Đề tài thảo luận môn Kinh tế phát triển
Học viên: Nguyễn Thị Phương Lan
Lớp : Cao học 16A
Đề tài:
“ Đánh giá thực trạng về số và chất lượng tăng trưởng kinh tế Việt Nam thời kỳ
2001-2006. Tăng trưởng kinh tế Việt Nam thời gian qua có ảnh hưởng như thế nào
đến vấn đề xóa đói giảm nghèo và công bằng xã hội ”.
BÀI LÀM
1. Khái quát về tăng trưởng kinh tế.
1.1. Khái niệm và ý nghĩa tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong một khoảng
thời gian nhất định (thường là một năm).
Tăng trưởng kinh tế là điều kiện cần của sự phát triển. Các nước đang phát
triển không thể thực hiện được mục tiêu phát triển nền kinh tế nếu không có một
khả năng tích luỹ vốn cao, và mục tiêu phấn đấu của xã hội không phải là cho một
sự công bằng trong đó ai cùng nghèo như ai. Một xã hội lành mạnh phải dựa trên
cơ sở của một nền kinh tế vững chắc về vật chất.Tăng trưởng kinh tế là điều kiện
vật chất cần thiết cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cho sự thay đổi các
mục tiêu xã hội.
1.2. Tính chất hai mặt của tăng trưởng kinh tế.
1.2.1. Mặt lượng của tăng trưởng.
Mặt lượng của tăng trưởng kinh tế là biểu hiện bên ngoài của sự tăng trưởng và
được phản ánh thông qua các chỉ tiêu đánh giá quy mô và tốc độ tăng trưởng.
Các chỉ tiêu giá trị phản ánh tăng trưởng theo hệ thống tài khoản quốc gia (SNA)
bao gồm: tổng giá trị sản xuất (GO); tổng sản phẩm quốc nội (GDP); tổng thu nhập
quốc dân (GNI); thu nhập quốc dân (NI); thu nhập được quyền chi (GDI). Trong số
các chỉ tiêu nói trên, chỉ tiêu thường hay sử dụng nhất và phản ánh chính xác hơn
1
cả là GDP và GDP trên đầu người. Giá để tính các chỉ tiêu tăng trưởng gồm ba loại
khác nhau: giá so sánh, giá hiện hành và giá sức mua tương đương
1.2.2. Mặt chất lượng tăng trưởng.
1.2.2.1 Khái niệm
- Theo nghĩa hẹp: chất lượng tăng trưởng là thuộc tính bên trong của quá trình
tăng trưởng kinh tế, thể hiện qua các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả đạt được mặt số
lượng của tăng trưởng và khả năng duy trì nó trong dài hạn.
- Theo nghĩa rộng: chất lượng tăng trưởng thể hiện năng lực sử dụng các yếu tố
đầu vào, tạo nên tính chất, sự vận động của các chỉ tiêu tăng trưởng và ảnh hưởng
lan tỏa của nó đến các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội - môi trường.
1.2.2.2. Đánh giá chất lượng tăng trưởng theo nghĩa hẹp
Đánh giá chất lượng tăng trưởng theo nghĩa hẹp gồm các nội dung sau:
+Đánh giá hiệu quả tăng trưởng.
+Phân tích và đánh giá cấu trúc đầu vào của tăng trưởng
+Phân tích và đánh giá cấu trúc tăng trưởng theo ngành
+ Phân tích và đánh giá cấu trúc tăng trưởng theo đầu ra
1.2.3. Mối quan hệ giữa mặt số và chất lượng tăng trưởng
Số và chất lượng tăng trưởng là hai mặt của một vấn đề. Tuy vậy, trong mỗi giai
đoạn phát triển khác nhau và tuỳ theo sự lựa chọn mô hình phát triển mà vị trí của
một trong hai mặt này được đặt ra khác nhau.
- Giai đoạn đầu: do quan tâm đến mặt lượng của tăng trưởng nhiều hơn, trong
nhiều trường hợp phải bỏ qua yêu cầu của chất lượng tăng trưởng. Mặt số lượng và
chất lượng tăng trưởng gần như là 2 yếu tố mang tính đánh đổi nhau. Nếu quan tâm
nhiều đến khía cạnh cái giá phải trả cho sự tăng trưởng và tác động lan toả tích cực
của nó đến các đối tượng chịu ảnh hưởng, thì nhiều trường hợp mục tiêu đạt được
một tốc độ tăng trưởng nào đó lại không thực hiện được.
- Giai đoạn sau (trong dài hạn): hai yếu tố này lại là hỗ trợ nhau, thúc đẩy nhau và
tạo điều kiện cho nhau cùng hoàn thiện. Chính việc quan tâm đến các tiêu chí về
chất lượng tăng trưởng lại là cơ hội để đạt được mục tiêu về số lượng tăng trưởng
2
đặt ra. Ngược lại, về phía mình, mặt lượng của tăng trưởng lại tạo ra những hỗ trợ
về vật chất cho việc hướng tới chất lượng tăng trưởng tốt hơn.
2. Đánh giá thực trạng về số và chất lượng tăng trưởng kinh tế Việt Nam thời
kỳ 2001-2006.
2.1. Đánh giá thực trạng về mặt số lượng tăng trưởng kinh tế Việt Nam thời
kỳ 2001-2006.
Nguồn: Niên giám thống kê Việt Nam 2001-2005 và Báo nhân dân ngày 1/1/2007
Qua đồ thị trên cho thấy:
-Việt Nam luôn duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định trong thời
kỳ 2001-2005. Tốc độ tăng trưởng bình quân năm thời kỳ 2001-2005 là 7.5%, đạt
được chỉ tiêu kế hoạch đặt ra và cao hơn thời kỳ 1996-2000 (bình quân là 7%).
-Tốc độ tăng trưởng GDP của cả năm 2006 đạt 8.17%. Đó là thành tựu to lớn nếu
đặt trong điều kiện hết sức khó khăn của năm này (thiên tai, địch họa, sự biến động
giá dầu...).
-Việt Nam vẫn tiếp tục giữ vị trí là một trong những nước có sự tăng trưởng nhanh
so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Tốc độ tăng trưởng của Việt Nam
đạt cao hơn nhiều so với mức trung bình toàn cầu dự kiến năm 2006 (đạt 5.4 %) và
cao hơn mức bình quân của khu vực Đông Á (ADB dự báo đạt trên 7% trong năm
2006; Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông chỉ đạt 5.1%, các nước Asean kỳ vọng đạt
5.5%).
3
Bảng: So sánh tốc độ tăng trưởng GDP Việt Nam và các nước lân cận (%)
Năm
Nước
2001 2002 2003 2004 2005 2006
Thái Lan 2.2 5.3 6.9 6.1 4.2 5.0
Malayxia 0.3 4.4 5.4 7.1 5.0 5.3
Việt Nam 6.89 7.08 7.34 7.79 8.43 8.17
Trung Quốc 7.5 8.3 9.5 9.5 9.3 10.1
Hàn Quốc 3.8 7.0 3.1 4.6 3.8 4.6
Nguồn: GSO, SBV, IMFM và WB; *: số dự báo
Những số liệu về quy mô và tốc độ tăng trưởng kinh tế là thành tích không thể phủ
nhận được mà Việt Nam đã đạt được trong thời gian qua. Tuy vậy, trong tương lai
Việt Nam có duy trì được tốc độ tăng trưởng như vậy nữa không; cái giá phải trả
cho các chỉ tiêu đạt được như thế nào; kết quả của sự gia tăng thu nhập có ảnh
hưởng đến các lĩnh vực kinh tế-xã hội ra sao? Để trả lời những câu hỏi đó, cần phải
phân tích chất lượng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam như ở phần dưới đây.
2.2. Đánh giá thực trạng chất lượng tăng trưởng kinh tế Việt Nam thời kỳ
2001-2006.
2.2.1.Đánh giá hiệu quả tăng trưởng.
2.2.1.1.Động thái thay đổi tốc độ tăng trưởng GDP và GDP/người.
Nguồn: Niên giám thống kê Việt Nam
4
Qua biểu đồ trên ta thấy: Từ năm năm trở lại đây, thu nhập bình quân đầu người
nước ta tăng liên tục và ngày càng có xu hướng tăng nhanh. Đạt được điều này,
bên cạnh các thành tích về kinh tế ( tăng trưởng GDP liên tục đạt mức cao và ổn
định), nước ta còn đạt được những thành tích ổn định về kiểm soát tốc độ tăng dân
số. Trừ năm 2003 có sự gia tăng đột biến về tăng dân số tự nhiên (từ 1,32% năm
2002 lên 1,47% năm 2003), các năm sau đó tốc độ này lại có xu hướng giảm dần
(1,4% năm 2004 và 1,33% năm 2005). Xu thế này cho phép kết luận thu nhập bình
quân đầu người của Việt Nam sẽ còn tăng ổn định ở mức cao trong thời gian tới.
Điều này sẽ mang lại nhiều cơ hội hơn cho người dân Việt Nam trong việc nâng
cao mức sống, cải thiện điều kiện sống và đó chính là biểu hiện của việc tăng
trưởng kinh tế được nâng cao.
2.2.1.2.Động thái thay đổi tốc độ tăng GO và GDP
Nguồn: Tính toán từ Niên giám thống kê Việt Nam 2006
Hình trên cho thấy: trong thời gian qua, khi GDP liên tục tăng ổn định thì tỷ lệ tăng
trưởng của GO lại không ổn định, mặc dù khoảng cách giữa tỷ lệ tăng trưởng GO
và GDP có xu hướng giảm. Điều đó cho thấy chất lượng tăng trưởng có được cải
thiển trong một chừng mực nhất định nhưng chưa trở thành một xu thế bền vững.
2.2.1.3.Động thái thay đổi suất đầu tư tăng trưởng (ICOR).
Bảng: Suất đầu tư tăng trưởng của VN và các nước thời kỳ tăng trưởng nhanh.
Thời kỳ tăng trưởng
nhanh
Tỷ lệ đầu tư
(%GDP)
Tỷ lệ tăng
trưởng (%)
SĐTTT
Việt Nam 2001-2005 37,7 7,5 5,0
5
2006 40% 8,17 5,01
Trung Quốc 1991-2003 39,1 9,5 4,1
Nhật Bản 1961-1970 32,6 10,2 3,2
Hàn Quốc 1981-1990 29,6 9,2 3,2
Đài Loan 1981-1990 21,9 8,0 2,7
Nguồn : Chi Hung KWAN, Why China’s Investment Efficiency is Low,
China in Transition, June 18, 2004.
Từ số liệu trên, có thể đưa ra một số nhận xét sau: So với các nước trong khu vực,
hệ số ICOR của Việt Nam cao hơn hiều so với Thái Lan (3,84 năm 2004). So với
nước có tốc độ tăng trưởng cao như Việt Nam, hệ số này của Trung Quốc cũng chỉ
là 4,1 bình quân cho giai đoạn 1991-2003 với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân là
9,5%/năm. Điều này cho thấy, năng suất vốn của Việt Nam hiện quá thấp so với
khu vực và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam còn quá phụ thuộc vào yếu tố vốn,
yếu tố mà Việt Nam không có thế mạnh. Sự yếu kém này có thể sẽ làm ảnh hưởng
tiêu cực đến đà tăng trưởng kinh tế trong những năm tới.
2.2.2.Đánh giá cấu trúc đầu vào của tăng trưởng kinh tế.
Trong những năm gần đây, kinh tế Việt Nam đang chuyển dần từ phát triển theo
chiều rộng sang phát triển theo chiều sâu. Điều này thể hiện qua vai trò ngày càng
tăng của TFP trong sự tăng trưởng chung của cả nền kinh tế.
Bảng: Đóng góp của các yếu tố đầu vào trong tăng trưởng GDP Việt Nam (%)
Thời kỳ
Đóng góp của các yếu tố
1993-1997 1998 - 2002 2003 - nay
1. Đóng góp theo điểm phần trăm (%)
- Vốn
- Lao động
- TFP
8,8
6,1
1.4
1,3
6,2
3,56
1,24
1,4
7,84
4,36
1,4
1,97
2. Đóng góp theo tỷ lệ phần trăm (%)
- Vốn
100
69,3
100
57,4
100
55,73
6
- Lao động
- TFP
15,9
14,8
20,0
22,6
19,07
25,2
Nguồn: CIEM và Thời báo kinh tế Việt Nam
Số liệu ở bảng trên cho thấy:
-Tỷ lệ đóng góp cảu các yếu tố chiều rộng (K và L) vào tăng trưởng khá cao: giai
đoạn 2003-2006 là 74,8%. Nếu xát về khía cạnh lợi thế so sánh và đặc điểm của
nền kinh tế đang phát triển, điều này có phần hợp lý, bởi ở Việt Nam, các yếu tố
chiều rộng vẫn còn khá dồi dào, giá nhân công rẻ, nguồn tài nguyên thiên nhiên
còn đang được khám phá, trong khi đó chất lượng nguồn nhân lực và trình độ khoa
học công nghệ còn thấp.
-Cấu trúc tăng trưởng theo đầu vào đã được điều chỉnh dần theo hướng hợp lý hơn:
trước hết, trong cơ cấu đóng góp của các yếu tố chiều rộng, tỷ trọng đóng góp của
các yếu tố vốn có xu hướng giảm ( từ 69,3% giai đoạn trước xuống còn 52,73%),
tỷ trọng đóng góp của lao động, một yếu tố mà Việt Nam có nhiều lợi thế đang có
xu hướng tăng lên ( từ 15,9% lên 20%); thứ hai, sự đóng góp của yếu tố TFP vào
tăng trưởng có xu hướng tăng lên, giai đoạn 1993-1997 chỉ chiếm 14,8%, giai đoạn
sai đã lên tới 28,2%, cao hơn cả đóng góp của yếu tố lao động.
Tuy vậy, chất lượng tăng trưởng vẫn còn tồn tại những bất cập:
-Tính bất hợp lý và thiếu hiệu quả xét trong khuôn khổ sử dụng các yếu tố tăng
trưởng theo chiều rộng. Việt Nam có lợi thế về lao động hơn về vốn, trong khi dó
tăng trưởng kinh tế trong những năm qua nghiêng nhiều về yếu tố vốn hơn là yếu
tố lao động: tỷ trọng đóng góp của yếu tố vốn cao gấp 3 lần yếu tố lao động ở giai
đoạn 2003-2006. Có thể nói tăng trưởng kinh tế Việt Nam thời kỳ qua bị chi phối
chủ yếu bởi yếu tố vốn, tỷ trọng đóng góp của TFP, thậm chí cả lao động vào tăng
trưởng lên xuống là do sự biến động về quy mô của yếu tố vốn trong các thời kỳ
tạo nên.
- Vai trò hạn chế của yếu tố tăng trưởng theo chiều sâu. Mặc dù từ 1998 đến nay,
sự đóng góp của nhân tố TFP tăng dần, nhưng tỷ lệ đóng góp trong kết quả tăng
trưởng còn quá thấp. Tỷ trọng đóng góp của yếu tố vốn và lao động gấp trên 3 lần
so với tỷ trọng đóng góp của yếu tố TFP. Mức đóng góp 20% vào tăng trưởng của
TFP hiện thấp hơn rất nhiều so với các nước trong khu vực. Ví dụ, Hàn Quốc là
32,2%, Đài Loan là 35%. Vai trò hạn chế của TFP đối với tăng trưởng là rào cản
lớn cho việc nâng cao hiệu quả tăng trưởng kinh tế, ảnh hưởng trực tiếp đến các chỉ
7
tiêu năng suất lao động,hiệu quẩ đầu tư, nhất là đến khả năng duy trì tăng trưởng
kinh tế trong dài hạn và khả năng khai thác triệt để các tiềm năng của đất nước.
2.2.3.Đánh giá cấu trúc tăng trưởng theo ngành.
Đóng góp của các ngành vào điểm phần trăm tăng trưởng GDP của Việt Nam
0.69
3.68
2.52
0.93
3.47
2.68
0.79
3.92
2.63
0.92
3.93
2.94
0.8
4.2
3.4
0.74
4.15
3.27
0%
20%
40%
60%
80%
100%
2001 2002 2003 2004 2005 2006
Đóng góp của các ngành vào tăng trưởng kinh tế
(2001-2006)
Dich vu
Cong nghiep va xay
dung
Nong-Lam-Thuy san
Nguồn: Niên giám thống kê Việt Nam qua các năm
Nhìn vào biểu đồ ta thấy ngành công nghiệp-xây dựng chiếm tỷ trọng lớn nhất
trong GDP và có tốc độ tăng trưởng cao nhất, chiếm 4,15 điểm phần trăm tốc độ
tăng trưởng GDP vào năm 2006. Trong khi đó nhóm ngành nông - lâm - ngư
nghiệp vào năm 2006 có tốc độ tăng trưởng chậm hơn so với các năm 2004, 2005
nên tỷ trọng đóng góp vào tăng trưởng kinh tế giảm đi, chỉ còn 0,74 điểm phần
trăm tốc độ tăng trưởng GDP. Đối với nhóm ngành dịch vụ, do vẫn duy trì được
tốc độ tăng trưởng khá cao ( trên 8%) nên đã đóng góp vào tăng trưởng GDP là
3,27 điểm phần trăm vào năm 2006. Xem xét trên góc độ vai trò, vị trí của các
ngành trong việc nâng cao hiệu quả và duy trì khả năng tăng trưởng dài hạn, thực
trạng tăng trưởng và sự đóng góp của các nhóm ngành kinh tế Việt Nam thời kỳ
này có những điểm đáng chú ý sau:
-Tuy chưa có sự bứt phá đột biến nhưng công nghiệp vẫn giữ được vai trò đầu tàu
và động lực tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế. Một tốc độ tăng trưởng cao vượt
trội của ngành công nghiệp so với mức tăng trưởng chung mới tạo ra được đòn bẩy
cho sự tăng trưởng nhanh hơn của các ngành khác, nhất là dịch vụ, và kéo theo sự
tăng trưởng vững chắc, hiệu quả cho toàn nền kinh tế.
8
-Mức đóng góp của khu vực dịch vụ chưa thể hiện được vị trí, tiềm năng phát triển
trong xu thế phát triển của nền kinh tế hội nhập và khả năng nâng cao hiệu quả của
tăng trưởng kinh tế.
-Tỷ trọng đóng góp của khu vực dịch vụ Việt Nam không ổn định trong nhiều năm
qua, tỷ trọng đóng góp của chúng trong năm 2006 mới là 40%, thấp xa so với
44,1% của năm 1996. Sự không ổn định và xu hưuớng giảm sút tương đối của
ngành dịch vụ đã phản ánh xu hướng không tích cực về chất lượng tăng trưởng
kinh tế Việt Nam.
2.2.4. Đánh giá cấu trúc đầu ra của tăng trưởng.
Xét trên khía cạnh chất lượng tăng trưởng, thì sự đóng góp với tỷ lệ cao của đầu tư
và xuất khẩu trong cấu trúc tăng trưởng kinh tế của Việt Nam hiện nay là một biểu
hiện tích cực. Việt Nam luôn duy trì được tốc độ tăng trưởng đầu tư khá cao và
tương đối ổn định ( trên 10%/năm), cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế. Năm 2006,
tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt trên 380 nghìn tỷ đồng, chiếm khoảng 39% GDP,
tốc độ tăng trưởng đầu tư lên tới 15,6% so với năm 2005, đóng góp tới 7,46 điểm
phần trăm so với 8,17% tăng trưởng chung. Tỷ trọng các nguồn vốn đầu tư trong
tổng vốn đầu tư xã hội thời kỳ này như bảng dưới:
Bảng: Cơ cấu vốn đầu tư xã hội theo nguồn (%)
Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006*
Tổng 100 100 100 100 100 100
Ngân sách Nhà nước 23.6 22.7 23.7 22.8 21.9 22.5
Tín dụng Nhà nước 16.8 16 12.5 10.9 9.2 9.1
Doanh nghiệp Nhà nước 17 16.8 13.9 14.8 15.3 15.2
Vốn khác - - 3.9 3.6 4.3 5.4
Vốn ngoài quốc doanh 25 27.2 29.7 31.8 33 32.4
Vốn FDI 17.6 17.3 16.3 16.1 16.3 15.4
Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư- kế hoạch 2006-2010,Sổ tay kế hoạch 2007
9
Nhìn vào bảng trên ta thấy, năm 2006 quy mô vốn đầu tư khá cao so với những
năm trước nhưng tỷ trọng đóng góp từ nguồn vốn ngân sách và vốn tín dụng nhà
nước có xu hướng giảm tương đối so với trước; nguồn vốn ngoài quốc doanh
chiếm tỷ trọng cao; các doanh nghiệp nhà nước, do kết quả của quá trình cổ phần
hóa và sắp xếp lại, đã có tỷ trọng đóng góp trong đầu tư ngày càng cao. Phần vốn
FDI năm 2006 đạt mức kỷ lục với 10,2 tỷ USD vốn đăng ký.
Xét về cấu trúc đầu ra của tăng trưởng thì xu hướng biến động của yếu tố cấu thành
tăng trưởng là hợp lý, phù hợp với những yêu cầu cần có. Sự đóng góp của yếu tố
đầu tư và xuất khẩu vào tăng trưởng ngày càng cao là những dấu hiệu đúng trong
quá trình theo đuổi mục tiêu tăng trưởng nhanh. Tuy vậy, liên quan đến chất lượng
tăng trưởng thì chính hiệu quả của đầu tư, xuất khẩu và khả năng duy trì tăng
trưởng dài hạn của các yếu tố này lại là những điều đáng quan tâm:
-Điều đáng quan tâm thứ nhất là tăng trưởng kinh tế Việt Nam dựa quá nhiều vào
đầu tư. Số liệu ở bảng dưới sẽ cho thấy điều này.
Bảng: Cơ cấu chi tiêu của một số nền kinh tế (năm 2005)
Các nền kinh tế % GDP cho tiêu dùng
(cá nhân và chính phủ)
% GDP cho
đầu tư
% GDP
cho NX
1. Thế giới
2.Các nước thu nhập cao
3. Các nước thu nhập trung bình
4. Các nước thu nhập thấp
5. Một số nước đang phát triển
- Trung Quốc
- Việt Nam
- Thái Lan
79
80
72
76
59
71
71
21
20
26
27
39
36
31
0
0
2
-3
2
-7
-2
10
Nguồn: WB, Báo cáo phát triển thế giới, 2007
Qua bảng trên, ta thấy tăng trưởng kinh tế Việt Nam dựa quá nhiều vào đầu tư. Tỷ
lệ vốn đầu tư so với GDP tăng lên khá nhanh: năm 2001 là 35,4%, năm 2005 lên
đến 36%. Tỷ lệ này cao so với các nước trong khu vực (tỷ lệ này của Thái Lan là
31%, Hàn Quốc là 29,3%). Nhìn ở bảng trên, ta thấy gần giống với Việt Nam, tỷ lệ
vốn đầu tư so với GDP của Trung Quốc năm 2005 là 39%, đây là một tỷ lệ cao
buộc Trung Quốc phải đưa ra nhiều chính sách để hạ nhiệt đầu tư, tránh phát triển
quá nóng. Việt Nam không phải là nước có lợi thế về vốn, hoạt động cho vay cũng
gặp khó khăn do lãi suất cao và áp lực lạm phát còn lớn hơn do vẫn còn nhiều loại
giá trị bị nén bằng biện pháp hành chính và tính bất ổn của giá cả đầu vào quốc tế.
- Điều đáng quan tâm thứ hai là hiệu quả sử dụng vốn đầu tư còn thấp. Nếu sử
dụng chỉ tiêu ICOR để đánh giá hiệu quả dầu tư, thì của Việt Nam cao hơn nhiều
so với các nước trong khu vực.
Bảng: So sánh vốn đầu tư và vốn sản xuất gia tăng (giá thực tế)
2000 2002 2003 2004 2005
Vốn đầu tư (tỷ đồng) 151.183 199.105 231.616 275.000 335.000
11
Vốn sản xuất gia tăng (tỷ
đồng)
104.582 120.611 142.568 179.000 220.000
VSX/VĐT(%) 69,7 60,5 61,5 65,1 62,8
Nguồn: niên giám thống kê 2005
Bảng trên cho thấy tính kém hiệu quả của việc sử dụng vốn đầu tư. So sánh giữa
mức vốn đầu tư hàng năm và vốn sản xuất gia tăng, tỷ lệ vốn đầu tư trở thành vốn
sản xuất gia tăng hàng năm không ổn định và thường chỉ đạt khoảng 60% thời kỳ
2001-2005, tỷ lệ này thấp hơn so với thời kỳ 1996-2000. Vốn đầu tư còn bị lãng
phí thất thoát lớn, chi phí giả phóng mặt bằng cao, thời gian thi công chậm, đầu tư
dàn trải, tỷ lệ dở dang lớn hơn mức cần có.
- Điều đáng quan tâm thứ ba là vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước bị sử dụng kém
hiệu quả nhất. Điều này thể hiện ở bảng dưới đây:
Bảng: Cơ cấu đầu tư và cơ cấu GDP theo thành phần kinh tế (giá thực tế)
Cơ cấu vốn đầu tư (%) Cơ cấu GDP (%)
Năm 1995 2000 2004 2005 2006 1995 2000 2004 2005 2006
Tổng 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100
Khu vực nhà nước 42 59,1 53,6 52,2 46,8 40,2 38,5 39 38,4 36,04
Khu vực ngoài
quốc doanh
27,6 22,9 30,9 32,1 37,8 53,5 48,2 45,6 45,7 47,78
Khu vực có vốn
đầu tư nước ngoài
30,4 18 15,5 15,7 15,4 6,3 11,4 15,2 15,9 16,18
Nguồn: Niên giám thống kê 2005 và Sổ tay kế hoạch 2007 của Bộ Kế hoạch và
đầu tư
Ta thấy trong khi tỷ trọng vốn đầu tư khu vực nhà nước tăng tương đối thì đóng
góp vào GDP của khu vực này lại giảm đi. Năm 1995, 1% đóng góp của khu vực
nhà nước vào GDP tương ứng với 1,04% đóng góp đầu tư, thì năm 2006 là 1,3%.
Nếu so sánh theo chuỗi thời gian thì có thể thấy được 1% GDP do khu vực nhà
nước tạo ra ở thời điểm hiện nay cần mức đầu tư cao hơn so với 10 năm trước.
Suatá đầu tư tăng trưởng của phần vốn đầu tư từ nhà nước cao gấp gần 2 lần so với
các khu vực ngoài nhà nước và khu vực vốn đầu tư nước ngoài.
12
3. Ảnh hưởng của tăng trưởng kinh tế Việt Nam thời gian qua đến xóa đói
giảm nghèo và công bằng xã hội.
Nhờ tăng trưởng kinh tế trong những năm qua, mức sống dân cư có xu hướng nâng
cao rõ rệt, tỷ lệ nghèo đói giảm, các chỉ tiêu phản ánh phát triển xã hội đều có dấu
hiệu tốt. Chỉ số HDI của Việt Nam đã đạt được sự tiến bộ vượt bậc, làm cho kết
quả xếp loại HDI luôn được cải thiện về thứ hạng: năm 1985 mới là 0,582, năm
1995 đạt 0,646, xếp thứ 7 trong khối ASEAN, thứ 32 trong các nước Châu Á và
thứ 122 trong bảng xếp hạng thế giới, năm 2005 lên tới 0,691, các thứ hạng tương
ứng là 6,28 và 108. Tuy vậy, nếu so sánh kết quả tăng trưởng đạt được hàng năm
với những thành tựu về giải quyết các vấn đề xã hội trong thời gian qua cho thấy
những khía cạnh chưa tương xứng sau đây:
+Hiệu ứng của tăng trưởng tới xóa đói giảm nghèo có xu hướng giảm.
Bảng: So sánh tăng trưởng và giảm nghèo
2001 2002 2003 2004 2005
1.Tăng trưởng
-Tốc độ tăng trưởng(%)
6,89 7,08 7,34 7,79 8,4
-Số điểm % tăng trưởng gia tăng so với năm trước
- 0,22 0,26 0,45 0,61
2.Giảm nghèo
-Tỷ lệ nghèo đói(%)
17,5 14,5 11 8,31 7
-Số điểm % giảm nghèo giảm xuống so với năm trước
- 3 3,5 2,96 1,31
Nguồn: Tính toán từ số liệu của kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế-xã hội
2006-2010 (Bộ kế hoạch và đầu tư)
Qua bảng trên cho thấy: Tác động của tăng trưởng đến xóa đói giảm nghèo có xu
hướng giảm thời gian qua.Ta thấy trong khi tốc độ tăng trưởng GDP qua các năm
thời kỳ này tăng lên ngày càng nhanh thì tốc độ giảm tỷ lệ nghèo đói lại có xu
hướng chậm lại: năm 2005 so với 2004 giảm 1,31% tỷ lệ nghèo, chỉ bằng 40%
mức giảm của năm 2002 so với 2001. Hiệu ứng giảm nghèo do tăng trưởng có biểu
hiện giảm đi rõ rệt.
+Bất bình đẳng về kinh tế tăng lên và tác động của nó đến gia tăng nghèo đói ngày
càng lớn.
13
Hiện nay, đi đôi với tăng trưởng nhanh, tình trạng bất bình đẳng về kinh tế đang có
xu hướng gia tăng. Nếu theo dõi động thái thay đổi của tăng trưởng, của tỷ lệ
nghèo đói và hệ số GINI đánh giá sự biến động của bất bình đẳng kinh tế và dựa
vào các số liệu đó để tính toán tác động của tăng trưởng và bất bình đẳng đến giảm
nghéo qua các giai đoạn từ 1993 đến nay ở Việt Nam, có bảng sau:
Bảng: Tác động của tăng trưởng và bất bình đẳng tới giảm nghèo
1993-1998 1998-2003 1993-2003
Thay đổi về tỷ lệ nghèo chung -0,222 -0,075 -0,298
Tác động của tăng trưởng đến giảm nghèo -0,244 -0,117 -0,347
Tác động của bất bình đẳng đến tăng nghèo đói 0,022 0,042 0,049
Nguồn: Klump và Bonschab, 2004
Qua bảng trên ta thấy, trong cả hai giai đoạn, tăng trưởng kinh tế đóng góp lớn vào
giảm nghèo, trái lại bất bình đẳng làm tăng nghèo đói nhưng với mức thấp hơn, do
đó tỷ lệ giảm nghèo vẫn là kết quả cuối cung. Tuy vậy, điều đáng quan tâm ở đây
là tác động của tăng trưởng tới giảm nghèo có xu hướng giảm trong giai đoạn sau,
đồng thời tác động làm tăng đói nghèo của bất bình đẳng lại tăng lên tương ứng.
Do đó, giảm nghèo ở giai đoạn sau thấp hơn so với giai đoạn trước.
+Kết quả cuối cùng là nghèo đói Việt Nam hiện còn khá cao so với các nước trong
khu vực. Mặc dù từ năm 1990 đến nay, đã có một tốc độ tăng trưởng khá cao,
nhưng tỷ lệ nghèo đói quốc gia của Việt Nam còn cao, đặc biệt là ở khu vực nông
thôn, miền núi và đồng bào dân tộc ít người.
14