Tải bản đầy đủ (.doc) (117 trang)

giải pháp hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính tại tổng công ty sông đà''

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 117 trang )

MỤC LỤC
1
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
STT NỘI DUNG TRANG
I Bảng
Bảng 2.1 Nhân lực từ năm 2005 và dự kiến năm 2010 của
Tổng công ty Sông Đà
42
Bảng 2.2 Một số chỉ tiêu tài chính từ năm 2005 – 2007 của
Tổng công ty Sông Đà
44
Bảng 2.3 Bảng phân tích tình hình huy động vốn và sử dụng vốn 52
Bảng 2.4 Bảng phân tích tính hình quản lý và sử dụng tài sản
cố định tại Tổng công ty Sông Đà
58
Bảng 2.5 Số liệu về chi phí 71
Bảng 2.6 Tình hình doanh thu 79
Bảng 2.7 Doanh thu chi tiết 81
Bảng 3.1 Một số chỉ tiêu đánh giá Hội đồng quản trị và ban
Tổng giám đốc về hiệu quả hoạt động quản lý doanh
nghiệp
100
Bảng 3.2 Bảng tỷ lệ trích lập các quỹ từ lợi nhuận sau thuế
saukhi bù lỗ năm trước (nếu có) và trả cổ tức cho các
cổ đông
104
II Biểu đồ
Biểu đổ 2.1 Tỷ trọng ngành nghề 43
Biểu đồ 2.2 Tình hình doanh thu 43
III Sơ đồ
Hình 2.1 Sơ đồ cơ cấu vốn tại Tổng công ty Sông Đà 46


Hình 2.2 Sơ đồ cơ cấu chi phí tại Tổng công ty Sông Đà 63
Hình 2.3 Sơ đồ cơ cấu doanh thu tại Tổng công ty Sông Đà 76
Hình 2.4 Sơ đồ phân phối lợi nhuận của Tổng công ty Sông Đà 86
Hình 3.1 Sơ đồ tổ chức Tổng công ty 100
2
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp bách của đề tài
Xu hướng khu vực hóa, toàn cầu hóa đã đặt ra những thách thức lớn đối
với nền kinh tế nói chung và đối với các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng,
nhất là khi Việt Nam đã trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại
thế giới WTO. Hội nhập kinh tế - Việt Nam xác định hội nhập chứ không hòa
tan. Chính vì lẽ đó, tất cả những công việc có tầm vĩ mô hay vi mô đều phải
đảm bảo phát triển vững chắc, có sức "đề kháng" với tất cả các điều kiện tác
động từ môi trường hội nhập. Thực tế cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam
đang gặp những khó khăn trong việc thích nghi với tình hình mới, đặc biệt là sự
chuyển đổi các mô hình hoạt động đã buộc phải có sự thay đổi về cơ chế quản lý
tài chính cho phù hợp.
Hơn nữa, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã buộc các chủ doanh
nghiệp phải tự chủ về kinh doanh, về tài chính và tự chịu trách nhiệm về
kết quả kinh doanh của mình. Chính vì thế, trên cơ sở hướng dẫn của Nhà
nước, các doanh nghiệp phải tự tìm ra các giải pháp để ngày càng hoàn
thiện cơ chế quản lý tài chính của riêng mình một cách tốt nhất chính vì
sự tồn tại và phát triển của mình.
Nền kinh tế thị trường là một nền kinh tế cạnh tranh gay gắt và quyết liệt
giữa các doanh nghiệp. Trong bối cảnh hội nhập của nền kinh tế đất nước với
nền kinh tế thế giới ngày càng mạnh mẽ và sâu sắc, việc chuyển đổi Tổng
công ty Nhà nước, Công ty Nhà nước độc lập, Công ty mẹ là công ty Nhà
nước theo hình thức công ty mẹ - công ty con hoạt động theo Luật Doanh
nghiệp là một chủ trương mà Đảng và Nhà nước đã chỉ đạo nhằm nâng cao
tính chủ động sáng tạo và sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp, tạo sức mạnh

và đảm bảo thành công cho các doanh nghiệp trong quá trình hội nhập, tạo
nền tảng cho sự ổn định và phát triển kinh tế đất nước. Để các doanh nghiệp
đứng vững và phát triển trong môi trường kinh doanh khắc nghiệt hiện tại,
một trong những vấn đề đang được quan tâm là cơ chế quản lý tài chính tại
các doanh nghiệp. Quá trình nghiên cứu tôi lựa chọn vấn đề hoàn thiện cơ chế
quản lý tài chính của Tổng công ty Sông Đà để nghiên cứu nhằm giải quyết
một vấn đề vừa mang tính lý luận vừa mang tính thực tiễn.
3
2. Mục đích nghiên cứu của Luận văn
- Phân tích thực trạng của Cơ chế quản lý tài chính tại Tổng công ty
Sông Đà.
- Nêu giải pháp nhằm hoàn thiện Cơ chế quản lý tài chính của Tổng công
ty Sông Đà.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Luận văn
Đối tượng nghiên cứu: Tổng công ty Sông Đà
Phạm vi nghiên cứu:
- Nghiên cứu các nội dung cơ bản về cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp.
- Nghiên cứu cơ chế quản lý tài chính của Tổng công ty Sông Đà.
4. Cơ sở nghiên cứu và các phương pháp nghiên cứu
- Lý luận của học thuyết Mác - Lênin, các quan điểm của Đảng, chủ trương
chính sách của Nhà nước, đồng thời kết hợp với những lý thuyết về quản trị hiện đại
vận dụng vào điều kiện thực tế của doanh nghiệp nói chung và Tổng công ty Sông
Đà nói riêng.
- Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật
biện chứng, kết hợp giữa logic và lịch sử, phân tích và tổng hợp, sử dụng các
phương pháp của khoa học thống kê, khảo sát thực tế để nghiên cứu.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận văn
Một là, đề tài đã hệ thống hóa lý luận và phân tích vai trò của cơ chế
quản lý tài chính đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Hai là, đề tài đã phân tích, đánh giá thực trạng của cơ chế quản lý tài

chính, nêu lên những tác động tích cực của cơ chế quản lý tài chính với hoạt
động sản xuất kinh doanh của Tổng công ty Sông Đà, đồng thời nêu lên
những hạn chế, tồn tại trong cơ chế quản lý tài chính của Tổng công ty Sông
Đà để từ đó đưa ra các giải pháp khắc phục.
Ba là, kiến nghị các giải pháp có tính khả thi nhằm hoàn thiện cơ chế
quản lý tài chính của Tổng công ty Sông Đà.
6. Tên và bố cục của Luận văn
Tên đề tài là "Giải pháp hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính tại Tổng
công ty Sông Đà".
4
Kết cấu của Luận văn: ngoài Phần mở đầu, Kết luận và Danh mục tài
liệu tham khảo, Luận văn được chia làm 3 chương lớn:
Chương I: Cơ sở lý luận về cơ chế quản lý tài chính đối với Tổng công
ty nhà nước
Chương II: Thực trạng cơ chế quản lý tài chính tại Tổng công ty Sông Đà.
Chương III: Giải pháp hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính tại Tổng công
ty Sông Đà.
Qua đây tôi xin được tỏ lòng biết ơn đến các thầy giáo, cô giáo, các
chuyên gia kinh tế, các anh, chị và bạn bè, đồng nghiệp đã giúp đỡ tôi trong
suốt khóa học, xin cảm ơn các anh, các chị đang công tác tại các phòng ban
chức năng, đặc biệt là phòng kế toán tài chính của Tổng công ty Sông Đà đã
cung cấp cho tôi các số liệu và góp ý kiến giúp đỡ cho tôi thực hiện bản luận
văn này. Đặc biệt hơn nữa xin được gửi lời cảm ơn chân thành đến thầy giáo
Tiến sĩ Nghiêm Sĩ Thương, người đã trực tiếp hưóng dẫn, giúp đỡ tôi hoàn
thành Luận văn; các Thầy giáo, Cô giáo khoa Kinh tế và Quản lý, Trung tâm
Đào tạo và Bồi dưỡng Sau đại học - Trường Đại học Bách khoa Hà nội.
5
Chương I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CƠ CHẾ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH
ĐỐI VỚI TỔNG CÔNG TY NHÀ NƯỚC

1.1. Tổng công ty Nhà nước và mô hình công ty mẹ - công ty con
1.1.1. Tổng công ty nhà nước
Tổng công ty nhà nước là hình thức liên kết kinh tế trên cơ sở tự đầu tư
vốn giữa các công ty nhà nước, giữa công ty nhà nước với các doanh nghiệp
khác hoặc được hình thành trên cơ sở tổ chức và liên kết các đơn vị thành
viên có mối quan hệ gắn bó với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường
và các dịch vụ kinh doanh khác, hoạt động trong một hoặc một số chuyên
ngành kinh tế - kỹ thuật chính nhằm tăng cường khả năng kinh doanh và thực
hiện lợi ích của các đơn vị thành viên và toàn tổng công ty.
Tổng công ty nhà nước bao gồm các tổng công ty do Nhà nước quyết
định đầu tư và thành lập, tổng công ty do các công ty tự đầu tư và thành lập,
tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước.
Tổng công ty do Nhà nước quyết định đầu tư và thành lập là hình thức
liên kết và tập hợp các công ty thành viên hạch toán độc lập có tư cách pháp
nhân, hoạt động trong một hoặc một số chuyên ngành kinh tế - kỹ thuật chính,
nhằm tăng cường tích tụ, tập trung vốn và chuyên môn hóa kinh doanh của
các đơn vị thành viên và tổng công ty.
Tổng công ty do các công ty tự đầu tư và thành lập là hình thức liên kết
thông qua đầu tư, góp vốn của công ty nhà nước quy mô lớn do Nhà nước sở
hữu toàn bộ vốn điều lệ với các doanh nghiệp khác, trong đó công ty nhà
nước giữ quyền chi phối doanh nghiệp khác.
Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước là tổng công ty được
thành lập để thực hiện quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu đối với các công ty
trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên chuyển đổi từ các công ty nhà
nước độc lập và các công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên do
mình thành lập; thực hiện chức năng đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước và
quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu đối với cổ phần, vốn góp của Nhà nước tại
6
các doanh nghiệp đã chuyển đổi sở hữu hoặc hình thức pháp lý từ các công ty
nhà nước độc lập.

1.1.2. Mô hình công ty mẹ - công ty con
Trong tiến trình đổi mới và phát triển doanh nghiệp, từ khi ban hành luật
Doanh nghiệp năm 2005, tiến trình sắp xếp và chuyển đổi công ty nhà nước
đang được khẩn trương thực hiện theo tinh thần Đại hội X của Đảng: "Khẩn
trương hoàn thành kế hoạch sắp xếp đổi với và phát triển doanh nghiệp nhà
nước theo hướng hình thành loại hình tổng công ty nhà nước đa sở hữu, chủ
yếu là các công ty cổ phần. Thúc việc đẩy hình thành một số tập đoàn kinh tế
và tổng công ty nhà nước mạnh, hoạt động đa ngành, đa lĩnh vực, trong đó có
ngành chính; có nhiều chủ sở hữu, sở hữu nhà nước giữ vai trò chi phối. Đối
với những tổng công ty lớn chưa cổ phần hóa toàn bộ tổng công ty, thực hiện
cổ phần hóa hầu hết các đơn vị thành viên và chuyển các doanh nghiệp thành
viên còn lại sang hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần hoặc công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành viên mà chủ sở hữu là Nhà nước; đồng thời chuyển
các công ty này sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con. Tổ
chức lại Hội đồng quản trị để thực sự là đại diện trực tiếp của chủ sở hữu tại
tổng công ty".
Việc tổ chức lại, chuyển đổi tổng công ty nhà nước theo hình thức công
ty mẹ - công ty con nhằm chuyển từ liên kết kiểu hành chính với cơ chế giao
vốn sang liên kết bền chặt bằng cơ chế đầu tư tài chính là chủ yếu; xác định rõ
quyền lợi, trách nhiệm về vốn và lợi ích kinh tế giữa công ty mẹ với các công
ty con và công ty liên kết; tăng cường năng lực kinh doanh cho các đơn vị
tham gia liên kết; tạo điều kiện để phát triển thành tập đoàn kinh tế.
Việc tổ chức lại, chuyển đổi công ty nhà nước độc lập, công ty thành
viên hạch toán độc lập của tổng công ty theo hình thức công ty mẹ - công ty
con nhằm tạo điều kiện phát triển năng lực, qui mô và phạm vi kinh doanh
của công ty để đầu tư, góp vốn và tham gia liên kết với các doanh nghiệp
khác, đẩy mạnh việc cổ phần hóa và đa dạng hóa sở hữu các đơn vị thành viên
của công ty.
7
Theo Nghị định số 111/2007/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 26

tháng 6 năm 2007 về tổ chức quản lý Tổng công ty Nhà nước và chuyển đổi
Tổng công ty nhà nước, công ty nhà nước độc lập, công ty mẹ là công ty nhà
nước theo hình thức công ty mẹ - công ty con hoạt động theo Luật Doanh
nghiệp thì: "Tổng công ty theo hình thức công ty mẹ - công ty con là hình
thức liên kết và chi phối lẫn nhau bằng đầu tư, góp vốn, bí quyết công nghệ,
thương hiệu hoặc thị trường giữa các doanh nghiệp có tư cách pháp nhân,
trong đó có một công ty nhà nước giữ quyền chi phối các doanh nghiệp thành
viên khác (gọi tắt là công ty mẹ) và các doanh nghiệp thành viên khác bị công
ty mẹ chi phối (gọi tắt là công ty con) hoặc có một phần vốn góp không chi
phối của công ty mẹ (gọi tắt là công ty liên kết).
Tổ hợp công ty mẹ và các công ty con không có tư cách pháp nhân.
Công ty mẹ có tên gọi riêng, có con dấu, có bộ máy quản lý và điều hành, có
trụ sở chính trong nước.
Mô hình công ty mẹ - công ty con là mô hình tiên tiến được nhiều nước
trên thế giới thực hiện. Mô hình này thể hiện mối quan hệ chặt chẽ, ràng buộc
giữa công ty mẹ và công ty con trong đó yếu tố vốn là nút liên kết cơ bản.
Thông qua việc nắm giữ quyền chi phối, công ty mẹ có vị trí vai trò quan
trọng trong việc quyết định chiến lược phát triển của các công ty con nhằm
thực hiện mục tiêu chung của cả tập đoàn. Quyền sở hữu đem lại cho công ty
mẹ khả năng chi phối đối với công ty con, thông qua việc quyết định về tổ
chức, quản lý, nhân sự chủ chốt, thị trường cũng như những vấn đề quan
trọng khác. Mức độ sở hữu vốn của công ty mẹ trong công ty con quyết định
nội dung của mối liên hệ trên. Công ty con được công ty mẹ đầu tư 100% vốn
thì mối liên hệ với công ty mẹ sẽ hết sức chặt chẽ, thể hiện ở việc công ty mẹ
có quyền quyết định hoàn toàn những vấn đề quan trọng của công ty con. Các
công ty con mà công ty mẹ giữ cổ phần hoặc vốn góp chi phối sẽ có mối quan
hệ chặt chẽ với công ty mẹ. Tuy nhiên, với tỷ lệ vốn góp giành được quyền
chi phối, công ty mẹ vẫn đủ sức kiểm soát và định hướng cho công ty con
hoạt động nhằm phục vụ lợi ích, chiến lược của công ty mẹ.
8

Ngoài ra, giữa các công ty con lại có mối quan hệ ràng buộc với nhau
phụ thuộc vào sự điều tiết của công ty mẹ nhằm thực hiện mục tiêu chung cho
cả tập đoàn. Tuy nhiên, về mặt pháp lý, các công ty con vẫn hoàn toàn độc lập
và tự chủ trong quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh của mình.
Tổng công ty nhà nước theo hình thức công ty mẹ - công ty con là tổng
hợp các công ty: công ty mẹ và các công ty con. Công ty mẹ sở hữu số lượng
cổ phần lớn trong các công ty con, chi phối các công ty con về chiến lược
phát triển và các định chế tài chính. Các công ty con có thể huy động vốn
dưới nhiều hình thức khác nhau nhưng công ty mẹ vẫn đóng vai trò điều tiết
các hoạt động.
Nghị định số 111/2007/NĐ-CP quy định: công ty mẹ có các quyền và
nghĩa vụ quyết định nội dung, sửa đổi, bổ sung điều lệ, cơ cấu tổ chức; quản
lý công ty con; có trách nhiệm đầu tư vốn điều lệ cho công ty trực thuộc; thực
hiện quyền chủ sở hữu đối với phần vốn này; xây dựng chiến lược kinh doanh
chung, phân cấp quyết định các dự án đầu tư cho các công ty con, tổ chức
giám sát, theo dõi và đánh giá hoạt động kinh doanh, tài chính công ty con;
chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty con
trong phạm vi số vốn góp vào công ty con.
Công ty mẹ có chức năng trực tiếp sản xuất kinh doanh và đầu tư tài
chính vào doanh nghiệp khác hoặc chỉ thực hiện việc đầu tư tài chính vào
doanh nghiệp khác. Công ty mẹ có các quyền và nghĩa vụ của công ty nhà
nước; thực hiện quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu, thành viên hoặc cổ đông tại
các công ty con và công ty liên kết. Công ty mẹ có cơ cấu quản lý gồm Hội
đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc, các Phó tổng giám đốc, Kế toán
trưởng và bộ máy giúp việc. Bộ máy quản lý của công ty mẹ là bộ máy của
Tổng công ty.
Đối với tổng công ty nhà nước, công ty mẹ do Nhà nước làm chủ sở hữu
trong hình thức công ty mẹ - công ty con, công ty mẹ thuộc tập đoàn kinh tế
chịu sự quản lý nhà nước của cơ quan nhà nước các cấp theo quy định của
pháp luật và quản lý của đại diện chủ sở hữu theo sự phân công, phân cấp của

Chính phủ.
9
Trong khi đó, các công ty liên kết, các công ty con có các quyền và
nghĩa vụ: quản lý và sử dụng linh hoạt số vốn do Tổng công ty (công ty mẹ)
đầu tư, chịu trách nhiệm trước Tổng công ty (công ty mẹ) về hiệu quả sử dụng
vốn và các nguồn lực; có quyền tự chủ kinh doanh trên cơ sở sử dụng tối ưu
các nguồn lực của công ty, phù hợp với nhu cầu thị trường và các mục tiêu,
phương án, kế hoạch kinh doanh chung của Tổng công ty; tham gia các hình
thức đầu tư hoặc được Tổng công ty giao tổ chức thực hiện các dự án đầu tư.
Tổng công ty nhà nước theo mô hình công ty mẹ - công ty con có quy
mô lớn về vốn, lao động, doanh thu và thị trường. Phạm vi hoạt động rộng, có
nhiều chi nhánh trong nước và nước ngoài.
Tổng công ty nhà nước theo mô hình công ty mẹ - công ty con hoạt động
một hay nhiều lĩnh vực. Mỗi Tổng công ty nhà nước theo mô hình công ty mẹ
- công ty con đều có định hướng mũi nhọn hoạt động kinh doanh và quản lý
tập trung một số mặt như: huy động, quản lý và sử dụng vốn, nghiên cứu triển
khai, đào tạo, xây dựng chiến lược phát triển, chiến lược thị trường, chiến
lược sản phẩm
1.2. Cơ chế quản lý tài chính.
1.2.1. Khái niệm về cơ chế quản lý tài chính
Thuật ngữ "cơ chế quản lý tài chính" đã được sử dụng rộng rãi trong
nhiều văn bản, tài liệu, sách báo và trong đời sống hàng ngày. Ngoài ra, cụm
từ "cơ chế tài chính" cũng thường được sử dụng trong thực tế để hàm ý nói
đến cơ chế quản lý tài chính.
Cơ chế là những cách thức, những phương thức và công cụ qua đó người
ta thực hiện quá trình hoạt động của mình.
Cơ chế quản lý là một hệ thống các nguyên tắc, hình thức, phương pháp
quản lý trong những giai đoạn phát triển khác nhau của nền sản xuất xã hội.
Cơ chế quản lý tài chính là những phương thức và công cụ qua đó quá
trình quản lý được thực hiện

Cơ chế quản lý tài chính đối với doanh nghiệp được thể hiện bằng những
quy định của Nhà nước nhằm thực hiện sự quản lý đối với tài chính doanh
nghiệp thông qua những Văn bản Luật, Pháp lệnh, Nghị định, Thông tư và
10
những văn bản khác có liên quan. Cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp cũng
được thể hiện bằng những quy chế, quy định của doanh nghiệp đối với các
hoạt động tài chính của bản thân doanh nghiệp. Những quy chế, quy định này
phải tuân theo những văn bản pháp quy của Nhà nước có liên quan, không trái
pháp luật và là bước cụ thể hóa các cơ chế của Nhà nước đối với hoạt động tài
chính của các doanh nghiệp.
Cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp được hiểu là một tổng thể các
phương pháp, các hình thức và các công cụ được vận dụng để quản lý các
hoạt động tài chính của doanh nghiêp trong những điều kiện cụ thể nhằm đạt
được những mục tiêu nhất định.
Nội dung chủ yếu của cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp bao gồm:
cơ chế quản lý tài sản; cơ chế huy động vốn; cơ chế quản lý doanh thu, chi
phí và lợi nhuận; cơ chế kiểm soát tài chính của doanh nghiệp.
1.2.2. Vai trò của cơ chế quản lý tài chính trong các tổng công ty.
Quản lý tài chính luôn luôn giữ một vị trí trọng yếu trong hoạt động quản
lý của doanh nghiệp, nó quyết định tính độc lập, sự thành bại của doanh
nghiệp trong quá trình kinh doanh. Đặc biệt trong xu thế hội nhập khu vực và
quốc tế, trong điều kiện cạnh tranh đang diễn ra khốc liệt trên phạm vi toàn
thế giới, quản lý tài chính trở lên quan trọng hơn bao giờ hết. Bất kỳ ai liên
kết, hợp tác với doanh nghiệp cũng sẽ được hưởng lợi nếu như quản lý tài
chính của doanh nghiệp có hiệu quả, ngược lại, họ sẽ bị thua thiệt khi quản lý
tài chính kém hiệu quả. Quản lý tài chính là sự tác động của nhà quản lý tới
các hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Nó được thực hiện thông qua cơ
chế quản lý tài chính doanh nghiệp.
Do vậy, có thể nói cơ chế quản lý tài chính có vai trò rất quan trọng đối
với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung, của các

tổng công ty nói riêng. Nó tác động trực tiếp đến hiệu quả hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp, của Tổng công ty. Điều đó được thể hiện qua
việc: tài chính doanh nghiệp có phát huy tác dụng tích cực hay không là phụ
thuộc vào cơ chế quản lý, phụ thuộc vào người quản lý. Cơ chế quản lý tài
11
chính là công cụ để các nhà quản lý quản trị tài chính doanh nghiệp, nó tác
động trực tiếp và có ý nghĩa quyết định đến hoạt động tài chính doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung của ta trước đây, với đặc điểm
là đơn nhất hình thức sở hữu và thành phần kinh tế. Nhà nước đã can thiệp
quá sâu vào từng khâu của quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
làm cho tài chính doanh nghiệp trở thành thụ động, cho nên tác động của nó
đến quá trình sản xuất kinh doanh là hết sức yếu ớt. Chuyển sang nền kinh tế
thị trường, Nhà nước đã có hàng loạt các chính sách mới nhằm xóa bỏ cơ chế
quản lý tập trung, quan liêu, bao cấp, xác lập một cơ chế quản lý năng động
hơn, cởi mở hơn trong khuôn khổ cho phép của pháp luật. Điều đó đã làm cho
tài chính doanh nghiệp có tác động ngày càng mạnh đối với hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp.
Tài chính doanh nghiệp là hệ thống các luồng chuyển dịch giá trị, các
luồng vận động của các nguồn tài chính trong quá trình tạo lâp hoặc sử dụng
các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp nhằm đạt được các mục tiêu kinh doanh của
doanh nghiệp trong khuôn khổ cho phép của pháp luật. Tài chính doanh
nghiệp phản ánh mối quan hệ kinh tế đa dạng trong quá trình hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp. Khi có một cơ chế quản lý tài chính hợp lý thì tài
chính doanh nghiệp sẽ có những tác động tích cực đối với hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Những tác động đó được thể hiện ở
các điểm sau:
- Tài chính doanh nghiệp là công cụ khai thác, thu hút các nguồn lực tài
chính nhằm đảm bảo nhu cầu đầu tư và phát triển doanh nghiệp. Để thực hiện
quá trình sản xuất kinh doanh, trước hết doanh nghiệp phải có vốn. Trong cơ
chế quản lý bao cấp trước đây, vốn của các doanh nghiệp Nhà nước hầu như

là do Nhà nước cấp hoàn toàn. Vì thế việc khai thác, thu hút vốn không được
đặt ra như là một nhu cầu cấp bách, có tính sống còn của doanh nghiệp. Việc
khai thác, thu hút đảm bảo vốn cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
trở lên thụ động. Cơ chế phân phối, bao cấp vốn của Nhà nước chỉ được thu
hẹp trên hai kênh là Ngân sách nhà nước và Ngân hàng. Điều đó một mặt đã
12
thủ tiêu tính chủ động của các doanh nghiệp, một mặt tạo ra sự cân đối giả tạo
về cung cầu vốn trên nền kinh tế. Đây là lý do chủ yếu để lý giải tại sao trong
cơ chế quản lý tập trung, quan liêu, bao cấp lại vắng mặt thị trường vốn.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp Nhà nước chỉ còn
là một bộ phận cùng song song tồn tại với hàng loạt các doanh nghiệp thuộc
các thành phần kinh tế khác. Nhu cầu vốn để đảm bảo cho sản xuất kinh
doanh, cho sự tồn tại trong cạnh tranh, cho việc đầu tư phát triển đã trở
thành động lực và là một đòi hỏi cấp bách đối với tất cả các doanh nghiệp
trong nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, khi đã có nhu cầu về vốn, tất
yếu nảy sinh vấn đề cung ứng vốn, thị trường vốn tất yếu phải được hình
thành và quy luật cung cầu sẽ có môi trường để hoạt động. Trong môi trường
đó, các doanh nghiệp có đầy đủ điều kiện và khả năng để chủ động khai thác,
thu hút các nguồn vốn trên thị trường nhằm phục vụ cho các nhu cầu kinh
doanh và phát triển của mình. Vấn đề là ở chỗ người quản lý phải xác định
chính xác nhu cầu vốn, cân nhắc lựa chọn các phương án đầu tư sao cho có
hiệu quả cao; lựa chọn các hình thức thu hút vốn thích hợp; sử dụng các đòn
bẩy kinh tế như lãi suất, lợi tức cổ phần để đủ sức huy động vốn; linh
hoạt sử dụng các nguồn vốn và cân đối khả năng thanh toán, trang trải các
nguồn tài trợ.
- Tác động của tài chính doanh nghiệp trong việc sử dụng vốn tiết kiệm,
hiệu quả: Cũng như đảm bảo vốn, việc tổ chức, sử dụng vốn một cách tiết
kiệm và hiệu quả được coi như là điều kiện tồn tại và phát triển của mỗi
doanh nghiệp. Trong cơ chế quản lý kinh tế mới, yêu cầu của các quy luật
kinh tế đã đặt ra trước mọi doanh nghiệp những chuẩn mực hết sức khắt khe:

sản xuất không phải với bất kỳ loại sản phẩm nào; bán với bất kỳ giá nào mà
phải sản xuất những mặt hàng mà thị trường cần với giá cả phù hợp. Để đáp
ứng được nhu cầu đó, người quản lý phải có chiến lược sản phẩm hợp lý,
đồng thời phải sử dụng vốn một cách tiết kiệm và có hiệu quả; một mặt phải
bảo toàn được vốn, mặt khác phải sử dụng các biện pháp để tăng nhanh vòng
quay vốn, nâng cao khả năng sinh lời của vốn kinh doanh.
13
- Tác động của tài chính doanh nghiệp trong việc kích thích và điều tiết
sản xuất kinh doanh. Khác với cơ chế quản lý bao cấp, trong cơ chế quản lý
kinh tế mới, các mối quan hệ về tài chính của các doanh nghiệp được mở ra
trên phạm vi rất rộng và có liên quan đến vấn để phân phối, điều hòa lợi ích
đối với nhiều chủ thể kinh tế khác nhau trong nền kinh tế. Dựa vào khả năng
đó và trên điểm tựa các lợi ích, người quản lý có thể sử dụng tổng hợp các
chức năng của tài chính để kích thích hoặc điều tiết sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp thông qua các hoạt động tài chính. Tác động kích thích hoặc
điều tiết của tài chính doanh nghiệp thể hiện đậm nét nhất ở việc tạo ra "sức
mua" hợp lý để thu hút vốn đầu tư, lao động đồng thời cũng xác định "giá
bán" hợp lý khi phát hành cổ phiếu, bán hàng hóa, dịch vụ. Bằng việc xây
dựng giá mua, giá bán hợp lý sẽ có tác động tích cực để sản xuất kinh doanh,
vốn được quay vòng nhanh, hệ số sinh lời lớn. Khả năng kích thích hoặc điều
tiết của tài chính doanh nghiệp cũng có thể phát huy tác dụng ngay trong quá
trình điều hành sản xuất kinh doanh thông qua các hoạt động phân phối thu
nhập, thực hiện các hợp đồng kinh tế.
- Tác động của tài chính doanh nghiệp trong việc kiểm tra, kiểm soát các
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong cơ chế quản lý quan
liêu, bao cấp, vấn đề hạch toán kinh doanh không được coi trọng một cách
thực sự. Trong cơ chế quản lý kinh tế mới hiện nay, thông qua các chỉ tiêu tài
chính như: hệ số nợ, hiệu suất sử dụng vốn, cơ cấu vốn có thể dễ dàng nhận
thấy thực trạng tốt, xấu trong các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh. Với
khả năng đó, người quản lý có thể kịp thời phát hiện, điều chỉnh, giám sát quá

trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm đạt được các mục tiêu đã định.
Vai trò của cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp còn được thể hiện ở chỗ:
cơ chế quản lý tài chính hợp lý là hành lang pháp lý, là điểm tựa vững chắc trong
công tác quản lý tài chính, góp phần thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của
tổng công ty. Một cơ chế quản lý tài chính hợp lý sẽ tập trung được sức mạnh
của tổng công ty và cũng sẽ phát huy được tính chủ động của các doanh nghiệp
thành viên, nhất là trong hoạt động quản lý, huy động và sử dụng vốn.
14
1.3. Nội dung cơ chế quản lý tài chính trong Tổng công ty Nhà nước
1.3.1. Cơ chế huy động vốn, quản lý và sử dụng vốn và tài sản
Để tiến hành sản xuất kinh doanh, bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng cần
phải có vốn. Trong cơ chế kinh tế thị trường, vốn là tiền đề, là yếu tố cơ bản
nhất của quá trình sản xuất kinh doanh, có ý nghĩa quyết định đến sự tồn tại
và phát triển của doanh nghiệp. Do đó, bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng đều
phải quan tâm đến vấn đề huy động, quản lý và sử dụng vốn.
Vốn cũng như bất kỳ một loại hàng hóa nào đều có chủ sở hữu đích thực,
người sở hữu chỉ nhượng quyền sử dụng vốn với các điều kiện nhất định,
thông thường chủ sở hữu thu về giá của quyền sử dụng vốn (lợi nhuận) và
một số trái quyền nhất định đối với doanh nghiệp. Nhờ có sự tách rời quyền
sử dụng làm cho vốn có khả năng lưu thông và sinh lời. Vốn của doanh
nghiệp được tạo lập bởi nguồn vốn ban đầu và nguồn vốn bổ sung. Thường
thì vốn đầu tư ban đầu do chủ sở hữu bỏ ra khi thành lập doanh nghiệp, vốn
bổ sung được huy động từ nhiều nguồn khác nhau: từ lợi nhuận không chia,
từ phát hành cổ phiếu, trái phiếu hoặc vay vốn tín dụng Vốn được chu
chuyển và giao dịch phục vụ nhu cầu của doanh nghiệp thông qua nhiều kênh
khác nhau xoay quanh thị trường vốn. Chính sách đầu tư, huy động và sử
dụng vốn là một trong những nội dung cực kỳ quan trọng của chính sách tài
chính doanh nghiệp. Chính sách huy động và quản lý vốn đúng đắn sẽ có tác
dụng khơi thông các nguồn vốn ở dạng tiềm năng nhàn rỗi trong công ty, kích
thích sử dụng các nguồn vốn có hiệu quả vào sản xuất kinh doanh.

1.3.1.1. Cơ chế huy động vốn
a) Cơ chế huy động vốn của doanh nghiệp trong các điều kiện khác nhau:
- Cơ chế huy động vốn trong cơ chế quản lý bao cấp: đặc trưng là sự bao
cấp và kiểm soát hoàn toàn của Nhà nước về nguồn vốn của doanh nghiệp.
Trong cơ chế này, quy mô vốn của doanh nghiệp phụ thuộc vào cơ chế cấp
phát vốn của Ngân sách Nhà nước và doanh nghiệp không phát huy được tính
chủ động sáng tạo trong việc huy động vốn. Các Liên hiệp xí nghiệp quốc
doanh, các Tổng công ty và doanh nghiệp trong thời kỳ trước khi có chính
sách đổi mới của Đảng và Nhà nước được quản lý theo quy chế này.
15
- Cơ chế huy động vốn trong môi trường có sự điều tiết của Chính phủ:
Biểu hiện đặc trưng của cơ chế này là sự mở rộng hơn các kênh thu hút vốn
cho doanh nghiệp và đa dạng hóa các hình thức huy động vốn với các công cụ
tài chính khác nhau. Tuy nhiên, các doanh nghiệp phải tuân thủ các quy định
chặt chẽ của Chính phủ và bị kiểm soát tương đối chặt chẽ của các cơ quan
chức năng của Chính phủ như Bộ Tài chính, Ngân hàng thương mại, Ủy ban
chứng khoán Nhà nước, cơ quan Kiểm toán, cơ quan chủ quản Hoạt động
huy động vốn của doanh nghiệp bị kiểm soát một số mặt như: phương thức
huy động vốn, công cụ tài chính và cơ chế báo cáo.
- Cơ chế huy động vốn của doanh nghiệp trong điều kiện thị trường cạnh
tranh: Đây là kiểu cơ chế hoàn toàn dựa vào các động lực kinh tế và cung cầu
về vốn trên thị trường để định hướng cho các doanh nghiệp trong quá trình
thu hút các nguồn tài chính nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Một xu thế đang nổi
lên là quá trình phi điều tiết hóa đối với hoạt động thu hút tài chính của các
doanh nghiệp. Nhìn chung, hiện nay hầu hết các nước công nghiệp phát triển
đang áp dụng phổ biến mô hình này. Tuy nhiên, mức độ tự do hóa và kiểm
soát của Chính phủ ở các quốc gia khác nhau có những sắc thái khác nhau.
Như vậy, mức độ phi điều tiết trong cơ chế huy động vốn phụ thuộc
vào một số yếu tố cụ thể của mỗi nền kinh tế: hệ thống tài chính và thị
trường tài chính; hệ thống luật pháp và vai trò can thiệp vĩ mô của Nhà

nước đối với nền kinh tế.
Nhà nước cho phép các Tổng công ty Nhà nước tự chủ động, linh hoạt
trong quá trình huy động vốn nhưng không được phép làm thay đổi hình
thức sở hữu. Theo điều 17 của Luật doanh nghiệp Nhà nước thì công ty
Nhà nước có thể: huy động vốn để kinh doanh dưới hình thức phát hành
trái phiếu, tín phiếu, kỳ phiếu công ty; vay vốn của các tổ chức ngân hàng,
tín dụng và các tổ chức tài chính khác, của cá nhân, tổ chức ngoài công ty;
vay vốn của người lao động và các hình thức huy động vốn khác theo quy
định của pháp luật. Việc huy động vốn để kinh doanh thực hiện theo
nguyên tắc tự chịu trách nhiệm hoàn trả, đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn
huy động, không được làm thay đổi hình thức sở hữu công ty.
16
b) Cơ chế phát hành cổ phiếu và trái phiếu
Phát hành trái phiếu và cổ phiếu là những phương thức huy động vốn
được áp dụng phổ biến trong kinh tế thị trường. Về cơ bản, cơ chế phát hành
những công cụ tài chính này ở các doanh nghiệp là giống nhau. Quá trình phát
hành trái phiếu hoặc cổ phiếu là quá trình đưa ra thị trường công cụ tài chính
nhằm mục đích huy động vốn. Tuy nhiên, về bản chất phát hành trái phiếu và
phát hành cổ phiếu có sự khác nhau do bắt nguồn từ đặc điểm khác nhau giữa cổ
phiếu và trái phiếu.
Trái phiếu công ty là chứng khoán nợ do doanh nghiệp phát hành
nhằm huy động vốn trung và dài hạn với các điều kiện về mệnh giá, lãi suất
và thời hạn xác định. Khi công ty phát hành trái phiếu tức là công ty đó
thực hiện một quan hệ tín dụng thông qua việc bán các công cụ tài chính ra
thị trường chứng khoán.
Một trong những vấn đề cần xem xét trước khi phát hành trái phiếu là
lựa chọn loại trái phiếu nào phù hợp nhất với điều kiện cụ thể của doanh
nghiệp và tình hình trên thị trường tài chính.
Việc lựa chọn trái phiếu phù hợp là rất quan trọng vì có liên quan đến chi
phí trả lãi, cách thức trả lãi, khả năng lưu hành và tính hấp dẫn của trái phiếu.

Trước khi quyết định phát hành cần hiểu rõ đặc điểm và ưu nhược điểm của
từng loại trái phiếu. Trên thị trường ở nhiều nước, hiện nay thường lưu hành
những loại trái phiếu doanh nghiệp sau: Trái phiếu có lãi suất cố định; trái
phiếu có lãi suất thay đổi; trái phiếu có thể thu hồi; chứng khoán có thể
chuyển đổi.
Cổ phiếu là chứng khoán vốn xác nhận sự tham gia góp vốn của một chủ
thể (gọi là cổ đông) vào một công ty, tức là xác nhận cổ đông có quyền sở hữu
một phần đối với công ty đó theo tỷ lệ phần trăm cổ phiếu của cổ đông đó. Phát
hành cổ phiếu được gọi là hoạt động tài trợ dài hạn của doanh nghiệp.
Một trong những vấn đề quan trọng nhất đối với quyết định lựa chọn loại
công cụ tài chính nào để phát hành huy động vốn là xem xét, phân tích các
đặc tính của mỗi loại công cụ tài chính, dự tính các ảnh hưởng khi phát hành
các giấy tờ đó để huy động vốn.
17
Quy chế quản lý đối với quá trình phát hành trái phiếu và cổ phiếu phải
hình thành trên cơ sở tính đến các yếu tố ảnh hưởng. Đối với trái phiếu và cổ
phiếu, khi phát hành ra thị trường cần chú ý một số tác động sau:
Thứ nhất: Trái phiếu không làm thay đổi quan hệ sở hữu trong công ty,
không làm ảnh hưởng đến quyền quản lý và kiểm soát công ty, do đó nó được
coi là biện pháp an toàn về mặt sở hữu để huy động vốn. Tuy nhiên, nó có
liên quan mật thiết với khả năng tín dụng của công ty. Khi phát hành thêm trái
phiếu mà không thay đổi vốn chủ sở hữu thì tỷ lệ giữa vốn chủ sở hữu với vốn
vay sẽ giảm, phản ánh mức độ phụ thuộc về tài chính vào bên ngoài tăng lên,
mức độ tự chủ về tài chính của doanh nghiệp giảm đi.
Thứ hai: Chi phí của việc phát hành trái phiếu bao gồm lợi tức trái phiếu
phải trả cho người mua trái phiếu và các chi phí phát hành. Chi phí này thuộc
nhóm chi phí lãi vay và được hạch toán vào chi phí sản xuất kinh doanh trong
kỳ, do đó có lợi cho doanh nghiệp về phương diện thuế thu nhập doanh nghiệp.
Thứ ba: Đối với công ty, sử dụng công cụ cổ phiếu thì tính linh hoạt thấp
hơn so với trái phiếu vì trái phiếu có thời gian xác định và có thể điều chỉnh

khối lượng phát hành tùy theo yêu cầu về vốn và tình hình thực tế. Tuy nhiên,
khi phát hành cổ phiếu, các cổ đông lại tham gia chia sẻ rủi ro cùng với doanh
nghiệp vì họ là những người chủ đồng sở hữu của công ty; các trái chủ thì
được công ty đảm bảo quyền được nhận lợi tức trái phiếu một cách ổn định,
không phụ thuộc vào hiệu quả kinh doanh của công ty.
Thứ tư: Việc phát hành trái phiếu hay cổ phiếu đều phải tính đến hàng
loạt các yếu tố khác như: các quy định, điều kiện phát hành, thị trường tài
chính, lãi suất
Cơ chế quản lý nhà nước đối với việc phát hành trái phiếu và cổ phiếu:
Ở các nước có thị trường chứng khoán, thông qua các cơ quan chuyên
trách, Chính phủ đều thực hiện một cơ chế quản lý và kiểm soát các hoạt động
phát hành trái phiếu và cổ phiếu. Các nước thường có Ủy ban chứng khoán
quốc gia (như Úc) hoặc Ủy ban quốc gia về chứng khoán và hối đoái (như
Mỹ) hoặc Ủy ban chứng khoán nhà nước (như ở Việt Nam)
18
Cơ chế quản lý nhà nước đối với việc phát hành trái phiếu và cổ phiếu
gồm một số nội dung chủ yếu sau:
- Cơ chế thủ tục phát hành cổ phiếu, trái phiếu.
- Các quy định cụ thể về hình mẫu, nội dung của cổ phiếu, trái phiếu.
- Cơ chế về thẩm quyền duyệt và cho phép phát hành, các điều kiện mà
doanh nghiệp phải đảm bảo khi phát hành.
- Các quy định về nghiệp vụ kế toán tài chính liên quan đến quá trình
phát hành trái phiếu, cổ phiếu và thanh toán. Thông thường, các quy định này
do các hiệp hội kế toán, kiểm toán ở các nước quy định.
- Các yếu tố pháp lý và các giao dịch có liên quan đến việc phát hành cổ
phiếu, trái phiếu
Hiện nay, đối với các công ty cổ phần, việc phát hành cổ phiếu là
phương thức huy động vốn hữu dụng và phổ biến.
c) Cơ chế khai thác nguồn vốn nội bộ:
Tự tài trợ bằng nguồn vốn nội bộ là một phương thức tạo nguồn vốn của

các doanh nghiệp được áp dụng khá phổ biến, nhờ đó các công ty phát huy
được nguồn lực của mình, giảm bớt được chi phí, giảm bớt được sự phụ thuộc
vào bên ngoài, nhất là khi có sự biến động trên thị trường tài chính. Nhiều
công ty coi trọng biện pháp tái đầu tư từ lợi nhuận để lại, trong kế hoạch tài
chính hàng năm, công ty đặt ra các mục tiêu về tỷ lệ phần trăm lợi nhuận để
lại đủ lớn nhằm tự đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng tăng.
Nguôn vốn tái đầu tư từ lợi nhuận để lại chỉ có thể thực hiện được nếu
như doanh nghiệp đã và đang hoạt động và có lợi nhuận, được phép tiếp tục
đầu tư. Đối với các doanh nghiệp Nhà nước thì việc tái đầu tư phụ thuộc
không chỉ vào khả năng sinh lợi của bản thân doanh nghiệp mà còn phụ thuộc
vào chính sách khuyến khích tái đầu tư của Nhà nước.
Tuy nhiên, đối với các công ty cổ phần, việc để lại lợi nhuận có liên
quan đến một số các yếu tố nhạy cảm. Khi công ty để lại một phần lợi nhuận
trong năm cho tái đầu tư, tức là không dùng số lợi nhuận đó để chia lãi cổ
phần, các cổ đông sẽ không được nhận lãi cổ phần nhưng bù lại họ có quyền
sở hữu số vốn cổ phần tăng thêm trong công ty. Như vậy, giá trị ghi sổ của
19
các cổ phiếu sẽ tăng lên cùng với việc tự tài trợ bằng nguồn vốn nội bộ. Điều
này một mặt khuyến khích các cổ đông giữ cổ phiếu lâu dài, mặt khác có thể
giảm tính hấp dẫn của cổ phiếu trong thời kỳ ngắn hạn, do cổ đông chỉ được
nhận một phần cổ tức nhỏ hơn. Nếu tỷ lệ chi trả cổ tức thấp hoặc số lãi ròng
không đủ hấp dẫn thì giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán có thể bị giảm
sút, do đó có ảnh hưởng không tốt đến hoạt động tài chính của công ty.
Khai thác các nguồn vốn nội bộ còn bao hàm sự luân chuyển vốn giữa
các đơn vị thành viên của doanh nghiệp hoặc giữa công ty mẹ với các công ty
con dưới các hình thức khác nhau như: tín dụng nội bộ, trao đổi các tài sản,
đầu tư nội bộ, điều hòa và cấp phát vốn Sự lưu chuyển vốn nội bộ tạo ra khả
năng điều hòa và sử dụng tối ưu nguồn lực tài chính của doanh nghiệp.
Trong một số doanh nghiệp nước ngoài, nguồn tài chính nội bộ có thể
chiếm tỷ trọng rất cao từ 40% đến 50%, thậm chí đến 70% trong tổng nguồn

vốn của công ty.
d) Nguồn vốn tín dụng và các nguồn vốn khác
Trong nền kinh tế thị trường, trên cơ sở mở rộng quyền chủ động cho
doanh nghiệp, ngoài vốn pháp định do Nhà nước giao, chính sách và cơ chế
quản lý tài chính khuyến khích các doanh nghiệp tự huy động vốn trong và
ngoài nước để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh và chịu trách nhiệm trả
nợ cho phần vốn đó. Nhà nước cho phép các doanh nghiệp vay các tổ chức tín
dụng, ngân hàng, tổ chức tài chính, thuê mua tài sản theo lãi suất thị trường,
Nhà nước không quy định mức vốn vay mà chỉ cần doanh nghiệp đáp ứng đủ
yêu cầu của các tổ chức tín dụng này. Không một doanh nghiệp nào không
vay vốn ngân hàng hoặc không sử dụng tín dụng thương mại nếu doanh
nghiệp đó muốn tồn tại vững chắc trên thương trường. Trong quá trình hoạt
động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp thường vay ngân hàng để đảm
bảo nguồn tài chính cho các hoạt động kinh doanh, đặc biệt là đảm bảo có đủ
vốn cho các dự án mở rộng hoặc đầu tư chiều sâu của doanh nghiệp.
Trong số các quan hệ tín dụng của doanh nghiệp thì nguồn vốn tín dụng
ngân hàng giữ vị trí quan trọng nhất không chỉ đối với sự phát triển của bản
thân doanh nghiệp mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Sự hoạt động
20
và phát triển của các doanh nghiệp đều gắn liền với các dịch vụ tài chính do
các ngân hàng thương mại cung cấp, trong đó có việc cung ứng các nguồn
vốn. Bời vì các ngân hàng thương mại là tổ chức chuyên môn hóa hoạt động
trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, có khả năng đáp ứng rộng rãi nhu cầu đa
dạng về vốn của các doanh nghiệp và cá nhân. Tính đa dạng, mức độ an toàn,
thuận lợi và hiệu quả đã làm cho nguồn vốn tín dụng ngân hàng chiếm vị trí
quan trọng nhất đối với các công ty trong nước cũng như các doanh nghiệp
trên thế giới.
Đối với các Tổng công ty (công ty mẹ) có các công ty con, cơ chế quản
lý tín dụng bao hàm một số nội dung như:
- Cơ chế kiểm soát nội bộ đối với quá trình huy động vốn tín dụng của

doanh nghiệp cũng như của các công ty con.
- Các quy trình, thủ tục cụ thể đối với việc doanh nghiệp tiến hành vay
- Phương thức kiểm soát của nhà nước đối với quan hệ tín dụng của các
doanh nghiệp.
Với xu thế hiện nay, hầu hết việc vay vốn trong các doanh nghiệp được
phân cấp và tự do hóa, trong đó mở rộng vai trò của các công ty con để nâng
cao tính hiệu quả trong hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, để đảm bảo sự an
toàn chung cho cả hệ thống, các doanh nghiệp phải thực hiện những biện pháp
nhằm kiểm soát hoạt động vay vốn tín dụng, nhất là tín dụng ngân hàng và
việc phát hành trái phiếu công ty. Trong doanh nghiệp, các công ty con được
chủ động vay vốn nhưng không được mâu thuẫn với chiến lược phát triển của
Tổng công ty. Một trong những vấn đề trọng tâm của cơ chế kiểm soát là: mối
quan hệ giữa tính chủ động, linh hoạt, hiệu quả và sự an toàn về tài chính của
doanh nghiệp. Một số biện pháp thường được các doanh nghiệp áp dụng:
- Tăng cường hệ thống kiểm soát nội bộ của các công con và hệ thống
kiểm soát quản trị của tổng công ty.
- Thiết lập các giới hạn tín dụng và các chỉ tiêu kiểm tra nhằm ngăn ngừa
việc vay vốn không có hiệu quả hoặc không an toàn.
21
- Hệ thống quản lý toàn bộ quy trình tín dụng của mỗi doanh nghiệp
bao gồm việc xây dựng luận chứng, vay vốn và sử dụng vốn một cách có
hiệu quả.
Các doanh nghiệp cũng thường khai thác nguồn vốn tín dụng thương mại
(commercial credit) hay còn gọi là tín dụng của người cung cấp (sưppliers'
credit). Nguồn vốn này hình thành một cách tự nhiên trong quan hệ mua bán
chịu, mua bán trả chậm hay trả góp. Nguồn vốn tín dụng thương mại có ảnh
hưởng hết sức to lớn không chỉ đối với doanh nghiệp mà cả đối với nền kinh
tế. Trong một số doanh nghiệp, nguồn vốn tín dụng thương mại dưới dạng các
khoản phải trả có thể chiếm tới 20% tổng nguồn vốn, thậm chí có thể chiếm
tới 40% tổng nguồn vốn.

Đối với doanh nghiệp, tài trợ bằng nguồn vốn tín dụng thương mại là
một phương thức tài trợ rẻ, tiện dụng và linh hoạt trong kinh doanh; hơn nữa
nó còn tạo khả năng mở rộng các quan hệ hợp tác kinh doanh một cách lâu
bền. Các điều kiện ràng buộc cụ thể được ấn định khi hai bên ký kết hợp đồng
mua bán hay hợp đồng kinh tế nói chung. Tuy nhiên, cần nhận thấy tính chất
rủi ro của quan hệ tín dụng thương mại khi quy mô tài trợ quá lớn.
1.3.1.2. Cơ chế quản lý và sử dụng vốn và tài sản của doanh nghiệp
Vốn kinh doanh của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tư
liệu sản xuất được doanh nghiệp sử dụng một cách hợp lý và có kế hoạch vào
hoạt động kinh doanh nhằm đạt mục tiêu lợi nhuận.
Việc huy động và quản lý vốn trong doanh nghiệp thể hiện tập trung vào
các nguyên tắc sau:
- Xác định tỷ trọng vốn cần huy động với tổng số vốn doanh nghiệp có
khả năng chi trả trong từng thời kỳ.
- Xác định hiệu quả vốn bỏ ra đầu tư theo các chỉ tiêu cụ thể: lợi nhuận trên
vốn, lợi nhuận trên doanh thu, thời gian thu hồi vốn, tuổi thọ sản phẩm của
doanh nghiệp và khả năng tiêu thụ. cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường
Cơ chế quản lý vốn và tài sản được đổi mới theo hướng ngày càng mở
rộng tính tự chủ cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp được sử dụng linh hoạt số
vốn đang quản lý và được quyền thay đổi cơ cấu tài sản phù hợp với yêu cầu
22
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Được cầm cố, thế chấp, cho thuê,
nhượng bán tài sản thuộc quyền quản lý và sử dụng hợp pháp của doanh
nghiệp, được huy động vốn từ các nguồn vốn trong và ngoài nước dưới các
hình thức vay tín dụng, phát hành trái phiếu, liên kết, liên doanh nhưng
không làm thay đổi hình thức chủ sở hữu để đầu tư chiều sâu, đổi mới
công nghệ, mở rộng sản xuất. Riêng đối với các doanh nghiệp hoạt động
công ích, việc huy động vốn phải được sự đồng ý của người quyết định
thành lập doanh nghiệp mới được huy động vốn. Để bảo toàn và phát triển
vốn, doanh nghiệp cần phải thực hiện biện pháp mua bảo hiểm tài sản,

trích lập quỹ dự phòng để bù đắp rủi ro mất vốn, được sử dụng lợi nhuận
sau thuế để bù lỗ.
Đối với công ty cổ phần: Nhà nước đầu tư vốn vào các công ty cổ
phần với vai trò là cổ đông. Tùy từng loại hình doanh nghiệp, Nhà nước
quyết định mức vốn đầu tư hoặc chi phối (trên 50% vốn điều lệ) hoặc
không chi phối (dưới 50% vốn điều lệ). Nhà nước cử đại diện tham gia
quản lý phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Nhà nước tham gia vào quá
trình sản xuất kinh doanh của công ty theo quyền và nghĩa vụ của cổ đông
theo quy định tại Điều 79 - Luật Doanh nghiệp được Quốc hội thông qua
ngày 29/11/2005. Cũng theo Luật Doanh nghiệp năm 2005, công ty cổ
phần được phát hành chứng khoán các loại để huy động vốn. Việc phát
hành thêm cổ phiếu để tăng vốn điều lệ phải được đại hội đồng cổ đông
thông qua. Căn cứ vào nhu cầu vốn cho hoạt động kinh doanh, Hội đồng
quản trị trình Đại hội đồng cổ đông thông qua phương án phát hành bao
gồm: Số lượng cổ phiếu, mệnh giá cổ phiếu (theo Nghị định
187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ thì mệnh giá cổ phiếu là
10 000 đ/cổ phiếu), giá phát hành, đối tượng phát hành Ngoài ra, để đảm
bảo nhu cầu vốn, công ty cổ phần được huy động vốn bằng các nguồn khác
như vay các tổ chức tín dụng, ngân hàng và các tổ chức khác theo quy định
của Nhà nước. Công ty cổ phần được toàn quyền quyết định sử dụng vốn cho
hoạt động sản xuất kinh doanh với mục tiêu bảo toàn và phát triển vốn.
1.3.2. Cơ chế quản lý chi phí
23
Mục tiêu cuối cùng của các doanh nghiệp là tối đa hóa giá trị tài sản cho
các chủ sở hữu. Bởi vậy, doanh nghiệp phải bỏ ra những khoản chi phí nhất
định trong quá trình thực hiện sản xuất kinh doanh. Tùy từng loại hình kinh
doanh của doanh nghiệp mà tỷ trọng các bộ phận chi phí có thể không giống
nhau và cũng tùy theo các cách tiếp cận khác nhau, người ta có thể xem xét
các loại chi phí dưới các góc độ khác nhau.
Dưới góc độ doanh nghiệp, để tạo ra sản phẩm, dịch vụ thì doanh nghiệp

phải bỏ ra chi phí nhất định như khấu hao tài sản cố định, tiêu hao nguyên,
nhiên vật liệu, tiền lương và các chi phí khác. Đó là các chi phí thực tế mà
doanh nghiệp đã bỏ ra.
Chi phí doanh nghiệp bỏ ra trong quá trình kinh doanh bao gồm: chi phí
hoạt động kinh doanh, chi phí hoạt động tài chính và chi phí khác. Chi phí
hoạt động kinh doanh bao gồm các chi phí có liên quan đến quá trình hoạt
động sản xúât - kinh doanh của doanh nghiệp. Chi phí hoạt động tài chính bao
gồm các chi phí liên doanh, liên kết, chi phí thuê tài sản, chi phí vay nợ, chi
phí mua, bán chứng khoán Chi phí khác là các khoản chi phí doanh nghiệp
phải bỏ ra ngoài các khoản chi phí trên như chi phí nhượng bán, thành lý tài
sản cố định, giá trị tổn thất sau khi đã giảm trừ
Trong hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp phải kiểm soát được chi phí
kinh doanh vì mỗi khoản chi phí bất hợp lý xảy ra đều ảnh hưởng đến kết quả
kinh doanh của doanh nghiệp. Để đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh có
hiệu quả, xác định chính xác kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh đòi hỏi
cơ chế quản lý chi phí kinh doanh phải được xem là vấn để quan trọng trong
các doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp được chủ động lựa chọn các phương án sản xuất kinh
doanh thích hợp với thị trường, thực hiện hạch toán kinh doanh và chịu trách
nhiệm về hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình. Doanh nghiệp chủ động
trong việc xây dựng đơn giá tiền lương, định mức vật tư, lao động và báo
cáo hoặc xin phê duyệt của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Doanh nghiệp
được quyền hạch toán chi phí theo định mức được duyệt và được chi trả các
khoản lương, thưởng theo kết quả hoạt động kinh doanh sau khi được phê
24
duyệt, được lựa chọn phương pháp khấu hao tài sản cố định sau khi đăng ký
với cơ quan thuế.
Nhà nước với tư cách là chủ sở hữu có nhiệm vụ quản lý và kiểm tra việc
sử dụng tài sản, vốn của Nhà nước. Nhà nước có chính sách quản lý chi phí
sản xuất một cách hợp lý, đảm bảo ngăn chặn việc sử dụng lãng phí tiền vốn,

vật tư, lao động Doanh nghiệp phải hạch toán đầy đủ các khoản chi phí phát
sinh trong năm tài chính và theo nguyên tắc quản lý chặt chẽ từng khoản chi
phí của doanh nghiệp.
Trên cơ sở định mức được duyệt làm căn cứ cấp phát, quản lý việc tiêu
hao vật tư, cuối năm doanh nghiệp phải quyết toán việc tiêu hao vật tư so với
định mức và so với kỳ trước để xác định rõ trách nhiệm việc quản lý và sử
dụng vật tư của từng bộ phận và cá nhân trong doanh nghiệp.
Doanh nghiệp tự xây dựng và đăng ký định mức lao động và đơn giá tiền
lương theo quy định. Tổng quỹ tiền lương của công nhân viên trong doanh
nghiệp (bao gồm cả Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát) phải căn cứ vào đơn
giá tiền lương và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Trường hợp doanh
nghiệp gặp khó khăn trong hoạt động kinh doanh thì vẫn phải đảm bảo mức
lương tối thiểu cho công nhân viên trong doanh nghiệp. Mọi việc chi lương
sai chế độ, không đúng đối tượng phải thu hồi. Người quyết định chi sai phải
chịu trách nhiệm trước doanh nghiệp và pháp luật.
Doanh nghiệp được chi quảng cáo, tiếp thị, khuyến mại cho các hoạt
động kinh doanh. Các khoản chi phí giao dịch, tiếp khách, đối ngoại, hội nghị
doanh nghiệp phải có cơ chế quản lý và công khai các khoản chi nói trên.
Giám đốc doanh nghiệp quyết định các khoản chi và chịu trách nhiệm trước
pháp luật về quyết định của mình. Các khoản chi này không được vượt quá tỷ
lệ quy định so với tổng chi phí thực tế trong kỳ. Việc tính giá thành sản phẩm
nhập kho thực hiện theo quy định, chỉ tính chi phí vật tư, lao động trực tiếp và
chi phí sản xuất chung. Chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp
được kết chuyển toàn bộ cho sản phầm hàng hóa tiêu thụ trong kỳ.
Doanh nghiệp được phép hạch toán vào chi phí các khoản chi phí bảo
hành sản phẩm, chi phí bảo hiểm tài sản, các khoản chi hoa hồng môi giới.
25

×