1
DẪN LUẬN
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Nghiên cứu thơ Huy Cận tức là nghiên cứu một trong những gương
mặt thơ lớn của thời đại, một trong những nhà văn hóa có đóng góp đáng kể
cho sự nghiệp văn học, văn hóa dân tộc Việt Nam thế kỷ XX.
Trên thi đàn Việt Nam vào những năm 1930-1945, từ phong trào Thơ
mới đã xuất hiện những tài năng thơ, trong đó có Huy Cận, Xuân Diệu… Nhà
phê bình văn học Hoài Thanh qua quyển Thi nhân Việt Nam đã nhận xét bước
đầu về phong cách của các nhà thơ trẻ: “Tôi quyết rằng trong lịch sử thi ca
Việt Nam chưa bao giờ có một thời đại phong phú như thời đại này. Chưa bao
giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lần một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ,
mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như
Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kỳ dị
như Chế Lan Viên và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu.” [128, tr.
37]
Dấu ấn phong cách thơ Huy Cận đã bắt đầu từ tập Lửa thiêng (ra đời
năm 1940). Âm hưởng của tập thơ đã lan tỏa “một thời đại trong thi ca” (*tên
tiểu luận của nhà phê bình Hoài Thanh, đăng trong Thi nhân Việt Nam) từ
giữa thế kỷ XX đến nay.
Ngày nay, từ thế kỷ XXI, với cái nhìn mới, rộng mở chúng ta càng có cơ
hội nghiên cứu thấu đáo hơn phong cách thơ đặc sắc của Huy Cận trong giai
đoạn sáng tác trước Cách Mạng Tháng Tám (đặc biệt, nghiên cứu dày công về
tập Lửa thiêng).
1.2. Xã hội Việt Nam đang đổi mới, chuyển biến, hội nhập thế giới.
Hoạt động văn hóa nói chung đang được rộng mở. Các hoạt động lý luận, phê
bình văn học nghệ thuật mới của thế giới cũng được chúng ta nghiên cứu, gạn
2
lọc, tiếp thu trên tinh thần “học xưa vì nay”, “học ngoài vì trong”. Trong đó,
có thể kể đến sự gạn lọc, tiếp thu, vận dụng ở lĩnh vực nghiên cứu văn học.
Vì vậy, vấn đề nghiên cứu phong cách thơ Huy Cận trên cơ sở lý luận
tổng hợp mới có ý nghĩa cấp thiết trong việc góp phần phục vụ sự nghiệp đổi
mới, phát triển văn hóa, khoa học, giáo dục nước nhà.
Từ lòng ngưỡng mộ, yêu quý thơ ca Huy Cận, đặc biệt là tập thơ Lửa
thiêng (với những câu thơ từ lâu ám ảnh sâu sắc trong tâm thức người viết:
Một chiếc linh hồn nhỏ: Mang mang thiên cổ sầu); thêm nữa, từ những vấn đề
thú vị đặt ra ở trên trong bối cảnh mới, đã tạo động lực cho người viết suy
nghĩ, xác định và chọn lựa đề tài nghiên cứu Phong cách nghệ thuật thơ
Huy Cận qua Lửa thiêng.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở vận dụng một số đặc điểm lý luận văn học phương Đông
truyền thống và lý luận văn học phương Tây hiện đại quen thuộc, luận án cụ
thể hóa công việc tìm hiểu, khám phá thêm một số khía cạnh thi pháp thơ,
ngôn ngữ thơ đầy tính sáng tạo độc đáo của nhà thơ Huy Cận. Và, cũng nhằm
làm nổi bật vấn đề nghiên cứu phong cách nghệ thuật đặc sắc của nhà thơ
trong quá trình từ khi tập thơ ra đời, luận án tìm hiểu những ảnh hưởng và âm
hưởng của Lửa thiêng trong thời đại, so sánh đôi nét biểu hiện giống, khác
nhau giữa thơ Huy Cận và thơ Xuân Diệu với một số nhà thơ cùng thời hoặc
xuất hiện ở giai đoạn sau không lâu.
3. Lịch sử vấn đề
Tập thơ Lửa thiêng của Huy Cận ra mắt bạn đọc vào tháng 11, năm
1940 (nhà xuất bản Đời Nay của nhóm Tự Lực Văn Đoàn in ấn và phát hành,
khoảng 3.000 cuốn). Tập thơ do họa sĩ Tô Ngọc Vân trình bày bìa với lời đề
tựa của Xuân Diệu. Nhìn lại chặng đường dài 70 năm từ lúc Lửa thiêng ra đời
đến nay, qua khảo sát nhiều bài viết về tập thơ, người viết nhận thấy Xuân
3
Diệu có thể được xếp là người đầu tiên có bài nhận xét, đánh giá, giới thiệu
thơ Huy Cận với công chúng một cách bao quát và sớm nhất.
Xuân Diệu cảm nhận tinh tế Lửa thiêng - “nỗi thê thiết của ngàn đời”,
“lớp sầu dưới đáy hồn nhân thế”. Lửa thiêng mang “hồn xưa” xôn xao, đượm
“một tấm lòng thương yêu không biết có tự đời nào, và đoạn thảm, hồi vui
cùng nhuốm một màu vĩnh viễn”. Là bạn tri kỷ, tri âm của Huy Cận, ngay từ
buổi đầu Lửa thiêng ra đời, ông đã “nghe”, đã “cảm” được “cảm giác không
gian” và “cái sầu của vũ trụ” của Huy Cận: “…ta nghe xa vắng quanh mình;
ta đứng trên thiên văn đài của linh hồn, nhìn cõi bát ngát; một cái buồn vời
vợi dàn ra cho đến hư vô…”
Sau Xuân Diệu, hai nhà phê bình văn học Hoài Thanh- Hoài Chân có
bài nhận xét Lửa thiêng: “…Huy Cận có lẽ đã sống một cuộc đời rất bình
thường, nhưng người luôn lắng nghe mình sống để ghi lấy cái nhịp nhàng
lặng lẽ của thế giới bên trong…”, “Người đã gọi dậy cái hồn buồn của Đông
Á, người đã khơi lại cái mạch sầu mấy nghìn năm vẫn ngấm ngầm trong cõi
đất này”. Hai nhà phê bình cũng cho rằng hồn thơ Huy Cận “trong cuộc viễn
du đã có lần nhác thấy cái xa thẳm của thời gian và không gian…”, với “con
đường về quá khứ đi càng xa, càng cô tịch, tứ bề càng vắng lặng, mênh
mông…” [128, tr. 164-165]
Tâm trạng này, chính Chế Lan Viên qua một tứ thơ tương tự cũng đã bộc
bạch một cách đau đáu về sự cô đơn trên nẻo đường riêng của thơ ông:
Đường về thu trước xa lắm lắm
Mà kẻ đi về chỉ một tôi.
Theo dõi những diễn biến thơ ca trên thi đàn lúc bấy giờ, Lương An viết
trên báo Tràng An, số 12, tháng 3 năm 1941, tỏ ra khá ưu ái khi nhận xét Lửa
thiêng:
4
“Tập thơ Lửa thiêng là một tập thơ rất đáng chú ý về tình cảm cũng như
về văn pháp. Không cần so sánh cũng đủ nhận thấy đó là một tập thơ hay và
tác giả là một thi nhân có đặc tài. Trong cuộc xây đắp thi giới nước nhà, một
tập thơ như thế là tất cả sự gắng công, và có lẽ là một công trình văn nghệ
đáng chú ý nữa.
Lửa thiêng ra đời, được hoan nghênh nhiệt liệt, cái đó không phải nghi
ngờ gì nữa. Nhưng phần thưởng đích đáng nhất cho Huy Cận là tác phẩm của
chàng sẽ được sống lâu.”
Trái với sự ngợi ca của nhiều người dành cho thơ Huy Cận, nhà phê bình
Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại đánh giá Lửa thiêng có phần khe khắt
hơn. Ông nhận xét thơ tả cảnh của Huy Cận vẫn còn mang nét chung “cái cảm
giác của loài người từ thiên cổ mà thi nhân bao lần ca ngợi”, “ Huy Cận
nghệ sĩ ở chỗ đó và cũng thiếu cái đặc sắc của nhà thơ ở chỗ đó: ông đã
không đem cái tâm hồn của riêng ông để hòa cùng vũ trụ…” Vũ Ngọc Phan
cũng cho rằng thơ tả tình của Huy Cận không có những câu “nồng nàn, tha
thiết, nóng nảy như thơ Xuân Diệu”, “không nhớ nhung, đắm đuối như thơ
Lưu Trọng Lư”. Lời tình tự của Huy Cận “rất đẹp, rất êm đềm, nhưng thật
không phải những lời tha thiết tự tâm can…” [101, tr. 417-419]
Trong những thập niên 60, 70, và đặc biệt vào giữa đến cuối thập niên 80
của thế kỷ XX, các nhà nghiên cứu văn học Việt Nam bắt đầu có những công
trình nghiên cứu mới dành cho trào lưu văn học lãng mạn 1930-1945. Phong
trào Thơ mới với tác phẩm của những nhà thơ tên tuổi như Thế Lữ, Lưu
Trọng Lư, Huy Thông, Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên,
Bích Khê, Tế Hanh… được phân tích, đánh giá cởi mở hơn.
Ngoài những bài viết hoặc tiểu luận nghiên cứu về Huy Cận của Nguyễn
Xuân Nam, Nguyễn Hoành Khung, Nguyễn Đăng Mạnh, Mã Giang Lân…,
một số chuyên luận của các tác giả Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Lê Đình Kỵ…
5
nghiên cứu sâu về Thơ mới đều đề cập và phân tích tập thơ Lửa thiêng của
Huy Cận.
Lửa thiêng không tách khỏi quỹ đạo chung của thơ ca lãng mạn giai
đoạn này nhưng vẫn có những điểm riêng qua cảm nhận thời đại và quan
niệm thẩm mỹ của Huy Cận. Nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ nhận xét: “Quan
điểm thẩm mỹ của các nhà thơ mới có nhiều điểm gặp gỡ với quan điểm nghệ
thuật của các nhà văn lãng mạn phương Tây thế kỷ XIX. Nói chung đó là
quan điểm “nghệ thuật vị nghệ thuật”. Và, tuy quan điểm mỹ học của các nhà
lãng mạn ở nước ta thực ra cũng chẳng có gì mới so với các nhà lãng mạn
phương Tây nhưng nó vẫn có những nét riêng, mới, lạ của thơ ca lãng mạn
Việt Nam giai đoạn này. Nét riêng này được thể hiện từ quan niệm thẩm mỹ
của thơ Thế Lữ với cái tôi nghệ sĩ là “cây đàn muôn điệu”; Xuân Diệu với
quan niệm thẩm mỹ hồn thơ là “những khúc nhạc thơm”, “khúc nhạc hường”;
Huy Thông đi tìm giấc mộng anh hùng trong lịch sử; Lưu Trọng Lư “hướng
cái nhìn vào một thế giới mơ màng”; còn “chàng Huy Cận ngày xưa hay sầu
lắm”, lại đi vào vũ trụ trăng sao…” [25, tr. 53]
Khảo sát phong trào Thơ mới như hệ quy chiếu từ thực tại xã hội đến
quan niệm sáng tác, nhà nghiên cứu Hà Minh Đức nêu lên một số nội dung,
một số đề tài được tìm thấy trong thơ mới: “cái tôi” cô đơn; tình yêu mộng
tưởng; cảnh đẹp của thiên nhiên, sông núi, làng quê; tình yêu quê hương, đất
nước… Và, bóc tách ra lớp vỏ bên ngoài của thơ ca lãng mạn, Hà Minh Đức
nhận định cái “mạch ngầm” ý nghĩa trong Thơ mới: “Thơ mới chứa đựng
nhiều nỗi niềm, niềm vui gắn bó với từng cuộc đời đến những nỗi buồn riêng
thấm thía cô đơn và đau khổ. Trào lưu thi ca này như một tâm hồn trĩu nặng
ưu tư và xao động trong tình cảm buồn vui, xót xa. Những tình cảm này gắn
liền với từng cuộc đời thơ, nhưng cũng mang theo hơi thở chung của thời đại.
Đó là tiếng nói, tâm tình của các tầng lớp tiểu tư sản thành thị trước một thực
6
tại không như mình mong muốn. Chế độ thực dân phong kiến ngày càng xiết
chặt xiềng gông lên số phận mỗi con người.” [32, tr. 665-669]
“Cái tôi” vốn bé nhỏ và bị gò bó trong cuộc sống hằng ngày, nên luôn
cảm thấy thiếu một tầm vóc, thiếu một tiềm lực. Các nhà thơ mới Huy Cận,
Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Tế Hanh… ít nhiều đều có những tứ thơ nói lên sự
khát khao được giải phóng khỏi sự ngột ngạt, bế tắc của xã hội. Cái tôi trong
thơ mới là cái tôi bộc lộ, cái tôi cảm xúc đang mở hết các giác quan để nhận
biết thế giới xung quanh. Vũ trụ bao la, trời cao, biển rộng vẫn là những đối
tượng mà cảm hứng thi ca muốn vươn tới để hòa nhập. Phải chăng vì thế, nói
riêng trong Lửa thiêng, Huy Cận đã tìm đến vũ trụ bao la để tạo ra sự cảm
hóa, để giải tỏa tâm tình, bộc lộ “cái tôi” riêng biệt của thi nhân?
Phân tích riêng thơ Huy Cận với ý nghĩa “ngọn Lửa thiêng trong đời và
trong thơ”, Hà Minh Đức mô tả khá rõ nét cuộc hành trình tâm tư của một nhà
thơ trong tình yêu, nỗi sầu đời lẫn yêu đời, những khát vọng vũ trụ thanh cao.
Và, Hà Minh Đức giải thích nỗi buồn trong thơ Huy Cận: “Thơ Huy Cận
buồn, căn bệnh tinh thần của một thế hệ không dễ đổi thay; nhưng nỗi buồn
của Lửa thiêng không mang nhiều tính riêng tư, không gắn với dục vọng,
đam mê để rồi chán chường, tuyệt vọng. Vẫn có một mạch tình cảm trong
trẻo, thiết tha gắn bó ân cần với cuộc sống và nói như cách nói của tác giả sau
này, đó là tâm trạng “yêu đời nên đau đời”.”
Viết về “Thơ mới - những bước thăng trầm”, nhà nghiên cứu Lê Đình
Kỵ cũng dành không ít trang cho phần phân tích tập Lửa thiêng của Huy Cận.
Về cái nền chung, Thơ mới nằm trong thời kỳ văn học lãng mạn 1930-1945
bộc lộ sự đổi mới về mặt thi pháp và tư duy thơ một cách tất yếu. Cụ thể qua
sáng tác thơ ca, “những đổi mới ấy đã bộc lộ qua tư duy bằng liên tưởng,
bằng ấn tượng, cảm giác, bằng âm thanh, nhịp điệu, biến cái trừu tượng thành
cụ thể, nối dài cái cụ thể bằng cái trừu tượng, nội tâm hóa ngoại giới, ngoại
7
giới hóa nội tâm… do ảnh hưởng trực tiếp của tư duy thơ thời hiện đại…”
[62, tr. 458-461]
Trong chuyên luận mang tính lý luận, phê bình này, Lê Đình Kỵ nhận
xét “cái màu riêng của hồn thơ Huy Cận là sự “đơn chiếc”, “cô độc” cho đến
“chăn chiếu cũng mục cũng nở màu vĩnh viễn”. Huy Cận nói đến thời gian
“vạn kỷ”, “vĩnh viễn” tưởng như không phải là nỗi niềm riêng tư của một ai
đó, mà chính cuộc sống xã hội bấy giờ đã biến thiên như vậy.
Với sự hiểu biết uyên bác về thơ ca của một nhà nghiên cứu lý luận phê
bình văn học, Lê Đình Kỵ nêu ý kiến M. Gorky nhận xét thơ Verlaine như
một cách so sánh sâu sắc “trường hợp Lửa thiêng” của Huy Cận. Đó là:
“những bài thơ luôn luôn buồn bã và thấm thía một nỗi phiền muộn sâu xa
của thi sĩ, ta nghe rất rõ tiếng kêu gào của sự thất vọng, nỗi đau đớn của một
tâm hồn tinh tế và dịu dàng, tâm hồn đó luôn khao khát ánh sáng, khao khát
trong sạch, đi tìm Thượng đế nhưng không thấy, muốn yêu thương con người
nhưng không thể được.” [62, tr. 468]
Cùng trong thập niên 60, 70, ở Sài Gòn, không kể những quan điểm
xuyên tạc “nhà thơ tiền chiến” của một vài tác giả vùng văn học đô thị tạm
chiếm, phần nhiều, các tác phẩm như Việt Nam Văn học sử giản ước tân biên
của Phạm Thế Ngũ hay Đi vào cõi thơ của Bùi Giáng, Dư vang nghệ thuật
của Trần Nhựt Tân… đã luận bàn, phân tích nhiều vấn đề liên quan đến tập
Lửa thiêng của Huy Cận.
Viết về hồn thơ Huy Cận qua Lửa thiêng, Phạm Thế Ngũ nêu một số
nhận xét tương đối bao quát những vấn đề cốt lõi trong thơ Huy Cận: tình yêu
thiên nhiên, sự mơ mộng trong tình yêu, nỗi buồn, tính suy tưởng về cuộc
đời… Phạm Thế Ngũ nhận xét thơ Huy Cận chất chứa nhiều “tình yêu mãnh
liệt nhưng hay giấu”; cùng đem thiên nhiên vào thơ nhưng ở thơ Xuân Diệu
“thiên nhiên thường sực nức hương vị tình yêu và ngôn ngữ ái tình”, còn Huy
8
Cận thích nói đến “núi sông, cây cỏ bình thản, lặng lẽ, hàm súc, như tâm hồn
tác giả”. Phạm Thế Ngũ nhận định thơ Huy Cận “hay sầu rồi trốn về đường
thơ triết, ngẫm nghĩ về sự tẻ nhạt của cuộc đời và suy tưởng về cái chết…”.
Điểm đáng chú ý ở đây, Phạm Thế Ngũ nhận xét nỗi buồn của Huy Cận là sự
phản ứng của thời đại: “…Thơ Huy Cận đào sâu cái buồn mênh mang ấy đã
góp phần bổ túc cho một đề tài muôn thuở, làm phong phú thơ mới, ở một
giai đoạn chuyên về đạo tình. Song ta có thể nói, qua năm 1938, ở xã hội Việt
Nam, cái vui vẻ trẻ trung người ta, kể cả thanh niên uống đã tới chỗ cạn đắng.
cái buồn của Huy Cận đây phải chăng là một phản ứng của thời đại. Người ta
nghĩ đến những lời rầu rĩ, bâng khuâng của Á Nam và Tản Đà. Chiếc linh hồn
nhỏ là tác giả Lửa thiêng, phải chăng như một cánh chim đầu đàn tiên cảm
cơn bão tố sắp tới” [99, tr. 575-579]
Có thể nói, những năm này, không khí “triết học hiện đại”, “triết học
hiện sinh”… nói chung được giới thiệu tương đối rộng rãi ở các trường đại
học vùng đô thị tạm chiếm. Đó là điều dễ hiểu khi một số lý thuyết, triết học
của Kant, Bergson, Nietzsche, Heidegger, Husserl, Sartre, Merleau Ponty…,
ít nhiều đã được Trần Nhựt Tân vận dụng vào việc nghiên cứu thơ ca theo
cách tiếp nhận “đa hệ” của ông. Qua các chương trong tiểu luận Dư vang
nghệ thuật [126], ông phân tích quan niệm: “thơ là cái Đẹp”; “mơ về cái
Đẹp”; “vũ trụ thi ảnh”; “âm điệu, nhạc tính trong thơ” v.v… Đáng chú ý,
trong việc chọn lựa một số tác phẩm thơ ca làm đối tượng nghiên cứu, Trần
Nhựt Tân đã đề cập và trích chọn khá nhiều câu thơ trong tập Lửa thiêng của
Huy Cận. Lửa thiêng được coi như một tác phẩm thơ ca Việt Nam tiêu biểu
nhất, bao trùm được những vấn đề nhà nghiên cứu đã phân tích, gửi gắm.
Riêng, trường hợp Bùi Giáng đối với Huy Cận cũng là một “hiện tượng
văn học” khá đặc biệt. Nhà thơ Bùi Giáng tự nhận ông chịu ảnh hưởng hồn
thơ Huy Cận từ năm 16 tuổi khi học trung học ở Huế. Cách đánh giá của Bùi
9
Giáng về thơ ca nói chung thường thiên về trực cảm, có phần “lập dị” nhưng
luôn để lộ kiến thức thật uyên bác về văn học Đông, Tây kim cổ. Ông say mê
đọc thơ, thuộc thơ và bộc lộ cảm nhận thơ Huy Cận theo suy nghĩ rất riêng,
đầy cảm hứng mênh mang, sâu sắc, mạnh mẽ. Chẳng hạn, với sự thụ cảm, suy
luận về thơ Huy Cận, Bùi Giáng “tuyên bố” quả quyết “…Tình yêu và lữ thứ,
lữ thứ và không gian, đó là những gì quyết định hết nguồn thơ Lửa thiêng”
[34]
Bước vào thập niên 90 của thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ XXI, sự
đổi mới nhiều mặt của đời sống kinh tế, xã hội Việt Nam đã tác động đến tình
hình văn chương, học thuật Việt Nam đương đại. Sự vận dụng phương pháp
nghiên cứu văn học dựa vào thi pháp học, ngôn ngữ học, phân tâm học…
được tìm thấy qua nhiều bài viết và công trình nghiên cứu phong phú có liên
quan đến Thơ mới nói chung, hay có “chạm” ít nhiều đến thơ Huy Cận nói
riêng. Đội ngũ các nhà nghiên cứu, nhà văn, nhà thơ này, không phân biệt thế
hệ tuổi tác, có thể kể tên: Đỗ Đức Hiểu, Trần Đình Sử, Mã Giang Lân, Trần
Khánh Thành, Lý Hoài Thu, Lý Toàn Thắng, Đỗ Lai Thúy, Lê Tiến Dũng,
Ngô Văn Phú, Vũ Quần Phương, Trần Mạnh Hảo, Nguyễn Đăng Điệp, Vu
Gia, Chu Văn Sơn, Trần Huyền Sâm, Bùi Quang Tuyến, Trần Thiện Khanh,
Lê Thị Anh v.v…
Tham khảo chuyên luận Thi pháp thơ Huy Cận, người viết tìm thấy công
trình nghiên cứu công phu của Trần Khánh Thành về thơ Huy Cận (công trình
nghiên cứu này bao quát những tác phẩm từ tập Lửa thiêng đến những tập thơ
sáng tác sau Cách Mạng Tháng Tám). Dưới góc độ thi pháp học, ông phân
tích quan niệm nghệ thuật, không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật, các
phương thức biểu hiện và cái tôi trữ tình với nhiều đối cực trong thơ Huy
Cận. Nhận định Huy Cận không tách rời hình tượng con người cô đơn với nỗi
buồn sầu, tình yêu mộng mơ… qua Lửa thiêng, Trần Khánh Thành mô tả và
10
chứng minh “cái tôi trữ tình hài hòa luôn vận động giữa nhiều đối cực xuyên
suốt, so sánh với giai đoạn sáng tác thơ của Huy Cận sau này”… Đó là sự thể
hiện “niềm khát vọng của nhà thơ là tìm đến cái đẹp hài hòa giữa cuộc đời và
vũ trụ, giữa cuộc đời riêng và cuộc đời chung, giữa cảm hứng lãng mạn và
cảm hứng hiện thực, giữa cảm xúc tươi tắn và tầm cao trí tuệ…” [132, tr. 56-
57]
Người nghiên cứu sâu về tiến trình thơ ca Việt Nam hiện đại, ngoài
những chuyên đề về các nhà thơ, gần đây nhất, nhà nghiên cứu Mã Giang Lân
đã trở lại chuyên đề Cấu trúc câu thơ Lửa thiêng của Huy Cận, đăng trên Tạp
chí Văn Học. Qua bài viết, Mã Giang Lân bộc lộ rõ sự chú trọng của ông về
ngôn ngữ nghệ thuật thơ. Với hướng phân tích này, ông đã phát hiện thêm
một số chi tiết nghệ thuật mới mẻ của câu thơ Lửa thiêng và góp thêm một
vệt nghiên cứu mới về thơ Huy Cận. [66]
Ngoài ra, người viết còn ghi nhận nhiều thông tin từ mảng bài nghiên
cứu, đánh giá cuộc đời, sự nghiệp hay hồi ức và kỷ niệm về Huy Cận - một
nhà thơ, nhà văn hóa lớn của Việt Nam, sau khi ông qua đời (19-2-2005). Đó
là những bài báo, bài nghiên cứu đăng tải trên các báo in, báo điện tử: Nhân
Dân, Sài Gòn Giải Phóng, Văn Nghệ, tạp chí Hồn Việt, Sông Hương, Hà
Tĩnh, Bình Định… của các nhà nghiên cứu, nhà văn, nhà thơ: Phan Cự Đệ,
Hà Minh Đức, Mai Quốc Liên, Hữu Thỉnh, Giang Nam, Trần Phương Trà,
Nguyễn Trọng Tạo, Mai Hồng, Trần Đăng Khoa, Trần Mạnh Hảo, Lê Thị
Hồng Minh, Ngô Văn Phú, Nguyễn Thụy Kha, Nguyễn Sỹ Đại, Vương Trí
Nhàn, Lê Minh Quốc, Nguyễn Thanh Mừng…
Mặt khác, người viết cũng tìm hiểu, chọn lọc, tham khảo một số bài viết
về thơ Huy Cận của các nhà nghiên cứu Việt Nam ở hải ngoại như Đặng
Tiến, Thụy Khuê… Thực tế cho thấy các bài viết này khá chú trọng đến tập
thơ Lửa thiêng của Huy Cận (nhất là Đặng Tiến với chuyên đề Huy Cận
11
trong tôi). Nhìn chung, những bài viết của các tác giả ở hải ngoại ít nhiều đều
vận dụng lý thuyết thi pháp cấu trúc luận của Roman Jakobson; điều đó cho
thấy “dấu vết” nghiên cứu ngữ học bao trùm ảnh hưởng một thời trong giới
nghiên cứu văn học ở phương Tây.
Phần nghiên cứu giới thiệu thơ Huy Cận trong văn chương Việt Nam ở
mảng tiếng Pháp có tập “Marées de la Mer Orientale” (Nước triều Đông),
Orphée La Différence xuất bản năm 1994 với lời giới thiệu của nhà Việt Nam
học nổi tiếng, Paul Schneider (Pháp). Ngoài phần mở đầu nhận xét chung về
thơ ca Việt Nam, Paul Schneider đã giới thiệu phần viết riêng về thơ Huy
Cận. Nước triều Đông gồm nhiều bài thơ trong những chặng đường sáng tác
của Huy Cận, trong đó có phần trích dịch các bài thơ từ tập Lửa thiêng:
Ngậm ngùi (Mélancolie), Đi giữa đường thơm (La route parfumée), Thu rừng
(Automne dans la forêt), Tình tự (Confidence d’amante), Áo trắng (La robe
blanche), Gánh xiếc (Le cirque), Tràng giang (Fleuve immense). Đặc biệt, lời
nhận xét khái quát thơ Huy Cận trong văn học Việt Nam, Paul Schneider đã
nêu lên một khía cạnh tương đồng giữa Nguyễn Trãi và Huy Cận: hai nhà thơ
đều sáng tác thơ ca trước khi hoạt động kháng chiến. Nguyễn Trãi từng ở
Côn Sơn trong thời gian ngắn trước khi đi theo cuộc kháng chiến của Lê Lợi.
Ông đã có bài thơ hay Quy Côn Sơn trùng cửu ngẫu tác. Bài thơ biểu hiện sự
gặp gỡ giữa con người thơ ca và con người dấn thân, yêu nước. Huy Cận cũng
bộc lộ hai khía cạnh thơ ca và hoạt động cách mạng: tập thơ đầu tay Lửa
thiêng của ông đã gặt hái thành công vào năm 1940; sau đó, ông đã tham gia
phong trào Việt Minh… [190, tr. 7-10]
Về bản tiếng Anh, quyển “Vietnamese Literature” (Văn chương Việt
Nam), Red River, Nhà xuất bản Ngoại văn xuất bản năm 1979, do Nguyễn
Khắc Viện và Hữu Ngọc chủ biên cùng đội ngũ dịch thuật: Mary Cowan,
Carolyn Swetland, Đặng Thế Bính, Paddy Parrington, Elizabeth Hodgkin, đã
12
giới thiệu khái quát lịch sử văn chương Việt Nam từ thế kỷ XI đến thế kỷ XX.
Trong phần dịch sang bản tiếng Anh, tập Lửa thiêng (Sacred Fire) được giới
thiệu hai bài: Nhạc sầu (Music for the dead) và Tràng giang (Vast river).
Tóm lại, về lịch sử vấn đề nghiên cứu thơ Huy Cận qua tập Lửa thiêng
có thể tính đến hàng trăm bài báo và nhiều chuyên luận dưới nhiều góc độ
nghiên cứu khác nhau theo thời gian và bối cảnh không gian khác nhau.
Nhưng, tựu trung, những vấn đề về cảm hứng thời đại, cảm hứng cô đơn của
con người với nỗi sầu vũ trụ, nỗi buồn thế kỷ, tình yêu thiên nhiên, tình yêu
quê hương, đất nước, yêu tiếng nói của dân tộc, những suy tư về cuộc đời…
của Huy Cận, được các tác giả nhận định, phân tích, bàn luận tương đối có
nhiều điểm gặp gỡ, trùng hợp. Riêng về vấn đề phong cách thơ Huy Cận có
đặt ra trong một số bài viết của Nguyễn Xuân Nam, Nguyễn Văn Long, Hà
Minh Đức, Trần Khánh Thành, Mã Giang Lân…, nhưng phần lớn, các tác giả
chỉ nêu một cách khái quát hoặc nhận xét rải rác những khía cạnh chung khi
khảo sát thơ Huy Cận qua nhiều thời kỳ sáng tác; hoặc có công trình chỉ đề
cập vài nét phong cách thơ Huy Cận, chủ yếu qua những tác phẩm đươc nhà
thơ sáng tác từ những năm 1960 trở về sau…
Cho nên, xét trên góc độ nghiên cứu tổng hợp mới, tương thích cho
việc tìm hiểu phong cách thơ Huy Cận nổi bật qua tập thơ Lửa thiêng,
người viết nhận thấy vẫn chưa có tác giả nào đề cập chuyên biệt. Tuy vậy,
xuất phát từ sự gợi mở của một số công trình nghiên cứu đi trước này, đã tạo
tiền đề quý báu, giúp người viết suy nghĩ sâu hơn việc nghiên cứu phong cách
thơ Huy Cận. Đó là việc nghiên cứu phong cách thơ với cách nhìn toàn
diện hơn trên cơ sở tìm hiểu tư tưởng, triết học, tâm lý học sáng tạo, tư
duy nghệ thuật và ngôn ngữ nghệ thuật thơ ông. Với hướng nghiên cứu
tổng hợp mới, khi chọn lọc, tiếp thu các phương pháp nghiên cứu văn học từ
truyền thống đến hiện đại, người viết mong tìm thêm một cách tiếp cận mới,
13
hỗ trợ cách lý giải đề tài, nhằm mang lại hiệu quả thích ứng, phù hợp vấn đề
nghiên cứu.
Những cố gắng thực hiện đề tài luận án, ngoài niềm say mê của người
viết về thơ ca Huy Cận, còn là ước vọng mong muốn đóng góp thêm một vài
ý nghĩa hữu ích cho việc nghiên cứu, cảm thụ, thưởng thức văn chương một
cách đa dạng, đa chiều kích trong đời sống văn học hiện nay.
4. Nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận án không chứng minh lại kết luận của các công trình nghiên cứu
trước về phong cách thơ Huy Cận đang tham khảo. Dựa trên cách thức tổng
hợp mới các phương pháp nghiên cứu về tác giả, tác phẩm, nhiệm vụ luận án
lần lượt trình bày trong ba chương, nhằm chứng minh phong cách nghệ thuật
thơ Huy Cận qua Lửa thiêng. (Và, phong cách đó vẫn là cơ sở cho chặng
đường sáng tác sau này của nhà thơ).
4.2. Đối tượng nghiên cứu
Luận án chủ yếu nghiên cứu thơ Huy Cận, đồng thời so sánh với thơ
Xuân Diệu cùng một số nhà thơ khác của phong trào Thơ mới.
5. Phạm vi khảo sát
Luận án dựa vào thơ Huy Cận (tập Lửa thiêng), thơ Xuân Diệu (tập Thơ
thơ, Gửi hương cho gió) và thơ Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Tố Hữu, Nguyễn
Xuân Sanh, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Nguyễn Bính, Hồ Dzếnh,
cùng một số nhà thơ khác sáng tác trong giai đoạn Thơ mới 1930-1945…; đối
chiếu khi cần thiết (nhưng có giới hạn) thơ ca của vài tác giả thuộc nhóm
Sáng Tạo.
6. Phương pháp nghiên cứu
Đi tìm phương pháp nghiên cứu trong rừng lý thuyết mênh mông, người
viết cũng cần nói rõ: chỉ tham khảo, vận dụng vài lý thuyết nghiên cứu, nhằm
14
làm sáng tỏ thêm đề tài luận án, dưới góc độ nghiên cứu lịch sử văn học, hơn
là đi sâu vào lý luận văn học.
Tuy nhiên, một điều hiển nhiên và khách quan cho thấy: sự vận động
không ngừng của ngôn ngữ văn học, của các lý thuyết văn học trong đời sống
hiện nay vẫn đang diễn biến và luôn chịu sự tương tác qua lại của xã hội. Nhà
nghiên cứu Trịnh Bá Đĩnh đã nhận định trong lời giới thiệu công trình dịch
Chủ nghĩa cấu trúc và văn học [28] và gần đây nhất là bài đăng báo Văn
Nghệ Về khuynh hướng duy ngữ trong văn học hiện nay đều phân tích những
diễn biến văn học trên bình diện lý thuyết. Trịnh Bá Đĩnh phân định: “…hiện
nay xu hướng phê bình ngữ học hầu như đang chiếm ưu thế, nhất là trong khu
vực phê bình học viện.” Ông mô tả tiến trình của xu hướng được mệnh danh
“chủ nghĩa đế quốc ngôn ngữ học”, thế nhưng, xem ra tình hình của xu hướng
này ở phương Tây vào cuối thế kỷ XX đã và đang “lắng đọng”! Điều đó cho
thấy quy luật vận động của tư duy văn học không bao giờ đứng yên. Ở đoạn
kết bài viết, Trịnh Bá Đĩnh nhận định sâu sắc vấn đề: “văn học là một hiện
tượng rất phức tạp, một hiện tượng mang tính tổng hợp văn hóa rất cao, một
bộ phận không thể tách rời khỏi văn hóa thời đại. Làm nên nó không chỉ có
những thành phần của riêng nó như cách tự sự, cách cấu tạo, mà còn có những
thành phần khác của văn hóa như tâm lý thời đại, hệ tư tưởng, các nghệ thuật
khác. Mà mỗi thời đại lại không tách rời khỏi toàn bộ truyền thống văn hóa
quá khứ (trong mỗi thành tố nhỏ nhất của văn học cần nghe được tiếng vọng
nhiều thế kỷ đã qua) và cả những mơ ước, dự phóng về tương lai. Văn học
phải là sự tổng hợp của mỹ học của lời nói và mỹ học của cái được nói tới.
Không phải ngẫu nhiên mà văn học ngay từ khởi thủy cho đến ngày nay vẫn
kiên nhẫn kể về tình dục và quyền lực, về cái thiện, cái ác đích thực và giả
trang… Điều đó có nghĩa là văn học của chúng ta vẫn rất cần phải tiếp tục kể
15
về những điều trông thấy mà đau đớn lòng, về tình yêu, số phận con người.”
[29]
Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Dân qua bài Góp phần tìm hiểu phương
pháp cấu trúc [19] cho thấy ý nghĩa “gạn lọc”, tìm cách vận dụng ưu điểm
của lý thuyết. Xuất phát từ góc độ ngôn ngữ học- lý luận văn học, ông phân
tích những hạn chế của chủ nghĩa cấu trúc và hậu cấu trúc (hay còn gọi giải
cấu trúc). Đại thể: chủ nghĩa cấu trúc không chú trọng đến chủ thể sáng tác;
quan niệm cực đoan chỉ tập trung phân tích cái cấu trúc khép kín của văn bản
tác phẩm… Nhưng đồng thời, ông cũng cho rằng “việc phân tích cấu trúc của
tác phẩm văn học là hoàn toàn cần thiết và có ích. Nếu gạt bỏ những điều bất
hợp lý trong phương pháp luận của chủ nghĩa cấu trúc và hậu cấu trúc thì
chúng ta vẫn có thể vận dụng, phát huy được những thao tác hữu ích trong
nghiên cứu văn học.”
Một mặt, tìm hiểu tình hình thực tế của hoạt động lý luận phê bình duy
ngữ ở phương Tây hiện nay như thế nào là một cách tiếp cận cập nhật của
người viết. Có lẽ, cũng không phải là điều ngạc nhiên khi giới nghiên cứu đã
bắt gặp những quan niệm “khá phản tỉnh” của các nhà lý luận văn học nổi
tiếng như Antoine Compagnon qua quyển Le Démon de la théorie- Con quỷ
của lý thuyết (Lê Hồng Sâm dịch là Bản mệnh của lý thuyết), Tzvetan
Todorov qua quyển La Littérature en péril (Nền văn chương đang lâm nguy).
Đó là những vấn đề “thời sự văn học” được giới nghiên cứu phương Tây quan
tâm. Trường hợp tự phản biện và hoài nghi lý thuyết nghiên cứu văn học cấu
trúc luận do chính mình giới thiệu và lập nên hệ thống, Todorov đã trình bày
mối quan ngại về tình hình tiếp cận và nghiên cứu văn chương hiện tại ở
Pháp, nhất là trong phạm vi giảng dạy văn học ở nhà trường. Sau quá trình
“trải nghiệm” và “kiểm nghiệm”, ông nhận xét lối phân tích cấu trúc mang lại
sự mới mẻ cho văn học nhưng chỉ nên xem là phương tiện hơn là cứu cánh.
16
Todorov cho rằng nếu chỉ dùng một phương pháp thôi, chúng ta sẽ hiểu ý
nghĩa của tác phẩm một cách sai lầm. Ông cũng nhấn mạnh ý nghĩa giữa
tác phẩm văn học và bối cảnh luôn có mối quan hệ liên quan, đối thoại. [159]
Lược thuật sơ nét diễn biến tình hình hoạt động gần đây nhất của các lý
thuyết nghiên cứu văn học ở phương Tây, người viết nhằm rút ra kinh nghiệm
quý báu: không sa đà vào một lý thuyết nghiên cứu nào một cách cực đoan.
“Gạn đục, khơi trong” các lý thuyết được coi như là phương châm vận dụng
nghiên cứu của luận án. Chính vì vậy, về phương pháp người viết lựa chọn
phương pháp nghiên cứu hợp lý, dung hòa, tổng hợp mới, tìm hiểu các
mối liên quan đến sáng tác và cuộc đời tác giả, trên cơ sở thống kê, hệ
thống, so sánh và đi sâu vào phân tích văn bản tác phẩm thơ ca. Đó là
việc chọn lựa một số phương pháp thích hợp như phương pháp lịch sử,
phương pháp phân tích theo thi pháp học, phong cách học, khảo sát, thống kê,
so sánh… Về lý thuyết, luận án tham khảo, vận dụng một số ý kiến bàn luận
văn chương trong di sản văn học Việt Nam; tham khảo lý luận văn học trong
Văn tâm điêu long của Lưu Hiệp; tham khảo lý thuyết tưởng tượng, hình
thành thi ảnh của nhà triết học kiêm phê bình văn học Pháp, Gaston
Bachelard; tham khảo các phương thức cơ bản của thi pháp học- chủ nghĩa
cấu trúc của Roman Jakobson, cấu trúc văn bản nghệ thuật của IU. M.
Lotman…
7. Những đóng góp mới của luận án
7.1 Ý nghĩa khoa học
Nghiên cứu phong cách nghệ thuật thơ Huy Cận qua việc tổng hợp mới,
luận án nhằm: (1) góp thêm vài ý kiến chứng minh phong cách thơ độc đáo
qua ngôn ngữ thơ và thi ảnh mang tính văn chương - văn hóa - triết học của
Huy Cận; (2) góp thêm một hướng tiếp cận mới về nghiên cứu thơ ông trong
dòng chảy của đời sống văn học, văn hóa, xã hội đương đại; (3) bổ sung tư
17
liệu qua một số văn bản thơ, đối chiếu những tư liệu bản thảo ban đầu trong
tập Lửa thiêng đã được nhà thơ sử dụng qua thao tác chọn lựa hoặc kết hợp
trong quá trình sáng tác, đầy ý nghĩa thể hiện tình cảm yêu tiếng Việt của nhà
thơ.
7.2 Ý nghĩa thực tiễn
Qua nghiên cứu phong cách thơ Huy Cận, luận án mong muốn bổ sung
thêm tư liệu cho việc nghiên cứu, giảng dạy thơ Huy Cận ở nhà trường và
việc cảm thụ văn chương đa chiều kích trong đời sống văn học hiện nay
8. Cấu trúc luận án
Ngoài phần dẫn luận, phần kết luận và phụ lục, danh mục tài liệu tham
khảo, luận án bao gồm 3 chương:
Chương 1: Những nhân tố hình thành phong cách nghệ thuật thơ Huy
Cận
Chương 2: Phong cách nghệ thuật thơ Huy Cận thể hiện qua vũ trụ thơ
Lửa thiêng
Chương 3: Phong cách nghệ thuật thơ Huy Cận thể hiện qua ngôn ngữ
thơ Lửa thiêng
18
Chương 1
NHỮNG NHÂN TỐ HÌNH THÀNH
PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT THƠ HUY CẬN
1.1. Khái niệm “phong cách”
Khái niệm phong cách Le style, c’ est l’ homme (văn chính là người)
theo một bài nghiên cứu của Phan Huy Đường đã trích từ bài diễn văn của
Buffon bàn về văn phong thế kỷ XVIII của Pháp. Buffon quan niệm phong
cách là sự biểu hiện hoàn mỹ vào tác phẩm cái nhân cách, tư tưởng, tình cảm
của chủ thể sáng tạo. [169]
Theo quan niệm của Hégel, phong cách bao hàm tính chất độc đáo và cả
tính võ đoán mang ý nghĩa cảm hứng chủ quan của nghệ sĩ. Khái niệm phong
cách được ông khái quát là phương thức biểu hiện, hay có khi là quy luật nghệ
thuật của một loại hình nghệ thuật nào đó như phong cách thơ, phong cách
nhạc kịch. [42, tập 1, tr. 472-473]
Phong cách được hiểu rộng rãi dành cho mọi sáng tác về tư tưởng như
khoa học, triết học, lịch sử. Đại thi hào Đức, Goethe, khi bàn đến khái niệm
phong cách cũng cho rằng đó là sự thống nhất chủ quan và khách quan trong
sáng tác, khi nhà văn vừa vượt lên trên mọi sự mô phỏng đối với tự nhiên vừa
vượt lên trên cái tác phong, kiểu cách chủ quan của chính người sáng tác. Ý
kiến của Nguyễn Khắc Sính khi viết về phong cách đã liên hệ về trường hợp
chính Marx cũng sử dụng khái niệm phong cách- style để đánh giá tác phẩm
kinh tế học của Proudhon. Tư tưởng này được Diderot, Flaubert (Pháp), Rauli
(Anh) tán thành… [119]
Vào những năm đầu thế kỷ XX, Roland Barthes, nhà ngôn ngữ học- phê
bình văn học Pháp, một trong những người đại diện lỗi lạc của chủ nghĩa cấu
trúc, không dùng khái niệm style khi bàn luận những vấn đề liên quan phong
19
cách. Ông sử dụng khái niệm écriture- lối viết và cho rằng phong cách nhà
văn này khác nhà văn kia chính nhờ lối viết. Cách gọi écriture là lối viết riêng
của mỗi nhà văn được Barthes diễn giải trong công trình Độ không của lối
viết. Ông cho rằng lối viết là cái trung gian giữa ngôn ngữ và văn phong. “…
Văn phong là niềm đơn độc khép kín của nhà văn: một cách nói, một từ vựng
nảy sinh từ cá thể và quá khứ của anh ta là chiều thẳng đứng cắm vào huyền
thoại riêng biệt và bí ẩn của tác giả”. [28, 54]
Cũng trong cuốn Độ không của lối viết, Barthes phân biệt trong một tác
phẩm văn chương: “ngôn ngữ” chung cho tất cả các nhà văn và “lối viết” do
sự suy nghĩ của nhà văn khi sử dụng hình thức mà họ chọn…” [88, tập 2, tr.
57]
Tuy vậy, đồng thời với R. Barthes, nhà bác ngữ học Đức, Léo Spitzer
định nghĩa văn phong là style. Ông cho rằng mỗi không khí văn hóa sản sinh
ra một văn phong khác nhau.
Một ý kiến khác của J. Derrida được tìm thấy trong quyển “Các khái
niệm và thuật ngữ các trường phái nghiên cứu văn học ở Tây Âu và Hoa Kỳ
thế kỷ XX” . J. Derrida, người đại diện khuynh hướng giải cấu trúc luận, đã
sử dụng khái niệm thuật ngữ écriture “là ngọn nguồn, khởi đầu của ngôn ngữ,
tuyệt nhiên không phải là cái tiếng nói đã chuyển tải ngôn từ nói ra”. Ông phê
phán những vấn đề còn bất cập của chủ nghĩa cấu trúc và ký hiệu học. [54,19]
Thực tế, theo cách hiểu thông thường, người ta cho rằng style – phong
cách - ngoài ngôn ngữ còn bao hàm cá tính độc đáo và quan niệm sáng tác
của nghệ sĩ trong cách thức diễn đạt; còn écriture – lối viết, thường chú trọng
về ngôn ngữ.
Phong cách theo nghĩa rộng nhất là lối sống, cách sống, kiểu sống của
một con người, là sự phản ảnh của nhân cách của một con người thể hiện
thành hành vi, ứng xử của người đó đối với người khác, đối với cộng đồng.
20
Phong cách là nét riêng của nhân cách, do cá tính con người quy định. Mỗi
con người là một cá nhân của một cộng đồng, mỗi cá nhân là một thực thể
duy nhất, độc nhất, không có bản thứ hai, không có sự lặp lại…
Một con người ra đi, không thể nào gặp lại
Một vũ trụ riêng tư không lặp lại bao giờ
(E. Evtusenko)
Tóm lại, thuật ngữ hay khái niệm phong cách được hiểu và sử dụng một
cách quen thuộc nhất, rộng rãi và vẫn sử dụng cho đến hiện nay, được chọn từ
khái niệm style của Buffon.
1.1.1. Phong cách theo quan niệm lý luận văn học phương Tây
Nói đến vấn đề lý luận văn học phương Tây, chủ yếu người viết tham
khảo một bộ phận lý luận văn học Liên Xô tương đối được đề cập nhiều trong
thời gian trước đây và vài khía cạnh lý thuyết văn học của châu Âu quen
thuộc trong thế kỷ XX.
Những năm 60, 70 của thế kỷ XX, khảo sát nhiều định nghĩa khác nhau
của các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học, lý luận văn học, nghệ thuật học, nhà lý
luận văn học Liên Xô Khrápchenkô trong quyển Cá tính sáng tạo của nhà
văn và sự phát triển của văn học đã trình bày khá công phu của nhiều người
định nghĩa tiêu biểu về phong cách. [83]
Chẳng hạn, theo Đ. Likhachev, phong cách là sự kết hợp trong bản thân
nó sự thụ cảm chung về hiện thực vốn có ở nhà văn và phương pháp nghệ
thuật được quy định bởi những nhiệm vụ mà nhà văn đặt ra cho mình. Với ý
nghĩa đó, khái niệm phong cách có thể được áp dụng vào những loại nghệ
thuật khác nhau và giữa chúng có thể có những sự tương ứng đồng đại. Hoặc,
theo Ar. Grigorian: Phong cách nghệ thuật không thể vô can với phương
pháp, với thế giới quan, với bút pháp, với cá nhân nhà nghệ sĩ, với cách hiểu
của nghệ sĩ về thời đại, với vẻ đặc thù dân tộc trong sáng tác của anh ta…
21
Phong cách là sự thống nhất cao nhất tất cả những phạm trù đó. Ya. Elxberg
phát triển ý phong cách với tư cách là hình thức mang tính nội dung. Phong
cách biểu hiện sự toàn vẹn của hình thức có tính nội dung. Phong cách - đó là
sự thống trị của hình thức nghệ thuật, là sức mạnh của tổ chức của nó…
Ngoài ra, còn nhiều ý kiến khác về phong cách tương đối có sự bổ sung qua
lại của các nhà lý luận văn học như V. Turbin, B. Tômashevski. V.
Jirmunxky, Xtêpanôp, Pacpêlop, V. Kôvalev, L. Nôvichenkô, V. Đneprov, A.
Xôcôlôv…
Sau khi mô tả một cách khái quát, Khrápchenkô có cách cắt nghĩa riêng
và nhấn mạnh tính cá biệt trong sáng tác nghệ thuật thể hiện ở phong cách.
Ông cho rằng phong cách là cách thể hiện nét độc đáo của sự sáng tạo văn
học, là toàn bộ sự cảm thụ cuộc sống của nhà văn, quan điểm của nhà văn về
thế giới. Nhân cách, cá tính của nhà văn được thể hiện trong tác phẩm văn học
rất đa dạng. Mỗi sự biến đổi trong phương pháp sáng tác, trong cảm thụ, đều
dẫn đến sự thay đổi phong cách. Phong cách là khả năng thể hiện sự chiếm
lĩnh cuộc sống bằng hình tượng, khả năng chinh phục bạn đọc của nhà văn,
phong cách thực hiện vai trò trong sự hình thành cấu trúc bên trong của các
hiện tượng văn học. Phong cách cá nhân của nhà văn là hạt nhân của quá trình
văn học. Phong cách thể hiện trong ngữ điệu, giọng điệu, cảm hứng sáng tạo,
tính độc đáo trong sự miêu tả nhân vật, sự kiện, hoàn cảnh, thể hiện trong cấu
trúc tác phẩm, trong kết cấu, trong ngôn ngữ, trong thể loại, trong trường
phái.
Bàn về phong cách chẳng bao giờ dứt theo thời gian với nhiều lý thuyết
của các nhà lý luận, phê bình và cả giới sáng tác văn học! Đôi khi, khái niệm
này được hiểu khá đơn giản. Chẳng hạn, ở những năm đầu thế kỷ XXI,
Louise Gluck, một gương mặt thơ nữ người Mỹ trong một bài viết giới thiệu
Những bài thơ hay nhất nước Mỹ chỉ nhấn mạnh ý: giọng điệu là yếu tố thể
22
hiện rõ nét nhất làm nên trong phong cách. Louise Gluck nêu: “Thơ là giọng,
phong cách của tư tưởng”; và, bà cắt nghĩa: “…văn chương, một từ khủng
khiếp. Nó thiếu hoàn toàn cảm giác về sự sống quyết liệt của giọng. Như một
sự trừu tượng hóa, nó biến bài thơ thành cái gì đó hồn lìa khỏi xác, một điều
đã giải quyết xong, trơ ì và xa cách. Trong khi đó giọng cất lên từ trang giấy
lại năng động diệu kỳ: nó quyến rũ, đòi hỏi, cay đắng, thông tuệ. Nó không
cất lên từ quá khứ mà ngay hiện tại… Thật thú vị khi biết được đôi điều về
phẩm chất ấy, bởi vì bài thơ, bất kể nội dung nói gì, nó sống sót không nhờ
nội dung mà nhờ giọng. Khi nói giọng, tôi muốn chỉ cái phong cách (style)
…” [175]
1.1.2. Phong cách theo quan niệm lý luận văn học phương Đông
Thuật ngữ phong cách trong lý luận văn học phương Đông quen thuộc
vẫn hay dùng Văn như kỳ nhân (Văn tức là người). Nhưng, có thể đây chỉ là
cách dịch từ thuật ngữ phương Tây Le style, c’ est l’homme?
Ở Trung Quốc, cách thời đại chúng ta gần 1.500 năm, Lưu Hiệp trong
Văn tâm điêu long đã có hai chương bàn luận rộng rãi những vấn đề liên quan
đến sáng tác văn chương và tác giả: trong 49 chương trình bày lý luận cơ bản
về sáng tác, phê bình, phần thứ 3 bao gồm 24 chương cuối, tác giả bàn về
phong cốt, tình thái…
Lưu Hiệp cho rằng, tình cảm xúc động hình thành ngôn từ, đem diễn đạt
ra, sẽ thành văn chương… Do đó, tình và chí sẽ xác định ngôn từ, những tác
phẩm anh hoa ra đời không cái nào tách rời khỏi tính cách, tình cảm của tác
giả.
“Văn cần có cốt cũng như thân thể cần có bộ xương. Tình cảm con người
mang sẵn cái phong cũng giống như thân hình mang sẵn cái sinh khí. Tạo lời
văn đoan trang chính trực thì văn cốt hình thành. Ý chí và khí chất mạnh mẽ
trong sáng thì văn phong thanh tân (khí chất ở đây người đọc có thể hiểu như
23
bút lực của nhà văn, nhà thơ)… Phong cốt tác dụng cho văn chương cũng
giống như chim bay phải dùng đến đôi cánh vậy.
Phong cách của tác phẩm thay đổi theo cá tính của tác giả. Cá tính khác
nhau thì phong cách cũng khác nhau. Mà cá tính của nhà văn là bao gồm đủ
cả các mặt: tài năng, khí chất, học vấn, tập quán… Chúng chủ yếu là do hậu
thiên (hình thành do rèn luyện trong cuộc sống, trái với tiên thiên là do di
truyền phú bẩm) tùy theo sự thay đổi của hiện thực mà thay đổi. Phong cách
của tác phẩm thể hiện cá tính, đương nhiên cũng thay đổi, cũng phát triển.
Điều đó hoàn toàn phù hợp với thực tế khách quan.
Tóm tắt quan niệm của Lưu Hiệp trong hai chương này, cho thấy thể tính
bao gồm: thể là hình trạng, là bản thân tác phẩm văn chương; tính là tính cách
của tác giả. Phong cốt được hiểu với tình, khí song đôi, từ, thể phối hợp. Văn
sáng, khí mạnh, ngọc quý người cầu. Dựng thêm phong cốt, tạo thành phong
lực tài hoa nổi bật, rực rỡ đẹp sao! Phong cốt tức phong thái và cốt cách của
văn chương. [44, 338]
Sức lan tỏa của lý luận văn học của Lưu Hiệp rất lớn theo thời gian.
Phạm trù văn học phong cốt đã nhiều lần được các nhà ngữ văn học Trung
Quốc hết sức chú ý. Hoàng Khản (học trò của Chương Thái Diễm- một nhà
cải cách chính trị và là một học giả nổi tiếng Trung Quốc đầu thế kỷ XX) đã
ráp cái khái niệm phong và cốt vào các khái niệm hình thức và nội dung. Ông
cho rằng: “Phong là tư tưởng của văn, còn cốt là ngôn từ của văn”.
Theo cách nhận định của nhiều nhà nghiên cứu thời đại sau này đã “gạn
lọc” nhiều vấn đề lý luận văn học của Lưu Hiệp về hình tượng riêng lẻ, các
thủ pháp nghệ thuật, những chỗ gợi nhắc, liên tưởng, là những cái cố kết với
nhau thành một khối trong ý đồ tác giả… Ví dụ, họ nhắc lại ý kiến Lưu Hiệp
khi cho rằng cái cốt vẫn có thể là chết nếu thiếu ngôn từ. Và, ngược lại, ngôn
24
từ cũng chỉ nhờ cốt mới có thể trở thành tác phẩm văn học được. [55, 124-
134]
Thật thú vị, ngày nay, khuynh hướng xem các phạm trù hình thức và nội
dung như các hiện tượng nhiều cấp được nhìn nhận là lẽ đương nhiên, trong
đó có vấn đề phong cốt, thể tính. Vấn đề này có sự gặp gỡ với lý luận văn học
phương Tây quen thuộc về ý nghĩa khái niệm phong cách. Điều đó chứng tỏ
Lưu Hiệp đã đi trước thời đại của ông.
1.1.3. Phong cách theo quan niệm lý luận văn học Việt Nam
Trong văn chương Việt Nam cổ không có những khái niệm hay thuật
ngữ về lý luận văn học một cách rõ ràng về phong cách. Tuy nhiên, sách bàn
về thơ, “sách nói chuyện làm thơ”, dưới tên gọi “thi thoại”, đã được Nguyễn
Dữ đề cập từ thế kỷ XVI qua Kim Hoa thi thoại ký, một trong những truyện
hư cấu trong tác phẩm Truyền kỳ mạn lục. Cuộc nói chuyện thơ giả tưởng
giữa ba nhà thơ đương thời Ngô Chi Lan, Phù Thúc Hoành, Thái Thuận,
mang dáng dấp bàn về “phong cách các nhà thơ”, tưởng như thật hoang
đường nhưng khá thực tế trong lịch sử văn học: “…Thơ của ông Chuyết Am
kỳ lạ mà tiêu tao; thơ ông Vu Liêu mạnh mẽ mà khích động; thơ ông Tùng
Xuyên như chàng trai xông trận, có vẻ sấn sổ; thơ ông Cúc Pha như cô gái
chơi xuân, có vẻ mềm yếu. Đến như ông Đỗ ở Kim Hoa, ông Trần ở Ngọc
Tái, ông Đàm ở Ông Mặc, ông Vũ ở Đường An, không phải không ngang dọc
tung hoành; nhưng cầu lấy lời chín lẽ đạt, khiến cho làng phong nhã phải
phục thì chỉ duy những bài đầy lời trung ái của ông Nguyễn Ức Trai, lòng lúc
nào cũng chẳng quên vua, có thể chen vào môn hộ của Đỗ Thiếu Lăng được.
Còn đến giọng thơ biến hóa được khói mây, lời thơ quan hệ đến phong giáo,
thì lão phu đây cũng chẳng chịu kém thua mấy”. [22, 219]
Khi viết thể lệ biên soạn Toàn Việt thi tập, Lê Quý Đôn có nhận xét sở
trường riêng của mỗi tác giả như các yếu tố liên quan đến phong cách thơ:
25
“Văn chương của mỗi nhà đều có thể cách riêng. Nói về việc theo hầu nơi đài
các thì ôn hòa, nhuần nhị và phong phú; nói về việc đóng quân, đồn thú thì
lạnh lùng, hùng tráng. Miêu tả thời tiết, cảnh vật quý ở chỗ thanh cao, đẹp đẽ;
miêu tả núi rừng, ẩn dật quý ở chỗ nhàn nhã, phóng khoáng. Tỏ bày ý chí cần
phải trang trọng: viếng cổ cần phải cảm khái; tặng nhau nên mềm mỏng, lưu
luyến. Ý tứ lập trước, từ điệu theo sau, đem loại thơ này dùng cho các loại thơ
khác mà không được, thế mới là tinh xảo, sít sao.” [141, tập 1, 87] Nguyễn
Đức Đạt luận bàn về văn chương trong Nam Sơn tùng thoại cũng nêu ý tương
tự: “Văn như con người của nó. Văn thâm hậu thì con người của nó trầm mà
tĩnh; văn ôn nhu thì con người của nó khiêm mà hòa; văn cao khiết thì con
người của nó đạm mà giản; văn hùng hồn thì con người của nó thuần túy mà
đúng đắn” [141, tập 1, 276]. Hoặc, trong bài viết cuối Tập thơ Rừng Chuối,
Cao Bá Quát cho rằng: “Thơ không có phẩm chất nhất định, phẩm chất của
người là phẩm chất của thơ. Phẩm chất của người cao thì phẩm chất của thơ
cao…” Cao Bá Quát nhận xét ý nghĩa này không khác với ý nghĩa “văn chính
là người” của Buffon. Nhưng lời nhận định ở đây có dạng “định lý đảo” khi
ông cho rằng “xem người thì có thể biết được thơ”. [141, tập 1, 246]
Nghiên cứu những vấn đề lý luận văn học qua nhiều thời đại, thuật ngữ
phong cách được nhà lý luận văn học Phương Lựu cắt nghĩa trong Từ điển
Văn học, tập 2 như sau: “Phong cách là chỗ độc đáo mang phẩm chất thẩm
mỹ cao được kết tinh trong sự sáng tạo của nhà văn… Phong cách có thể biểu
hiện ở cảm hứng, thể loại, ngôn ngữ nghệ thuật… Phong cách liên quan cả về
tư tưởng và nghệ thuật… Phong cách bắt nguồn sâu xa từ hiện thực khách
quan, bằng thực tiễn sống của nhà văn, nhà thơ…” [158]
Giải thích cặn kẽ hơn, Phương Lựu bổ sung: “… mỗi nhà văn có một nét
riêng, nhưng chỉ có những cái riêng nào hay, sắc, sâu, tinh… thì mới đáng gọi
là phong cách… Tất nhiên, cái hay, cái sắc, cái sâu, cái tinh trong từng phong