Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Tìm hiểu hoạt động của một loại hình trung gian tài chính ở việt nam (bảo hiểm)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.31 KB, 22 trang )

CHỦ ĐỀ 1: Tìm hiểu hoạt động của một loại hình trung gian tài chính ở Việt
Nam (bảo hiểm)
Tìm hiểu hệ thống tài chính và vai trò đối với sự phát triển kinh tế
_______________________________________________________________________________
Tìm hiểu hoạt động 1 của một loại hình trung gian tài chính ở Việt
Nam (bảo hiểm)
A. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HIỂM
I. Khái niệm chung về bảo hiểm
1. Nguồn gốc của bảo hiểm
Ngày nay, bảo hiểm đã trở thành một ngành kinh doanh rất phát triển
mạnh, với tốc độ tăng trưởng trung bình. Đặc biệt, ở một số nước trên thế
giới, bảo hiểm đã trở thành một phần không thể thiếu trong kinh doanh, cũng
như trong cuộc sống nói chung.
Bảo hiểm có nguồn gốc rất xa xưa trong lịch sử trong lịch sử văn minh
nhân loại. Tuy nhiên, bảo hiểm xuất hiện khi nào thì người ta vẫn chưa có
câu trả lời chính xác. Ý tưởng bảo hiểm được coi là đã xuất hiện từ lâu, khi
mà người xưa nhận ra lợi ích của việc xây dựng một kho thóc lúa dữ trữ
chung phòng khi mất mùa , chiến tranh…Như vây, ngày xưa , xa xưa, con
người đã có ý thức bất trắc có thể xảy ra đối với mình, và tìm cách phòng
tránh chúng.
Bảo hiểm được hình thành do sự tồn tại của các loại rủi ro và sự đòi hỏi của
con người phải có những biện pháp đề phòng, ngăn chặn việc xảy ra rủi ro,
đồng thời, khắc phục , hạn chế những hậu quả của rủi ro. Bắt đầu từ bảo
hiểm hàng hải, rồi tới những loại bảo hiểm khác như bảo hiểm hỏa hoạn ,
bảo hiểm nhân thọ… bảo hiểm ngày nay phát triển nhanh chóng trên nhiều
mặt và dần dần đóng vai trò quan trọng đối với con người.
2. Khái niệm bảo hiểm
Bảo hiểm là một sự thỏa thuận hợp pháp thông qua đó là một cá nhân hay
tổ chức ( người tham gia bảo hiểm) chấp nhận đóng góp một khoản tiền nhất
định (phí bảo hiểm) cho một tổ chức khác(người bảo hiểm) để đổi lấy những
cam kết về những khoản bồi thường hoặc chi trả khi có sự kiện qui định


trong hợp đồng xảy ra.
Bảo hiểm ngày nay được thực hiện dưới hình thức hợp đồng. Hợp đồng
bảo hiểm là sự thỏa thuận có tính chất ràng buộc pháp lý được lập bằng văn
bản, thông qua đó người tham gia bảo hiểm cam kết nộp phí bảo hiểm để
người được bảo hiểm hoặc một số người thứ ba (người được hưởng quyền
lợi bảo hiểm) được nhận số tiền chi trả hay bồi thường từ công ty bảo hiểm
khi phát sinh các sự kiện được bảo hiểm theo quy định người hợp đồng.
3. Bản Chất Của Bảo Hiểm
Thực chất của bảo hiểm là việc phân chia tổn thất hoặc một số người cho
tất cả những tham gia bảo hiểm cùng chịu. Bảo hiểm thực chất là hệ thống
các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình phân phối lại tổng sản phẩm xã
hội dưới hình thức giá trị, nhằm hình thành quĩ bảo hiểm cho mục đích bù
đắp tổn thất do rủi ro bất ngờ xảy ra với người được bảo hiểm, đảm bảo quá
trình tái sản xuất được thường xuyên liên, tục.
4. Nguyên Tắc Cơ Bản Của Hoạt Động Bảo Hiểm
Bảo hiểm hoạt động theo quy luật số đông: Quy luật này giúp các nhà
bảo hiểm ước tính xác suất rủi ro nhận bảo hiểm, nhằm giúp tính phí và quản
lý các quỹ dự phòng của công ty bảo hiểm.
Nguyên tắc quyền lợi có thể được bảo hiểm: Quyền lợi có thể được bảo
hiểm là quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền tài sản,
quyền và nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng đối với đối tượng được bảo hiểm.
Nguyên tắc trung thực tuyệt đối:
Đối với người tham gia bảo hiểm: Đó chính là bổn phận khai báo đầy đủ
chính xác tất cả các yếu tố quan trọng có liên quan để giúp công ty bảo hiểm
chi phí điều tra rủi ro.
Đối với người bảo hiểm: Công ty bảo hiểm có nhiệm vụ phải cung cấp đầy
đủ, chính xác những thông tin liên quan đến hợp đồng bảo hiểm, giải thích
các điều khoản, giải đáp những thắc mắc cho khách hàng.
Nguyên tắc “nguyên nhân gần”:
Nguyên nhân gần là nguyên nhân chủ động hữu hiệu và chi phối sự việc

dẫn đến tổn thất cho đối tượng được bảo hiểm. Công ty bảo hiểm sẽ bồi
thường nếu nguyên nhân gần là nguyên nhân thuộc trách nhiệm bảo hiểm.
Nguyên tắc bồi thường và nguyên tắc khoán:
Nguyên tắc bồi thường: Mục đích của nguyên tắc bồi thường là khôi
phục tình trạng ban đầu hoặc một phần theo mức độ thiệt hại cho người tham
gia bảo hiểm. Nguyên tắc bồi thường chỉ áp dụng cho bảo hiểm thiệt hại và
bảo hiểm trách nhiệm dân sự.
Nguyên tắc khoán: Người ta áp dụng nguyên tắc khoán mà số tiền được
ấn định trước trong các hợp đồng bảo hiểm và tách biệt với khái niệm bồi
thường. Nguyên tắc này được áp dụng trong các nghiệp vụ bảo hiểm con
người và bảo hiểm nhân thọ. Nguyên tắc thế quyền đòi bồi hoàn: Khi rủi ro
do một bên thứ ba gây ra và phải gánh chịu một phần tổn thất thì công ty bảo
hiểm sẽ bồi thường đúng giá trị tổn thất. Sau khi đã nhận đủ tiền bồi thường,
người được bảo hiểm phải uỷ quyền cho công ty đòi lại phần trách nhiệm
của bên thứ ba gây ra.
Nguyên tắc đóng góp tổn thất:
Nguyên tắc này quy định khi các công ty cùng bảo hiểm cho đối tượng
bảo hiểm bị tổn thất có nghĩa vụ đóng góp bồi thường theo tỷ lệ phần trăm
trách nhiệm đã nhận bảo hiểm .
II. Các Loại Hình Bảo Hiểm
Bảo hiểm xã hội : BHXH là loại hình bảo hiểm được thực hiện không vì
mục đích lợi nhuận. BHXH là chính sách xã hội của nhà nước nhằm tạo lập
quỹ tài chính tập trung nhằm tài trợ cho người lao động gặp rủi ro. BHXH có
5 chế độ chi trả sau: trợ cấp ốm đau, trợ cấp thai sản, trợ cấp tai nạn lao động
và bệnh nghề nghiệp, chế độ hưu trí, chế độ tử tuất. BHXH đã mở rộng
quyền cho người lao động, bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động, đồng
thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động, trợ giúp
các chính sách kinh tế xã hội của nhà nước, đảm bảo cho quản lý và an ninh
lâu dài của nhà nước. Tuy vậy BHXH vẫn còn nhiều tồn tại :
Thứ nhất: BHXH chỉ áp dụng đối với các đối tượng là người lao động làm

việc trong doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp ngoài quốc doanh có sử
dụng từ 10 lao động trở lên, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, cơ quan
hành chính sự nghiệp. Thứ hai, bảo hiểm chỉ giới hạn trong 5 chế độ chi trả
đã kể trên, và trong mỗi chế độ đó còn hạn chế phạm vi được bảo hiểm Thứ
ba, mức độ chi trả BHXH hiện nay vẫn còn thấp chưa đáp ứng được nhu cầu
mong đợi của người lao động. Thứ tư, thủ tục chi trả chế độ BHXH còn
mang tính quan liêu, hành chính … gây khó khăn cho người lao động
Bảo hiểm y tế: BHYT hoạt động không vì mục đích kinh doanh. BHYT là
chính sách xã hội do nhà nước tổ chức thực hiện nhằm huy động sự đóng
góp của người sử dụng lao động, người lao động, các tổ chức và cá nhân để
thanh toán chi phí khám chữa bệnh. Quyền lợi được bảo hiểm của BHYT áp
dụng cho 2 trường hợp: khám bệnh và chữa bệnh, điều trị nội trú. BHYT có
ý nghĩa to lớn: nó giúp những người tham gia bảo hiểm khắc phục khó khăn,
góp phần giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước, thức hiện công bằng xã
hội, nâng cao tính cộng đồng và gắn bó mọi thành viên trong xã hội. Đồng
thời BHYT đã khắc phục được hạn chế của BHXH là: BHYT được áp dụng
cho mọi đối tượng trong xã hội. Tuy nhiên, BHYT vẫn còn một số hạn chế:
thứ nhất, khách hàng còn ít hiểu biết về BHYT. Thứ hai, mức độ bảo hiểm
còn thấp: bảo hiểm y tế chi trả 80% chi phí khám bệnh, 20% còn lại người
bệnh tự chi trả. Thứ ba, thủ tục quản lý BHYT vẫn còn rườm rà, gây nhiều
trở ngại cho khách hàng, chi trả bảo hiểm không đúng chế độ, có sự mất cân
đối giữa chi phí cho khám chữa bệnh ngoại trú và chữa bệnh nội trú.
Bảo hiểm thương mại: BHTM hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận. BHTM
là biện pháp chia nhỏ tổn thất của một hay một số ít người dựa vào một quỹ
chung bằng tiền được lập bởi sự đóng góp của nhiều người thông qua hoạt
động của công ty bảo hiểm. Từ đây, nền kinh tế còn có một nguồn đầu tư
đáng kể từ quỹ của các công ty bảo hiểm. BHTM được chia thành hai loại:
bảo hiểm nhân thọ (BHNT) và bảo hiểm phi nhân thọ(BHPNT):
* Bảo hiểm nhân thọ: là loại bảo hiểm qua đó công ty bảo hiểm cam kết sẽ
trả một số tiền thoả thuận khi có sự kiện quy định xảy ra liên quan đến tính

mạng và sức khoẻ của con người. BHNT chi trả trong các trường hợp sau:
chi trả cho người thừa hưởng trong trường hợp người được bảo hiểm không
may qua đời, chi trả cho người bảo được bảo hiểm khi hết hạn hợp đồng, chi
trả cho người bảo hiểm khi họ bị thương tật. Phí của một hợp đồng BHNT
thường căn cứ vào: tỷ lệ tử vong, lãi suất kỹ thuật (là những giả định về số
lãi mà công ty bảo hiểm thu được nhờ đầu tư khoản phí tạm thời nhàn rỗi
vào các lĩnh vực đầu tư khác), các chi phí hoạt động khác của công ty.
* Bảo hiểm phi nhân thọ: BHPNT là các nghiệp vụ bảo hiểm thương mại
khác không phải là BHNT. BHPNT được chia thành ba loại hình cơ bản sau:
Bảo hiểm tài sản, bảo hiểm trách nhiệm dân sự và bảo hiểm con người.
Ngoài các đặc trưng giống như BHTM nói chung, BHPNT còn có các
đặc trưng chủ yếu sau: Hoạt động BHPNT là một hợp đồng có thời hạn
ngắn: thường là một năm hoặc ngắn hơn. BHPN chỉ bồi thường và chi trả
tiền bảo hiểm khi có rủi ro được xảy ra.
B. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM Ở VIỆT NAM
1. Thực trạng bảo hiểm xã hội việt nam:
- Nguồn thu:
Trong trình phát triển, BHXH Việt Nam đã từng thực hiện theo 2 mô hình:
nhà nước thực hiện toàn bộ (bao cấp) và nhà nước tổ chức có sự tham gia
của giới chủ và giới. Quỹ BHXH được hình thành từ : sự đóng góp của
người lao động 5% tiền lương, người sử dụng lao động 15% quỹ lương.
Ngoài ra , BHXH còn có nguồn thu từ lợi nhuận đầu tư.
- Chi :
Từ nguồn thu quỹ BHXH Việt Nam đã sử dụng để chi trả các loại chi phí.
Đó là chi trả cho các đối tưởng được hưởng BHXH đó là những đối tượng
về hưu. Trong nhiều năm gần đây, BHXH Việt Nam đã cố gắng tự cân đối
thu chi để giảm nguồn trợ cấp từ Ngân sách nhà nước.
Hiện nay, BHXH còn đang nổ lực đóng góp vai trò trong quá trình cải
cách tiền lương ở Việt Nam. Nâng cao mức sống của những người lao động
đã thôi lao động thì BHXH là một mục tiêu trọng yếu.

Tuy nhiên BHXH tồn tại nhiều hạn chế: Hạn chế trong quý chế quản lý
thu BHXH, hạn chế ở quy chế quản lý chi trả các chế độ BHXH, hạn chế
quy chế bảo toàn và tăng trưởng quỹ, hạn chế trong quy chế cân đối quỹ.
2. Thực trạng ngành BHYT :
+ Số người tham gia bảo hiểm có xu hướng tăng nhanh
+ Sử dụng quỹ BHYT
Hằng năm thanh toán quỹ BHYT cho hàng ngand người mắc bệnh với chi
phí hàng chục triệu đồng một người. Ngoài những dịch vụ y tế thiết yếu ,
người có BHYT còn được quỹ BHYT tanh toán chi phí cho các dịch vụ y tế
kỹ thuật cao.
Hệ thống BHYT và các cơ sở khám chữa bệnh đã phối hợp để tăng cường
tiếp cận dịch vụ y tế cho người tham gia BHYT, đảm bảo cho bệnh nhân
BHYT được chăm sóc sức khỏe ngay tại y tế tuyến xã. Quyền lợi bệnh nhân
BHYT ngày càng được tăng cường và đảm bảo hơn.
3. Bảo Hiểm Thương Mại
Việc hình thành ngành bảo hiểm ở Việt Nam :
Công ty bảo hiểm đầu tiêm được thành lập ở Việt Nam là công ty bảo hiểm
Việt Nam( Bảo Việt) – tiền thâm của tổng công ty bảo hiểm Việt Nam ngày
nay. Bảo Việt hoạt động khá thành công trên thị trường bảo hiểm Việt Nam.
Hệ thống các công ty bảo hiểm ở Việt Nam.
Các công ty bảo hiểm nhà nước:
+ Tổng công ty bảo hiểm Bảo Việt: hiện nay Bảo Việt là công ty bảo hiểm
lớn nhất Việt nam có chi nhánh và đại lý rộng khắp trên cả nước. Số vốn của
bảo hiểm cũng rất lớn, tính riêng số quỹ dự phòng bảo hiểm cũng chiếm trên
2200 tỷ đồng.
+ Công ty bảo hiểm thành phố Hồ Chí Minh (Bảo Minh)
Bảo Minh được thành lập theo quy định số 1164 TC/QĐ/TCCB ngày
28/11/1994 và chính thức đi vào hoạt động ngày 20/12/1994. Bảo Minh được
thành lập với số vốn đăng ký kinh doanh là 40 tỷ đồng.
Các công ty bảo hiểm cổ phần:

Công ty bảo hiểm Petrolimex (PJICO): công ty bảo hiểm Petrolimex là
công ty cổ phần đầu tiên hoạt động trong ngành bảo hiểm được thành lập
ngày 15/06/1995 với số vốn kinh doanh ban đầu là 55 tỷ đồng.
Các công ty bảo hiểm liên doanh: Gồm 5 công ty:
Công ty liên doanh bảo hiểm quốc tế VIA: Công ty này chính thức đi vào
hoạt động ngày 5/8/1996. VIA là kết quả của sự liên kết thành lập bởi 3 công
ty: Bảo Việt- Việt Nam, commercial union-UK và Tokyo Marine and Fire
insurance Co Nhật Bản. Vốn đăng ký kinh doanh của công ty là 6000.000
đô la Mỹ. Trong đó Bảo Việt góp 51% vốn, 49% còn lại chia đều cho cả 2
công ty nươc ngoài.
Công ty trách nhiệm hữu hạn bảo hiểm nhân thọ Bảo Minh- CMG: Đây là
công Ty liên doanh giữa tập đoàn CMG (úc) và công ty bảo hiểm thành phố
Hồ Chí Minh.
Các công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài:
+ Công ty trách nhiệm hữu hạn BHNT Chinfon-Manulife
+ Công ty trách nhiệm hữu hạn BHNT Prudential
+ Công ty trách nhiệm hữu hạn BHNT quốc tế Mỹ
Môi trường hoạt động của các công ty bảo hiểm Việt Nam
Việt Nam là một thị trường bảo hiểm tiềm năng:
+ Thứ nhất, Việt Nam là một con số các quốc gia đông dân trên thế giới. Đây
là một điều kiện rất thuận lợi cho sự phát triển của bảo hiểm. Thêm vào đó,
mỗi người khác nhau ở những độ tuổi khác nhau, giới tính khác nhau… lại
có những nhu cầu bảo hiểm khác nhau nên thị trường bảo hiểm sẽ không
ngừng thay đổi và phát triển.
+ Thứ hai, nguồn tiền do dân nắm giữ chiếm 1 tỷ lệ tương đối lớn . Do đó
nhu cầu bảo hiểm tài sản lại nhiều.
+ Thứ ba, nước ta đang bước vào giai đoạn đổi mới toàn diện, đời sống nhân
dân không ngừng được cải thiện, các doanh nghiệp trong và ngoài quốc
doanh được thành lập. Vì điều này nên tài sản của con người sở hữu sẽ tăng
lên, các nguy cơ rủi ro đối với con người và tài sản của họ cũng tăng lên. Từ

đó nhu cầu bảo hiểm cũng tăng.
+ Thứ tư, Việt Nam là dân tộc có truyền thống “tương thân tương ái”, “lá
lành đùm lá rách”. Tinh thần tương thân tương ái cũng chính là nội dung của
bảo hiểm, vì vậy nét văn hoá Việt Nam chính là một thuận lợi của bảo hiểm.
Bảo hiểm Việt Nam đã có 1 hiệp hội riêng:
Hiệp hội bảo hiểm thực hiện chức năng cầu nối giữa các cơ quan quản
lý nhà nước về hoạt động kinh doanh bảo hiểm, thực hiện quy chế tự quản,
duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh và thúc đẩy hợp tác trong kinh
doanh giữa các doanh nghiệp bảo hiểm.
Bảo hiểm Việt Nam đã có hành lang pháp lý riêng:
Nhà nước Việt Nam đã có các thông tư hướng dẫn thi hành luật kinh doanh
bảo hiểm bảo vệ lợi ích của người được bảo hiểm, người kinh doanh bảo
hiểm và công chúng.
Hoạt động của các công ty bảo hiểm :
Các công ty BHTM là các công ty tài chính phi ngân hàng
- Ở nghiệp vụ thu: phần lớn nguồn thu của các công ty BHTM được hình
thành từ thu phí bảo hiểm, và một phần từ lợi nhuận từ đầu tư.
+ Lĩnh vực Bảo Hiểm Nhân Thọ:
Trên thị trường BHNT có sự đua tranh sôi động của 5 công ty lớn đó là:
công ty bảo hiểm Bảo Việt, Manulife, Prudential, Bảo Minh-CMG và AIA.
Doanh thu phí bảo hiểm của các công ty BHNT đã tăng lên đáng kể.
+ Lĩnh vực BHPNT:
Tốc độ tăng trưởng của BHPNT phụ thuộc nhiều vào các yếu tố khách
quan: đó là tỷ lệ rủi ro và mức độ khốc liệt của nó.
Ngoài nguồn thu từ phí bảo hiểm các công ty bảo hiểm còn có thể thu từ
các hoạt động đầu tư. Tỷ suất lợi nhuận ở thị trường Việt Nam thấp, nhưng
với số lượng vốn nhàn rỗi tương đối lớn, nên lợi nhuận thu từ đầu tư của các
công ty bảo hiểm cũng tương đối lớn.
- Sử dụng vốn
Các công ty bảo hiểm huy động vốn bằng các bán các hợp đồng bảo hiểm

và phải thực hiện thanh toán cho những người được bảo hiểm khi những điều
quy định trong hợp đồng xảy ra. Vì vậy việc sử dụng vốn của các công ty
bảo hiểm tương đối đa dạng và phức tạp:
+ Nghiệp vụ chi trả bảo hiểm:
Để tạo được chữ tín trong kinh doanh bảo hiểm việc chi trả bảo hiểm đúng
chế độ, đúng thời hạn luôn là yếu tố hàng đầu.
+ Nghiệp vụ đầu tư:
Các công ty bảo hiểm là 1 kênh huy động vốn không thể thiếu của nền
kinh tế và hiện đang được khai thác một cách hiệu quả ở nhiều nước.
Những tồn tại của bảo hiểm thương mại
Thứ nhất, thị trường bảo hiểm Việt Nam mới bắt đầu được khai thác, tỷ lệ
doanh thu phí chiếm tỷ trọng trong GDP còn thấp, số người tham gia bảo
hiểm còn ít.
Thứ hai, thị trường bảo hiểm mặc dù đạt mức tăng trưởng cao nhưng lại
không chứa đựng nhiều yếu tố hiệu qủa và bền vững.
Thứ ba, thị trường đầu tư Việt Nam mới ở giai đoạn hình thành trong còn
thiếu công cụ đầu tư dài hạn.
Thứ tư, hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm
còn chưa đồng bộ, một số quy định cần thiết còn thiếu, một số quy định
chưa rõ ràng.
Thứ năm, những hiện tượng cạnh tranh thiếu lành mạnh như thông tin thất
thiệt, kinh doanh theo kiểu “chộp giật”, đại lý chiếm đoạt, chiếm dụng phí
bảo hiểm của khách hàng.
Thứ sáu, hoạt động môi giới bảo hiểm và nhượng tái bảo hiểm còn ít sôi
động: hai công ty môi giới bảo hiểm chưa thực hiện đúng chức năng của
mình.
Thứ bảy, trình độ cán bộ quản lý, cán bộ đại lý bảo hiểm còn thấp, uy tín
và trách nhiệm nghề nghiệp chưa cao.
C. CÁC GIẢI PHÁP CHO VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN BẢO HIỂM Ở VIỆT
NAM

1. Về phía Nhà nước:
• Thực hiện quản lý, tạo môi trường pháp lý thuận lợi
• Áp dụng những chính sách ưu đãi
• Tạo lập và duy trì môi trường kinh doanh an toàn, ổn định
• Xây dựng khuôn khổ pháp lý phù hợp với cơ chế thị trường
• Đổi mới và nâng cao năng lực quản lý của nhà nước đối với hoạt động
kinh doanh bảo hiểm, tiến dần tới thực hiện các nguyên tắc và chuẩn mực
quản lý bảo hiểm quốc tế
• Hoàn thiện cơ chế chính sách để thị trường phát triển lành mạnh, an toàn;
• Khuyến khích việc tham gia của các cá nhân, tổ chức, khuyến khích việc
mở rộng các công ty bảo hiểm.
• Trong bối cảnh Việt Nam đang tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, từng
bước phải mở cửa thị trường theo các hiệp định và cam kết quốc tế,
ngành bảo hiểm đang đứng trước thách thức và vận hội mới, đòi hỏi công
tác quản lý Nhà nước phải có những cải cách phù hợp. Do vậy, việc đào
tạo và đào tạo lại nhằm nâng cao trình độ của đội ngũ quản lý Nhà nước
về lĩnh vực bảo hiểm là rất cấp thiết.
2. Về phía các công ty bảo hiểm :
• Hoàn thiện và nâng cao năng lực về vốn, công nghệ, trình độ quản lý,
kinh doanh…
• Các công ty bảo hiểm cần tạo cho mình 1 vị thế vững chắc, duy trì và
mở rộng thị phần, tạo niềm tin ở khách hàng.
• Các công ty bảo hiểm không chỉ phải đa dạng hóa sản phẩm, nâng
cao chất lượng dịch vụ, mà phải chú trọng chăm sóc khách hàng, giải
quyết nhanh chóng, hợp lý công tác bồi thường tổn thất trong trường
hợp xảy ra rủi ro.
• Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, phong cách phục vụ, nâng
cao đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ kinh doanh bảo hiểm.
• Nắm bắt, ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ vào khai thác
và quản lý các hoạt động kinh doanh

• Hoạt động đầu tư cũng cần được đẩy mạnh một cách có hiệu quả,
bằng cách tận dụng tối đa các công cụ đầu tư tài chính, tham gia tích
cực vào thị trường chứng khoán. Khi tham gia đầu tư vào các công
trình, các dự án có vốn lớn, các công ty cần chú trọng công tác thẩm
định để đảm bảo mức độ an toàn, tính thanh khoản cũng như khả năng
sinh lời cho đồng vốn.
• Xúc tiến thương mại là một trong những yếu tố cơ bản tạo nên thành
công của một doanh nghiệp. Trong lĩnh vực bảo hiểm, yếu tố này có
vai trò rất quan trọng, đặc biệt là ở Việt Nam hiện nay, khi mà nhận
thức của người dân về sự cần thiết của bảo hiểm đối với nền kinh tế,
cũng như đối với đời sống xã hội vẫn còn hạn chế. Đây là một cơ hội
tốt để các doanh nghiệp bảo hiểm nâng cao hiểu biết của người dân về
bảo hiểm, đồng thời xây dựng được hình ảnh của công ty mình trong
những khách hàng tiềm năng.
• Đa dạng hoá các kênh phân phối thông qua nhiều hình thức khác nhau.
Một trong các phương pháp thường gặp hiện nay ở các công ty bảo
hiểm là tiến hành qua hệ thống ngân hàng, qua các tổ chức tài chính.
• Ngoài ra, việc tiếp cận khách hàng bằng thư trực tiếp hoặc Internet
cũng có thể mang lại hiệu quả cao. Trong xu thế thương mại điện tử
đang ngày càng phát triển như hiện nay, việc bán bảo hiểm qua mạng
đang ngày càng phổ biến. Hầu hết các công ty bảo hiểm trên thị
trường Việt Nam đều đã có website riêng, song mới chỉ có một vài
công ty cho phép khách hàng đăng ký mua bảo hiểm, cũng như thanh
toán trực tuyến. Việc triển khai hình thức này còn nhiều khó khăn, do
hạ tầng thông tin nước ta còn yếu kém, thanh toán bằng tiền mặt vẫn
rất phổ biến… Tuy nhiên, đó cũng là một phương thức hiệu quả mà
các công ty bảo hiểm cần quan tâm triển khai nhằm đón trước thời cơ
trong tương lai.
• Bên cạnh việc phát huy nội lực, các công ty bảo hiểm rất cần hợp tác
với nhau trong nhiều mặt. Thông qua Hiệp hội bảo hiểm, các thành

viên có thể có những tác động tích cực nhằm mở rộng, định hướng cho
thị trường, duy trì sự cạnh tranh lành mạnh, chống trục lợi bảo hiểm…
tạo điều kiện phát triển có lợi cho toàn ngành. Không chỉ tăng cường
hợp tác trong nước, các công ty bảo hiểm Việt Nam cũng phải đẩy
mạnh hợp tác quốc tế. Cần nhanh chóng tạo lập, củng cố mối quan hệ
với các công ty bảo hiểm, tái bảo hiểm có kinh nghiệm, uy tín trong
khu vực và quốc tế nhằm hợp tác trong các lĩnh vực đào tạo chuyên
môn, nghiệp vụ cho nguồn nhân lực, trợ giúp về kỹ thuật, công nghệ,
trao đổi thông tin… Việc thúc đẩy hợp tác quốc tế cũng sẽ mở ra
những cơ hội kinh doanh mới cho cả hai phía, tạo thuận lợi cho ngành
bảo hiểm Việt Nam vươn ra với thế giới.
3. Về phía các tổ chức khác
Bên cạnh các việc những nỗ lực từ phía Nhà nước, từ phía các
doanh nghiệp bảo hiểm, sự tham gia của các tổ chức khác có liên quan sẽ
có vai trò rất to lớn. Các doanh nghiệp thuộc nền kinh tế đều cần có nhận
thức rõ ràng hơn về tầm quan trọng của bảo hiểm, đồng thời, tích cực chủ
động tham gia mua bảo hiểm cho tài sản, con người, cũng như trách
nhiệm dân sự. Nhiều lĩnh vực bảo hiểm thiết yếu như bảo hiểm cháy nổ,
bảo hiểm trong nông nghiệp… chưa được các cá nhân, đơn vị quan tâm
một cách đúng mức. Đặc biệt, với những lĩnh vực có tiềm năng lớn như
bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu, bảo hiểm hàng không… các công ty
bảo hiểm rất cần sự hợp tác của các bên liên quan. Các doanh nghiệp kinh
doanh xuất nhập khẩu cần nhận thức ý nghĩa của việc giành quyền mua
bảo hiểm, để chuyển từ tập quán bán FOB, mua CIF sang bán CIF, mua
FOB. Đồng thời, các doanh nghiệp này cũng nên chú trọng mua bảo hiểm
ở những công ty trong nước, vừa tiết kiệm ngoại tệ, vừa thuận tiện trong
giao dịch, trong giải quyết bồi thường, lại góp phần vào việc phát triển
nền bảo hiểm Việt Nam.
 Mở rộng:
Ngày 11/12/2013, Trung tâm Nghiên cứu và Đào tạo bảo hiểm thuộc Cục Quản

lý, giám sát bảo hiểm (Bộ Tài chính) phối hợp với Công ty TNHH
Ernst&Young Việt Nam (EYVN) đã tổ chức thành công Hội thảo "Phát triển
bền vững - Lựa chọn nào cho doanh nghiệp bảo hiểm?" với hơn 100 khách mời
là đại diện các doanh nghiệp bảo hiểm Nhân thọ, Phi nhân thọ, các tập đoàn tài
chính, các trường Đại học, Hiệp hội BHVN,…
"Việc xây dựng, phát triển thị trường bảo hiểm an toàn, lành mạnh, tăng trưởng
bền vững, mở rộng phạm vi người thụ hưởng bảo hiểm, và cung cấp sản phẩm,
dịch vụ bảo hiểm tốt hơn cho người tham gia bảo hiểm là mục tiêu của tất cả
các cơ quan quản lý bảo hiểm của các quốc gia. ” - ông Phùng Ngọc Khánh -
Phó Cục trưởng Phụ trách Cục quản lý, giám sát bảo hiểm - Bộ Tài chính cho
biết.
 Đây là một mục tiêu hướng tới của nhà nước nói chung và doanh nghiệp
bảo hiểm nói riêng, góp phần vào sự phát triển của ngành bảo hiểm nước
ta hiện nay.
________________________________________________________________
Tìm hiểu hệ thống tài chính và vai trò đối với sự p hát triển kinh tế
A. CÁC QUAN NIỆM VỀ HỆ THỐNG TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM
I. Quan niệm thứ nhất
- Chỉ tiêu căn cứ: Căn cứ vào mục tiêu kiểm soát lãi suất, hệ thống tài chính
được chia làm 2 mô hình: hệ thống tài chính được kiểm soát và hệ thống tài
chính tự do.
- Hệ thống tài chính được kiểm soát :
+ Đặc điểm: Lãi suất ngân hàng được ấn định, kiểm soát khá chặt chẽ và gần
như cố định, không tồn tại yếu tố cạnh tranh trong 1 hệ thống ngân hàng độc
quyền bởi nhà nước. Kiểu mô hình hệ thống tài chính này chỉ có thể tồn tại với
điều kiện có sự can thiệp và kiểm soát của nhà nước thông qua hệ thống ngân
hàng thuộc sở hữu bởi nhà nước nhằm mục đích ổn định kinh tế và hướng các
dòng vốn vào lĩnh vực ưu tiên phát triển, phù hợp với một số nước đang phát
triển và các nền kinh tế đang chuyển đổi.
+ Hạn chế: các tài sản tài chính có tính lỏng thấp, gây sự khác biệt về lãi suất

tín dụng, gây nên tình trạng tập trung đầu tư vào các tài sản không bị ảnh hưởng
bởi lạm phát: vàng, bất động sản,…dẫn đến tình trạng thiếu vốn phát triển kinh
tế và tâm lý ỉ lại vào nhà nước.
+ Thực trạng: Ở Việt Nam hoạt động theo nguyên tắc này có Ngân hàng nhà
nước Việt Nam, hoạt động nhằm ổn định giá trị đồng tiền, góp phần đảm bảo an
toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống tín dụng, thúc đẩy nền kinh tế phát triển
theo hướng xã hội chủ nghĩa thông qua các chính sách: quỹ bảo hiểm xã hội,
Ngân hàng chính sách xã hội, quỹ tín dụng trung ương…
Lãi suất cơ bản của nhà nước được duy trì trong 1 khoảng thời gian và do ngân
hàng ấn định.
Giá trị Ngày áp dụng
9% 1/12/2010
9% 5/11/2010
8% 1/11/2010
8% 1/10/210
8% 1/9/2010
8% 1/8/2010
8% 1/7/2010
8% 1/6/2010
8% 1/5/2010
8% 1/4/2010
8% 1/3/2010
8% 1/2/2010
- Hệ thống tài chính tự do:
+Đặc điểm: Các định chế tài chính giữ một vị trí quan trọng trong việc phân bổ
nguồn lực tài chính trong việc phân bổ nguồn lực tài chính và phải đối mặt với
sức ép cạnh tranh của các thị trường tài chính trong quá trình huy động các
nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế. Vì vậy lãi suất ngân hàng chịu sự tác
động hoàn toàn của thị trường. Mô hình này nhằm thúc đẩy cạnh tranh để tạo
động lực phát triển kinh tế, phù hợp với các quốc gia có nền kinh tế phát triển.

+ Hạn chế: có thể gây mất ổn định kinh tế vĩ mô, rủi ro cao, khủng hoảng ngân
hàng dẫn đến khủng hoảng kinh tế.
+ Thực trạng: Các tổ chức tài chính ở Việt Nam hoạt động theo mô hình này:
các công tay bảo hiểm không thuộc nhà nước, các công ty chứng khoán không
thuộc nhà nước.
 Nhận xét: Theo quan niệm này, hệ thống tài chính đã nhấn mạnh tới vai trò
kiểm soát của nhà nước, đặc biệt là kiểm soát đối với lãi suất. Cho đến nay thực
tế đã chứng minh việc đề cao hay xem nhẹ quá mức vai trò kiểm soát của nhà
nước đối với lãi suất đều gây ra những tác động khôn lường đối với nền kinh tế.
II, Quan niệm thứ hai
-Khái niệm: Hệ thống tài chính là tổng thể các hoạt động tài chính trong các
lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế quốc dân, nhưng có quan hệ hữu cơ với nhau
trong quá trình tạo tập và sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đáp ứng các nhu cầu
khác nhau của các chủ thể kinh tế-xã hội.
-Căn cứ: Việc xây dựng hệ thống tài chính theo quan điểm này xuất phát từ các
chủ thể trong nền kinh tế. Mỗi chủ thể được xác định là chủ thể phân phối tài
chính, được coi là “mắt xích tài chính” hay còn gọi là một “khâu” trong hệ
thống tài chính, bao gồm: ngân sách nhà nước, tài chính doanh nghiệp, tín dụng,
bảo hiểm, tài chính hộ gia đình. Ở đây, thị trường tài chính không được coi là
một khâu tài chính mà chỉ là “môi trường” cho các khâu tài chính hoạt động.
- Ngân sách nhà nước: là khâu quan trọng nhất, giữ vai trò chủ đạo trong hệ
thống tài chính thực hiện việc điều tiết, chi phối, hướng dẫn các khâu tài chính
khác, gắn liền với chức năng, nhiệm vụ của nhà nước, đồng thời là phương tiện
vật chất cần thiết để hệ thống chính quyền nhà nước thực hiện được nhiệm vụ
của mình. Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, Ngân sách nhà nước có
vai trò to lớn trong điều tiết vĩ mô của nền kinh tế xã hội. Đó là vai trò định
hướng phát triển sản xuất, điều tiết thị trường, bình ổn giá cả, điều chỉnh đời
sống xã hội…Để thực hiện được các vai trò đó, ngân sách nhà nước phải có các
nguồn vốn được tập trung từ các tụ điểm vốn thông qua các chính sách thu thích
hợp. Ngân sách nhà nước thực hiện các khoản chi cho tiêu dùng thường xuyên

và đầu tư cho phát triển kinh tế. Việc cấp phát vốn ngân sách nhà nước cho các
mục đích khác nhau sẽ làm tăng nguồn vốn ở các tụ điểm nhận vốn. Như vậy,
hoạt động thu-chi của ngân sách nhà nước đã làm nảy sinh các mối quan hệ kinh
tế giữa nhà nước với các tổ chức kinh tế, xã hội, các tầng lớp dân cư và các nhà
nước khác.
- Các khâu cơ sở: tài chính doanh nghiệp, tài chính hộ gia đình và các tổ chức
xã hội khác
+ Tài chính doanh nghiệp: chính tại đây nguồn tài chính xuất hiện đồng thời
cũng là nơi thu hút trở lại của các nguồn tài chính trong nền kinh tế. Trong hệ
thống tài chính, tài chính doanh nghiệp được coi như những tế bào có khả năng
tái tạo ra các nguồn tài chính. Do vậy, nó có khả năng tác động rất lớn đến đời
sống xã hội, đến sự phát triển hay suy thoái của nền sản xuất. Tài chính doanh
nghiệp có quan hệ mật thiết với tất cả các bộ phận của hệ thống tài chính trong
quá trình hình thành và sự dụng vốn cho các nội dung khác nhau, quá trình kinh
doanh chứng khoán trên thị trường chứng khoán. Mỗi quan hệ đều có những nét
khác biệt và có những tác động khác nhau đến tài chính doanh nghiệp. Chính sự
đa dạng này phản ánh mối quan hệ giữa tài chính doanh nghiệp với các bộ phận
khác của hệ thống tài chính.
+ Tài chính hộ gia đình và các tổ chức xã hội: Đây là một tụ điểm vốn quan
trọng trong hệ thống tài chính. Hoạt động tài chính của các nước có nền kinh tế
phát triển và ở nước ta những năm gần đây đã chỉ ra rằng: nếu có những biện
pháp thích hợp, chúng ta có thể huy động vốn đáng kể từ các hộ gia đình để
phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế , đồng thời còn góp phần to lớn vào
việc thực hiện các chính sách về định hướng tích lũy và tiêu dùng của nhà nước.
- Các khâu trung gian: Tín dụng, bảo hiểm.
Các trung gian tài chính trên thực hiện việc dẫn vốn thông qua hoạt động tài
chính gián tiếp. Trước hết các trung gian tài chính huy động vốn từ những người
có vốn bằng nhiều hình thức để tạo thành vốn kinh doanh của mình. Sau đó sử
dụng vốn kinh doanh này để cho người cần vốn vay lại hoặc thực hiện các hình
thức đầu tư khác. Bằng cách này, các trung gian tài chính đã tập trung được các

nguồn vốn nhỏ từ các hộ gia đình và các tổ chức kinh tế thành một lượng vốn
lớn, đáp ứng nhu cầu của người cần vốn từ những khối lượng vay nhỏ đến
những khối lượng vay lớn. Chính vì vậy, các trung gian tài chính đã đáp ứng
được những nhu cầu mà thị trường tài chính không giải quyết được hoặc giải
quyết không hiệu quả.
- Hạn chế: Trong điều kiện nền kinh tế mở, các công cụ bảo hộ của nhà nước
giảm dần, sự can thiệp của nhà nước chỉ dừng lại ở một số lĩnh vực nhất định,
và trong những trường hợp nhất định, các dòng vốn luân chuyển một cách nhạy
bén linh hoạt trong phạm vi toàn cầu…Hơn nữa, trong nền kinh tế hiện đại, tài
chính không chỉ dừng lại là hệ thống các mối quan hệ tài chính giữa các chỉ thể
trong nền kinh tế mà còn được coi là phương tiện hữu hiệu để thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế về tổng thể. Chính vì vậy, việc tổ chức và quản lý hệ thống tài
chính theo quan điểm này sẽ không còn phù hợp với nền kinh tế hội nhập sâu và
rộng vào nền kinh tế thế giới.
 Nhận xét: Hệ thống tài chính theo quan niệm này đã đề cập đến tổng thể các
hoạt động của một tập hợp các định chế tài chính có mối quan hệ ràng buộc chặt
chẽ nhằm thúc đẩy quá trình luân chuyển vốn với nhau. Xây dựng và quản lý tài
chính theo quan niệm này phù hợp với các quốc gia có nền kinh tế đang trong
quá trình chuyển đổi, ở đó cần có sự can thiệp khá sâu của nhà nước góp phần
thúc đẩy và bảo vệ nền kinh tế chưa đủ sức cạnh tranh với nền kinh tế toàn cầu.
III, Quan niệm thứ ba
- Khái niệm: Hệ thống tài chính là một tổng thể bao gồm các thị trường tài
chính, các định chế tài chính trung gian, cơ sở hạ tầng pháp lý- kĩ thuật và các tổ
chức quản lý giám sát và điều hành hệ thống tài chính để tổ chức và phân bổ
nguồn lực tài chính nhằm đạt được mục tiêu của các chủ thể trong nền kinh tế.
- Căn cứ: Hệ thống tài chính được xem xét theo cách thức luân chuyển và cung
ứng vốn cho nền kinh tế.
- Hệ thống tài chính bao gồm: thị trường tài chính, các định chế trung gian tài
chính, cơ sở hạ tầng pháp lý- kĩ thuật, tổ chức, các tổ chức giám sát và điều
hành hệ thống tài chính.

- Dòng vốn được chuyển từ người có vốn sang người cần vốn thông qua 2 kênh:
thị trường tài chính và trung gian tài chính.
+ Sự vận động thông qua thị trường tài chính gọi là kênh dẫn vốn trực tiếp.
+ Sự vận động thông qua trung gian tài chính gọi là kênh dẫn vốn gián tiếp.
- Dòng luân chuyển vốn:
Người có vốn  Thị trường tài chính  Người cần vốn
+ Đặc điểm: Thị trường tài chính là nơi diễn ra các hoạt động mua bán quyền
sử dụng nguồn tài chính. Ở đây, người có vốn và người có vốn gặp gỡ nhau một
cách trực tiếp, giá cả của quyền sử dụng nguồn tài chính được hình thành theo
quan hệ cung cầu nên vừa có lợi cho người có vốn, vừa có lợi cho người cần
vốn.
Ví dụ: Cho vay nặng lãi hoặc vay nóng.
+ Ưu điểm: Không mất chi phí chuyển giao vốn, luân chuyển vốn nhanh gọn.
+ Nhược điểm: Rủi ro cao do thiếu kiến thức, thiếu kinh nghiệm, quy mô nhỏ.
- Dòng luân chuyển vốn:
Người có vốn  Trung gian tài chính  Người cần vốn
+ Đặc điểm: Người có vốn và người cần vốn không gặp nhau một cách trực
tiếp mà thông qua trung gian tài chính như các ngân hàng thương mại, công ty
tài chính, quỹ bảo hiểm…Các trung gian tài chính là người chắp nối thông tin
giữa người có vốn và người cần vốn tham gia vào quá trình phân bổ vốn.
+ Ưu điểm: hoạt động chuyên nghiệp, rủi ro thấp, quy mô lớn.
+ Nhược điểm: làm tăng chi phí của người cần vốn và giảm lợi nhuận của
người có vốn.
- Dòng luân chuyển vốn:
Người có vốn  Thị trường tài chính  Trung gian tài chính
+ Đặc điểm: Dòng luân chuyển này thể hiện các trung gian tài chính cũng chính
là một chủ thể cần vốn, họ có thể phát hành chứng khoán ra thị trường tài chính
để huy động vốn.
+ Ưu điểm: mang tính chủ động, tăng khả năng thanh khoản.
+ Nhược điểm: làm tăng chi phí so với huy động vốn từ tiền gửi.

- Dòng luân chuyển vốn:
Trung gian tài chính  Thị trường tài chính  Người cần vốn
+ Đặc điểm: Dòng vốn này thể hiện hoạt động đầu tư của các trung gian tài
chính trên thị trường tài chính. Các trung gian tài chính có thể đầu tư mua cổ
phiếu, trái phiếu khi họ thấy có lợi.
+ Ưu điểm: làm tăng lợi nhuận cho các trung gian tài chính.
+ Nhược điểm: Tiềm ẩn rủi ro cao.
 Nhận xét: Đây là quan điểm hoàn thiện nhất về hệ thống tài chính. Dòng
vốn trong xã hội được luân chuyển theo nhiều cách thức khác nhau. Mỗi cách
thức luân chuyển vốn đều mang lại những điểm lợi và bất lợi cho người có vốn
và người cần vốn. Xét trên góc độ tổng thể, sự vận động đa dạng của các dòng
vốn đã làm cho vốn trong xã hội được sử dụng một cách triệt để và kích thích
đồng vốn “chảy” được đến nơi hiệu quả sử dụng cao nhất, từ đó tạo điều kiện
cho nền kinh tế tăng trưởng.
B. VAI TRÒ CỦA HỆ THỐNG TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI SỰ PHÁT
TRIỂN KINH TẾ
Vai trò của hệ thống tài chính thể hiện thông qua các mối liên hệ giữa các dòng
vốn với tăng trưởng kinh tế và sự điều hành của các định chế tài chính (chủ yếu
là các trung gian tài chính) trong việc phân bổ nguồn lực vào các khu vực kinh
tế, các hoạt động kinh tế một cách hiệu quả. Qua đó ta thấy, hệ thống tài chính
có 2 vai trò cơ bản sau đây:
1. HTTC tạo ra các dòng vốn phục vụ cho tăng trưởng kinh tế
Từ sơ đồ dòng tiền trên ta thấy hệ thống tài chính thông qua các kênh huy động
vốn trực tiếp và gián tiếp, đã huy động tối đa nguồn tài chính trong và ngoài
nước
Đáp ứng mọi nhu cầu vốn phục vụ cho đầu tư và hoạt động sản
xuất kinh doanh.
Tạo ra các dòng vốn phục vụ cho tăng trưởng kinh tế.
Vai trò của các dòng vốn đến tăng trưởng kinh tế:
• Dòng vốn nội sinh: thường được cung cấp bởi chính phủ hoặc tư nhân

thông qua các trung gian tài chính, là nguồn vốn chủ yếu, quyết định.
 Dòng vốn chính phủ: quan trọng nhất là đầu tư từ ngân sách nhà
nước. Chúng mở ra các khoản đầu tư từ đó hỗ trợ cho đầu tư tư
nhân phát triển. Ngoài ra, chính phủ còn quan tâm đầu tư vào
những ngành nghề mới, khu vực mới, góp phần hướng dẫn, thúc
đẩy đầu tư tư nhân phát triển đúng hướng.
 Dòng vốn tư nhân: được các trung gian tài chính huy động từ các
nguồn khác nhau như tiết kiệm dân cư, phần tích lũy của các doanh
nghiệp… Đây là nguồn vốn có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc
tạo ra sản phẩm cho xã hội.
• Dòng vốn quốc tế: bao gồm các dòng vốn chảy vào và chảy ra dưới hình
thức đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. Chính phủ khai thác nguồn vốn
này thông qua việc gọi vốn cổ phần và vay nợ. Đây là nguồn vốn quan
trọng.
 Việc gọi vốn cổ phần, ví dụ như vốn FDI giúp các doanh nghiệp
tranh thủ được nguồn vốn để mở rộng kinh doanh đồng thời được
chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật và kinh nghiệm quản lý hiện
đại của các doanh nghiệp nước ngoài.
 Nguồn vốn nợ, đặc biệt là vốn ODA: đây là nguồn vốn nợ với chi
phí thấp giúp phát triển kinh tế xã hội, điều chỉnh cơ cấu kinh tế.
Nước ta là một nước đang phát triển, dòng vốn nội sinh chưa đủ đáp ứng
nhu cầu vì vậy nguồn vốn quốc tế là nguồn bổ sung hữu hiệu. Cần phải
khai thác tối đa các nguồn vốn để tăng trưởng kinh tế.
2. HTTC (chủ yếu là các trung gian tài chính) có vai trò phân bổ nguồn
tài chính một cách hiệu quả
Trung gian tài chính có khả năng huy động các nguồn vốn nhỏ lẻ từ tất cả
các chủ thể trong nền kinh tế tập trung thành nguồn vốn lớn để đáp ứng
nhu cầu vốn của các nhà đầu tư. Qua đó, những người có các món tiết
kiệm nhỏ lẻ sẽ tìm được cơ hội đầu tư sinh lợi và an toàn. Những người
không quen biết nhau nhưng thông qua trung gian tài chính vẫn có thể tạo

lập được các mối quan hệ vay mượn.
Các trung gian tài chính hoạt động mang tính chuyên nghiệp cao nên giúp
giảm thiểu được rủi ro và các chi phí giao dịch.
Ý nghĩa mà các trung gian tài chính mang lại đó là sự tích lũy vốn cho
nền kinh tế và hỗ trợ đổi mới công nghệ cho vấn đề tăng trưởng nhìn ở
nhiều khía cạnh khác nhau. Các trung gian tài chính đã tạo ra cơ chế để
các dòng vốn đi qua một cách thuận lợi.
Như vậy, với khả năng huy động vốn và các sản phẩm đa dạng, phong
phú, hệ thống tài chính đã tạo điều kiện cho các nguồn vốn trong xã hội
được phân bổ một cách hiệu quả, linh hoạt từ người có vốn sang người
cần vốn, không chỉ trong phạm vi quốc gia mà còn trong toàn khu vực và
thế giới. Chính điều này đã giúp các nguồn tài chính được chuyển đến
cho ngành hay nền kinh tế có hiệu quả cao nhất.
Có thể tóm tắt vai trò của hệ thống tài chính với phát triển kinh tế trong
hai sơ đồ sau:

×