Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Tìm hiểu hệ thống tài chính việt nam, vai trò của hệ thống tài chính đối với sự phát triển kinh tế việt nam (bảo hiểm)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (239.43 KB, 18 trang )

TÀI CHÍNH HỌC – NHÓM 5
Chủ đề 1: Tìm hiểu Hệ thống tài chính Việt Nam, vai trò của hệ thống tài chính đối với sự
phát triển kinh tế Việt Nam. Tìm hiểu hoạt động của 1 loại trung gian tài chính ở Việt Nam
(Cụ thể là công ty Bảo Hiểm).
I. Cơ cấu hệ thống tài chính của Việt Nam và vai trò đối với sự phát triển kinh tế
Hệ thống tài chính Việt Nam hiện nay gồm 4 thành tố chính
1. Thị trường tài chính
Thị trường tài chính là nơi diễn ra các hoạt động mua bán quyền sử dụng nguồn tài
chính. Có rất nhiều cách chia thị trường tài chính khác nhau:
- Dựa vào thời hạn của tín dụng, thị trường tài chính được chia làm hai loại là thị trường
tiền tệ (nơi giao dịch các công cụ tài chính có thời hạn dưới 1 năm) và thị trường vốn (nơi
giao dịch các công cụ tài chính có thời hạn trên 1 năm). Ở Việt Nam, hầu hết vốn ngắn
hạn, trung hạn và dài hạn đều do các ngân hàng thương mại cung cấp.
- Dựa trên loại tín dụng, hiện Việt Nam cũng đã có thị trường tín phiếu, thị trường trái
phiếu, thị trường cổ phiếu; thị trường vay nợ ngân hàng. Trong đó, thị trường vay nợ ngân
hàng là chủ yếu.
- Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp: Việt Nam cũng đã có thị trường sơ cấp là nơi
phát hành chứng khoán lần đầu tiên. Trên thị trường thứ cấp, hiện có 26 loại cổ phiếu, một
chứng chỉ của quỹ đầu tư VF1, các loại trái phiếu chính phủ và trái phiếu của Ngân hàng
Đầu tư và Phát triển Việt Nam được giao dịch.
- Thị trường tập trung và thị trường phi tập trung: Ở Việt Nam, số lượng các doanh
nghiệp giao dịch trên thị trường tập trung là rất ít, trong khi các giao dịch trên thị trường
phi tập trung là chủ yếu.
- Thị trường chính thức và phi chính thức: Ngoài thị trường tài chính chính thức, nơi mà
các ngân hàng, các công ty tài chính, các công ty chứng khoán … hoạt động, còn có thị
trường phi chính thức là các hợp tác xã tín dụng, các tổ chức tín dụng vi mô ở nông thôn,
hụi … hoạt động. Các loại hình tín dụng phi chính thức này đóng một vai trò đáng kể
trong phát triển kinh tế xã hội Việt Nam.

Các công cụ tài chính
Hiện tại trên thị trường tài chính Việt Nam có các loại công cụ tài chính sau:


- Các khoản cho vay của các ngân hàng và các tổ chức tài chính khác: Phần này chiếm tỷ
trọng chủ yếu trong việc phân phối vốn cho nền kinh tế.
- Trái phiếu chính phủ: Tổng giá trị trái phiếu chính phủ giao dịch trên thị trường chứng
khoán là 24.000 tỷ đồng. Ngoài ra trái phiếu chính phủ còn được phát hành thông qua hệ
thống các kho bạc nhà nước địa phương.
- Tín phiếu kho bạc: Loại này do Kho bạc nhà nước phát hành và được đấu giá chủ yếu
1
thông qua thị trường mở của Ngân hàng nhà nước. Đây là một công cụ huy động nguồn
vốn cho chi tiêu ngân sách rất quan trọng của chính phủ.
- Trái phiếu đô thị: Do các chính quyền địa phương (tỉnh, thành phố) phát hành. Hiện tại
mới có thành phố Hồ Chí Minh phát hành loại trái phiếu này.
- Trái phiếu công ty: Loại này tương đối ít, chủ yếu do các ngân hàng thương mại và các tổ
chức tài chính phát hành. Hiện nay có hai loại trái phiếu đang được giao dịch tương đối
phổ biến trên thị trường là trái phiếu của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam và Trái
phiếu của Tổng công ty dầu khí Việt Nam.
- Chứng chỉ tiền gửi: đặc trưng của Việt Nam, chứng chỉ tiền gửi là một loại giấy tờ có giá
do các ngân hàng phát hành có thời hạn trên 1 năm với những đặc điểm tương tự như trái
phiếu. Loại hình giấy tờ có giá do các ngân hàng thương mại phát hành có thời hạn dưới
một năm được gọi là kỳ phiếu.
- Cổ phiếu: Hiện ở Việt Nam đã có rất nhiều công ty cổ phần nên loại hình này tương đối
phổ biến. Tuy nhiên mới chỉ có 26 công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán, với tổng
giá trị cổ phiếu chiếm khoảng 0,5% GDP.
- Hợp đồng mua lại chứng khoán: Hiện nay chưa có giao dịch chính thức.
- Phiếu nợ thương mại (thương phiếu): Hiện đã có pháp lệnh về thương phiếu, nhưng hầu
như chưa có doanh nghiệp nào phát hành thương phiếu.
- Hối phiếu có ngân hàng chấp thuận: Hiện loại hình này thực hiện trong các giao dịch
ngoại thương.
- Vay liên ngân hàng: Đây là loại hình giao dịch rất phổ biến giữa các ngân hàng thương
mại với nhau. Các loại hình cho vay phổ biến gồm, cho vay qua đêm, cho vay có kỳ hạn 3
tháng, 6 tháng.

- Vay thế chấp mua bất động sản: Hiện ở Việt Nam đã có công cụ này và các ngân hàng
thương mại cổ phần đi đầu trong việc cho vay theo phương thức này.
Các loại công cụ tài chính phái sinh
- Hợp đồng kỳ hạn (Forward contract): Hiện trên thị trường Việt Nam có loại hình giao
dịch này và chủ yếu là các hợp đồng mua bán ngoại tệ.
- Hoán đổi (Swap): Hiện ở Việt Nam đã có loại hình này, nhưng lượng giao dịch rất hạn
chế. Các giao dịch chủ yếu được thực hiện trên thị trường ngoại hối. Các loại hình hoán
đổi khác như lãi suất … hầu như chưa xuất hiện.
- Quyền chọn: Hiện một số ngân hàng Việt Nam đã có loại hình giao dịch này, nhưng khối
lượng giao dịch là rất hạn chế. Chưa có tổ chức tài chính nào thực sự bán quyền chọn mà
chỉ thực hiện dưới hình thức là các trung gian.
2. Trung gian tài chính
2.1. Các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng
a. Vị trí: là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng
và các quy định khác của pháp luật để hoạt động ngân hàng.
2
b. Vai trò
• Huy động vốn: gồm Nhận tiền gửi, Phát hành giấy tờ có giá, Vay vốn giữa các tổ chức tín
dụng, Vay vốn của Ngân hàng Nhà nước.
• Cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và
giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính.
• Dịch vụ thanh toán và ngân quỹ: Mở tài khoản, Dịch vụ thanh toán, Dịch vụ ngân quỹ,
tham gia các hệ thống thanh toán.
• Các hoạt động khác: Góp vốn, mua cổ phần, Tham gia thị trường tiền tệ, Kinh doanh
ngoại hối và vàng, Nghiệp vụ uỷ thác và đại lý, Kinh doanh bất động sản, Kinh doanh và
dịch vụ bảo hiểm, Dịch vụ tư vấn.
c. Tầm ảnh hưởng
+ Ngân hàng thương mại: Hiện ở Việt Nam có 5 ngân hàng thương mại quốc doanh
chiếm hơn 70% thị phần tín dụng và huy động vốn; 37 ngân hàng cổ phần đô thị và nông
thôn, chiếm 11% thị phần tín dụng và huy động vốn; 27 chi nhánh ngân hàng nước ngoài,

4 ngân hàng liên doanh chiếm 12% thị phần huy động vốn và tín dụng.
Chức năng trung gian tín dụng là chức năng quan trọng nhất của ngân hàng thương mại.
NHTM đóng vai trò là cầu nối giữa người thừa vốn và người có nhu cầu về vốn; vừa đóng
vai trò là người đi vay, vừa đóng vai trò là người cho vay và hưởng lợi nhuận là khoản
chênh lệch giữa lãi suất nhận gửi và lãi suất cho vay.
Chức năng trung gian thanh toán: NHTM đóng vai trò là thủ quỹ cho các doanh nghiệp
và cá nhân, thực hiện các thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ
tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc nhập vào tài
khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán hàng và các khoản thu khác theo lệnh
của họ.
Chức năng tạo tiền: phản ánh rõ bản chất của ngân NHTM. Chức năng tạo tiền được thực
thi trên cơ sở hai chức năng khác của NHTM là chức năng tín dụng và chức năng
thanh toán. Thông qua chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng sử dụng số vốn
huy động được để cho vay, số tiền cho vay ra lại được khách hàng sử dụng để mua
hàng hóa, thanh toán dịch vụ trong khi số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của
khách hàng vẫn được coi là một bộ phận của tiền giao dịch, được họ sử dụng để
mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ… Với chức năng này, hệ thống NHTM đã làm
tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán,
chi trả của xã hội. Ngân hàng thương mại tạo tiền phụ thuộc vào tỉ lệ dự trữ bắt
buộc của ngân hàng trung ương đã áp dụng đối với nhtm. Do vậy ngân hàng trung
ương có thể tăng tỉ lệ này khi lượng cung tiền vào nền kinh tế lớn.
+ Tổ chức tín dụng phi ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện một số
3
hoạt động ngân hàng như là nội dung kinh doanh thường xuyên, nhưng không được nhận
tiền gửi không kỳ hạn, không làm dịch vụ thanh toán. Tổ chức tín dụng phi ngân hàng
gồm công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng
khác.
• Các công ty tài chính: Hiện có 5 công ty tài chính trực thuộc các tổng công ty lớn. Các
công ty tài chính này chủ yếu là dàn xếp tài chính cho tổng công ty mà nó trực thuộc.
• Các công ty cho thuê tài chính: Hiện có 9 công ty cho thuê tài chính, trong đó có 3 liên

doanh. 6 công ty còn lại trực thuộc 4 ngân hàng thương mại quốc doanh. Trong đó, Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Việt Nam có 2 công ty. Nhìn chung hoạt động thuê mua tài chính còn nhiều hạn chế.
• Các quỹ tín dụng: có hai loại hình quỹ tín dụng là quỹ tín dụng trung ương và quỹ tín
dụng khu vực. Tổng số các hợp tác xã tín dụng là 898 và chiếm 1,5% thị phần huy động
vốn và cho vay.
Ngoài ra còn một số loại hình tổ chức tài chính khác hoạt động theo Luật các tổ chức
tín dụng là các công ty quản lý tài sản, các tổ chức cầm đồ…
2.2. Các công ty bảo hiểm
Hiện có khoảng 24 công ty bảo hiểm đang hoạt động tại Việt Nam với tổng vốn điều lệ
gần 5.000 tỷ đồng. Trong đó có 4 doanh nghiệp nhà nước, 7 công ty bảo hiểm cổ phần, 7
công ty bảo hiểm liên doanh và 6 doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Các công ty bảo
hiểm hoạt động theo Luật bảo hiểm và chịu sự quản lý của Bộ Tài chính.
a. Vị trí: được thành lập theo quy định của Luật Kinh doanh Bảo hiểm và các quy định
khác của pháp luật để hoạt động Bảo hiểm bảo vệ quyền là lợi ích hợp pháp của những tổ
chức, cá nhân tham gia bảo hiểm.
b. Vai trò
• Bảo toàn vốn sản xuất kinh doanh và ổn định đời sống của người tham gia bảo
hiểm;
• Đề phòng và hạn chế tổn thất;
• Bảo hiểm là một công cụ tín dụng;
• Góp phần thúc đẩy phát triển quan hệ kinh tế giữa các nước thông qua hoạt động
tái bảo hiểm.
c. Tầm ảnh hưởng
Bảo hiểm là những quan hệ kinh tế gắn liền với quá trình hình thành, phân phối và sử
dụng các quỹ tập trung - quỹ bảo hiểm - nhằm xử lý các rủi ro, các biến cố. Bảo hiểm bảo
đảm cho quá trình tái sản xuất và đời sống của xã hội được diễn ra bình thường. Bảo hiểm
được xem như là một cách thức chuyển giao rủi ro tiềm năng một cách công bằng từ
một cá thể sang cộng đồng thông qua phí bảo hiểm.
2.3. Một số hình thức trung gian tài chính khác

4
a. Quỹ lương hưu: hiện Việt Nam chưa có quỹ lương hưu, nhưng có một quỹ rất lớn
đó là bảo hiểm xã hội Việt Nam.
Bảo hiểm xã hội Việt Nam là cơ quan thuộc Chính phủ, có chức năng thực hiện chính
sách, chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và quản lý Quỹ bảo hiểm xã hội theo quy định
của pháp luật. Bảo hiểm xã hội Việt Nam chịu sự quản lý nhà nước của Bộ Lao động
Thương binh và Xã hội về BHXH, của Bộ Y tế về bảo hiểm y tế, của Bộ Tài chính về chế
độ chính sách đối với các quỹ BHXH, bảo hiểm y tế.
Phần thặng dư của Bảo hiểm xã hội Việt Nam chủ yếu chuyển sang Quỹ Hỗ trợ phát
triển.
b. Tiết kiệm bưu điện: Đây là tổ chức thực hiện các loại hình huy động tiết kiệm nhỏ lẻ dựa
trên hệ thống bưu cục rộng khắp của Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam. Tổng
số vốn Tiết kiệm bưu điện huy động được gần 30.000 tỷ đồng. Phần huy động này chủ yếu
chuyển giao sang cho Quỹ hỗ trợ Phát triển.
c. Quỹ hỗ trợ phát triển và các quỹ đầu tư phát triển của các tỉnh, thành phố: Quỹ hỗ trợ
phát triển là tổ chức cấp tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước cho các dự án. Quỹ này
trực thuộc Bộ tài chính. Các quỹ đầu tư phát triển địa phương trực thuộc các ủy ban nhân
dân tỉnh, thành phố. Các qũy đầu tư này có nhiệm vụ cho vay các dự án theo định hướng
phát triển của từng địa phương. Quỹ hỗ trợ phát triển và các quỹ đầu tư phát triển của các
địa phương hoạt động không chịu sự chi phối của luật các tổ chức tín dụng và không chịu
sự giám sát của Ngân hàng Nhà nước.
3. Cơ sở hạ tầng pháp lí – kĩ thuật
- Hệ thống luật pháp và quản lý của nhà nước: Tính đến thời điểm hiện tại, với bối cảnh và
điều kiện thực tiễn ở Việt Nam thì hệ thống luật pháp được đánh giá là tương đối đầy đủ
để hệ thống tài chính hoạt động. Hiện đã có Luật Ngân sách nhà nước, Luật Ngân hàng
nhà nước, Luật các tổ chức tín dụng, Luật bảo hiểm, luật chứng khoán. Tuy nhiên vấn đề
quản lý nhà nước chưa thực sự đồng bộ và thống nhất. Một số tổ chức có quy mô hoạt
động tín dụng rất lớn nhưng không chịu sự chi phối của Luật các tổ chức tín dụng và chịu
sự giám sát của Ngân hàng nhà nước như Quỹ Hỗ trợ phát triển và các quỹ đầu tư phát
triển địa phương. Tổng tài sản của Quỹ hỗ trợ phát triển có thể lớn hơn tổng tài sản của

ngân hàng thương mại lớn nhất Việt Nam là Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn.
- Nguồn lực và thông lệ giám sát: Theo đánh giá thì nguồn lực và các thông lệ giám sát
chưa đáp ứng nhu cầu cho hệ thống tài chính hoạt động lành mạnh, phát triển bền vững và
hội nhập quốc tế.
- Cung cấp thông tin: Hiện nay các ngân hàng nói riêng, các tổ chức tài chính nói chung
đang từng bước áp dụng các chuẩn mực kế toán quốc tế. Các quy định về kiểm toán vẫn
chưa thực sự đầy đủ và được tuân thủ một cách nghiêm ngặt. Hiện vẫn chưa có hệ thống
lưu trữ thông tin tín dụng và tổ chức xếp loại tín dụng đủ độ tín cậy. Hiện trung tâm thông
5
tin tín dụng (CIC) của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đang đảm nhận nhiệm vụ này. Tuy
nhiên để trở thành một tổ chức có độ tin cậy cao thì CIC còn rất nhiều việc phải làm.
- Hệ thống thanh toán: Các tổ chức tài chính, nhất là các ngân hàng thương mại đã xây
dựng hệ thống thanh toán tập trung. Từ năm 2002, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã
triển khai hệ thống thanh toán liên ngân hàng. Đây là một bước tiến trong việc áp dụng
công nghệ thanh toán của hệ thống tài chính Việt Nam. Khi tất cả các ngân hàng xây dựng
xong hệ thống này thì công nghệ thanh toán của hệ thống tài chính Việt Nam là đảm bảo.
4. Các tổ chức điều hành, giám sát hệ thống tài chính
4.1. Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia Việt Nam
Là cơ quan do Thủ tướng Chính phủ thành lập, có tư cách pháp nhân, có trụ sở và con
dấu riêng; được mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nước và ngân hàng thương mại; được bố trí
biên chế hành chính chuyên trách; kinh phí hoạt động của Ủy ban do ngân sách nhà nước
bảo đảm và được bố trí trong kinh phí hoạt động thường xuyên của Văn phòng Chính phủ.
Các chức năng cụ thể của Ủy ban là:
• Điều phối hoạt động giám sát chuyên ngành; giám sát chung thị trường tài chính và
việc chấp hành các thông lệ, chuẩn mực quốc tế về hoạt động giám sát của các cơ quan
thanh tra - giám sát chuyên ngành trong lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm.
• Giám sát điều kiện được cấp phép hoạt động của các tổ chức tín dụng, tổ chức tín
dụng phi ngân hàng hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm.
• Phân tích, dự báo, cảnh báo mức độ an toàn hệ thống tài chính - ngân hàng và nguy

cơ rủi ro đối với thị trường tài chính quốc gia; thiết lập cơ sở dữ liệu, tổng hợp, xử lý và
cung cấp các thông tin về thị trường tài chính quốc gia báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
• Kiến nghị với các cơ quan thanh tra - giám sát chuyên ngành và cấp có thẩm quyền
xử lý vi phạm đối với các tổ chức, cá nhân không chấp hành hoặc không thực hiện đầy đủ
các điều kiện trong hoạt động ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán.
• Được yêu cầu Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các tổ chức hoạt động
trong lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm cung cấp định kỳ và đột xuất các thông
tin liên quan về tài chính - ngân hàng; được trưng tập các cán bộ của các Bộ, ngành khi
cần thiết để thực hiện chức năng, nhiệm vụ giám sát được giao.
4.2. Ngân hàng Trung ương
- Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động
ngân hàng; là ngân hàng duy nhất phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và
ngân hàng làm dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ.
- Hoạt động của Ngân hàng Nhà nước nhằm điều tiết vĩ mô thông qua xây dựng,
thực thi chính sách tiền tệ quốc gia và thanh tra giám sát các tổ chức tín dụng Ngân
Hàng:
6
• Việc xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ quốc gia giúp:
- Ổn định giá cả để định hướng phát triển kinh tế của quốc gia vì nó làm tăng khả
năng dự đoán những biến động của môi trường kinh tế vĩ mô. Mức lạm phát thấp và ổn
định tạo nên môi trường đầu tư ổn định, thúc đẩy nhu cầu đầu tư và đảm bảo sự phân bố
nguồn lực xã hội một cách hiệu quả
- Tăng trưởng kinh tế: Chính sách tiền tệ của NHTW phải đảm bảo sự tăng lên của GDP
thực tế.
- Đảm bảo công ăn việc làm đầy đủ. Chính sách tiền tệ phải quan tâm đến khả năng tạo
công ăn việc làm, giảm áp lực xã hội của thất nghiệp.
• Việc thực hiện thanh tra, giám sát các tổ chức tín dụng của NHTW góp phần bảo đảm an
toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng, ngoài ra còn nhằm mục đích
bảo đảm sự công bằng và bình đẳng trong quan hệ giữa các tổ chức tín
dụng với khách hàng

4.3. Bộ Tài chính
Là cơ quan của chính phủ Việt Nam thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tài
chính, ngân sách nhà nước, thuế, phí, lệ phí và thu khác của ngân sách nhà nước, dự trữ
quốc gia, các quỹ tài chính nhà nước, đầu tư tài chính, tài chính doanh nghiệp và hoạt
động dịch vụ tài chính (gọi chung là lĩnh vực tài chính - ngân sách), hải quan, kế
toán, kiểm toán độc lập và giá cả trong phạm vi cả nước; quản lý nhà nước các dịch vụ
công trong lĩnh vực tài chính - ngân sách, hải quan, kế toán, kiểm toán độc lập và giá cả;
thực hiện đại diện chủ sở hữu phần vốn của nhà nước tại doanh nghiệp theo quy định của
pháp luật.
4.4. Uỷ ban chứng khoán nhà nước
Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước khi mới thành lập là cơ quan trực thuộc Bộ tài chính.
- Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước có nhiệm vụ chính trong việc tổ chức và giám sát
các hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam.
- Thực hiện chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tài chính quản lý nhà nước về
chứng khoán và thị trường chứng khoán; trực tiếp quản lý, giám sát hoạt động chứng
khoán và thị trường chứng khoán; quản lý các hoạt động dịch vụ thuộc lĩnh vực chứng
khoán, thị trường chứng khoán theo quy định của pháp luật. Uỷ ban Chứng khoán Nhà
nước có tư cách pháp nhân, con dấu có hình Quốc huy, tài khoản riêng tại Kho bạc Nhà
nước và trụ sở tại thành phố Hà Nội.
4.5. Các tổ chức tài chính quốc tế có quan hệ với Việt Nam
Chương trình Phát triển của Liên hiệp quốc (UNDP)
Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF)
Ngân hàng Thế giới (WB)
7
Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB)
II. Nhiệm vụ cầ n làm để phát triển và nâng cao vai trò của hệ thống tài chính Việt
Nam

Thứ nhất, Mạnh dạn dứt bỏ tư duy về một nền tài chính của kinh tế kế hoạch hoá tập
trung, chúng ta đã đổi mới nếp nghĩ, cách làm. Hình thành mới quan điểm về động viên và

phân phối nguồn lực, đảm bảo thúc đẩy kinh tế phát triển, giải quyết hài hoà quan hệ giữa
tăng trưởng kinh tế và chính sách xã hội. Từ bỏ phương thức quản lý nền tài chính bằng
biện pháp hành chính, bằng mệnh lệnh chuyển sang quản lý và điều hành tài chính - tiền tệ
bằng luật pháp, bằng biện pháp kinh tế, bằng công cụ và đòn bẩy kinh tế. Ngành tài chính
phải chăm lo phát huy sức mạnh nguồn lực trong nước, giảm dần sự phụ thuộc vào nước
ngoài. Tranh thủ tối đa nguồn lực nước ngoài cho đầu tư phát triển, trên nguyên tắc giữ
vững độc lập, tự chủ về chính trị, mở rộng quan hệ về hợp tác kinh tế với tất cả các nước.
Trong quản lý chi NSNN và sử dụng nguồn lực, tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt là giảm dần
sự bao cấp của Nhà nước, trước hết là chế độ bao cấp đối với các doanh nghiệp. Mở rộng
phạm vi, lĩnh vực công việc để Nhà nước và nhân dân cùng làm. Chủ trương xã hội hóa
các hoạt động giáo dục, đào tạo, y tế, thể dục thể thao, văn hóa và nhiều hoạt động mang
tính xã hội khác để khơi dậy và cuốn hút nhiều nguồn lực, tài chính trong dân, trong xã
hội, trong nước và cả ở nước ngoài. Chức năng tài chính trong kinh tế thị trường phải
được nhận thức rõ hơn, mới hơn, không chỉ đơn thuần phân phối và giám sát các nguồn
lực, mà còn phi tổ chức lưu chuyển thông thoáng, có chủ định các nguồn lực trong toàn bộ
nền tài chính quốc gia.
Thứ hai, bằng những chủ trương, chính sách đúng đắn, bằng sự nỗ lực của toàn ngành
Tài chính, chúng ta phải động viên hợp lý sức người, sức của trong cả nước, thu hút có
chủ định các nguồn vốn từ nước ngoài để phát triển kinh tế, xây dựng nước Việt Nam
XHCN giàu, mạnh, xã hội công bằng văn minh.
Thứ ba, vấn đề cốt lõi là phải thiết lập và hoàn thiện từng bước hệ thống pháp lý và hệ
thống chính sách tài chính. Phải nhận thức rõ sự cần thiết trong đổi mới phương thức quản
lý tài chính, vai trò quản lý Nhà nước về tài chính trong nền kinh tế thị trường, nghiên cứu
xây dựng chính sách tài chính làm căn cứ chiến lược chỉ đạo và điều hành công tác tài
chính. Các quy định pháp lý về chính sách tài khóa, và NSNN về thuế phải được ban
hành. Cải cách khuôn khổ pháp lý về thuế, công bằng xã hội và chuẩn bị điều kiện tiền đề
cho Việt Nam hội nhập về kinh tế với các nước. Chính sách động viên của Nhà nước,
chính sách cơ cấu lại nguồn thu, cơ cấu lại các khoản chi cho Ngân sách Nhà nước phải
được đổi mới, xoá dần bao cấp, tập trung vốn và kinh phí cho nhiệm vụ trọng tâm, trọng
điểm từng giai đoạn phát triển kinh tế, giữ vững an ninh quốc phòng. NSNN cho đầu tư

phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn phải được coi trọng hơn. Ưu tiên dành vốn
8
cho các chương trình, các mục tiêu quốc gia, tăng chi cho văn hoá giáo dục, y tế và phát
triển khoa học kỹ thuật.
Thứ tư, với nhận thức kinh tế là gốc của tài chính, nền tài chính mạnh là nền tài chính
được vận hành trong một nền kinh tế phát triển bền vững. Vì vậy tài chính Việt Nam phải
luôn hướng về phục vụ, khuyến khích sản xuất, kinh doanh phát triển. Thực hiện hạch
toán kinh tế, mở rộng quyền tự chủ kinh doanh, đa dạng hoá các hình thức sở hữu, sắp xếp
lại DNNN, giải quyết hài hoà lợi ích kinh tế, lợi ích tài chính. Sự bình đẳng của luật pháp
và sự công bằng của chính sách tài chính. Chủ động trong lộ trình hội nhập, tham gia tích
cực trong các quan hệ kinh tế tài chính song phương và đa phương .
Thứ năm, coi trọng phân phối, sử dụng nguồn lực sao cho có hiệu quả, tiết kiệm. Thi
hành Pháp lệnh thực hành tiết kiệm, để thực hiện tiết kiệm có hiệu quả cần phi tăng cường
kiểm tra, kiểm soát.
Thứ sáu, kiện toàn tổ chức bộ máy và nâng cao năng lực, hiệu lực quản lý điều hành
của ngành tài chính. Hệ thống tổ chức bộ máy ngành tài chính phải không ngừng được,
đổi mới, năng lực cán bộ ngành tài chính phải không ngừng được hoàn thiện, nâng cao,
đáp ứng được các yêu cầu của nền kinh tế thị trường. Cùng với việc kiện toàn bộ máy,
chức năng tài chính và các tổ chức trong nội bộ ngành phải càng được xác định rõ ràng,
đầy đủ hơn. Công tác hoạch định chính sách tài chính phải được tách dần khỏi các đơn vị
điều hành và quản lý tài chính. Hệ thống thuế phải được tổ chức lại theo chuyên ngành,
thống nhất từ trung ương đến địa phương, phân chia rõ 3 bộ phận trong ngành thuế, đảm
bảo hành thu và kiểm tra việc thu thuế. Đội ngũ cán bộ tài chính phải ngày càng được tăng
cường cả về số lượng, chất lượng. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, nghiệp
vụ chuyên môn và năng lực quản lý cho cán bộ, công chức phải được quan tâm đúng mức.
Từng bước hiện đại hoá công nghệ quản lý.
Tôn trọng và tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác tài chính, coi trọng sự
phối hợp đồng bộ các công cụ chính sách kinh tế tài chính.
Luôn duy trì và đảm bảo tính thống nhất, kỉ cương, kỉ luật trong chỉ huy, điều hành nền
tài chính quốc gia. Phê phán và lên án mạnh tư tưởng, việc làm vô kỉ luật, chấp hành thiếu

nghiêm chỉnh các qui định về thu, chi, điều tiết ngân sách Nhà nước trong quản lý và sử
dụng ngân quỹ. Chống tư tưởng, việc làm cục bộ, vì quyền lợi ngành, địa phương, gây tổn
hại lợi ích chung, đặc biệt trong việc chấp hành chế độ chính sách và kỉ luật tài chính.
Thiết lập, vận hành và nâng cao hiệu lực kiểm tra, kiểm soát và giám sát tài chính đối
với toàn bộ nền kinh tế xã hội.
III. Hoạt động của thị trường bảo hiểm ở Viêt Nam
Công ty bảo hiểm là một trung gian tài chính.
A. BẢO HIỂM NHÂN THỌ
1. Định nghĩa:
9
Bảo hiểm nhân thọ có thể được hiểu trên 2 phương diện: kỹ thuật và pháp lý.
Trên phương diện kỹ thuật, bảo hiểm nhân thọ là loại bảo hiểm bao hàm những cam
kết mà sự thực hiện những cam kết đó phụ thuộc vào tuổi thọ của con người.
Có hai loại cam kết chủ yếu trong bảo hiểm nhân thọ, đó là cam kết đóng phí bảo hiểm
của người tham gia bảo hiểm và cam kết trả tiền bảo hiểm hoặc trả trợ cấp định kỳ của
doanh nghiệp bảo hiểm.
Do thời hạn hợp đồng bảo hiểm trong bảo hiểm nhân thọ kéo dài nhiều năm nên người
tham gia bảo hiểm thường cam kết đóng phí làm nhiều lần.
Khi người được bảo hiểm bị chết hoặc còn sống đến một thời điểm nhất định đã chỉ rõ
trong hợp đồng bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải thực hiện cam kết của mình, trả
cho một hoặc nhiều người thụ hưởng một khoản tiền nhất định hoặc những khoản trợ cấp.
Trên phương diện pháp lý, bảo hiểm nhân thọ bao gồm các hợp đồng bảo hiểm được ký
kết giữa doanh nghiệp bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm, theo đó, để nhận được phí
bảo hiểm của người tham gia bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm cam kết sẽ trả cho một
hoặc nhiều người thụ hưởng bảo hiểm một khoản tiền nhất định hoặc những khoản trợ cấp
định kì trong trường hợp người được bảo hiểm sống đến một thời điểm nhất định hoặc tử
vong trước một thời điểm nhất định đã được ghi rõ trên hợp đồng bảo hiểm.
2. Đặc điểm
- Thị trường bảo hiểm nhân thọ chịu sự tác động trực tiếp của những điều kiện kinh tế -
xã hội, trình độ dân trí và mức sống của các tầng lớp dân cư.

Theo tháp nhu cầu của Maslow, nhu cầu đầu tiên và quan trọng nhất, cơ bản nhất của con
người là nhu cầu sinh lý hay còn gọi là nhu cầu vật chất tối thiểu (ăn, mặc, ở, đi lại ). Chỉ
khi con người được đáp ứng và thoả mãn các nhu cầu tối thiểu thì họ mới quan tâm đến
các nhu cầu khác cao hơn. Do vậy, khi điều kiện kinh tế - xã hội thấp kém, thu nhập của
người dân còn thấp và chưa đủ trang trải các nhu cầu sinh lý thì dẫu họ có nhận thức được
vai trò của bảo hiểm nhân thọ họ cũng không thể quan tâm đến việc tham gia bảo hiểm
nhân thọ. Vì thế, điều kiện kinh tế - xã hội và mức sống của người dân là nhân tố tác động
trực tiếp đến nhu cầu bảo hiểm và thị trường bảo hiểm nhân thọ. ở những nước có nền
kinh tế phát triển, nhu cầu bảo hiểm nói chung và bảo hiểm nhân thọ nói riêng thường rất
cao, bởi họ mong muốn được đảm bảo an toàn trên nhiều phương diện. Trái lại, ở các
nước kém phát triển ngoài lý do thu nhập chi phối, người dân nhận thức không đầy đủ về
rủi ro và hậu quả của rủi ro nên nhu cầu bảo hiểm nhân thọ ở những nước này rất thấp và
thị trường bảo hiểm nhân thọ không phát triển.
- Thị trường bảo hiểm nhân thọ có dung lượng khách hàng rất lớn.
Khách hàng của thị trường bảo hiểm nhân thọ phải kể đến đó là: người được bảo hiểm
và người tham gia bảo hiểm. Người được bảo hiểm nhân thọ bao gồm mọi người ở các lứa
tuổi khác nhau không phân biệt nam, nữ, dân tộc, quốc tịch còn người tham gia bảo hiểm
10
nhân thọ cũng có thể là người được bảo hiểm và cũng có thể họ tham gia ký kết hợp đồng
cho những người thân hoặc những người có quan hệ với họ. Hơn nữa, bảo hiểm nhân thọ
là loại hình bảo hiểm con người tuỳ theo nhu cầu và khả năng tài chính, một người có thể
tham gia nhiều loại sản phẩm bảo hiểm nhân thọ khác nhau, thậm chí một loại sản phẩm
họ có thể ký kết nhiều hợp đồng ở nhiều công ty bảo hiểm nhân thọ cùng một lúc.
- Thị trường bảo hiểm nhân thọ là thị trường dịch vụ tài chính
Thời hạn có hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ thường rất dài (tối thiểu là 5 năm),
cho nên nó chịu sự tác động rất lớn của yếu tố lạm phát. Theo qui luật chung, nếu nền
kinh tế phát triển ổn định, lạm phát được kiểm soát chặt chẽ, thì quá trình phát triển của
thị trường sẽ rất ổn định. Ngược lại, nếu lạm phát cao thì thị trường sẽ chịu sự tác động
lớn. Bởi vì, bảo hiểm nhân thọ có yếu tố tiết kiệm, trong khi đó thời hạn bảo hiểm dài nên
người dân rất quan tâm tới vấn đề lạm phát.

Thị trường bảo hiểm nhân thọ chịu sự kiểm tra và giám sát rất chặt chẽ của Nhà nước.
Nhà nước không những quyết định sản phẩm bảo hiểm nhân thọ được phép kinh doanh
trên thị trường, mà còn kiểm tra, giám sát rất chặt chẽ việc trích lập dự phòng phí bảo
hiểm nhân thọ, quản lý số hợp đồng bảo hiểm nhân thọ của các công ty bảo hiểm.
3. Nguyên tắc hoạt động:
- Sau khi ký hợp đồng với công ty bảo hiểm nhân thọ, người tham gia bảo hiểm được bảo
hiểm ngay lập tức với số tiền bảo hiểm ghi trên hợp đồng nghĩa là: khi xảy ra sự kiện bảo
hiểm, công ty bảo hiểm nhân thọ sẽ chi trả đầy đủ số tiền bảo hiểm theo quy định của hợp
đồng bảo hiểm mà khách hàng đã mua. Tuy nhiên, đa số người tham bảo hiểm đều sống
an tâm, khoẻ mạnh cho đến khi đáo hạn hợp đồng. Khi đó, Công ty bảo hiểm sẽ chi trả số
tìên bảo hiểm cam kết.
- Được hưởng lãi chia thêm theo cam kết trên hợp đồng bảo hiểm nhân thọ dựa vào số tiền
bảo hiểm và tỉ suất lợi nhuận đầu tư của Công ty bảo hiểm nhân thọ.
Công ty BH dùng 1 phần lớn quỹ dự trữ để đầu tư sinh lời. Lợi nhuận thu được bỏ vào
quỹ dự trự, cả công ty và người tham gia bảo hiểm đều có lợi. Nguồn vốn của các Công ty
bảo hiểm nhân thọ được quản lý chặt chẽ và đầu tư vào các lĩnh vực sau:
+ Mua trái phiếu chính phủ
+ Mua cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp
+ Kinh doanh bất động sản
+ Góp vốn vào các doanh nghiệp khác
+ Cho vay theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng.
+ Gửi tiền tại các tổ chức tín dụng.
- Tuỳ theo từng loại hình bảo hiểm nhân thọ, có thể đa dạng hoá hình thức đầu tư tài
chính, thực hiện tiết kiệm có kỷ luật như tích luỹ tài chính cho kế hoạch tương lai; để dành
11
tiền cho con đi học; cho con một số vốn để lập nghiệp; tiết kiệm để mua xe, mua nhà; vui
hưởng tuổi già.
4. Các sản phẩm chủ yếu
Bảo hiểm tử kì (bảo hiểm tử vong): là loại bảo hiểm đòi hỏi sự đóng góp thường xuyên
và cam kết chi trả khi cái kết xảy ra trong thời gian nhất định. Nếu cái chết xảy ra không

trong thời gian quy định của hợp đồng thì công ty bảo hiểm sẽ không thanh toán bất kỳ
khoản tiền nào.
Bảo hiểm sinh kỳ (bảo hiểm trong trường hợp sống) là loại bảo hiểm cam kết chi trả số
tiền đều đặn trong 1 khoảng thời gian xác định hoặc suốt đời. Nếu người được bảo hiểm
chết trước ngày đến hạn thanh toán thì sẽ không được thanh toán bất kỳ khoản nào.
Bảo hiểm trọn đời: loại hình đòi hỏi sự đóng góp thường xuyên, công ty bảo hiểm sẽ
cam kết chi trả với số tiền bảo hiểm được ấn định trên hợp đồng khi người được bảo hiểm
chết bất cứ lúc nào sau khi kí hợp đồng.
Thực tế thì công ty thường đưa ra các sản phẩm hỗn hợp hoặc một sản phẩm bảo hiểm
đơn lẻ kèm theo sản phẩm phụ trong một hợp đồng bảo hiểm.
• Bảo Hiểm Nhân Thọ Bảo Việt
1. Khát quát
Tên giao dịch: Tổng Công ty Bảo hiểm Bảo Việt Nhân thọ (Bảo Việt Nhân Thọ)
Tiếng Anh: BAOVIET LIFE
Thuộc tập đoàn Bảo Việt
Vốn điều lệ: 2.000 tỷ đồng
Trụ sở chính: Tầng 6, tầng 10, Tòa nhà Ocean Park, Số 1 Đào Duy Anh, Quận Đống Đa
-TP.Hà Nội
Là doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ đầu tiên trên thị trường Việt Nam từ năm 1996
Tổng doanh thu năm 2013 đạt 8.000 tỷ đồng. Trong đó Doanh thu phí bảo hiểm gốc năm
2013 đạt 6.000 tỷ đồng. Doanh thu khai thác mới đạt gần 1.568 tỷ đồng, tăng trưởng
20% so với năm 2012. Lợi nhuận trước thuế đạt 700 tỷ đồng.
2. Quy mô
a. Bảo Việt Nhân thọ có hệ thống mạng lưới rộng lớn 60 Công ty thành viên, hơn 300
điểm phục vụ khách hàng trên toàn quốc với đội ngũ hơn 1.500 cán bộ chuyên môn cao và
gần 40.000 tư vấn viên chuyên nghiệp.
b. Bảo Việt Nhân thọ đã đưa ra thị trường hơn 50 sản phẩm bảo hiểm nhân thọ đáp ứng
các nhu cầu đa dạng của khách hàng: tạo lập quỹ giáo dục cho con, hỗ trợ viện phí, tiết
kiệm và tích luỹ tài sản để thực hiện những dự định lớn (như mua nhà, mua xe, du lịch…),
hình thành quỹ hưu trí cho cuộc sống tuổi già an vui….

- Nhóm giải pháp đáp ứng nhu cầu bảo hiểm kết hợp tích luỹ có thời hạn: An Khang
Thịnh Vượng, An Gia Thịnh Vượng, An Gia Phát Lộc, An Gia Tài Lộc.
12
- Nhóm giải pháp đáp ứng nhu cầu bảo hiểm kết hợp tiết kiệm giáo dục đầu tư cho tương
lai của con trẻ: An Sinh Giáo Dục, An Sinh Hiếu Học.
- Nhóm giải pháp đáp ứng nhu cầu bảo hiểm kết hợp đầu tư với lãi suất cam kết tối thiểu
trong thời hạn trung và dài hạn: An Phát Hưng Gia, An Phát Trọn Đời, An Phúc Gia Lộc,
An Phát Bảo Gia.
- Nhóm giải pháp đáp ứng nhu cầu tích lũy chuẩn bị cho cuộc sống khi nghỉ hưu: An
Hưởng Hưu Trí.
- Nhóm giải pháp đáp ứng nhu cầu bảo hiểm thuần túy: An Khang Trường Thọ
c. Đối tượng khách hàng đa dạng, phong phú nhiều ngành nghề, độ tuổi. từ 0-65, họ sinh
sinh viên, cán bộ, công nhân viên chức, doanh nhân… trên toàn quốc.
3. Hoạt động
*Bảo Việt Nhân thọ thực hiện công tác quản lý tập trung và thực hiện công tác phục vụ
phân tán. Công tác quản lý tập trung do Trụ sở chính Tổng Công ty thực hiện, gồm các
mảng công việc: Tổ chức nhân sự, Tài chính kế toán, Đầu tư tài chính, Nghiệp vụ sau bán
hàng, Hỗ trợ Phát triển kinh doanh. Công tác phục vụ do các Công ty Thành viên đảm
nhiệm gồm 2 mảng công việc chính: Phát triển kinh doanh và Dịch vụ khách hàng.
*Bảo hiểm nhân thọ Bảo Việt hoạt động kinh doanh hợp pháp tuân thủ theo luật kinh
doanh bảo hiểm do nhà nước đã quy định
a. Kinh doanh bảo hiểm nhân thọ:
- Bảo hiểm trọn đời
- Bảo hiểm sinh kỳ
- Bảo hiểm tử kỳ
- Bảo hiểm hỗn hợp
- Bảo hiểm trả tiền định kỳ
- Bảo hiểm sức khỏe và bảo hiểm tai nạn con người bổ trợ cho bảo hiểm nhân thọ
- Các loại hình bảo hiểm nhân thọ khác
b. Kinh doanh tái bảo hiểm:

Nhận và nhượng tái bảo hiểm đối với tất cả các nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm
sức khỏe và bảo hiểm tai nạn con người.
c. Quản lý quỹ và tiến hành hoạt động đầu tư trong các lĩnh vực sau:
- Mua trái phiếu Chính phủ
- Mua cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp
- Kinh doanh bất động sản
- Góp vốn vào các doanh nghiệp khác
- Cho vay theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng
- Gửi tiền tại các tổ chức tín dụng
13
B. BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ
1. Khái niệm, đặc điểm
a) Khái niệm
Bảo hiểm phi nhân thọ là loại bảo hiểm công ty cam kết chi trả bồi thường khi có sự
kiện bảo hiểm xảy ra liên quan đến tổn thất vật chất và tai nạn con người liên quan đến
người tham gia bảo hiểm
b) Đặc điểm
- Thời gian hợp đồng ngắn thường là 1 năm
- Chỉ bồi thường và chi trả trong thời gian hợp đòng còn hiệu lực.
- Phí tính theo từng năm, mỗi năm mỗi khác, tùy theo mức độ rủi ro.
- Các nghiệp vụ về tài sản, trách nhiệm dân sự giữa người bảo hiểm, người được bảo hiểm
và bên thứ 3 liên quan đến rủi ro bảo hiểm có quan hệ quyền lợi và trách nhiệm bồi
thường thiệt hại.
2. Nguyên tắc hoạt động
 Nguyên tắc chỉ bảo hiểm sự rủi ro, không bảo hiểm sự chắc chắn: Chỉ bảo hiểm một rủi
ro xảy ra bất ngờ, ngẫu nhiên, ngoài ý muốn của con người chứ không bảo hiểm một cái
chắc chắn xảy ra.
 Nguyên tắc trung thực tuyệt đối: Tất cả các giao dịch kinh doanh cần được thực hiện trên
cơ sở tin cậy lẫn nhau, trung thực tuyệt đối. Cả người được bảo hiểm và người bảo hiểm
đều phải trung thực trong tất cả các vấn đề.

 Nguyên tắc quyền lợi có thể được bảo hiểm: Quyền lợi có thể được bảo hiểm là lợi ích
hoặc quyền lợi liên quan, gắn liền, hay phụ thuộc vào sự an toàn hay không an toàn của
đối tượng bảo hiểm.
 Nguyên tắc bồi thường: Khi có tổn thất xảy ra, người bảo hiểm phải bồi thường như thế
nào đó để đảm bảo cho người được bảo hiểm có vị trí tái chính như trước khi có tổn thất
xảy ra, không hơn không kém. Các bên không được lợi dụng bảo hiểm để trục lợi.
 Nguyên tắc thế quyền: Theo nguyên tắc thế quyền, người bảo hiểm sau khi bồi thường cho
người được bảo hiểm, có quyền thay mặt người được bảo hiểm để đòi người thứ ba trách
nhiệm bồi thường cho mình.
3. Sản phẩm
a) Bảo hiểm tài sản
Đối tượng: là tài sản hữu hình và vô hình giá trị đo được bằng tiền.
Các nghiệp vụ:
• Bảo hiểm hàng hóa vận chuyển
• Bảo hiểm tàu thủy
• Bảo hiểm xây dựng lắp đặt
• Bảo hiểm hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí
14
• Bảo hiểm cháy
• Bảo hiểm gửi tiền cất dữ trông kho và trông quá trình vận chuyển
• Bảo hiểm trông nông nghiệp
• Bảo hiểm vật chất phương tiện
b) Bảo hiểm trách nhiệm dân sự
Bao gồm trách nhiệm dân sự trong và ngoài hợp đồng
Các nghiệp vụ
• Bảo hiểm trách nhiệm của chủ xe cơ giới với người thứ 3
• Bảo hiểm trách nhiệm pháp lý của người vận chuyển trong ngành
hàng không dân dụng
• Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ doanh nghiệp
……………………………

c) Bảo hiểm con người phi nhân thọ
 Đặc điểm
- Hậu quả mang tính chất thiệt hại
- Người được bảo hiểm được quy định trong một độ tuổi nhất định
- Thời gian ngắn thường 1 năm
- Kết hợp với nghiệp vụ bảo hiểm khác trong cùng 1 hợp đồng
 Các nghiệp vụ
- Bảo hiểm tai nạn con người 24/24
- Bảo hiểm tai nạn hành khách
- Bảo hiểm trợ cấp nằm viện phẫu thuật
- Bảo hiểm học sinh
IV. Câu hỏi và đáp án
Câu 1 : Phát triển tài chính có vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế không?
Tại sao?
Trả lời: Có. Vì Phát triển tài chính mà biểu hiện bên ngoài là các trung gian tài chính có
chất lượng cao, nghĩa là các nhà đầu tư được đảm bảo hệ thống pháp luật tài chính chặt
chẽ, chuẩn mực kế toán minh bạch sẽ là tiền đề quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế.
Phát triển tài chính là điều kiện cần cho phát triển kinh tế. Chính vì vậy, Hoạt động hệ
thống tài chính kém hiệu quả và không phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế với thể chế
nhà nước sẽ mang lại rủi ro rất lớn đối với nền kinh tế. Những rủi ro chủ yếu là: Nguồn
lực tài chính phân bổ kém hiệu quả; không có khả năng hấp thụ nguồn tài chính huy động
được, đặc biệt là nguồn tài chính ngoài lãnh thổ tăng gánh nặng nợ nần; nguy cơ khủng
hoảng tài chính Vậy tiềm lực để phát triển kinh tế chính là sự phát triển tài chính .
Câu 2: Có bao nhiêu hình thái hoạt động của công ty bảo hiểm và nguyên lý kinh
doanh của các công ty bảo hiểm?
15
Trả lời: công ty bảo hiểm gồm 2 hình thái hoạt động là công ty BH nhân thọ và công ty
BH phi nhân thọ, mỗi loại hình công ty bảo hiểm sẽ kinh doanh từng loại bảo hiểm riêng,
1 số công ty bảo hiểm lớn có thể kinh doanh cả 2 (Tập đoàn Bảo Việt), nhưng đều dựa trên
nguyên lý cơ bản là cung cấp các sản phẩm bảo hiểm thông qua việc thu phí bảo hiểm của

người tham gia và bồi thường hoặc trả bảo hiểm khi có sự cố theo điều khoản hợp đồng.
Câu 3: So sánh 2 loại BH nhân thọ và BH phi nhân thọ
Trả lời:
a. Giống nhau
- Sản phẩm của bảo hiểm là sản phẩm vô hình: Sản phẩm bảo hiểm, về bản chất là một dịch
vụ, là một lời hứa, là một lời cam kết mà công ty bảo hiểm đưa ra với khách hàng. Khách
hàng đóng phí để đổi lấy những cam kết bồi thường hoặc chi trả trong tương lai. Người
mua sản phẩm bảo hiểm không thể chỉ ra màu sắc, kích thước hay mùi vị của sản phẩm.
Họ cũng không thể cảm nhận bằng giác quan như sờ mó, cầm, nắm, ngửi…
- Bảo hiểm có chu trình kinh doanh ngược:
Doanh nghiệp bảo hiểm không phải bỏ vốn trước như các hoạt động sản xuất hàng hóa
thông thường, họ nhận phí bảo hiểm của người tham gia bảo hiểm đóng góp và thực hiện
nghĩa vụ sau với bên được bảo hiểm sau khi sảy ra sự cố bảo hiểm. Do vậy, không thể tính
được chính xác hiệu quả của một bảo hiểm vào thời điểm bán sản phẩm.
- Tâm lý người mua không muốn tiêu dùng dịch vụ này:
Người mua bảo hiểm không mong muốn có sự kiện rủi ro xảy ra để nhận được quyền
lợi bảo hiểm dù rằng quyền lợi có thể xảy ra nhiều lần gấp bội so với phí phải đóng.
Quá trình mua bảo hiểm chịu sự chi phối của các yếu tố tâm lý.
b. Khác nhau
Bảo hiểm nhân thọ Bảo hiểm phi nhân thọ
Hợp đồng bảo hiểm trong bảo hiểm nhân thọ
kéo dài nhiều năm (lớn hơn 1 năm)
Hợp đồng bảo hiểm phi nhân thọ là một hợp
đồng bảo hiểm có thời hạn bảo hiểm thường là
một năm hoặc ngắn hơn
Hợp đồng nhân thọ mang ý nghĩa sự sống và ý
nghĩa tiết kiệm đầu tư đảm bảo tài chính cho họ
hoặc người thân khi gặp rủi ro hoặc khi không
gặp rủi ro. Tham gia bảo hiểm vừa có tính chất
tiết kiệm vừa được bảo hiểm.

Hợp đồng bảo hiểm phi nhân thọ chỉ bồi
thường và chi trả tiền bảo hiểm khi có rủi ro
được bảo hiểm xảy ra trong thời gian hợp đồng
bảo hiểm còn hiệu lực.
Phí bảo hiểm tính cho từng năm bảo hiểm
hoặc từng chuyến.
Phí bảo hiểm phi nhân thọ dược tính cho thời
hạn bảo hiểm, Phí cho những năm tiếp theo sẽ có
thay đổi. Phí bảo hiểm phi nhân thọ còn phụ
thuộc vào mức độ rủi ro
16
Ngoài các nghiêp vụ bảo hiểm con người phi
nhân thọ, còn các nghiệp vụ khác như tài sản,
trách nhiệm dân sự giữa Người bảo hiểm, Người
được bảo hiểm và Người thứ ba có liên quan tới
rủi ro bảo hiểm đều có mối quan hệ về quyền lợi
và trách nhiệm bồi thường thiệt hại
Các loại sản phẩm:
- Bảo hiểm tử kì
- Bảo hiểm sinh kì
- Bảo hiểm trọn đời
Các loại sản phẩm:
- Bảo hiểm tài sản
- Bảo hiểm dân sự
- Bảo hiểm con người phi nhân thọ
Câu 4: Vẽ sơ đồ khái quát hệ thống tài chính Việt Nam
Sơ đồ khái quát hệ thống tài chính Việt Nam
17
Ngân sách
nhà nước

Tài chính
doanh nghiệp
Tài chính
các tổ chức xh
Tài chính
hộ gia đình
Tín dụng
Bảo hiểm

Thị trường
tài chính

×