Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

VỢ CHỒNG A PHỦ - TÔ HOÀI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (99.32 KB, 8 trang )

VỢ CHỒNG A PHỦ - TÔ HOÀI
I. GIỚI THIỆU:
1. Tác giả:
a. Tô Hoài tên thật là Nguyễn Sen, sinh ngày 10-08-
1920 ở làng Nghĩa Đô, huyện Từ Liêm, phủ Hoài
Đức, tỉnh Hà Đông (nay thuộc phường Nghĩa Đô,
quận Cầu Giấy, Hà Nội).
b. Ông nhanh chóng được người đọc chú ý, đặc
biệt là truyện Dế mèn phiêu lưu kí.
c. 1960, gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc.
d. 1996, được Nhà nước phong tặng Giải thưởng
Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I).
e. Tác phẩm tiêu biểu: Dế Mèn phiêu lưu kí (1941),
O chuột (1942), Nhà nghèo (1944), Truyện Tây
Bắc (1953)…
2. Hoàn cảnh sáng tác:
Trước CM Tháng Tám Tô Hoài nổi tiếng với “Dế mèn ”. Sau
Cách mạng ông tiếp tục khẳng định tên tuổi mình qua tập
“Truyện tây bắc”. Vợ chồng A Phủ là truyện thành công nhất
trong ba truyện mà Tô Hoài viết về tây bắc. Tác phẩm mang
đậm giá trị hiện thực - tố cáo và nhân đạo, dc thể hiên qua chất
thơ, chất trữ tình sở trường của tô Hoài.
Tác phẩm được in trong tập “truyện Tây Bắc” xuất bản
1953 (đạt giải Nhất giải thưởng văn nghệ 1954-1955)
Tác phẩm ra đời khi Tô Hoài tham gia giải phóng Tây Bắc
1952. Vốn sống từ 8 tháng đi thực tế cùng tình yêu đất
nước và con người Tây Bắc đã truyền cảm hứng cho Tô
Hoài.
3. Tóm tắt truyện:
Tác phẩm kể về cuộc đời của đôi trai gái ngừơi Mèo là
Mị và A Phủ. Mị là một cô gái trẻ đẹp ở Hồng Ngài, bị


bắt về làm vợ A Sử, con trai thống lí Pá Tra, để trừ món
nợ truyền kiếp của gia đình. Lúc đầu suốt mấy tháng
ròng, đêm nào Mị cũng khóc. Mị định ăn lá ngón để tự
tử nhưng vì thương cha nên không thể chết mà phải
đành sống tiếp chuỗi ngày tủi cực trong nhà thống lí. Mị
làm việc quần quật khốn khổ hơn trâu ngựa. Mùa xuân
đến, nghe tiếng sáo gọi bạn tình thiết tha, Mị nhớ lại hồi
mình còn trẻ, Mị muốn đi chơi nhưng lại bị A Sử bắt gặp
và troi đứng trong buồng tối. Còn A Phủ là chàng trai
nghèo, mồ côi, khỏe mạnh, lao động giỏi. Vì dám đánh
lại A Sử, A Phủ bị bắt, bị đánh đập, bị phạt vạ, rồi trở
thành đầy tớ không công cho nhà thống lí. Do có một
lần A Phủ đi chăn bò để cọp vồ mất một con bò nên bi
thống lí trói đứng ở góc nhà. Lúc đầu nhìn cảnh ấy, Mị
thản nhiên nhưng rồi lòng thương người cùng cảnh ngộ
trỗi dậy, Mị cắt dây, cởi trói cho A Phủ, rồi bỏ trốn theo A
Phủ. Họ cùng nhau trốn lên Phiềng Sa cùng nhau tạo
dựng cuộc sống. Ở đây họ bị bọn Tây càn quét, được
cán bộ A Châu giác ngộ, A Phủ trở thành đội trưởng du
kích. Mị cùng chồng và dân làng chuẩn bị chiến đấu đón
bộ đội giải phóng quê hương.
- “Vợ chồng A Phủ “ gồm hai phần. Đoạn trích này
thuộc phần một, lấy bối cảnh ở Hồng Ngài.
II. Phân tích tác phẩm:
- Mị - nhân vật trung tâm của câu chuyện “Vợ chồng A Phủ”. Mị
là cô gái trẻ đẹp, con nhà lao động, có tấm lòng nhân hậu. Thế
nhưng, số phận run rủi, nàng phải vào nhà Thống li PáTra làm
vợ để trả món nợ hôn nhân từ đời cha mẹ nàng. Lẽ ra là cuộc
đời sẽ tốt đẹp nhưng số phận không an bài như thế, nơi đây Mị
bước sang một trang đời đầy tăm tối, tất cả như xô dạt về

hướng lụi tàn, không gì cứu vãn được. . Mị . Mị trở nên câm nín
vô hồn , vô cảm. Mị khóa chặt lòng mình: không giao tiếp,
không trông chờ, không hy vọng, không phản ứng, Mị “lùi lũi
như con rùa trong xó cửa”. Ý nghĩa của cuộc sống chỉ còn lại
đơn thuần là những ngày dài lê thê chưa chết. Cứ thế Mị giam
cầm mình trong căn buồng tăm tối “kìn mít, có một chiếc cửa
sổ một lỗ vuông bằng bàn tay ” và chi tiết ấy lặp lại đến mấy
lần trong tác phẩm. Để rồi từ ô cửa ấy, Mị nhìn ra bên ngoài và
thấy cái màu trăng trắng không biết là sương hay nắng, Mị mất
cả ý niệm về không gian và thời gian, Mị không phân biệt được
thời gian sáng và chiều, không biết mùa nào đã về, con chim
nào đã bay qua dưới cửa sổ. Mị bị cuốn vào cái vòng xoáy
công việc giặt đay, xe đay, bưng ngô và sau tết “lên núi hái
thuốc phiện … đến mùa thì lên nương bẻ bắp… Bao giờ cũng
thế, suốt năm như thế”. Ý thức làm người của Mị dần dần bị tê
liệt. Độc ác hơn, gia cấp phong kiến ấy còn đánh đập, chà đạp
lên nhân phẩm của Mị. Chúng dùng bóng ma thần quyền nhằm
hù dọa, ức hiếp triệt tiêu cả niềm tin và sự phản kháng của Mị.
Phần “Người” trong Mị cứ chết dần mòn theo ngày tháng, nhu
cầu giao lưu với bên ngoài dường như bế tắc. Và Mị đã chọn
cái chết như một con người còn hơn là sống như trâu ngựa.
Nàng định dùng “nắm lá ngón” để kết liễu kiếp đọa đày của
mình. Thế nhưng, vì sợ liên lụy đến cha mẹ. nàng “ném nắm lá
ngón xuống đất” để tiếp tục sống dù trong đọa đày tủi nhục. Mị
giống như Thuý Kiều hai trăm năm trước, lựa chọn của Mị thực
chất là bán mình cứu cha. Đó là sự phản kháng dù tiêu cực
nhưng hết sức quyết liệt: lấy cái chết để phủ nhận cuộc sống
làm dâu gạt nợ.Và rồi cơn gío lành đã đến và ngọn lửa ngọn
lửa ham sống đã bùng lên lần thứ nhất trong câu chuyện này
từ một “đêm tình mùa xuân”. Đêm tình mùa xuân ngân lên như

một niềm thơ từ tiếng sáo dìu dặt gọi bạn tình nghe “thiết tha
bồi hồi”, làm xao động trái tim và cõi lòng Mị. Vâng ! Mùa xuân
tình yêu đã đến. Tác động của nắng xuân, màu sắc biến ảo của
hoa anh túc trên nương, của ánh trăng đêm hò hẹn, của tiếng
khèn, tiếng sáo miên man gọi bạn tình, như nguồn nhiệt lượng
thiêng liêng dội vào khoảng sâu thẳm tâm hồn Mị, sưởi ấm và
làm tan chảy tảng băng lạnh lẽo trong lòng Mị. Cõi lòng Mị ấm
dần lên, băng giá tan chảy và Mị hồi sinh. Những hạt mầm đầu
tiên của cảm xúc bắt đầu nảy nở: “Mị nghe tiếng sáo vọng lại,
thiết tha bổi hổi”. Nhận thức và nhu cầu được sống chảy lai
láng trong tâm hồn Mị và rồi vẻ đẹp sặc sỡ của “những chiếc
váy hoa phơi trên mõm đá xoè ra như cánh bướm” trong các
làng Mèo đỏ lọt vào mắt nàng. Ấn tượng về chiếc váy hoa đã
đánh thức như cầu làm đẹp của người thiếu phụ có gương mặt
buồn này. “Mị ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi”. Đó
là tiếng hát vang lên từ trong đáy sâu tâm hồn Mị - tiếng hát
của thanh xuân mà không có một thế lực cường quyền, thần
quyền nào có thể dập tắt được. Tiếng hát là sự kết tinh của
nhhững khát vọng cao đẹp nhất, có lẽ nhiều khi nó còn đẹp
hơn chính cả con người? Nhu cầu giao tiếp, giao cảm và nhu
cầu sống trở về với Mị. Thực tại đắng cay như địa ngục trần
gian nơi ô cửa sổ nhỏ trong nhà Thống lý Pá Tra với người
chồng tồi tệ là A Sử; còn một thực tại khác êm ả như thiên
đường tuổi trẻ dưới nắng xuân ngoài nương, dưới đêm trăng
hò hẹn, dìu dặt, miên man trong tiếng sáo gọi bạn tình làm náo
nức trái tim Mị. Quá khứ và thực tại đan chéo trong lòng, khiến
nàng xúc động mạnh khiến nàng có ý tưởng kỳ lạ “Mị lén lấy hũ
rượu, uống ừng ực từng bát”. thế nhưng có lẽ không phải Mị
đang uống rượu, mà đang uống những đắng cay của đời mình.
Quá khứ êm đềm trỗi dậy như dòng suối miên man chảy vào

miền ký ức ngọt ngào của thời thanh xuân” Có biết bao nhiêu
người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”. Tín hiệu cuộc sống,
niềm yêu đời, say đời trở lại đã đưa Mị tìm lại được ý niệm về
thời gian, Mị sống với thời gian quá khứ và từ đó nàng nhận ra
thới gian, không gian thực tại. “Nếu có nắm lá ngón trong tay
lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa”.
Thế đấy, ngay lúc thèm sống nhất, Mị lại muốn chết ngay. Mị
chọn khoảnh khắc hạnh phúc nhất để chết, vì chết lúc ấy người
ta dễ mang theo hạnh phúc và dễ bỏ khổ đau lại phía sau.
Nhưng “tiếng sáo gọi bạn yêu lửng lơ ngoài đường” đã thôi
thúc Mị “đến góc nhà, xắn một miếng mỡ. bỏ thêm vào đĩa đèn
cho sáng”. Người đọc đến chi tiết này đều xúc động vì căn
buồng âm u, tăm tối lạnh lẽo bao nhiêu năm tháng giam hãm
đời Mị bỗng chốc bừng sáng ánh đèn. Đóm sáng ấy thật ra là
ánh lửa ấm áp được thắp lên từ “đêm tình mùa xuân”, được
thắp lên từ cõi lòng tiềm tàng sức sống mãnh liệt của Mị. Hành
động này thôi thúc hành động khác và Mị quyết định đi theo
tiếng gọi của lòng mình: “Mị quấn lại tóc, với lấy cái váy hoa
sửa soạn đi chơi tết”. Có thể nói hành động “sửa soạn” này
như là một cuộc sửa soạn vượt ngục của một tù nhân không
cam số kiếp tù đày. Thế nhưng ngọn lửa ham sống của Mị đã bị
A Sử dập tắt một cách tàn bạo, Hắn thản nhiên lầm lì lấy dây,
lấy thắt lưng của hắn và cả tóc Mị để trói Mị lại. Có lẽ A Sử đã
hình dung được trong cái hành động muốn đi du xuân của Mị là
cả một sự thách thức ghê gớm, môt sự bùng lên, một sự nổi
loạn chống lại cái luật lệ hà khắc của gia đình hắn nói riêng và
cả cái xã hội phong kiến miền cao nói chung. Mị đang bị trói và
không hề phản ứng. Tô Hoài thật tinh tế và sâu sắc trong nghệ
thuật miêu tả tâm lí nhân vật. Vì lúc này, nhân vật Mị đang ngây
ngất trong thiện đường tuổi trẻ của dư âm đêm tình xuân. Bởi

thế sợi dây trói tàn khốc của cuộc đời thực, chưa thể làm kinh
động giấc mơ êm đềm của kẻ mộng du tội nghiệp. Đến khi
vùng bước đi, Mị mới cảm nhận sự đau nhức và Mị mới bị ném
trả lại với sự thực đắng cay, để rồi sáng mai Mị lại trở về với
kiếp con rùa lầm lũi trong xó cửa nhà Thống lí. Đó là sự tàn bạo
của xã hội phong kiến vùng cao trước Cách mạng. Cho đến
một ngày A Phủ xuất hiện trước mặt cũng với thân phận tôi
mọi, A Phủ vì đánh lại con quan nên làng phạt vạ, số phận lại
vào nhà Thống lí Pá Tra và thân phận không hơn gì Mị. A Phủ
để hổ vồ mất con bò và hậu quả hình phạt là bị trói đứng vào
cây cột suốt mấy đêm liền, A Phủ xuất hiện trước mặt Mị với
hình ảnh như thế. Đồng cảnh ngộ, cũng là người đi ở gạt nợ
cho nhà Thống lí Pá Tra, A Phủ bị trói mấy đêm rồi, nhưng đêm
nào cũng vậy, Mị đốt lửa sưởi, nhìn thấy A Phủ mà vẫn thản
nhiên vô cảm: “nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế
thôi, Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi, Mị chỉ biết còn ở với ngọn lửa”.
Tâm hồn cô khép kín, dường như sức sống cứ mòn dần, cạn
dần, nén lại và khô kiệt mất. Mị nhìn thấy dòng nước mắt của A
Phủ: “1 dòng nước mắt lấp lánh bò xuống 2 hõm má đã xám
đen lại”. Chính dòng nước mắt ấy đã làm rung chuyển cõi lòng
tưởng như đã đóng băng từ lâu của Mị chợt bùng lên, vỡ ra. Mị
nhớ lại và thương cho mình “ Mị cũng phải đứng thế kia, nhiều
lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết
lau đi đc”. Và ý thức phản kháng trong Mị trỗi dậy, vượt qua nỗi
sợ hãi. Nàng muốn A Phủ phải được sống. Còn Mị nàng chấp
nhận ở lại mà chết. Nỗi thương người dường như lớn hơn nỗi
thương thân: “ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà
nó rồi thì chỉ còn bíêt đợi ngày mà rũ sương ở đây thôi …
Người kia việc gì phải chết thế”. Thế rồi, Mị rón rén bước lại cắt
dây trói cho A Phủ, hàng động ấy đã trở nên cái mốc quan

trọng trong cuộc đời A Phủ và cũng chính cho Mị, “đi ngay ”
Chỉ hai tiếng khô khốc lạnh lùng ấy đã mở ra một chân trời rộng
lớn cho hai người. :A Phủ lại quật sức vùng lên, chạy”. Lúc này,
giữa ranh giới cái chết và sự sống, tự do và nô lệ, Mị cũng vụt
chạy hổn hển gọi: “A Phủ cho tôi đi ” Một tình yêu nảy nở từ
sự hy sinh và một tình yêu đáp lại từ sự đồng điệu của tâm
hồn, của khát vọng sống. Một cuộc giải phóng đời mình tuy là
tự phát nhưng thật sự đã diễn ra. A Phủ chợt hiểu: “Người đàn
bà chê chồng đó vừa cứu sống mình”. Và khúc hồi thanh của
tình yêu vang lên: “Đi với tôi”, có thể nói Mị đã giải thoát cho A
Phủ và tự giải phóng chính mình. Đó là sự vượt ngục tất yếu
để tìm đến tự do, cũng chính là nét độc đáo của ngòi bút Tô
Hoài: ngòi bút của chủ nghĩa nhân đạo, từ Mị ta đồng cảm, xót
thương cho thân phận đau khổ của người phụ nữ nghèo miền
núi, ta tin vào sức phản kháng, vào khả năng tự giải phóng để
được tự do và hạnh phúc của họ. Mị có một sức sống tiềm tàng
mãnh liệt, sức sống đó được bộc lộ ngày một mãnh mẽ và có ý
nghĩa tích cực hơn. Ban đầu Mị định dùng lá ngón tự tử- sức
phản kháng dù tiêu cực nhưng mạnh mẽ, lần thứ hai khi xuân
về, nghe tiếng sáo vọng, Mị muốn đi chơi xuân- hành động
phản kháng theo tiếng gọi của hạnh phúc. Và lần cắt dây trói, đi
theo A Phủ là đỉnh điểm của sức phản kháng trong Mị, cô vượt
qua cả nỗi sợ hãi vốn tồn tại trong mình từ rất lâu để tìm đến tự
do.
III. Tống kết:
1 Giá trị hiện thực:
- Miêu tả chân thực số phận nô lệ của đồng bào Tây
Bắc duới ách thống trị của bọn phong kiến và phơi
bày cản chất tàn bạo của bọn chúng.
- Diễn tả sinh động quá trình thức tỉnh, giác ngộ Cách

mạng của thế hệ thanh niên dân tộc Mèo.
2. Giá trị nhân đạo:
Từ các nội dung hiện thực trên , truyện ngắn Vợ Chồng A Phủ
mang giá trị nhân đạo lớn lao :
- Lòng yêu thương , niềm đồng cảm sâu sắc đối với
thân phận đau khổ của người lao độngt nghèo miền
núi .
- Thái độ căm thù mãng liệt các thế lực tàn bạo ,
chà đạp lên quyền sống con người .
- Niềm tin vào sức sống mãng liệt và khả năng
Cách mạng của nhân dân Tây Bắc .
3.Giá trị nghệ thuật :
a. Nghệ thuật kể chuyện , dựng cảnh tạo không khí , các chi
tiết được chọn công phu đan cài nhau một cách tự nhiên .
b. Nghệ thuật tả cảnh đặc sắc :
- Cảnh thiên nhiên thơ mộng đưộc miêu tả bằng ngôn ngữ giàu
chất thơ và chất tạo hình ( cảnh mùa xuân về trên miền núi
Hồng Ngài )
- Cảnh miền núi với những nét sinh hoạt phong tục riêng rất
chân thật , sinh động , vận dụng sáng tạo lối nói miền núi để
miêu tả rất hồn nhiên , giàu hình ảnh ( Cảnh đêm tình mùa
xuân , cảnh xử kiện , cảnh cướp vợ cúng trình ma )
c. Nghệ thuật miêu tả tâm lý và phát triển tính cách nhân vật
sinh động .
- Mị : Tính cách tuy phát triển theo qui luật nhưng vẫn đầy bất
ngờ .
+ Nhà văn ít tả hành động mà chủ yếu khắc họa tâm tư , nhiều
khi mới là nhiều ý nghĩ chập chờn trong tiềm thức nhân vật
hiện lên chân thật .
+ Giọng kể nhà văn có lúc hòa vào dòng tâm tư nhân vật đã vẽ

nên đủ lọai cung bậc tình cảm của Mị : lúc tự tin , lúc ai oán ,
lúc giận dỗi , lúc uất ức . lúc quả quyết .
- A Phủ : gan góc , bộc trực táo bạo được nhà văn thể hiện
bằng hành động , công việc và những lời thoại giản đơn .
4. Chủ đề:
- phản ánh số phận nô lệ của người dân miền núi Tây Bắc
dưới chế độ thực dân phong kiến và ý thức đòi quyền
sống, khát vọng hạnh phúc của những người nông dân
nghèo vùng cao trước CMTT.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×