Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Ôn Tập Vợ Chồng A Phủ Tô Hoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (245.49 KB, 28 trang )

VỢ CHỒNG A PHỦ
Tơ Hồi
Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã từng nói r ằng: "Nhà văn t ồn t ại ở trên
đời trước hết để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho nh ững con ng ười b ị
cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đ ủi dồn đến chân t ường… Nhà
văn tồn tại trên đời để bênh vực cho những con ng ười khơng có ai đ ể bênh v ực".
Quả thực, Tơ Hồi đã trở thành "kẻ nâng giấc" cho những s ố phận kh ổ đau thê
thảm ấy. Điều đó được thể hiện rõ nét và sâu sắc qua tác ph ẩm "V ợ ch ồng A Ph ủ"linh hồn của tập "Truyện Tây Bắc".

I. KHÁI QUÁT TÁC GIẢ TÁC PHẨM
1. Tác giả Tơ Hồi
Nhắc đến Tơ Hồi (1920 - 2014), là nhắc ngay đ ến m ột cây bút tên tu ổi
của nền văn học cận đại Việt Nam. Nhà báo Hà Thuý Anh đã t ừng nh ắc đ ến Tơ
Hồi với những ca từ như thế này: "Tơ Hồi là một trong nh ững tác gia lớn nh ất c ủa
thế kỷ XX. Ông là nhà văn thuộc thế hệ từ năm 1920 đ ổ về tr ước, đó là th ế h ệ vàng
của văn chương Việt Nam hiện đại, làm nên mùa gặt ngoạn m ục nh ất c ủa văn h ọc
thế kỷ XX - mùa vàng 1930 - 1945 cùng với Nguyễn Công Hoan, Vũ Tr ọng Ph ụng,
Ngơ Tất Tố. Ơng cũng là người hiếm hoi nh ất còn l ại c ủa th ế h ệ vàng son ấy." H ơn
70 năm lao động nghệ thuật cần mẫn, Tơ Hồi đã cho ra đời số lượng tác ph ẩm đ ồ
sộ - hơn 150 đầu sách với nhiều thể loại: Truyện ngắn, truy ện dài kỳ, bút ký, ký s ự,
tiểu thuyết, hồi ký, ... với lối viết thơng minh, hóm h ỉnh nh ưng cũng không kém
phần khéo léo và tinh tế. 
Tơ Hồi là một trong những nhà văn lớn của n ền văn h ọc Vi ệt Nam hi ện
đại. Ơng có vốn hiểu biết sâu sắc về phong t ục t ập quán c ủa nhi ều vùng văn hóa
khác nhau trên đất nước ta. Thành cơng nhất của Tơ Hồi là nh ững tác ph ẩm vi ết
về hiện thực cuộc sống, con người vùng Tây Bắc.
Trước 1945, ông thể hiện sức sáng tạo dồi dào của mình với hai ch ủ đ ề
chính là truyện về loài vật và truyện về những cảnh đời lầm lũi n ơi vùng quê
nghèo ngoại thành, tiêu biểu là "Dế mèn phiêu l ưu kí", "O chu ột", "Đơi ri đá", "M ẹ
già", "Khách nợ",… Sau 1945, ngòi bút của ông đã v ượt thoát kh ỏi ngôi làng ven đô
ấy để hướng đến cuộc sống của nhiều lớp người, nhiều vùng đất khác nhau, ông


viết về những anh hùng người dân tộc thiểu số đã hiến dâng đời mình cho T ổ qu ốc
trong "Kim Đồng", "Vừ A Dính", ngồi ra, ơng cịn vi ết nh ững tác ph ẩm v ề mi ền
Tây Bắc như "Núi cứu quốc", "Miền Tây",… mà trong đó tập "Truyện Tây B ắc" là
một tác phẩm xuất sắc.
"Truyện Tây Bắc" gồm ba truyện: "Cứu đất cứu mường", "Mường Giơn" và
"Vợ chồng A Phủ" được Tơ Hồi viết năm 1952, ngay sau chuyến thâm nhập thực tế


lên Tây Bắc của tác giả. Với tập "Truyện Tây Bắc", Tơ Hồi đã kh ắc h ọa m ột cách
chân thật, sinh động những nỗi đau thương, tủi nhục của người dân mi ền núi d ưới
ách áp bức nặng nề của thực dân phong kiến, cũng là lần đầu tiên cu ộc s ống kh ổ
cực của người dân miền núi hiện lên rõ nét trong văn chương Vi ệt Nam lúc b ấy gi ờ.
"Truyện Tây Bắc" được tặng Giải Nhất, Giải thưởng Hội Văn ngh ệ Vi ệt Nam năm
1954 - 1955.
2. Tác phẩm
a) Vị trí
"Vợ chồng A Phủ" là truyện ngắn đặc sắc nhất trong tập "Truyện Tây
Bắc", cũng là một trong những tác phẩm tiêu biểu của văn xuôi hi ện đ ại Vi ệt Nam
giai đoạn kháng chiến chống Pháp. Tơ Hồi kể lại: "Cái kết quả lớn nhất và trước
nhất của chuyến đi tám tháng ấy là đất nước và con người miền Tây đã đ ể th ương đ ể
nhớ cho tôi nhiều quá, tôi không thể bao giờ quên. Tôi không th ể bao gi ờ quên đ ược lúc v ợ
chồng A Phủ tiễn tôi tại dốc núi làng Tà Sùa rồi cùng v ẫy tay g ọi theo: "Chéo lù! Chéo
lù!" (Trở lại! Trở lại!). Có lẽ chính vì vậy mà Tơ Hồi đã viết "Vợ ch ồng A Phủ"
bằng cả tấm lòng nhân đạo và yêu thương sâu s ắc c ủa mình. Tác ph ẩm là b ức tranh
chân thực về cuộc sống và số phận nghiệt ngã c ủa người nông dân nghèo mi ền núi
dưới ách áp bức bóc lột tàn bạo của các thế lực phong ki ến và th ực dân, đ ồng th ời
lại là một bài ca về sức sống mãnh liệt và khát vọng tự do của con người.
b) Hồn cảnh sáng tác
Cuối năm 1952, Tơ Hồi có chuyến đi thực tế cùng bộ đội trong chi ến
dịch Tây Bắc. Sau khi tìm hiểu chung về tình hình ơng quyết đ ịnh đi sâu vào nh ững

khu du kích của đồng bào các dân tộc thiểu số vùng núi cao. Chuyến đi dài 8 tháng
này đã để lại những ấn tượng sâu sắc và nh ững tình c ảm t ốt đ ẹp c ủa nhà văn v ới
con người miền Tây. Tơ Hồi tâm sự: "Cái kết quả lớn nhất và tr ước nh ất c ủa
chuyến đi 8 tháng ấy là đất nước và con người miến Tây đã để th ương đ ể nh ớ cho
tôi nhiều q. Tơi khơng bao giờ qn…Hình ảnh Tây Bắc đau thương và dũng cảm
lúc nào cũng có trong tâm trí tơi. Vì thế, tơi viết Truyện Tây Bắc."
Truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" được sáng tác năm 1952, in trong tập
"Truyện Tây Bắc" (xuất bản năm 1953, nhận giải Nhất giải thưởng c ủa h ội văn
nghệ Việt Nam 1954-1955) là kỉ niệm, là tấm lịng Tơ Hồi dành t ặng cho nh ững
người thương trên Tây Bắc. Tác phẩm rất tiêu biểu cho s ở tr ường và phong cách
nghệ thuật của nhà văn.
Tác phẩm gồm hai phần: phần đầu kể về cuộc sống tủi nhục c ủa Mị và
A phủ ở Hồng Ngài, là nô lệ nhà thống lí Pá Tra; phần sau k ể v ề M ị và A Ph ủ ở
Phiềng Sa, họ thành vợ chồng, được cán bộ A Châu giác ng ộ cách m ạng, A Ph ủ tr ở
thành tiểu đội trưởng du kích cùng Mị đánh Pháp bảo vệ dân làng. Đoạn trích trong
sách giáo khoa là phần thứ nhất của tác phẩm.


c) Tóm tắt truyện
Vợ chồng A phủ kể về đơi vợ chồng người H’ Mông ở vùng Tây B ắc. M ỵ
là một cơ gái xinh đẹp có tài thổi sáo. Trai bản nhi ều ng ười mê và M ỵ đã có ng ười
yêu. Dù cha Mị nợ thống lí Pá Tra một món tiền lớn, chưa tr ả n ổi, h ằng năm ph ải
trả lãi cả một nương ngô nhưng Mị kiên quy ết không l ấy A S ử -con trai th ống lý Pá
Tra- để xoá nợ. Nhưng một đêm xuân, M ị bị A S ử l ừa, bắt về trình ma nhà nó.
Tiếng gọi là làm vợ A Sử nhưng Mị bị đối xử thậm tệ.
Ban đầu, Mị định tự tử nhưng vì thương cha đành cam ch ịu sống trong
đau khổ câm lặng "lùi lũi như con rùa ni trong xó cửa".
Ngày Tết lại về, Mị lén uống rượu một mình. Khơng khí vui nh ộn, nh ất
là tiếng sáo gọi bạn tình đã giúp Mị nhớ lại nh ững ngày tr ước, kh ơi d ậy ở M ị khát
vọng tình yêu hạnh phúc. Mị vào buồng và định thay váy áo đi ch ơi thì b ị A S ử b ắt

trói đứng vào cột nhà, bằng cả thúng dây đay, c ả tóc M ị. Trong c ơn ch ập ch ờn mê
tỉnh, Mị vẫn thả hồn theo các cuộc chơi. Đến lúc thích chí vùng b ước đi m ới bi ết
tồn thân bị trói chặt, đau buốt.
Cũng đêm đó, A Phủ, một thanh niên mồ cơi nhưng khoẻ m ạnh, can
trường, đã đánh A Sử, vì bất bình trước trị xấc xược c ủa h ắn ta. A Ph ủ b ị làng b ắt
về xử và trở thành người ở trong nhà Pá Tra để trừ nợ.
Một mùa đơng giá rét, rừng đói, hổ báo từng đàn ra phá n ương, b ắt bò
ngựa. A Phủ vì mải mê bẫy nhím nên đã để hổ b ắt m ất m ột con bò. A Ph ủ b ị th ống
lí Pá Tra bắt trói đứng vào một cây cột, suốt mấy ngày đêm - ch ờ khi nào A S ử b ắn
được hổ mới tha.
Lúc ấy, tuy Mị đã trở thành một con người hoàn tồn vơ c ảm nh ưng khi
nhìn thấy dịng nước mắt của A Phủ lặng lẽ rơi trên hai hóm má xám đen vì ki ệt
sức, tuyệt vọng, Mị động lòng thương người cùng cảnh ngộ. Sau một h ồi suy nghĩ,
Mỵ đã cắt dây trói cho A Phủ. Rồi, Mị vụt chạy theo anh.
Cả hai băng rừng sang Phiềng Sa, trở thành v ợ ch ồng. Quân Pháp tràn
tới, dân làng hoang mang lo sợ. A Châu, cán b ộ Đ ảng đã tìm đ ến xây d ựng phong
trào và kết nghĩa anh em với A Phủ. A Phủ đã trở thành ti ểu đ ội tr ưởng du kích,
cùng với Mị và đồng đội tích cực tham gia chống Pháp và tay sai bảo vệ quê hương.

II. PHÂN TÍCH TÁC PHẨM
1. Nhân vật Mị


Nhận định về nhân vật trong tác phẩm, nhà văn Tơ Hồi đã vi ết: "Nhân
vật là nơi duy nhất tập trung hết thảy, giải quyết hết thảy trong m ột sáng tác."
Nhân vật văn học chính là người chỉ đường, là hoá thân cho tinh th ần và ti ếng nói
của người nghệ sĩ. Đọc xong một tác phẩm, khép lại trang sách cu ối, cái đ ọng l ại
sâu nhất trong tâm hồn người đọc chính là những c ảm xúc, những suy t ư trăn tr ở
về số phận, về cuộc đời của những con người được nhà văn th ể hi ện. Và Tơ Hồi
thực sự đã thành công trong việc tạo ra một nhân vật h ội t ụ đ ầy đ ủ các y ếu t ố đ ể

có thể rung lên sợi dây đồng điệu giữa người đọc và tác ph ẩm - nhân v ật M ị trong
truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ".
Chính sức sống tiềm tàng và khát vọng tự do mãnh liệt của M ị đã đ ể l ại
ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả mà đồng thời qua đó, chúng ta cũng có th ể
nhìn thấu tấm lịng nhân đạo sâu sắc của người nghệ sĩ Tơ Hồi. 
a) Dưới ngịi bút Tơ Hồi, Mị hiện lên tồn vẹn v ới những vẻ đ ẹp tài năng
và phẩm chất
Qua miêu tả của Tơ Hồi thì Mị là một cô gái sinh ra t ừ núi r ừng Tây B ắc.
Cơ mang trong mình những nét tính cách của ng ười con gái dân t ộc thi ểu s ố ch ất
phác và hiền lành. Dù sinh ra trong một gia đình nghèo khó nh ưng M ị v ẫn r ất l ạc
quan và yêu đời, là cô gái chăm chỉ, hiếu thảo, giàu lòng yêu đ ời, đang s ống trong
những ngày tháng tươi đẹp của tuổi xn. Mị trơng xinh đẹp tựa như một đóa hoa
rừng ngập tràn xn sắc. Cơ khơng chỉ đẹp mà cịn r ất tài năng. Có tài th ổi lá hay
như thổi sáo nên biết bao người say mê hàng ngày đi theo bước chân của Mị. Mị yêu
lao động "biết cuốc nương làm ngơ". Mị giàu lịng tự trọng và hi ếu th ảo v ới cha già.
Đó chính là vẻ đẹp về nhân cách và phẩm giá c ủa ng ười con gái v ới v ẻ đ ẹp trong
ngần thánh thiện như loài hoa ban thơm ngát giữa rừng. 
Vẻ đẹp tâm hồn Mị cịn được bộc lộ thơng qua thái độ ph ản kháng và
phản ứng của Mị khi biết mình phải về làm dâu g ạt n ợ nhà th ống lí Pá Tra. Ngày
xưa, bố Mị lấy mẹ Mị khơng có tiền đã phải vay của bố thống lí Pá Tra - là ơng c ủa
thằng A Sử 100 đồng bạc trắng, nhưng cho đến khi mẹ M ị đã m ất, cha M ị đã già
mà món nợ ấy vẫn chưa được trả hết. Thống lí bắt bố M ị ph ải gả con gái cho con
trai hắn là A Sử về làm con dâu gạt nợ. Biết được tin này, Mị phản ứng ngay: "Con
nay đã lớn, biết cuốc nương làm ngô, về nhà làm nương ngô tr ả n ợ thay cho b ố, b ố
đừng bán con cho nhà giàu". Câu nói tốt lên khí ch ất c ủa c ả m ột con ng ười, m ột
con người có sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Trong câu nói c ủa M ị là s ự đánh tráo,
đánh đổi, Mị thà làm việc cực nhọc chứ quyết không làm dâu gạt nợ, sống kiếp trâu
ngựa nô lệ. Thể hiện sự mạnh mẽ, tự tin c ủa tuổi trẻ, của m ột người không ham
giàu sang, phú quý, biết quý trọng danh dự và nhân phẩm của mình. Mị quyết khơng
chấp nhận cuộc hơn nhân khơng tình u ấy.

Đấy là một cơ gái rất xứng đáng để hưởng hạnh phúc và s ống những
ngày tươi đẹp của tuổi trăng tròn, dù trong cảnh nghèo khó. Mùa xuân đ ến, M ị
sống những giờ phút hồi hộp sung sướng chờ nghe nh ững ti ếng sáo quen thu ộc c ủa


ngừơi u; và khơng ít những chàng trai Hmơng đã say mê cô gái con nhà nghèo ấy:
"trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị". Những tưởng cuộc đời Mị cứ thế
trôi qua êm đềm và cô sẽ sớm tìm được bến đỗ yêu th ương, nào ng ờ đâu bi k ịch ập
đến khiến tuổi xuân của người con gái ấy rơi vào bế tắc, khổ đau.
b) Cuộc đời chát đắng của Mị bắt đầu từ khi cô bị bắt về làm dâu gạt nợ,
cuộc sống tươi đẹp, tự do trước kia giờ đây chỉ còn là h ồi ức gi ữa nh ững gi ọt
nước mắt lăn dài.
Mị xuất hiện lần đầu tiên ở phần đầu câu chuyện qua vài nét phác ho ạ
đơn sơ của Tơ Hồi: "Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lý Pá Tra th ường trơng th ấy
có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ng ựa. Lúc nào cũng
vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước d ưới khe su ối lên,
cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi.". Mị không hiện lên bằng chân dung mà
hiện lên bởi số phận – một số phận đau buồn v ề ki ếp ng ười làm dâu g ạt n ợ trong
nhà thống lý Pá Tra.Mị hiện lên với cuộc sống lầm lũi, buồn khổ, tủi nh ục trong
thân phận vợ của A Sử, con dâu nhà thống lý Pá Tra. Cuộc đời chát đắng của Mị bắt
đầu từ khi cô bị bắt về làm dâu gạt nợ, cuộc sống tươi đẹp, t ự do tr ước kia gi ờ đây
chỉ còn là hồi ức giữa những giọt nước mắt lăn dài. "Tết năm ấy, tết vui chơi, trai
gái đánh pao, đánh quay rồi đêm đêm rủ nhau đi chơi. Những nhà có con gái, bố mẹ
khơng thể ngủ được vì tiếng chó sủa. Suốt đêm, con trai đ ến nhà ng ười mình yêu,
đứng thổi sáo xung quanh vách. Trai đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị."
Trong thời gian đầu bị bắt về làm vợ A Sử, Mị – bằng lòng yêu t ự do và
ham sống mạnh mẽ – đã phản kháng quyết liệt. Hàng mấy tháng rịng, đêm nào M ị
cũng khóc, rồi Mị quyết tự tử. Nàng Kiều của Nguyễn Du khi b ị d ấn thân vào cu ộc
đời ô nhục, đã hơn một lần nghĩ đến quyên sinh mà cũng khơng thốt đ ược ki ếp
đọa đày đến mười lăm năm. Cơ Mị ở đây cịn gặp tình cảnh chua xót h ơn: cơ có

chết thì món nợ vẫn còn, bố già còn khổ hơn nữa! Thế là Mị không đành ch ết. M ị
phải tiếp tục chịu đựng cuộc sống nô lệ.
Những năm tháng trong nhà Pá Tra là một chuỗi dài nh ững c ực nh ọc, v ất
vả nối tiếp nhau, là những sự bóc lột và hành hạ của bọn chủ nô với k ẻ nô l ệ mà M ị
phải chịu đựng: "Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa, mà lúc nào cũng ch ỉ nh ớ đi nh ớ
lại những việc giống nhau tiếp nhau vẽ ra tr ước mắt, mỗi năm, m ỗi mùa, m ỗi
tháng lại làm đi làm lại… Con ngựa, con trâu làm cịn có lúc, đêm nó cịn đ ược đ ứng
gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi đ ầu vào vi ệc c ả đêm c ả
ngày".
Trong địa ngục trần gian ấy, Mị còn bị áp chế về tinh thần. M ị bị ràng
buộc trong một ý nghĩ: bố con Pá Tra đã "trình ma" mình là ng ười nhà nó r ồi, thì ch ỉ
cịn biết ở cho đến lúc chết rũ xác ở đây thơi! Mê tín, th ần quy ền đã h ỗ tr ợ đ ắc l ực
cho giai cấp thống trị, nó là một thứ "thuớc phiện của tinh th ần" đ ối v ới ng ười dân
bị áp bức, như Mác đã nói.


Trong đoạn kể về cuộc đời làm dâu của Mị, Tơ Hồi đã khơng chỉ đứng ở
chỗ tố cáo những sự áp bức bóc lột của bọn phong kiến miền núi, mà cịn nói lên
một sự thật đau xót này: con ngừơi bị áp bức cứ nhẫn nh ục ch ịu đ ựng kéo dài đ ến
một lúc nào đó thì dường như bị tê liệt cả tinh thần phản kháng. " Ở lâu trong cái
khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con
ngựa, là con ngựa phải đổi cái tàu ngựa nhà này đến cái tàu ng ựa nhà khác, con
ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi". "Mị cúi m ặt không nghĩ ng ợi n ữa",
"mỗi ngày Mị càng khơng nói, lùi lũi nh ư con rùa ni trong xó c ửa". M ị s ống nh ư
một cái bóng, sống mà như chết. Suốt trong phần đ ầu của truyện, Tơ Hồi g ần nh ư
khơng để nhân vật Mị có một lời nói trực tiếp nào.
Căn buồng Mị nằm có cái cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay "lúc nào trông ra
cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng". M ị nghĩ r ằng mình
đành ngồi trong cái lỗi vuông ấy mà trông ra cho đ ến ch ết thì thơi". Th ậm chí M ị
cũng khơng buồn nghĩ đến cái chết nữa: "lần lần, m ấy năm qua, m ấy năm sau, b ố

Mị chết. Nhưng Mị cũng khơng cịn nghĩ đến Mị có thể ăn lá ngón t ự t ử n ữa". Khi
một nạn nhân đau khổ còn nghĩ đến cái chết để chấm d ứt hồn c ảnh s ống bi k ịch
của mình, thì phải chăng trong họ cịn một chút s ức ph ản kháng, còn tha thi ết m ột
cuộc sống có ý nghĩa hơn. Nhưng Mị lúc này d ường nh ư đã phó m ặc cu ộc s ống c ủa
mình cho định mệnh, khơng nghĩ gì về thân ph ận c ủa mình n ữa, th ậm chí cũng
khơng có ý thức về thời gian sống nữa. Cơ khơng nh ớ r ằng mình v ề làm dâu nhà Pá
Tra đã bao nhiêu năm. Và ngồi trong căn bu ồng âm u nhìn qua c ửa s ổ, M ị khơng
biết cái màu nhờ nhờ trăng trắng ngồi kia là sương hay là nắng. V ới Mị, s ự chuy ển
biến của thời khắc sớm tối hay là năm tháng qua đi cũng khơng có ý nghĩa gì, khơng
gợi cho cơ cảm xúc gì, cuộc sống chỉ cịn là một màn s ương m ờ đ ục không dĩ vãng,
không hiện tại và tương lai!
Nếu như trong cùng một giai đoạn văn học này, trong tác ph ẩm "T ắt
đèn" của Ngô Tất Tố, chị Dậu phải chịu sự ràng bu ộc của sưu cao thu ế n ặng, thì
trong truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" thì nhân v ật M ị cũng ph ải ch ịu s ự chi ph ối
ràng buộc của thần quyền hủ tục. Đó chính là phương thức hữu hiệu để giai cấp
thống trị nô dịch người dân nghèo. Mị bị bắt về làm dâu v ới thân phận đàn bà, l ại
đã cúng trình ma nhà thống lí Pá Tra, Mị khơng còn cách nào khác ch ỉ bi ết s ống ti ếp
"nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi" và t ừ
đấy Mị sống trong danh nghĩa là con dâu nhưng th ực ch ất là thân ph ận nô l ệ. Nhà
văn không chỉ gián tiếp tố cáo sự áp bức bóc lột của bọn đ ịa ch ủ phong ki ến mi ền
núi mà còn phản ảnh sự thật đau xót: Người dân lao đ ộng nghèo kh ổ b ị chúng đ ẩy
đến bước đường cùng, chà đạp đến mức tê liệt về cảm xúc, cu ộc s ống xung quanh,
mất dần ý niệm về cuộc đời. Chúng đang cai trị theo cách "ngu dân". T ừ những
người có lịng ham sống mãnh liệt, giờ đây chỉ như cái bóng cái xác khơng h ồn,
khơng ước ao. Một sự hủy diệt về ý thức sống thật đáng sợ. Cu ộc sống của Mị tiêu
biểu cho số phận bi thảm, bất hạnh của những người dân nghèo miền núi.


Cô gái trẻ trung, yêu đời của quá khứ nay đã bị thực tại nh ấn chìm. M ị
sống mà như đã chết, ý thức làm người vốn có c ủa cô đã b ị giai c ấp phong ki ến làm

cho tê liệt. Dường như số phận đã cột chặt Mị vào gian nhà tăm t ối c ủa th ống lý Pá
Tra mặc cho cơ gái trẻ có van lơn, có vẫy vùng. Ngịi bút c ủa Tơ Hồi đã r ất thành
cơng trong việc miêu tả tinh thần đang chết dần chết mòn đi từng ngày c ủa nhân
vật Mị. Tất cả tình trạng đó là hậu quả của sự đọa đày dai dẳng, n ặng n ề c ủa ách
thống trị phong kiến trung cổ đối với những người lao động b ị đ ẩy vào thân ph ận
nơ lệ. Ngịi bút của Tơ Hịai có sức tố cáo mạnh m ẽ. Mặt khác chính s ự đè nén càng
phũ phàng tàn bạo, thì sự trỗi dậy ở phần sau của nhân vật càng có giá trị.
Những tưởng cuộc đời Mị từ đây đã bị chôn vùi trong những gông xi ềng
của hủ tục lạc hậu và nạn áp bức bóc lột tàn bạo nhưng khơng, trong sâu th ẳm tâm
hồn câm lặng ấy vẫn le lói một khát khao sống, khát khao t ự do luôn âm ỉ cháy ch ỉ
chờ ngày bùng lên mãnh liệt. Sức sống tiềm tàng ẩn sâu trong nhân v ật M ị đ ược
ngịi bút tài năng của Tơ Hoài thể hiện qua nhiều ph ương di ện, nhi ều chi ti ết th ấm
đẫm tinh thần nhân đạo sâu sắc. Ngịi bút của người nghệ sĩ khơng ch ỉ nh ằm ph ơi
bày sự thật đen tối mà còn đưa người đọc hướng tới ánh sáng của ni ềm tin, c ủa cái
thiện ở đời.
c) Sức sống tiềm tàng của Mị trong "Vợ chồng A Phủ", hay ánh sáng nhân
đạo Tơ Hồi thắp lên giữa những đêm dài nơ lệ tăm tối?
Nếu như truyện ngắn chỉ dừng lại ở việc khắc họa số phận bi th ương
của những con người bị dồn đường cùng thì đã là một thành công r ất l ớn. Nh ưng
tác phẩm của Tô Hoài được ra đời vào những năm sau Cách m ạng, m ột th ời đ ại
mới, một trang sử mới, bởi vậy tác giả không hề để cho nhân vật c ủa mình lao vào
bóng tối như chị Dậu, cũng chẳng để nhân vật giết người, rồi giết mình trong m ột
tiếng kêu đầy ai ốn như Chí Phèo. Ông đã để cho nhân v ật M ị th ực sự tr ỗi d ậy,
sống với một sức mạnh phản kháng tiềm tàng, mãnh liệt.
Những giọt nước mắt chát đắng của Mị là biểu hiện đầu tiên c ủa s ự ph ản
kháng, không chấp nhận cuộc sống tù đày.
Sức sống tiềm tàng mãnh liệt ấy, trước tiên và đơn giản nh ất đ ược b ộc l ộ
trong những phản ứng ngầm tỏ rõ việc Mị phủ đ ịnh cuộc s ống n ơi mình đang ch ết
dần chết mòn đi từng ngày. Khi về làm dâu nhà thống lý Pá Tra, "Có đến hàng mấy
tháng, đêm nào Mị cũng khóc" - những giọt nước mắt ấy là sự phản kháng y ếu ớt của

Mị đối với giai cấp cầm quyền bóc lột tàn bạo sức lao đ ộng c ủa ng ười dân mi ền
núi. Cuộc sống đối với Mị giờ đây đã chẳng còn ý nghĩa khi t ất c ả khát v ọng, ni ềm
tin, lịng tự tơn bị chà đạp, rẻ rúng, để rồi cuối cùng M ị ph ải tìm đ ến lá ngón, ch ọn
cái chết để giải thốt bản thân khỏi gông xiềng hủ tục. Phải chăng với cô gái tr ẻ, cái
chết chính là lời tố cáo đanh thép nhất đối với giai cấp c ầm quy ền, th ể hi ện s ự ph ủ
nhận quyết liệt với cuộc sống "địa ngục tr ần gian" mà cô đang tr ải qua? Chi ti ết
này cho thấy sự phản kháng mạnh mẽ trong tâm hồn Mị, bản thân M ị tìm đến lá
ngón ở đây lại là một biểu hiện rất rõ ràng của lòng khao khát h ạnh phúc, cu ộc


sống tươi đẹp. Ngịi bút của Tơ Hồi đã đào sâu vào trong t ận cùng ý th ức c ủa nhân
vật để khơi dậy chút ánh sáng của niềm ham sống và khát vọng tự do mãnh liệt.
Sự thức tỉnh trong ý thức của Mị được nhà văn đ ặt vào trong m ột hồn
cảnh "điển hình" - ấy là khi mùa xuân về trên miền núi cao Tây Bắc.
Mùa xuân là mùa của sự sống và khát v ọng, chính vì v ậy mà cái khơng khí
ngày xn ở Hồng Ngài đã tác động mạnh mẽ vào tâm h ồn v ốn đang ch ết d ần đi
từng ngày của cô gái trẻ, kéo cô trở lại v ới cuộc đ ời t ươi đ ẹp cô đáng s ống, đ ể ng ọn
lửa ham sống trong lòng Mị bừng lên.
Đọc tác phẩm ta thấy có ngọn núi quanh năm đọng trong tuy ết, n ơi có
sương mù bao phủ, những cánh rừng bát ngát b ạt ngàn n ương r ẫy, khi thì xanh
mướt lúa ngơ, khi thì sặc sỡ ẩn hiện. Nơi có làng b ản t ụ quanh ngu ồn n ước, chi ều
về cảnh vật hiện ra trong hơi sương, tối đến lại b ập bùng quanh ánh l ửa. Ở H ồng
Ngài, bao giờ cũng thế, cứ gặt hái xong là ng ười ta chu ẩn b ị ăn T ết. Nhà văn Tơ
Hồi đã khéo léo kết hợp tính trữ tình đ ậm ch ất th ơ vào trong tác ph ẩm, th ể hi ện
vốn hiểu biết phong phú, những bản sắc riêng của ng ười dân t ộc vùng cao đ ể
người đọc có thể hình dung rõ hơn về cuộc s ống c ủa h ọ, v ề đ ề tài mà ít ai t ừng
chạm đến trên diễn đàn văn chương lúc ấy. Nhà văn đã lấy vi ệc miêu t ả tâm lý
nhân vật làm nền tảng, khi mùa xuân đến nhà văn để nhân v ật của mình vùng d ậy,
sức sống tiềm tàng trỗi dậy trước hết là nhờ những đổi thay bên ngoài. Trên b ản
của những người Mèo đỏ, trai gái đem váy áo ra ph ơi trên những m ỏm đá, nhìn xa

xa như những chú bướm sặc sỡ khổng lồ đầy màu sắc. Mùa xuân cũng làm thay đ ổi
những đóa hoa thuốc phiện khiến chúng tr ở nên s ặc s ỡ h ơn. Trai gái r ủ nhau ném
pao, tung còn, hát những câu hát giao duyên quen thuộc:
"Mày có con trai con gái
Mày đi làm nương Ngơ
Tao khơng có con trai con gái
Tao đi tìm người u"
Tất cả làm cho người đàn bà đã từng chịu nhiều kh ổ đau ph ải lay đ ộng,
có sự vận động. Tiếp đó là "tiếng ai thổi sáo r ủ b ạn đi ch ơi" – ti ếng sáo g ọi b ạn tình
vọng vào tâm hồn Mị "thiết tha bồi hồi" Nhà văn lách sâu vào đêm tình mùa xuân
để khơi dậy sức sống tiềm tàng trong nhân vật này. Thiên nhiên c ủa H ồng Ngài,
khơng khí của mùa xuân năm ấy khiến cho Mị không kh ỏi xao đ ộng, khi ến cho
lịng Mị khơng thể lặng n mà cứ mãi xao xuyến, xốn xang.
"Ở Hồng Ngài người ta thành lệ cứ ăn Tết khi gặt hái vừa xong, không kể
ngày, tháng nào. Ăn Tết như thế cho kịp lúc mưa  xuân xuống thì đi vỡ nương mới."
Mùa xuân năm ấy ở Hồng Ngài đẹp và gợi cảm biết bao: "Trên đầu núi, các nương
ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa xếp yên đầy các nhà kho. Trẻ con đi hái bí đ ỏ, tinh
nghịch, đã đốt những lều canh nương để sưởi lửa... Hồng Ngài năm ấy ăn t ết gi ữa
lúc gió thổi và cỏ ranh vàng ửng... Trong các làng Mèo, nh ững chi ếc váy hoa đã đem


ra phơi trên mỏm đá xoè như con bướm, sặc sỡ... Đám trẻ đ ợi T ết, ch ơi quay, c ười
ầm trên sân trước nhà. Ngoài đầu núi lấp ló đã có ti ếng ai th ổi sáo r ủ b ạn đi ch ơi..."
Chính khơng gian rộn rã sắc màu cùng tiếng sáo tha thi ết và âm thanh cu ộc s ống
bên ngồi đã đánh thức cơ Mị ngày xưa. Tiếng sáo nh ư ch ạm vào n ỗi nh ớ, kh ơi d ậy
trong tiềm thức của cô gái trẻ những kỷ niệm khi x ưa. Mị nghe ti ếng sáo v ọng l ại,
thiết tha bồi hồi. Mị ngồi nhẩm lại bài hát của người đang th ổi... M ị l ẩm nh ẩm l ời
bài hát, trong khoảnh khắc tâm hồn trở về với thanh xuân t ươi đ ẹp, khao khát tình
yêu hạnh phúc.
Trong đoạn diễn tả tâm trạng hồi sinh của Mị, tiếng sáo có m ột vai trị

đặc biệt quan trọng. "Mị nghe tiếng sáo v ọng l ại, thi ết tha, b ồi h ồi. M ị ng ồi nh ẩm
thầm bài hát của người đang hỏi". "Ngày trước Mị thổi sáo gi ỏi... M ị u ốn chi ếc lá
trên môi, thổi lá cũng như thổi sáo", "Tay Mị vang ti ếng g ọi b ạn đ ầu làng", "mà
tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường", "Mị vẫn nghe tiếng sáo đ ưa Mị
đi theo những cuộc chơi, những đám chơi", "trong đầu Mị rập rờn tiếng sáo"...
Sự phản kháng âm thầm diễn ra trong tâm th ức và hành đ ộng c ủa M ị
trong đêm tình mùa xuân là tiền đề vững chắc cho cu ộc n ổi d ậy đ ấu tranh ch ống
lại cường quyền.
Thời khắc để ngọn lửa sống trong lòng M ị bùng lên đã đ ến, đ ấy là m ột
"đêm tình mùa xuân". Và chúng ta cũng hồi h ộp theo ng ọn đèn c ủa tác gi ả "t ừng
bước rọi sâu vào miền thâm u của thế giới nội tâm nhân vật".
Trong khơng khí mùa xuân tưng bừng và nô n ức ấy, ti ếng sáo chính là
âm thanh tác động mạnh mẽ nhất đến tâm hồn Mị. Tiếng sáo ấy đã kh ơi d ậy s ức
sống ẩn náu trong Mị như đã nguội tắt. Tác giả đã d ụng công miêu t ả chi ti ết ti ếng
sáo rất nhiều lần. Âm thanh ấy khiến Mị nhớ l ại những bài hát ngày x ưa. M ị đâu
còn là con người "chết dần chết mịn về nhân tính" nh ư Chí Phèo. Ti ếng sáo th ấm
vào trái tim Mị, thức tỉnh sự câm lặng bấy lâu. Tiếng sáo ấy chính là ti ếng sáo c ủa
hạnh phúc, là biểu tượng của tình u đơi l ứa. Nó đã xun qua hàng rào l ạnh giá
bên ngoài để đánh thức miền sâu thẳm trong tâm hồn Mị. Đánh th ức s ức s ống v ẫn
được bảo lưu đâu đó trong cõi lịng thiếu nữ Tây B ắc này. B ữa c ơm T ết cúng ma
đón năm mới rộn rã, "chiêng đánh ầm ĩ" và b ữa rượu ti ếp ngay b ữa c ơm bên b ếp
lửa, trong cái nồng nàn của bữa rượu, Mị nhẩm lại bài hát của người đang th ổi, M ị
dần có khái niệm về thời gian, về cuộc sống. Nh ững suy nghĩ trong tâm trí b ỗng
chốc bật ra thành hành động, rồi "Mị cũng uống rượu". Để ý kĩ ta s ẽ th ấy r ằng, M ị
uống rượu "ực từng bát", đó đâu phải là cách người ta vẫn thường hay th ưởng
rượu. Mị uống rượu như nuốt bao cay đắng tủi hờn, như để quên, quên đi hi ện t ại
để nhớ về quá khứ và sống trong quá khứ ấy, lấy cái đắng cay c ủa men r ượu đ ể
mà quên đi cái đắng cay của đời. Men r ượu chính là tác nhân cu ối cùng đ ể M ị tr ở
lại với chính con người mình, để trở lại v ới s ự sống: "th ấy ph ơi ph ới tr ở l ại, trong
lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày tr ước" M ị c ảm th ấy mình v ẫn

trẻ lắm, Mị muốn đi chơi. Mị thấy cái vô nghĩa của cuộc sống hiện tại: "n ếu có n ắm
là ngón trên tay, Mị sẽ ăn cho chết ngay ch ứ không bu ồn nh ớ l ại n ữa". Ni ềm khao


khát được sống như đang nhảy múa trong lòng Mị. Đối với cô gái người Mèo ấy, cái
chết lúc ấy thật sự là một sự giải thốt chứ khơng phải là s ự hèn nhát. M ị mu ốn
vượt thoát ra khỏi căn buồng nhưng chẳng khác nào cái phòng gia, giam hãm tâm
hồn và tuổi trẻ của mình. Biết bao năm trời tưởng như sức sống và khao khát đ ược
sống trong Mị đã bị vùi lấp mất, tưởng Mị đã an phận trong cái ki ếp nô l ệ đày đ ọa
nhưng không phải vậy. Mị đã ý thức được về sự bất cơng phi lí, "khơng có lòng v ới
nhau mà vẫn phải ở với nhau", ý thức về quyền sống và hạnh phúc của chính mình.
Người con gái ấy đã thực sự vượt thoát ra khỏi trạng thành chai lì vơ c ảm c ủa m ột
"con rùa nơi xó cửa".
Q trình hồi sinh của Mị khơng được nói đến m ột cách d ễ dãi, h ời h ợt.
Tâm trạng nhân vật được miêu tả theo trình tự r ất logic, n ếu có hồn c ảnh làm nó
tha hóa thì ắt sẽ có hồn cảnh làm nó thức tỉnh. Con người tưởng như đã ch ết t ừng
bước được hồi sinh, Mị như một đóa hoa ban Tây Bắc trước lúc vào xn, nhìn b ề
ngoài mỏng manh, yếu đuối nhưng bên trong sức sống ti ềm tàng v ẫn luôn âm ỉ và
mãnh liệt. Tơ Hồi đã thực hiện một cuộc giải ph ẫu tâm lí đê tìm ra m ột s ự v ận
động biện chứng trong tâm hồn Mị. Nghe thấy tiếng sáo, t ất cả c ứ đang b ồi h ồi r ộn
ràng trong Mị. Hạnh phúc như đang ở ngay trước mắt, Mị vào trong căn bu ồng t ối
tăm của mình, xắn một miếng mỡ bỏ vào đĩa đèn cho thêm sáng. Đây là m ột chi ti ết
có chiều sâu về nghệ thuật, Mị đang tự tay thắp lên ngọn lửa trong tim mình, ng ọn
lửa của tình yêu cuộc sống mãnh liệt, khát khao hạnh phúc. Trong đ ầu M ị v ẫn r ập
rờn những tiếng sáo. Tiếng sáo như thôi thúc Mị quấn lại tóc, "v ới tay lấy cái váy
hoa vắt phía trong vách" để đi chơi hội. Những biến đ ộng m ạnh m ẽ trong tâm h ồn
Mị chính là sức sống tiềm tàng mãnh liệt bấy lâu bị vùi lấp. Nó đang chuy ển hóa
thành hành động và kéo theo những hành động tiếp theo.
Nhưng giữa lúc lòng ham sống của Mị trỗi dậy mạnh m ẽ thì ngay sau đó
nó lại bị vùi dập phũ phàng khơng thương ti ếc: A S ử b ước vào, th ản nhiên, l ầm lì,

trói đứng Mị vào cây cột nhà như trói cả khát vọng và ước m ơ c ủa cơ gái tr ẻ vào
bóng đêm thăm thẳm của sự tuyệt vọng, hiện thực nghi ệt ngã l ại tr ở v ề v ới M ị.
Nhưng A Sử chỉ trói được thể xác Mị, khơng trói được tinh thần M ị, cô v ẫn s ống
trong những tiếng sáo thổn thức ngoài kia. A Sử hỏi nhưng Mị khơng nói. Trong khi
ấy thì tiếng sáo gọi bạn tình cứ thơi thúc, quyến rũ. Nó là bi ểu t ượng c ủa s ự s ống,
tình yêu, tự do, mà bấy lâu nay Mị dường như đã quên r ồi, nay đang tr ở l ại. Ti ếng
sáo theo sát từng bước diễn biến tâm trạng nhân vật, nó chính là ngọn gió thổi bùng
lên đốm lửa trong lịng Mị. Tiếng sáo từ chỗ là một s ự vi ệc c ủa th ực t ại bên ngoài
nhân vật ("tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngòai đ ường"), đã xâm nh ập th ế
giới tâm hồn Mị, trở thành một hiện hữu của đời sống bên trong ("trong đ ầu M ị
đang rập rờn tiếng sáo"). Hành động khơng nói ấy chắc h ẳn là vì M ị đang s ống
trong quá khứ, cả tâm trí đang nghe tiếng gọi của tiếng sáo.
Mị dường như đã quên hết thực tại, quên đi cả nỗi sợ cố h ữu c ủa mình.
Rõ ràng, khát vọng sống trong Mị vẫn đang đ ược b ảo l ưu ở đâu đó. Nó gi ống nh ư


hòn than đang cháy âm ỉ dưới lớp tàn nguội lạnh và chỉ cần trận gió thổi tới là nó có
thể bùng cháy một cách mãnh liệt. Những tác động của ngo ại c ảnh làm nên cu ộc
nổi loạn trong Mị là không nhỏ. Nhưng sức mạnh tiềm ẩn không th ể nào d ập t ắt
mới là mấu chốt quyết định sức sống của mỗi cá nhân. Tô Hoài đã thể hiện đ ược t ư
tưởng nhân đạo sâu sắc của mình khi dành cho nhân v ật s ự ưu ái. Ông th ương c ảm,
đồng cảm xót xa với những số phận bị chà đạp về phẩm chất, tâm hồn, nh ững con
người là nạn nhân của chế độ phong kiến.
Tưởng rằng sức sống mãnh liệt của Mị sẽ bị vùi dập l ần n ữa, nh ưng
trong bóng tối, Mị mơ màng theo tiếng sáo, Tiếng sáo có l ần đã đ ưa M ị theo nh ững
cuộc chơi, đám chơi. Nhưng rồi quá khứ ra đi, hiện t ại ở tr ước m ắt. M ị ch ỉ th ấy
xung quanh tồn bóng tối, không một tiếng đ ộng, "Cô vùng b ước đi" nh ưng chân
tay đau không cựa được, Mị không nghe ti ếng sáo n ữa. N ỗi đau th ể xác đã kéo M ị
trở về thực tại.
Suốt cái đêm bị trói đứng vào cột ấy, Mị đã sống trong s ự gi ằng xé mãnh

liệt giữa niềm khao khát hạnh phúc cháy bỏng và th ực t ại tàn b ạo l ạnh lùng. Lúc
mới bị trói, Mị vẫn sống trong tâm trạng say mê với tiếng sáo, v ới nh ững đám ch ơi
Tết ngoài kia. "Tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi". Mị như
qn mình là đang bị trói, qn những đau đ ớn th ể xác, đ ến n ỗi trong giây phút
niềm khát khao cuộc sống mãnh liệt. Mị đã vùng bước đi!" Nhưng th ực t ế phũ
phàng là những vịng dây trói đang thít ch ặt, dẫu ước mong mãnh li ệt đ ến m ấy, M ị
không vượt qua nó được. Hai biểu t ượng của ước m ơ và th ực t ại hi ện ra trong hai
âm thanh trái ngược – tiếng sáo gọi bạn tình tha thi ết và ti ếng chân ng ựa đ ạp vào
vách khô khan! "Mị không nghe tiếng sáo n ữa. Ch ỉ còn nghe ti ếng chân ng ựa đ ạp
vào vách. Ngựa vẫn đứng yên, gãi chân, nhai cỏ. Mị th ổn th ức nghĩ mình khơng
bằng con ngựa". Thực tại phũ phàng đã lấn át, bóp ngh ẹt nh ững ước m ơ, khát v ọng
tươi sáng. Kết cục ấy nói lên rằng chỉ có những phản kháng t ự phát, nhân v ật
không thể giải thốt khỏi tình cảnh bị giam hãm đày đọa, khơng th ể gi ải phóng
thực sự cho những ước vọng hạnh phúc.

Cuộc trỗi dậy tinh thần của Mị như một đợt sóng ngầm lặng l ẽ nh ưng
mãnh liệt. Nó sẽ tn trào thành những đợt sóng mới, m ạnh m ẽ h ơn lúc nào h ết,
bằng chứng là hành động cởi dây trói cho A Phủ đã đ ặt bút vi ết lên m ột ch ương
mới cho cuộc đời Mị, mở ra những tháng ngày tươi đ ẹp sau này, th ể hi ện rõ nét
nhất sức sống tiềm tàng ẩn sâu trong tâm hồn người con gái Tây Bắc.
Ở đây, Tơ Hồi đã đặt nhân vật của mình vào một hồn c ảnh th ật căng
thẳng, làm bộc lộ những động lực tiềm ẩn sâu xa trong đời s ống tâm h ồn nhân v ật,
với một diễn biến, phát triển được dẫn dắt hợp qui luật. Nếu khơng có A Ph ủ
đánh A Sử để người ta cởi trói cho Mị đi kiếm lá thuốc cho ch ồng thì có l ẽ M ị cũng
phải chịu chết như một người đàn bà ngày trước trong nhà này. Vì th ế s ự xu ất hi ện


của A Phủ như một định mệnh trong cuộc đời của Mị, nói đúng hơn là c ủa c ả hai
người.
Sau cuộc nổi loạn khơng thành ở đêm tình mùa xuân, M ị ti ếp t ục r ơi vào

trạng thái tê liệt, cô lại trở về là cái xác không hồn. Nhưng với sự xuất hiện của A
Phủ, cùng sự việc A Phủ bị trói đứng chờ chết đã th ức tỉnh trong M ị tình yêu
thương và khao khao sống mãnh liệt không thể nào dập tắt.
Sức sống tiềm tàng của Mị không chỉ được khắc họa trong đêm tình mùa
xn mà cịn dữ dội và mãnh liệt trong chính đêm đơng cứu A Phủ. M ị đã g ặp đ ược
một người mà không ngờ tới rằng đó là ng ười s ẽ gi ải phóng cu ộc đ ời mình, đó là A
Phủ. Đó cũng là lí do tại sao tác phẩm có nhan đề "V ợ chồng A Phủ". Th ời gian
cũng trôi qua, cho đến cái đêm A Phủ bị trói đứng vào cây cọc g ỗ gi ữa mùa đơng
lạnh giá vì để hổ bắt mất bò. A Phủ là một chàng trai kh ỏe m ạnh, phóng khống, vì
đánh lại con quan mà bị phạt vạ hết sức vơ lí và trở thành nơ lệ khơng cơng cho nhà
thống lí, cịn Mị thì làm dâu gạt nợ. Hai con người này đang cùng chung hồn c ảnh,
số phận. A Phủ bị trói mấy đêm rồi nhưng đêm nào cũng vậy. Mị dậy đ ốt l ửa s ưởi
và thản nhiên như không có gì bên cạnh. Mỗi đêm, đêm nào cũng v ậy khi ng ọn l ửa
bùng, Mị nhìn sang biết A Phủ cịn sống nhưng khơng nói gì. "N ếu A Ph ủ là cái xác
chết đứng đấy, cũng thế thôi." bởi người con gái ấy đã chai sạn, chai lì c ảm xúc, s ự
thản nhiên đến lạnh lùng ấy xét đến cùng cũng là b ởi đã ch ịu quá nhi ều đ ắng cay
và khổ đau. Cái chế độ ấy đã bóp nghẹt sự sống của con ng ười, khi ến cho con
người ta trơ lì và vô cảm đến tột cùng, khiến cho con người ta dửng dưng trước mọi
nỗi đau và sự nhức nhối. Nào đâu Mị phải là người nhẫn tâm, chẳng qua khi ấy nỗi
đau đã ngấm vào tâm thức Mị, khiến trái tim cả cô gần như tê liệt s ức s ống. T ội ác
trong nhà tù thống lý Pá Tra vẫn diễn ra h ằng ngày, vi ệc A Ph ủ b ị trói đ ứng cũng
chỉ như phác thêm một nét chì lên bức hoạ tăm tối mà thơi. Tr ước nh ững ng ười
cùng cảnh ngộ, Mị chẳng cịn đủ nước mắt để xót thương. Lúc ấy, chỉ cịn Mị v ới
ngọn lửa vơ tri vơ giác ngồi kia.
Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi, chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa "bởi tâm hồn Mị
đã khép kín và câm lặng rồi ý chính dịng nước m ắt l ấp lánh c ủa A Ph ủ đã làm tan
chảy sự vơ cảm trong lịng Mị, Mị bồi hồi trước một người cùng cảnh ng ộ. "Ng ọn
lửa vừa bập bùng lóe sáng, Mị lé mắt trơng sang, th ấy hai m ắt A Ph ủ cũng v ừa m ở,
một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã đen sạm". M ị ch ợt nh ớ cái
đêm mình cũng bị trói đứng vào cột nhà như thế kia, cũng n ước m ắt ch ảy xu ống

miệng, xuống cổ không lau đi được. Nhưng vào đêm ấy, Mị đã trở dậy thổi lửa và
trông thấy "một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen l ại" c ủa
A Phủ.
Dòng nước mắt của một người con trai ương b ướng, gan góc, t ưởng
chẳng hề sợ hãi bất cứ điều gì ở đời. Dịng nước mắt nh ư hình ảnh c ủa s ự u ất ức
trước một nỗ lực bất thành trong một quá trình chống tr ọi lại thực tại cay đ ắng. Và
cũng chính dịng nước mắt ấy cũng đã kéo Mị về quá kh ứ, và r ồi m ột n ỗi c ảm


thương vơ hạn dâng ngập lên trong lịng c ủa ng ười con gái ấy. M ị th ương mình, r ồi
thương cả người đàn bà bị nó trói ba ngày, trói đến ch ết. Và vì th ế, c ảm giác d ửng
dưng dường như đã biến mất hoàn tồn, Mị đã có cảm giác rất rõ v ề s ự đ ồng c ảm
và đồng cảnh. Sức phản kháng trỗi dậy mạnh đ ến mức đã chi ph ối toàn b ộ c ả suy
nghĩ. Mị đã nghĩ một cách rành rọt là Mị s ẽ ch ết n ếu c ởi dây trói c ứu A Ph ủ, r ồi
phải chết trên cái cọc ấy. Nhưng "Mị làm sao cũng khơng th ấy s ợ", đó chính là s ức
mạnh của tình thương. Mị đã khơng sợ chết, nhất là cái ch ết ấy có g ắn v ới s ự gi ải
thoát, dám chết để cho người khác được sống.
Cảnh ngộ, tình thương và lịng căm thù đã th ức t ỉnh ý th ức M ị, tâm h ồn
Mị. Qua "ngọn lửa bập bùng", Mị "lé mắt trông sang" M ị xúc đ ộng khi nhìn th ấy
"một dịng nước mắt lấp lánh bị xuống hai hõm mắt đô xám đen lại" của A Ph ủ. Mị
nhớ lại đêm năm trước, A Sử cũng trói đứng Mị như th ế. M ị kh ẽ th ốt lên l ời than:
"Trời ơi!..." Mị nguyền rủa cha con thống lí: "Chúng nó th ật đ ộc ác". Bao c ảnh
thương tâm đồng hiện trong tâm hồn Mị: bắt trói đứng người ta đến ch ết, nó b ắt
mình chết cũng thơi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà
này". Mị tự thương cảnh ngộ mình, thương A Phủ trên bờ v ực th ẳm, khi t ử th ần đã
gõ cửa: "Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, ch ết rét,
phải chết". Mị nghĩ đến thân phận mình, tưởng như là cam ch ịu: "Ta là thân đàn bà,
nó đã bắt ta để trình ma nhà nó r ồi thì chỉ cịn bi ết đ ợi ngày rũ x ương ở đây thôi...".
Mị ý thức được, A Phủ khơng thể chết, "việc gì mà phải chết thế". Con đ ường th ức
tỉnh của con người thức tỉnh là con đường vịng, có lúc ngập ng ừng do d ự, có lúc

quyết liệt. Mị cùng thế, Mị tưởng tượng A Phủ trốn thoát, M ị sẽ b ị th ế m ạng trên
cái cọc oan nghiệt ấy! Đám than vạc hẳn lửa. Hình nh ư bóng t ối cho M ị s ức m ạnh,
"trong tình cảnh này, làm sao Mị cũng khơng thấy sợ...".
Nếu như đêm tình mùa xuân gắn với khát vọng hạnh phúc, thì đêm đơng
cứu A Phủ lại gắn liền với khát vọng tự do trong Mị - một con ng ười t ưởng nh ư đã
bị nơ lệ hóa hồn toàn. Sức sống bấy lâu nay bị đè nén tưởng đã tắt lịm đi, nay bỗng
bật dậy trào dâng mạnh mẽ. Ý nghĩ cứu A Phủ đã mạnh h ơn c ả nỗi lo s ợ cho chính
mình. Mặc dù đây là hành động tự phát nhưng là kết quả của một quá trình, nó
minh chứng sức sống tiềm tàng, âm ỉ không ngừng trong con người Mị. 
Từ suy nghĩ đó đã dẫn đến hành động của Mị. Có một điều thú v ị ở đây
là Mị đã hành động trong bóng tối, khi "đám than đã v ạc h ẳn l ửa" và t ối nh ư b ưng.
Lần này, sức sống trong Mị mãnh liệt đến mức chẳng cần men rượu, chẳng c ần
những cơn say để bùng lên. Lần này cũng chẳng cần ngọn l ửa h ơ tay b ởi ng ọn l ửa
của sức sống, của khao khát được tự do và hạnh phúc trong lòng M ị đang r ừng r ực
cháy. Mị "rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây". Một câu văn ng ắn v ới d ấu
phẩy khiến hành động của Mị dứt khoát và cảm giác rõ nét h ơn v ề t ốc đ ộ nhanh
thoăn thoắt. Đó là đỉnh cao của đời Mị và cũng là n ơi t ập trung giá tr ị nhân văn.
Hành động của Mị, tuy khơng thể đốn trước nhưng vẫn nằm trong mạch chảy của
nội tâm nhân vật. Cắt dây trói cứu A Phủ, M ị đã cát dây trói tinh th ần trói bu ộc


mình bấy lâu nay. Nhưng, tính cách Mị có sự hợp lí, quy luật mà vẫn gây cho ta s ự
bất ngờ, ngạc nhiên thú vị.
Vừa mới nghĩ đến việc có thể chết thay cho A Phủ, nhưng khi A Ph ủ
chạy đi, "Mị nghẹn lại", "đứng lặng trong bóng tối" , một sự im lặng đầy giơng bão.
Đó chính là sự giằng xé đấu tranh âm thầm nh ưng d ữ d ội. Ở l ại hay ch ạy đi, s ự
sống hay cái chết? Và khi đứng trước cái chết. Mị đã "vụt chạy" theo A Ph ủ. Tr ời t ối
lắm nhưng chưa bao giờ lòng Mị sáng như thế, chưa bao gi ờ ng ọn l ửa c ủa khát
vọng sống trong Mị lại cháy mãnh liệt đến th ế. M ị băng đi v ới t ất c ả s ức s ống tr ẻ
trung của mình, sức sống bị kìm hãm bấy lâu nay được bung ra, được tuôn ch ảy. Mị

đã vượt qua nỗi sợ cố hữu với thần quyền và cường quyền để chọn con đường
sống. Một kết cấu chặt chẽ: Mị đã cứu A Phủ, thì tại sao lại khơng t ự c ứu mình? và
"hai người lẳng lặng đỡ nhau lao xuống núi".
Nhìn bề ngồi ta tưởng hành động của Mị là sự liều lĩnh. Th ực ch ất, quá
trình Mị cắt dây trói và chạy theo A Phủ xuất phát từ yếu tố bên trong, là logic tâm
lí hồn tồn hợp lí, là một q trình tự nhận thức: Nhận thức tại xã hội tàn bạo, lạnh
lùng. Mị cứu A Phủ bởi cơ thấy sự bất cơng, phi lí s ắp gi ết ch ết m ột con ng ười vô
tội và nhận thức "người" cũng là để qua đó nhận thức, soi sáng "mình". M ị khơng
hề bồng bột, không hề ngẫu hứng, Mị đã cảm nh ận đ ược s ự đ ồng đi ệu trong tâm
hồn của Mị và A Phủ. Hai mảnh ghép khổ đau và cùng c ực t ựa vào nhau đ ể v ượt
lên sự nghiệt ngã của số phận. Mị đã tự vùng lên, tự giải phóng cho chính cuộc đời
mình khỏi áp bức và bất cơng. Tơ Hồi đã đ ể nhân v ật mình đ ược con đ ường sáng
ngay trong đêm đông tối tăm trên núi cao, tự c ứu lấy đ ời mình, s ống v ới cu ộc s ống
xứng đáng với con người. Ấy chính là giá trị nhân đạo sâu s ắc và m ới m ẻ mà nhà
văn muốn gửi gắm. Đó cũng là khẳng định và khao khát của nhân dân Tây B ắc v ề
khát vọng tự do cháy bỏng. Tác giả Tơ Hồi đã lách sâu ngịi bút nhân đ ạo c ủa mình
để tìm ra cho nhân vật con đường đúng đắn nhất, để nhân v ật đi theo ánh sáng c ủa
cách mạng cũng chính là để cho nhân vật làm ch ủ cu ộc đ ời mình, t ự mình thốt ra
khỏi xiềng xích, đồng thời đây cũng là giá trị hi ện thực m ới m ẻ khi tác gi ả đ ề cao
vai trò của Đảng trong việc giải phóng nhân dân.
Tình huống truyện diễn ra thật bất ngờ, tự nhiên nh ưng v ẫn r ất lơgic,
phù hợp với sự phát triển tính cách của nhân vật mà tr ước đó đã t ừng có khát v ọng
mãnh liệt trong đêm mùa xuân năm trước. Hành động cắt dây trói c ứu A Ph ủ c ủa
Mị là hành động cắt đứt, đoạn tuyệt với quá khứ khổ đau cho cả hai ng ười. Nh ư
chim xổ lồng, họ băng xuống dốc núi, bay về phía tự do.
Đây là đoạn văn bản lề khép mở hai cuộc đời. Đóng lại m ột ki ếp kh ổ
nhục, nô lệ để đi vào một cuộc đời chồng vợ chủ đ ộng xây d ựng cu ộc s ống m ới. Tơ
Hồi đã làm cho mạch truyện chuyển biến hợp lí, khiến cho tác ph ẩm khơng có
những vết cắt, và những chỗ ghép giả tạo. Cũng c ần lưu ý gi ọng văn ở đo ạn này
rất đa dạng. Giọng kể, giọng bán trực tiếp của nhân v ật của và gi ọng nhân v ật, …

Những giọng này góp phần mổ xẻ tâm trạng Mị khá thành cơng, khá sinh đ ộng và
có sức thuyết phục người đọc. 


Bằng cách giới thiệu nhân vật đầy bất ngờ, tự nhiên, cách d ẫn d ắt câu
chuyện chặt chẽ và nghệ thuật miêu tả tâm lí tinh tế bậc thầy thì Tơ Hồi đã vẽ nên
bức chân dung cơ Mị tĩnh lặng nhưng ẩn chứa sau bức tranh ấy là m ột s ức s ống
mãnh liệt, một khát vọng lớn lao như mạch ngầm trong m ắt. Làm ta u thêm hình
ảnh về một cơ Mị ở Hồng Ngài thoát khỏi c ảnh đ ọa đầy đ ể v ươn đ ến t ương lai
hạnh phúc. Môt cô Mị với sức sống tiềm tàng mãnh li ệt đ ể có th ể làm du kích ở
Phiềng Sa sau này.
Như vậy, có thể nói, nhân vật Mị là kết tinh đặc sắc nhất của ngịi bút Tơ
Hồi khi viết về cuộc sống và con người miền núi Tây Bắc.
Qua việc phát hiện, miêu tả sức sống tiềm tàng trong tâm h ồn Mị, Tơ
Hồi khơng chỉ ngợi ca đó là vẻ đẹp trong tâm hồn của ng ười lao đ ộng mi ền núi b ị
áp bức mà còn khẳng định sức sống tiềm tàng ấy chính là s ức m ạnh là vũ khí giúp
họ vùng lên giả phóng cuộc đời bất hạnh của mình để đ ến với t ự do, hạnh phúc.
Cách nhìn này mang giá trị nhân sinh sâu sắc.
Qua nhân vật Mị, Tơ Hồi đã phản ánh chân th ực b ức tranh cu ộc s ống
của người phụ nữ miền núi thật tù đọng và đ ầy b ất h ạnh. Nhà văn còn kh ẳng đ ịnh
ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất, khát vọng tự do hạnh phúc cùng s ức s ống mãnh li ệt
trong tâm hồn người lao động. Mị thực sự đổi đ ời khi cùng A Ph ủ đ ến v ới khu du
kích Phiềng Sa. Nhân vặt Mị đã đi từ hình tượng con ng ười nơ l ệ sang hình t ượng
con người khởi nghĩa. Điều này thể hiện t ư t ưởng nhân đ ạo ch ưa t ừng có trong văn
học truyền thống. Đó là chủ nghĩa nhân đạo cách mạng gắn v ới đ ấu tranh, gắn
niềm tin vào tương lai đầy triển vọng của con người.
2. Nhân vật A Phủ
"Tơ Hồi như một từ điển sống, một pho sách sống. Ông nh ư cu ốn Bách
khoa Tồn thư mà khơng viện sĩ nào, khơng h ọc gi ả nào có th ể sánh đ ược" (Tr ần
Đăng Khoa). Ơng có vốn hiểu biết sâu sắc, phong phú v ề phong t ục t ập quán c ủa

nhiều vùng miền khác nhau, lối trần thuật hóm h ỉnh, v ốn t ừ v ựng giàu có, sáng
tạo, cách miêu tả đậm chất tạo hình lay động lịng ng ười. Ơng đã vi ết thành cơng
tác phẩm Truyện Tây Bắc, trong đó có truyện Vợ chồng A Phủ. Qua truy ện ng ắn
này, Tơ Hồi đã phản ánh nỗi thống khổ và sự vùng d ậy c ủa ng ười Mèo ở Tây B ắc,
một lòng quyết tâm đi theo kháng chiến đ ể giành l ấy tình yêu, h ạnh phúc. Tiêu
biểu cho những con người ấy là A Phủ, một trong nh ững nhân v ật thành cơng nh ất
của Tơ Hồi trong tác phẩm này.
Năm 1952, Tơ Hồi cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc. Chuy ến đi th ực
tế này đã đem đến cho nhà văn cái nhìn sâu s ắc và tình c ảm th ắm thi ết v ới ng ười
và cảnh Tây Bắc. "Vợ chồng A Phủ" được in trong tập "Truyện Tây B ắc". Tác gi ả
cho A Phủ xuất hiện đột ngột trong trận đánh nhau với A Sử - con trai th ống lí, r ồi


bị bắt, bị đánh đập, bị phạt vạ phải ở trừ nợ. Sau đó mới kể lai lịch của A Phủ. Cách
giới thiệu này vừa gây chú ý cho người đọc vừa nh ấn m ạnh tính cách m ạnh m ẽ c ủa
A Phủ.
a) Hồn cảnh nghèo khó và số phận bất hạnh của A Phủ
A Phủ xuất hiện khá đột ngột gây ấn tượng mạng cho ng ười đ ọc, đó là
cảnh A Phủ đánh A Sử. Người đọc tưởng đây là nhân v ật có máu m ặt trong b ản
làng nhưng không, thân phận của A Phủ không khác M ị là m ấy. A Ph ủ cũng nh ư
Mị, họ đều là những người dân nghèo b ị gia đình th ống Lí Pá Tra áp b ức, bóc l ột và
trở thành con nợ - nơ lệ. Song họ đều có tình u và khát vọng giải phóng. Nhưng A
Phủ cũng khác Mị: Thời thơ ấu Mị cịn có cha, có mẹ, có một gia đình đ ể đ ược yêu
thương, đùm bọc, thì A Phủ mười tuổi đã bị mồ côi cả cha l ẫn m ẹ trong m ột tr ận
dịch khủng khiếp. A Phủ thành đứa trẻ bơ vơ, bị người làng bán đ ổi l ấy thóc d ưới
vùng thấp. A Phủ không chịu đã chốn lên vùng cao, làm thuê làm m ướn ki ếm s ống
và đã lưu lạc đến vùng Hồng Ngài.
Lớn lên giữa núi rừng, A Phủ là một chàng trai kh ỏe m ạnh "ch ạy nhanh
như ngựa", "biết đúc lưỡi cày, biết đúc cu ốc lại giỏi cày và săn bị tót r ất b ạo". V ượt
lên hoàn cảnh khắc nghiệt, A Phủ sống rất hồn nhiên, yêu đ ời, yêu cu ộc s ống bình

n chính nghĩa, bởi vì thế nên khi có chuyện bất bình, dù biết ph ần thi ệt sẽ thu ộc
về mình và khơng biết chuyện gì sẽ xảy ra nhưng A Phủ vẫn quyết làm điều đó. Ta
thấy ở đây A Phủ là một con người liều lĩnh và chí khí.

Ngày tết dù chẳng có nhiều quần áo đẹp như nhi ều chàng trai khác, trên
cổ vẫn lằn một chiếc vịng vía đeo từ nhỏ, nh ư A Ph ủ v ẫn hòa cùng đám b ạn th ổi
kèn, thổi sáo tìm người yêu. A Phủ trở thành niềm m ơ ước c ủa bao cô gái Mèo. H ọ
kháo nhau: "Đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà, ch ẳng
mấy lúc mà giàu". Người ta đùa vậy thôi chứ A Ph ủ nghèo l ắm. Khơng có cha m ẹ,
khơng có ruộng nương, khơng có bạc, su ốt đời làm th, làm sao A Ph ủ l ấy n ổi v ợ.
Nếu ở xã hội khác, A Phủ xứng đáng được hưởng h ạnh phúc. Th ế mà A Ph ủ b ị chà
đạp, bị đối xử bất công. Nếu không được Mị giải thoát, ch ắc A Phủ đã ch ết trong
tay cha con thống lí Pá Tra.

b) Phẩm chất, tính cách của A Phủ
Cá tính gan góc của A Phủ đã bộc lộ từ năm 10 tuổi. Cá tính ấy l ại đ ược
chính cuộc sống hoang dã núi rừng cùng hoàn c ảnh ở đ ợ làm thuê v ất v ả c ực nh ọc
hun đúc nên một A Phủ có cá tính mạnh mẽ, táo bạo. V ừa xu ất hi ện, A Ph ủ đã lôi
cuốn người đọc bằng những hành động mạnh mẽ, dự dội: "ch ạy v ụt ra", "vung tay
ném", "xộc tới nắm" "kéo dập đầu, xé, đánh tới tấp…". A Phủ là m ột ng ười th ẳng


thắn, nóng tính, thật thà, chất phác. A Phủ đánh A S ử đ ể tr ừng tr ị thói con quan ỷ
thế làm càn. Anh bị người nhà thống lí bắt, đánh suốt đêm đ ến m ức "m ặt A Ph ủ
sung lên, môi và đuôi mắt giập chảy máu", "hai đầu gối sưng bạnh lên nh ư m ặt h ổ
phù".

Dù vậy, A Phủ "chỉ im như cái tượng đá" thể hiện s ự gan góc, dám làm
dám chịu. Khi đã phải sống thân phận của kẻ làm công trừ nợ, anh vẫn là chàng trai
của tự do. Dù phải quanh năm một mình "đốt rừng, cày nương, cuốc n ương, săn bị

tót, bẫy hổ, chăn bị, chăn ngựa…", việc gì A Phủ cũng làm phăng phăng ch ẳng h ề
tính tốn thiệt hơn. Vì mải bẫy nhím, đ ể h ổ bắt m ất m ột con bò, A Ph ủ th ật thà vác
về nửa con bị hổ ăn dở và thản nhiên nói với thống lí "cho tơi m ượn cây súng. Tơi
đi lấy con hổ về". Anh coi đó là một việc rất dễ dàng. Thống lí khơng cho, anh cãi
lại cũng rất điềm nhiên. Anh không bi ết s ợ cái uy c ủa b ất kì ai. Con h ổ hay th ống lí
cũng thế thơi. Kể cả khi lặng lẽ đi lấy cọc và dây mây r ồi đóng c ọc đ ể ng ười ta trói
đứng mình chết thế mạng cho con vật bị mất, A Phủ cũng làm vi ệc ấy m ột cách
thản nhiên. Là người mạnh mẽ, gan góc, A Phủ khơng sợ cả cái chết.

Bị trói đứng, đói, khát trong cái lạnh cắt da, A Phủ khơng cam ch ịu, anh
nhai đứt hai vịng dây trói, song khơng thốt. A Phủ khóc tuyệt v ọng. N ước m ắt c ủa
chàng trai mạnh mẽ, yêu tự do phải cay đ ắng buông tay tr ước s ố ph ận nghi ệt ngã
làm rung động trái tim người đọc. Ta càng thấy rõ h ơn bộ m ặt tàn b ạo c ủa ch ế đ ộ
phong kiến, chúa đất ở miền núi khi xưa.

Nếu Mị là kiểu nhân vật tâm lý thì A Phủ lại là nhân v ật hành đ ộng táo
bạo, quyết liệt. Khi miêu tả A Phủ, nhà văn phối hợp vừa tả vừa kể, nh ấn m ạnh
các chi tiết cụ thể, ấn tượng để khắc họa những đặc điểm, tính cách nhân vật. Cùng
với Mị, A Phủ đã góp phần hoàn thiện chân dung con ng ười mi ền núi Tây B ắc: S ố
phận đau thương nhưng giàu sức sống, tình cảm và khát vọng . Người đọc cũng
mong có một kết thúc tốt đẹp đến với A Phủ và Mị. Bởi h ọ là nh ững con ng ười
không chịu khuất phục trước cường quyền gian ác. Nếu chị D ậu trong "T ắt Đèn"
của Ngô Tất Tố chạy ra khỏi nhà lý th ống trong đêm t ối, cái đêm đen cũng đen nh ư
cuộc đời của chị, người ta mong chị sẽ gặp được ánh sáng soi rọi của cách mạng, thì
ở đây, người đọc cũng mong A Phủ và Mị chạy thoát khỏi nhà lý th ống, g ặp đ ược
ánh sáng của Cách mạng ở cuối đường.

Khi miêu tả nhân vật A Phủ, nhà văn miêu t ả qua nh ững hành đ ộng khi
bị đánh đập, để thấy được sức sống kiên cường của anh. Số ph ận của nhân vật A
Phủ cũng giống như số phận của bao người dân miền núi khác, như Mị. Họ đã phải

luôn đấu tranh giành lại hạnh phúc, họ đã phải trải qua bao t ủi c ực, cay đ ắng.
Nhưng họ đã đấu tranh để tự giải phóng bằng sức mạnh quật khởi của chính mình.


Nhân vật A Phủ đã được khắc họa thành công, sở tr ường quan sát nh ạy bén và kh ả
năng thiên phú trong việc nắm bắt cá tính con người là hai y ếu t ố giúp nhà văn
dựng được một hình tượng đặc sắc chỉ bằng mấy nét đ ơn s ơ. Thông qua nhân v ật
A Phủ, giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm càng đậm nét.
c) Sự thống nhất hai tính cách trong con người A Phủ: phản kháng và cam
chịu
Khi đọc "Vợ chồng A Phủ", có những ý ki ến băn khoăn, A Ph ủ có tính
cách tự do, ngang bướng ln phản kháng mỗi khi không ch ịu n ổi đi ều gì nh ưng
tại sao: Sau khi bị đánh đập, xử tội phải ở nợ cho nhà th ống lí, A Ph ủ v ẫn t ự tay
cầm dao, lê bước chân tập tễnh của mình đi gi ết l ợn ph ục d ịch chính nh ững k ẻ đã
hành hạ, đánh đập, biến mình thành con nợ? Sao khi đ ể h ổ v ồ m ất m ột con bị, A
Phủ cãi lại thống lí nhưng vẫn tự mình phải vác cọc, đóc cọc, mang dây mây đ ến
cho tên ác bá trói mình vào đó?
Những chi tiết ấy có gì mâu thuẫn với tính cách c ủa m ột con ng ười v ốn
mãnh liệt, can trường? Điều đó cũng dễ hiểu, nhà văn Tơ Hồi qu ả là m ột tay bút
già dặn, ông đã nhìn rõ hai mặt đối lập ấy trong một con người: mâu thu ẫn mà
thống nhất. Một con người cường tráng, bất khuất và một con ng ười thân ph ận tơi
địi đều có trong A Phủ. A Phủ đánh con quan vì khơng chịu được đi ều vơ lí, A Ph ủ
phải giết lợn cho kẻ đã áp bức mình ăn, phải đóng cọc lấy dây trói cho chính mình
vì thân cơ thế cơ khơng thể nào khác được. A Phủ khơng t ự mình b ỏ tr ốn khi ch ỉ có
một mình rong ruổi cùng đàn trâu ngựa ngồi n ương r ừng, gị bãi vì cam ph ận.
Cũng như Mị, sau khi bố chết, Mị có thể ăn lá ngón để giải thốt nh ưng "ở lâu trong
cái khổMị quen rồi". Vì ai trong cái nhà này, sống trên đất H ồng Ngài này cũng th ế
cả thơi. Đó là sự cam chịu, cam phận của người nông dân trên các vùng núi cao khi
ánh sáng của Đảng chưa đến được với họ. Họ ch ưa đ ược giác ng ộ, ch ưa có nh ững
người cùng khổ cùng kết lại thành sức mạnh chống lại c ường quy ền. Vì th ế có ý

kiến cho rằng: A Phủ là nhân vật được xây dựng đang trên b ước "tìm đường, nhận
đường" để sau này sang Phiềng Sa gặp A Châu, trở thành du kích tr ở v ề gi ải phóng
quên hương.
Qua cuộc đời và số phận của A Phủ, Tơ Hồi đã tố cáo t ội ác dã man c ủa
giai cấp thống trị ở miền núi, tiêu biểu là cha con thống lí Pá Tra đã đ ẩy con ng ười
hiền lành, chất phác vào tình trạng thảm hại, bị c ướp đo ạn s ức lao đ ộng, quy ền
làm người, trở thành nô lệ. Viết về họ, nhà văn luôn thể hiện lòng th ương c ảm v ới
những đau khổ, bất hạnh của họ. Ơng đồng tình v ới s ự ph ản kháng và m ở ra cho
họ một lối thoát. Qua đây, chúng ta cũng thấy nhà văn có s ở tr ường quan sát nh ạy
bén và khả năng thiên phú trong việc nắm bắt cá tính của con ng ười. Đó là hai y ếu
tố giúp nhà văn xây dựng nhân vật A Phủ đơn sơ mà đặc sắc.
III. TỔNG KẾT


1. Về nội dung
- Qua tác phẩm, tác giả lên án bọn thực dân, chúa đ ất độc ác dã man tàn
bạo; bày tỏ sự cảm thông thấu hiểu nỗi thống kh ổ c ủa người dân nghèo mi ền núi
và khẳng định sức sống ngoan cường, khát vọng tự do tiềm tàng ở người lao động.
- Qua tác phẩm, nhà văn cịn phản ánh q trình đ ấu tranh t ừ t ự phát
đến tự giác, chỉ ra con đường đấu tranh để giải phóng của ng ười dân mi ền núi
dưới ách áp bức của bọn thực dân phong kiến.
2. Về nghệ thuật
- Nghệ thuật miêu tả phong tục tập qn của Tơ Hồi rất đ ặc s ắc v ới
những nét riêng (cảnh xử kiện, khơng khí lễ h ội mùa xuân, nh ững trò ch ơi dân gian,
tục cướp vợ, cảnh cắt máu ăn thề...).
- Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên miền núi với những chi ti ết, hình ảnh
thấm đượm chất thơ.
- Nghệ thuật kể chuyện tự nhiên, sinh đ ộng, hấp d ẫn. Truy ện có k ết
cấu, bố cục chặt chẽ, hợp lí; dẫn dắt những tình tiết đan xen, k ết h ợp m ột cách
khéo léo, tạo sức lôi cuốn.

- Nghệ thuật xây dựng nhân vật cũng rất thành công. M ỗi nhân v ật đ ược
sử dụng bút pháp khác nhau để khắc họa tính cách khác nhau trong khi h ọ có s ố
phận giống nhau. Tác giả tả ngoại hình, tả tâm lí v ới dịng kí ức ch ập ch ờn, nh ững
suy nghĩ thầm lặng để khắc họa nỗi đau khổ và sức sống của M ị, cịn A Ph ủ thì t ả
ngoại hình, hành động và những mẩu đối thoại ngắn để thấy tính cách giản đơn.
- Ngôn ngữ tinh tế mang đậm màu sắc miền núi. Gi ọng đi ệu tr ần thu ật
có sự pha trộn giữa giọng người kể với giọng nhân vật nên tạo ra chất trữ tình.

3. Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo trong tác phẩm "Vợ chồng A Phủ"
Nhà văn Tơ Hồi từng chia sẻ: "Đất nước và ng ười mi ền Tây đã đ ể
thương để nhớ cho tôi nhiều, không thể bao gi ờ quên… Hình ảnh Tây B ắc đau
thương và dũng cảm lúc nào cũng thành nét, thành ng ười, thành vi ệc trong tâm trí
tơi", bởi vậy mà tác phẩm "Truyện Tây Bắc" nói chung và đo ạn trích "V ợ chồng A
Phủ" nói riêng như một món nợ lịng mà nhà văn dành cho Tây B ắc, dành cho con
người nơi đây. Tác phẩm không chỉ là một trong những đỉnh cao trong s ự nghi ệp
sáng tác của Tơ Hồi, khơng chỉ thể hi ện s ở tr ường c ủa ơng trong ngịi bút vi ết v ề
mảng đề tài miền núi mà còn làm sáng lên kh ả năng n ắm b ắt, miêu t ả đ ầy tinh t ế
q trình diễn biến tâm lí nhân vật, từ đó đ ưa tác ph ẩm lên đ ỉnh cao văn ch ương,
trở thành một sáng tác xuất sắc của nền văn nghệ kháng chiến nước nhà.
Tác phẩm là kết quả của chuyến đi thực tế Tây Bắc dài 8 tháng, ghi d ấu
sự trưởng thành của ngịi bút Tơ Hồi trong sự chiếm lĩnh m ảng đ ề tài mi ền núi,
mảng đề tài tới nay vẫn còn nhiều mới lạ với bạn đọc. Tác phẩm được tổ ch ức ch ặt


chẽ, rất sinh động và tự nhiên, không cần những nút thắt quá biến động những v ấn
thu hút được bạn đọc là bởi tác giả đã có cái nhìn hi ện th ực s ắc bén. Nhà văn Nga
Sê-khốp nói: "Một nghệ sĩ chân chính phải là một nhà nhân đ ạo t ừ trong c ốt tu ỷ".
Thông qua lăng kính đầy tình u thương, lịng nhân ái, tác gi ả đã th ể hi ện đ ược
chủ nghĩa nhân đạo tích cực, mới mẻ chưa từng có trên di ễn đàn văn ch ương Vi ệt
Nam. Được thể hiện thông qua cuộc đời, số phận 2 nhân vật Mị và A Phủ. Hai nhân

vật trung tâm từ trong bóng tối đau khổ, ơ nhục đã v ươn ra ánh sáng c ủa h ạnh
phúc, tự do.
a) Giá trị hiện thực
Trong "Vợ chồng A Phủ", Tơ Hồi đã miêu tả chân thực số phận nô lệ cực
khổ của người dân lao động nghèo Tây Bắc d ưới ách th ống tr ị c ủa b ọn c ường
quyền phong kiến miền núi qua việc khắc hoạ hai số phận bất h ạnh tiêu bi ểu là
Mị và A Phủ.
Mị là một cơ gái xinh đẹp, nết na, có tài thổi lá hay nh ư th ổi sáo, đ ược
nhiều người yêu mến, theo đuổi, lẽ ra cô phải đ ược sống m ột cuộc s ống t ự do,
hạnh phúc, thì trái lại Mị lại khổ từ trong trứng nước. Bố m ẹ nghèo, c ưới nhau
khơng có tiền, phải vay nợ nhà thống lí 100 đồng bạc tr ắng, đ ến khi m ẹ M ị m ất,
cha Mị đã già, số nợ ấy vẫn chưa trả được. Thống lí Pá Tra mu ốn M ị làm con dâu
gạt nợ. Lợi dụng tục lệ cướp vợ của người Mèo, cho cướp Mị về. Vậy là không c ần
cưới hỏi, khơng cần tình u vẫn là hợp lẽ. Đáng nói ở đây, chúng b ắt M ị v ề đ ể
cúng trình ma nhà thống lí, Mị sẽ chết rũ ở trong cái nhà này, s ống không b ằng
chết. "Con ma nhà thống lí" là một nỗi ám ảnh suốt cuộc đời M ị, b ọn phong ki ến đã
cao tay đến mức "ngu dân" để dễ trị. Chẳng ai dám lên ti ếng bênh v ực cơ M ị xinh
đẹp, nết na, vậy mà Tơ Hồi đã phanh trần bản chất bóc lột ẩn sau nh ững phong
tục, tập quán. Mị sống cuộc sống địa ngục trần gian, bị bóc lột nh ư nơ l ệ, th ứ nô l ệ
người ta không phải mua mà vẫn có quyền hành hạ. D ần d ần M ị cũng qn ln
cả việc mình là người. Kết quả trong hồn cảnh sống tù túng ấy thật chua xót "ở lâu
trong cái khổ, Mị khổ quen rồi" cố nhẫn nhục đ ể rồi tê li ệt v ề ý th ức, chai lì v ề c ảm
xúc… Nỗi khổ nhục của Mị thật đã có thể so sánh v ới bi k ịch cu ộc đ ời Chí Phèo khi
"Đánh mất cả nhân tính lẫn nhân hình", Chí Phèo đơi khi cịn có th ể nghênh ngang,
dọa nạt người khác, nhưng cô Mị của chúng ta đã th ật s ự khơng cịn s ức m ạnh đ ể
chống cự lại điều gì. Nếu xem giá trị hiện thực của m ột tác ph ẩm là ph ản ánh chân
thực cuộc sống thì "Vợ chồng A Phủ" là bản cáo trạng hùng h ồn v ề ng ười ph ụ n ữ
miền núi, vừa chịu gánh nặng của phong kiến mi ền núi, v ừa b ị chói ch ặt trong
xiềng xích của thần quyền.
Nhà văn đã sử dụng những chi tiết rất sinh động, mang giá tr ị bóc tr ần

bản chất xã hội vơ nhân đạo đạt đến mức đỉnh điểm. Ở đó thân ph ận những con
người lao động mới mong manh làm sao! Ta sao có th ể làm ng ơ tr ước hình ảnh cô
gái trẻ đẹp ngồi quay sợi trước cửa nhà bên cạnh tảng đá và cái tàu ng ựa, hình ảnh
cơ Mị lặng lẽ ngồi hơ lửa trong những đêm đông buốt giá, ngay c ả khi s ức s ống



×