiều giai đoạn. Trong đó, giai đoạn bùng lên mạnh mẽ về sự tự do hóa ngôn ngữ thơ là

23
giai đoạn 1932-1945; giai đoạn tìm tòi những hình thức mới là giai đoạn 1954-1960.
Đặc biệt, ở giai đoạn sau 1975 đến nay, ngôn ngữ thơ tiếng Việt tiếp tục đợc hiện đại
hóa, cốt cách khác đi, có nhiều tìm tòi mới hơn và có những vấn đề đang phải thảo luận.
Vì thế, trong một phạm vi nhất định, luận án này chủ yếu mới chỉ nghiên cứu về sự tự
do hóa ngôn ngữ thơ tiếng Việt thế kỉ XX ở miền Bắc (theo diện và theo điểm), cha có
điều kiện nghiên cứu ngôn ngữ thơ và sự tự do hóa ngôn ngữ thơ ở miền Nam- một tài
sản chung của cả dân tộc.
3. Một vài đánh giá về đặc điểm phong cách thơ của các tác giả.
Từ kết quả nghiên cứu sự tự do hóa ngôn ngữ thơ tiếng Việt thế kỉ XX ở 3 cấp độ
(bài, khổ, câu), luận án đa ra một vài đánh giá về đặc điểm phong cách thơ của các tác
giả nh sau:
* Thơ của Tố Hữu thiên về chức năng tác động, giải thích (các bài thơ cách mạng)
nhng vẫn đợm chất trữ tình nên vẫn có chức năng biểu cảm (các bài thơ lãng mạn).
Yếu tố cách mạng và lãng mạn đan xen trong thơ ông.
* Thơ Xuân Diệu chủ yếu thiên về chức năng thể hiện, chức năng biểu cảm. Thơ
Xuân Diệu cũng có chức năng tác động nhng đó là tác động vào sự rung cảm yêu
đơng (thơ tình), khác với chức năng tác động trong thơ Tố Hữu là thiên về thôi thúc ý
chí kiên định, vững vàng của con ngời.
* Thơ Hàn Mặc Tử còn lu giữ khá nhiều dấu ấn của thơ truyền thống, chứng tỏ
Hàn Mặc Tử còn gắn bó nhiều với thơ cũ. Những bài 8 chữ của Hàn Mặc Tử nh một
bản hòa tấu hợp ca giữa thể bát cú Đờng luật và Cổ phong miên man. Nhng cái hồn

thơ thì vẫn là hồn đất Việt! Trong thơ Hàn Mặc Tử đã xuất hiện thể thơ theo lối tự do.
Chất tự sự, đối thoại của ngôn ngữ thơ ông thể hiện tố chất sáng tạo tài hoa và trí tuệ, thể
hiện cả sự liều lĩnh dám vợt lên cái cũ, thăng hoa đến với mảnh đất mới mẻ, để thổi
vào thơ luồng sinh khí tràn đầy nhiệt huyết và nhựa sống sục sôi, khát khao đợc sống,
khát khao làm hồn thơ Mới sống và trụ vững qua thời gian. Có thể nói, thơ Hàn Mặc Tử
nổi trội lên với các chức năng siêu ngôn ngữ và chức năng biểu cảm.
* Về thơ Chế Lan Viên, có không ít bài thơ đợc chia làm nhiều khổ và có những
khổ rất dài, làm cho bài thơ có cấu trúc giống nh thể trờng ca phảng phất phong vị
truyền thống cổ điển của thể Cổ phong- thể thơ có những câu thơ chảy dài nối tiếp nhau
lớp lớp. Có những bài thơ trải dài, mang đậm chất diễn xuôi, tự sự, làm cho độc giả cảm
nhận nh có sự giao thoa giữa thơ và văn xuôi, tạo nên chất thơ văn xuôi giàu triết lý
và sắc sảo về trí tuệ của Chế Lan Viên. Thơ Chế Lan Viên, vì thế, thiên về chức năng thể
hiện, chức năng tiếp xúc, chức năng tác động và chức năng biểu cảm. Nhng nổi bật
nhất vẫn là chức năng siêu ngôn ngữ do thơ ông truyền tải những nội dung tràn đầy chất
triết lý và trí tuệ.

24
* Nếu nh Thơ Phạm Tiến Duật thiên về chức năng tác động, giải thích, chức năng
tiếp xúc và chức năng thể hiện thì thơ Hoàng Nhuận Cầm lại giàu chất biểu cảm, liên
tởng, chủ yếu hớng về chức năng biểu cảm, chức năng tiếp xúc.
Hầu hết các nhà thơ nói trên đều không thể bỏ qua chức năng thi ca trong thơ của
họ. Nhng ngoài chức năng cốt lõi là chức năng thi ca thì thơ của mỗi ngời lại có thiên
hớng nghiêng về một số chức năng nh trên.
* Thơ Việt Nam thế kỉ XX đợc bồi đắp và có bề dày bởi sự tích lũy của các nhà
thơ nhiều thế hệ với các phong cách rất đa dạng. Nhng dù có những dặc trng riêng về
phong cách thì trong thơ của họ vẫn ẩn chứa 6 chức năng cơ bản mà Roman Jakobson
đã từng khẳng định: chức năng thể hiện, chức năng thi ca, chức năng tiếp xúc, chức
năng siêu ngôn ngữ, chức năng biểu cảm, chức năng tác động. Bởi vì, ngôn ngữ là cái vỏ
vật chất không bao giờ có thể thiếu đợc trong việc sáng tác thơ, tiếp nhận và đánh giá
thơ. Chỉ có điều, tùy thuộc vào phong cách của mỗi nhà thơ mà từng chức năng nói trên

có thể trở thành chủ yếu hoặc không chủ yếu trong các tác phẩm thơ.
4. Từ các kết quả nghiên cứu nói trên, luận án này dự báo rằng ngôn ngữ thơ Việt từ
cuối thế kỉ XX cho đến nay và về sau sẽ còn phát triển theo nhiều khuynh
hớng khác nhau, rất đa dạng và không hề đơn giản.
Tuy nhiên, cũng không loại trừ có những khuynh hớng làm giảm cả chất thi và
chất ca trong thơ. Ngôn ngữ thơ nếu không đạt chất lợng thì không thể biểu đạt đúng
t tởng của ngời sáng tác và cũng không thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử của nó trong
sự phát triển của văn học dân tộc. Vì thế, ngôn ngữ thơ dù có tự do hóa và hiện đại hóa
đến đâu thì cũng phải hớng thiện, hớng đến cái đẹp và vì con ngời chứ không thể là
thứ ngôn ngữ thơ đi ngợc lại với dòng chảy của tính ngời và tình ngời.
5. Luận án này góp phần làm rõ lịch sử ngôn ngữ văn học Việt Nam trong thế kỉ XX:
sự cách tân về hình thức nhằm để đáp ứng sự phát triển về t tởng và phục vụ sự đổi
mới về nội dung. Đồng thời, luận án cũng góp phần làm sáng tỏ thêm một vài vấn đề
lý luận về phong cách học tiếng Việt.
6. Luận án này có những đóng góp mới vào việc nghiên cứu ngôn ngữ văn học Việt
Nam, đặc biệt là ở góc độ ngôn ngữ thơ với lối tiếp cận ngôn ngữ học, nghiên cứu cấu
trúc ngôn ngữ thơ trong mối tơng quan với thi pháp học ngôn ngữ thơ, phân tích diễn
ngôn ngôn ngữ thơ, chức năng ngôn ngữ thơ
7. Luận án có đóng góp nhất định vào việc tìm kiếm và đổi mới cách dạy môn văn
cho ngời Việt ở các bậc đào tạo khác nhau (phổ thông trung học, đại học và sau đại
học).
8. Kết quả nghiên cứu của luận án có thể đợc sử dụng trong giảng dạy và biên soạn
giáo trình về ngôn ngữ thơ, ngôn ngữ nghệ thuật ở bậc đại học, sau đại học.

25
9. Luận án này là công trình đầu tiên khảo sát về sự tự do hóa ngôn ngữ thơ Việt
Nam thế kỉ XX nh một chuyên luận, có đóng góp vào lý luận ngôn ngữ thơ ở chỗ
tìm ra những đặc điểm, vấn đề cụ thể, cơ bản của sự tự do hóa dẫn đến sự hình
thành thể loại thơ mới, sự đổi mới của ngôn ngữ thơ tiếng Việt hiện đại thế kỉ XX.


×