Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

CHI TIÊU CÔNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CHO ĐẾN PHỨC TẠP NHẤT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.04 KB, 27 trang )

Quản lý chi tiêu công GVHD: PGS.TS Nguyễn Hòa Nhân
LỜI MỞ ĐẦU
Chiến lược công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước đã đạt được những kết quả nhất
định trong quá trình chuyển đổi kép: từ một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung mang nặng
tính hành chính chuyển hẳn sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; từ
một xã hội nông nghiệp lạc hậu chuyển sang một xã hội công nghiệp. Sự phát triển đó đòi
hỏi Nhà nước cần phải đổi mới chính sách tài chính trong đó có chính sách quản lý chi
tiêu công để phân bổ và sử dụng các nguồn lực tài chính của xã hội cá hiệu quả và hiệu
lực. Chi tiêu công gắn liền với chức năng quản lý của nhà nước và có nhiều lĩnh vực kinh
tế, chính trị, xã hội. Quản lý có hiệu quả chi tiêu công được đặt ra trong bối cảnh nguồn
lực tài chính mỗi quốc gia có sự giới hạn nhất định nhưng phải làm như thế nào để thỏa
mãn tốt nhất những nhu cầu cần thiết để đạt được mục tiêu quản lý kinh tế, chính trị xã
hội của đất nước. Hơn nữa, trên tiến trình hội nhập kinh tế thế giới, vấn đề quản lý chi tiêu
công một cách hợp lý là yêu cầu cấp thiết đối với Việt nam.
Nhóm 8
1
Quản lý chi tiêu công GVHD: PGS.TS Nguyễn Hòa Nhân
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1.1. Khái niệm Ngân sách nhà nước
Ngân sách nhà nước, hay Ngân sách chính phủ, là một thành phần trong hệ
thống tài chính. Thuật ngữ "Ngân sách nhà nước" được sử dụng rộng rãi trong đời
sống kinh tế, xã hội ở mọi quốc gia. Tuy sự ra đời của ngân sách Nhà nước đã khá lâu,
song quan niệm về ngân sách nhà nước lại chưa thống nhất, người ta đã đưa ra nhiều
định nghĩa về ngân sách nhà nước tùy theo các trường phái và các lĩnh vực nghiên
cứu. Các nhà kinh tế Nga quan niệm: Ngân sách nhà nước là bảng liệt kê các khoản
thu, chi bằng tiền trong một giai đoạn nhất định của quốc gia. Luật Ngân sách Nhà
nước đã được Quốc hội Việt Nam thông qua ngày 16/12/2002 định nghĩa: Ngân sách
Nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các
chức năng và nhiệm vụ của nhà nước. Ngân sách nhà nước bao gồm ngân sách trung
ương và ngân sách địa phương. Ngân sách trung ương là ngân sách của các bộ, cơ


quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các cơ quan khác ở trung ương. Ngân
sách địa phương bao gồm ngân sách của đơn vị hành chính các cấp có Hội đồng nhân
dân và Ủy ban nhân dân.
1.2. Bản chất cuả Ngân sách nhà nước Việt nam
Nhóm 8
2
Quản lý chi tiêu công GVHD: PGS.TS Nguyễn Hòa Nhân
Ngân sách nhà nước là mối quan hệ kinh tế-xã hội giữa Nhà nước với các chủ
thể kinh tế khác trong nền kinh tế, thông qua việc tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ
tiền tệ tập trung của nhà nước.
Từ khái niệm bản chất trên, ta có thể rút ra các đặc điểm sau:
Thứ nhất: Hoạt động thu-chi ngân sách Nhà nước và gắn liền với việc thực
hiện các nhiệm vụ kinh tế-xã hội của Nhà nước.
Thứ hai: Mọi hoạt động thu-chi của Ngân sách nhà nước đều phải dựa trên cơ
sở pháp luật của Nhà nước. Ví dụ như: pháp lệnh, chế độ, quy định về huy động vào
ngân sách và chi tiêu Ngân sách nhà nước.
Thứ ba: Quỹ Ngân sách nhà nước được hình thành thông qua quá trình phân
phối lại dưới nhiều hình thức, trong đó thuế là hình thức chủ yếu và phổ biến nhất.
Thứ tư: Đằng sau các hoạt động thu-chi Ngân sách nhà nước là các quan hệ
kinh tế mà trước hết là quan hệ lợi ích kinh tế giữa Nhà nước với các chủ thể kinh tế -
xã hội.
1.3. Vai trò của Ngân sách nhà nước trong quá trình phát triển nền kinh tế
- xã hội của các quốc gia
1.3.1. Điều tiết trong kinh tế, thúc đẩy phát triển kinh tế
Ngân sách nhà nước là công cụ định hướng hình thành cơ cấu kinh tế mới, kích
thích phát triển sản xuất kinh doanh và chống độc quyền.
Trước hết, Chính phủ sẽ hướng hoạt động của các chủ thể trong nền kinh tế đi
vào quỹ đạo mà chính phủ đã hoạch định để hình thành cơ cấu kinh tế tối ưu, tạo điều
kiện cho nền kinh tế phát triển ổn định và bền vững.
Thông qua hoạt động chi Ngân sách, Nhà nước sẽ cung cấp kinh phí đầu tư cho

cơ sở kết cấu hạ tầng, hình thành các doanh nghiệp thuộc các ngành then chốt trên cơ
sở đó tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và phát triển các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế (có thể thấy rõ nhất tầm quan trọng của điện lực,
viễn thông, hàng không đến hoạt động kinh doanh của các Doanh nghiệp). Bên cạnh
đó, việc cấp vốn hình thành các doanh nghiệp Nhà nước là một trong những biện pháp
Nhóm 8
3
Quản lý chi tiêu công GVHD: PGS.TS Nguyễn Hòa Nhân
căn bản để chống độc quyền và giữ cho thị trường khỏi rơi vào tình trạng cạnh tranh
không hoàn hảo. Và trong những điều kiện cụ thể, nguồn kinh phí trong ngân sách
cũng có thể được sử dụng để hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh nghiệp, đảm bảo
tính ổn định về cơ cấu hoặc chuẩn bị cho việc chuyển sang cơ cấu mới hợp lý hơn.
Thông qua hoạt động thu, bằng việc huy động nguồn tài chính thông qua thuế, ngân
sách nhà nước đảm bảo thực hiện vai trò định hướng đầu tư, kích thích hoặc hạn chế
sản xuất kinh doanh.
1.3.2. Giải quyết các vấn đề xã hội
Trợ giúp trực tiếp dành cho những người có thu nhập thấp hay có hoàn cảnh
đặc biệt như chi về trợ cấp xã hội, trợ cấp gián tiếp dưới hình thức trợ giá cho các mặt
hàng thiết yếu, các khoản chi phí để thực hiện chính sách dân số, chính sách việc làm,
chống mù chữ, hỗ trợ đồng bào bão lụt.
1.3.3. Góp phần ổn định thị trường, chống lạm phát, bình ổn giá cả
thị trường hàng hoá
Nhà nước chỉ điều tiết những mặt hàng quan trọng, những mặt hàng mang tính
chất chiến lược. Cơ chế điều tiết thông qua trợ giá, điều chỉnh thuế suất thuế xuất nhập
khẩu, dự trữ quốc gia. Thị trường vốn, sức lao động: thông qua phát hành trái phiếu và
chi tiêu của chính phủ. Kiềm chế lạm phát: cùng với ngân hàng trung ương với chính
sách tiền tệ thích hợp Ngân sách nhà nước góp phần điều tiết thông qua chính sách
thuế và chi tiêu của chính phủ.
1.4. Các hoạt động chính của Ngân sách nhà nước
1.4.1. Thu và chi Ngân sách nhà nước:

a. Thu Ngân sách nhà nước
Đứng về phương diện pháp lý, thu Ngân sách nhà nước bao gồm những khoản
tiền Nhà nước huy động vào ngân sách để thỏa mãn nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Về
mặt bản chất, thu Ngân sách nhà nước là hệ thống những quan hệ kinh tế giữa Nhà
nước và xã hội phát sinh trong quá trình Nhà nước huy động các nguồn tài chính để
hình thành nên quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước nhằm thỏa mãn các nhu cầu chi tiêu
Nhóm 8
4
Quản lý chi tiêu công GVHD: PGS.TS Nguyễn Hòa Nhân
của mình. Thu Ngân sách nhà nước chỉ bao gồm những khoản tiền Nhà nước huy động
vào ngân sách mà không bị ràng buộc bởi trách nhiệm hoàn trả trực tiếp cho đối tượng
nộp. Theo Luật Ngân sách nhà nước hiện hành, nội dung các khoản thu Ngân sách nhà
nước bao gồm:
o Thuế, phí, lệ phí do các tổ chức và cá nhân nộp theo quy định của
pháp luật;
o Các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước:
o Lợi tức từ vốn góp của Nhà nước vào các cơ sở kinh tế;
o Tiền thu hồi vốn của Nhà nước tại các cơ sở kinh tế;
o Thu hồi tiền cho vay của Nhà nước (cả gốc và lãi).
o Thu từ hoạt động sự nghiệp;
o Thu hồi quỹ dự trữ Nhà nước;
o Tiền sử dụng đất; thu từ hoa lợi công sản và đất công ích;
o Các khoản huy động đóng góp của các tổ chức, cá nhân để đầu tư
xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng cơ sở;
o Các khoản đóng góp tự nguyện của các tổ chức, cá nhân ở trong
và ngoài nước;
o Các khoản di sản Nhà nước được hưởng;
o Thu kết dư ngân sách năm trước;
o Tiền bán hoặc cho thuê tài sản thuộc sở hữu Nhà nước tại các đơn
vị hành chính, sự nghiệp;

o Các khoản tiền phạt, tịch thu;
o Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật;
o Các khoản viện trợ không hoàn lại bằng tiền, bằng hiện vật của
Chính phủ các nước, các tổ chức, cá nhân ở nước ngoài;
Nhóm 8
5
Quản lý chi tiêu công GVHD: PGS.TS Nguyễn Hòa Nhân
o Các khoản vay trong nước, vay nước ngoài của Chính phủ để bù
đắp bội chi và khoản huy động vốn đầu tư trong nước của tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương (gọi chung là tỉnh) quy định tại khoản 3 Điều 8 của Luật
Ngân sách Nhà nước được đưa vào cân đối ngân sách.
Cần lưu ý là không tính vào thu Ngân sách nhà nước các khoản thu mang tính
chất hoàn trả như vay nợ và viện trợ có hoàn lại. Vì thế, các văn bản hướng dẫn Luật
Ngân sách nhà nước (Nghị định 60/2003/NĐ-CP ngày 06/6/2003 của Chính phủ và
Thông tư 59/2003/TT-BTC ngày 23/6/2003 của Bộ Tài chính) chỉ tính vào thu Ngân
sách nhà nước các khoản viện trợ không hoàn lại; còn các khoản viện trợ có hoàn lại
thực chất là các khoản vay ưu đãi không được tính vào thu Ngân sách nhà nước .
Căn cứ vào tính chất sử dụng của các khoản thu, thu ngân sách nhà nước chia
làm 2 loại : thu trong cân đối ngân sách và thu để bù đắp thâm hụt ngân sách.
* Thu trong cân đối ngân sách
- Thuế: đây là hình thức cổ truyền được sử dụng từ trước đến nay để tạo nguồn
thu cho ngân sách nhà nước. Tỉ lệ đóng góp của thuế vào ngân sách nhà nước luôn ở
mức cao. Chẳng hạn như các nước ASEAN có tỉ lệ thuế trong thu thường xuyên của
ngân sách rất cao. Ở Việt Nam, nguồn thu ngân sách nhà nước chủ yếu là nguồn thu từ
thuế. Mặt khác nếu so sánh tỉ lệ thuế động viên vào ngân sách Nhà nước từ GDP của
Việt Nam so với những nước thành viên ASEAN. tỉ lệ này ở nước ta cũng cao nhất.
- Phí và lệ phí : tuy chiếm tỉ lệ nhỏ trong tổng thu ngân sách nhà nước, song vẫn
được huy động và khai thác nguồn thu đưa vào ngân sách nhà nước nhằm đáp ứng nhu
cầu chi tiêu ngày càng tăng của Nhà nước.
- Thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước: khoản thu này phản ánh hoạt động

kinh tế đa dạng của Nhà nước. Nhà nước có thể sử dụng các khoản thu này để xây
dựng các công trình công cộng y tế, giáo dục, đường sá, nhà ở. Tiền thu từ hoạt động
kinh tế của Nhà nước sẽ là phần đóng góp quan trọng trong giai đoạn trước mắt để
Nhà nước thực hiện chức năng quản lý của mình.
Nhóm 8
6
Quản lý chi tiêu công GVHD: PGS.TS Nguyễn Hòa Nhân
- Viện trợ không hoàn lại : bao gồm môt phần vốn ODA (chiếm khoản
25%) và toàn bộ khoản viện trợ của các tổ chức phi Chính phủ (NGO ) để phục vụ cho
đầu tư cộng cộng ; giáo dục, y tế, giao thông Trong tương lai, khoản viện trợ không
hoàn lại này có xu hướng giảm dần. Do đó, Nhà nước cần tranh thủ tối đa nguồn vốn
này bằng việc cải tiến các khâu điều tra và quản lý để giải ngân nhanh hơn các chương
trình ODA, và cần quan tâm nhiều hơn đến việc quản lý, sử dụng nguồn vốn này có
hiệu quả.
Như vậy toàn bộ khoản thu trên sẽ là khoản ổn định và thường xuyên của ngân
sách nhà nước. Nhà nước sử dụng nguồn thu này để chi cho những hoạt động quản lý
thường xuyên và chi trả nợ của Nhà nước. Khoản chi này tuy không trực tiếp làm tăng
thêm giá trị tổng sản phẩm, nhưng rất cần thiết cho sự phát triển xã hội. Theo Luật
Ngân Sách Nhà nước qui định là toàn bộ khoản thu trong cân đối này sẽ tài trợ cho các
loại chi nói trên, phần còn lại sẽ được dùng cho chi đầu tư phát triển kinh tế. Đây
chính là mức tiết kiệm của ngân sách nhà nước. Nếu số thu này không đủ cho chi
thường xuyên thì cương quyết cắt giảm chi. Do đó, có thể nói thông qua nguồn thu
này, Nhà nước đã tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển tốt nhất.
* Thu để bù đắp thâm hụt ngân sách
- Các khoản vay nợ của Chính phủ gồm có vay trong nước và vay ngoài nước.
Theo Luật Ngân Sách của nước ta ban hành năm 1996, qui định là Nhà nước sẽ dùng
khoản tiết kiệm của ngân sách để chi cho đầu tư phát triển kinh tế, nếu không đủ Nhà
nước sẽ đi vay để bù đắp thâm hụt ngân sách, không sử dụng khoản vay nợ cho chi
thường xuyên. Vay của Nhà nước bao gồm vay trong nước và vay nước ngoài.Vay
trong nước được thực hiện bởi việc phát hành công trái dưới các hình thức : tín phiếu

kho bạc, trái phiếu kho bạc, và trái phiếu công trình. Vay nợ nước ngoài được thực
hiện dưới các hình thức như: hiệp ước hay hiệp định vay mượn giữa hai Chính phủ.
Hiệp định vay mượn giữa Chính phủ với các tổ chức tài chính tiền tệ thế giới hoặc
phát hành trái phiếu ra nước ngoài. Vay nợ nước ngoài có 2 loại: vay ưu đãi với lãi
suất rất thấp, thời gian hoàn vốn khá dài; vay thương mại với lãi suất cao hơn, thời
Nhóm 8
7
Quản lý chi tiêu công GVHD: PGS.TS Nguyễn Hòa Nhân
gian hoàn vốn cũng dài. Đối với khoản vay trong nước, nếu Nhà nước vay quá nhiều
sẽ ảnh hưởng đến mức tiết kiệm và tích luỹ của các thành phần kinh tế khác trong nền
kinh tế quốc dân. Do đó đầu tư của các thành phần này cũng có thể giảm. Hơn nữa,
nếu Chính phủ vay trong nước nhiều, lãi suất có xu hướng gia tăng, giá cả hàng hoá
tăng, lạm phát có nguy cơ xảy ra.
- Phát hành tiền: trước năm 1992, để bù đắp thâm hụt ngân sách Nhà nước còn
sử dụng hình thức này. Tuy nhiên, đối với tình trạng sản xuất yếu kém như nước ta
trước đây việc chọn giải pháp này thường làm cho nền kinh tế không ổn định, do lạm
phát có xu hướng gia tăng. Vì thế đối với nước ta từ năm 1993 đến nay không phát
hành tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách. Như vậy để đầu tư phát triển kinh tế, trong
khi nguồn thu ngân sách trong cân đối không đáp ứng đủ, Nhà nước sử dụng biện pháp
vay nợ hoặc phát hành tiền để bù đắp. Trong điều kiện hiện nay việc phát hành tiền bị
hạn chế nhiều. Do đó, nếu nguồn vay được sử dụng có hiệu quả thì tổng sản phẩm
quốc nội tăng đáng kể. Tuy nhiên để có thể thực hiện tốt chức năng mở đường và tạo
điều kiện cho các thành phần kinh tế khác cùng tham gia phát triển kinh tế. Đồng thời
để có thể kiểm soát được các mặt hoạt động của nền kinh tế, Nhà nước cần khống chế
tỷ lệ vay nợ bù đắp thâm hụt ngân sách ở một mức nhất định nào đó, chẳng hạn mức
khống chế hiện nay là dưới 3,5% GDP.
Toàn bộ khoản thu ngân sách nói trên đã tác động mạnh mẽ đến sự thay đổi
của tổng sản phẩm quốc nội hay sự tăng trưởng kinh tế một cách gián tiếp hoặc trực
tiếp. Tuy nhiên, việc huy động vốn vào ngân sách nhà nước chỉ nên huy động ở mức
vừa phải, hợp lý để Nhà nước vẫn thực hiện được chức năng quản lý kinh tế xã hội.

Đồng thời còn thực hiện vai trò động viên các thành phần kinh tế khác cùng tham gia
phát triển sản xuất, đưa đất nước phát triển một cách vững chắc nhất.
b. Chi Ngân sách nhà nước.
Chi ngân sách nhà nước là quá trình phân phối, sử dụng quỹ ngân sách nhà
nước theo những nguyên tắc nhất định cho việc thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nước.
Nhóm 8
8
Quản lý chi tiêu công GVHD: PGS.TS Nguyễn Hòa Nhân
Thực hiện chi ngân sách nhà nước chính là việc cung cấp các phương tiện tại
chính cho các nhiệm vụ của nhà nước. Song việc cung cấp này có những đặc thù riêng,
đó là:
Xét về mặt tính chất, phần lớn các khoản chi ngân sách nhà nước đều là các
khoản cấp phát không hoàn trả trực tiếp và mang tính bao cấp. Chính vì vậy các nhà
quản lý tài chính cần có sự phân tích, tính toán trên nhiều khía cạnh trước khi đưa ra
các quyết định chi tiêu để tránh được những lãng phí không cần và nâng cao hiệu quả
chi tiêu ngân sách nhà nước.
Tuỳ theo yêu cầu của việc phân tích, đánh giá và quản lý ngân sách trong từng
thời kỳ người ta có thể phân chia các khoản chi ngân sách theo nhiều tiêu thức khác
nhau. Theo chức năng nhiệm vụ của nhà nước, nội dung chi ngân sách nhà nước gồm:
• Chi kiến thiết kinh tế.
• Chi văn hoá – xã hội.
• Chi quản lý hành chính.
• Chi an ninh - quốc phòng.
• Các khoản chi khác.
Theo tính chất kinh tế, chi ngân sách nhà nước được chia các nội dung sau đây:
 Chi thường xuyên về:
o Các hoạt động sự nghiệp giáo dục, đào tạo, y tế, xã hội,
văn hoá, thông tin, thể dục thể thao, sự nghiệp khoa học, công nghệ và
môi trường và các sự nghiệp khác;
o Các hoạt động sự nghiệp kinh tế;

o Quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội;
o Hoạt động của các cơ quan nhà nước;
o Hoạt động của Đảng cộng sản Việt Nam;
o Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Liên đoàn lao
động Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Cựu chiến
Nhóm 8
9
Quản lý chi tiêu công GVHD: PGS.TS Nguyễn Hòa Nhân
binh Việt Nam, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội nông dân Việt
Nam;
o Trợ giá theo chính sách của Nhà nước;
o Các chương trình quốc gia;
o Hỗ trợ quỹ Bảo hiểm xã hội theo quy định của Chính phủ;
o Trợ cấp cho các đối tượng chính sách xã hội;
o Tài trợ cho các tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp theo
quy định của pháp luật;
o Trả lãi tiền do Nhà nước vay;
o Viện trợ cho các Chính phủ và tổ chức nước ngoài;
o Các khoản chi khác theo quy định của pháp luật.
 Chi đầu tư phát triển:
o Đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế xã
hội không có khả năng thu hồi vốn;
o Đầu tư và hỗ trợ vốn cho các Doanh nghiệp nhà nước; góp
vốn cổ phần, liên doanh vào các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực cần thiết
có sự tham gia của Nhà nước theo quy định của pháp luật;
o Chi cho Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia và các Quỹ hỗ trợ phát
triển đối với các chương trình, Dự án phát triển kinh tế;
o Dự trữ nhà nước;
o Cho vay của Chính phủ để đầu tư phát triển.
o Chi trả nợ gốc tiền do Nhà nước vay.

o Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính.
Ngoài ra, còn có thể phân loại chi ngân sách nhà nước theo các ngành kinh tế,
theo tính chất của quá trình tái sản xuất xã hội.
1.4.2. Tổ chức hệ thống Ngân sách nhà nước
Nhóm 8
10
Quản lý chi tiêu công GVHD: PGS.TS Nguyễn Hòa Nhân
Hệ thống ngân sách nhà nước là tổng thể ngân sách của các cấp chính quyền
nhà nước. Ở nước ta với mô hình nhà nước thống nhất nên hệ thống ngân sách được tổ
chức theo hai cấp: ngân sách trung ương và ngân sách của các cấp chính quyền địa
phương, trong đó ngân sách địa phương bao gồm các cấp ngân sách: ngân sách thành
phố (hay tỉnh), ngân sách quận (huyện), ngân sách xã (phường).
Hệ thống ngân sách nhà nước Việt Nam được tổ chức và quản lý thống nhất
theo nguyên tắc tập trung và dân chủ, thể hiện những đặc điểm sau đây:
Tính thống nhất: đòi hỏi các khâu trong hệ thống ngân sách phải hợp thành một
thể thống nhất, biểu hiện các cấp ngân sách có cùng nguồn thu, cùng định mức chi tiêu
và cùng thực hiện một quá trình ngân sách.
Tính tập trung: thể hiện ngân sách trung ương giữ vai trò chủ đạo, tập trung các
nguồn thu lớn và các nhiệm vụ chi quan trọng. Ngân sách cấp dưới chịu sự chi phối
của ngân sách cấp trên và được trợ cấp từ ngân sách cấp trên nhằm đảm bảo cân đối
của ngân sách cấp mình.
Tính dân chủ: Dự toán và quyết toán ngân sách phải được tổng hợp từ ngân
sách cấp dưới, đồng thời mỗi cấp chính quyền có một ngân sách và được quyền chi
phối ngân sách cấp mình.
Đảm bảo tính phủ hợp giữa cấp Ngân sách với cấp chính quyền Nhà nước.
Căn cứ vào Luật Ngân sách nhà nước quy định, Ngân sách nhà nước bao gồm
ngân sách trung ương và ngân sách các cấp chính quyền địa phương (ngân sách địa
phương).
Ngân sách các cấp chính quyền địa phương gồm:
- Ngân sách cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là ngân sách

cấp tỉnh);
- Ngân sách cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là ngân
sách cấp huyện);
- Ngân sách cấp xã, phường, thị trấn (gọi chung là ngân sách cấp xã).
1.4.3. Thâm hụt ngân sách nhà nước
Nhóm 8
11
Quản lý chi tiêu công GVHD: PGS.TS Nguyễn Hòa Nhân
Thâm hụt ngân sách nhà nước, hay còn gọi là bội chi ngân sách nhà nước, là
tình trạng khi tổng chi tiêu của ngân sách nhà nước vượt quá các khoản thu "không
mang tính hoàn trả" của ngân sách nhà nước.
Để phản ánh mức độ thâm hụt ngân sách người ta thường sử dụng chỉ tiêu tỉ lệ
thâm hụt so với GDP hoặc so với tổng số thu trong ngân sách nhà nước.
Thâm hụt ngân sách nhà nước có thể ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến nền
kinh tế một nước tùy theo tỉ lệ thâm hụt và thời gian thâm hụt. Nói chung nếu tình
trạng thâm hụt ngân sách nhà nước với tỷ lệ cao và trong thời gian dài sẽ gây ảnh
hưởng tiêu cực.
1.4.4. Năm ngân sách và chu trình quản lý ngân sách nhà nước
Năm ngân sách (hay còn gọi là năm tài chính, tài khoá), là giai đoạn mà trong
đó dự toán thu – chi tài chính của nhà nước đã được phê chuẩn có hiệu lực thi hành.
Hiện nay ở tất cả các nước trên thế giới, thời gian cho một năm ngân sách bằng
với thời gian của một năm dương lịch (bằng với 12 tháng). Tuy nhiên, do điều kiện
kinh tế, chính trị, xã hội ở mỗi nước khác nhau nên thời điểm bắt đầu và kết thúc của
một năm ngân sách được tính từ ngày mùng 1 tháng 1 đến ngày 31 tháng 12 năm
dương lịch.
Trong chu trình ngân sách, lập ngân sách là khâu khởi đầu, có ý nghĩa quyết
định đến toàn bộ các khâu của chu trình quản lý ngân sách. Lập ngân sách thực chất là
dự toán các khoản thu chi của ngân sách trong một năm ngân sách. Việc dự toán thu
chi đúng đắn, có cơ sở khoa học, cơ sở thực tiễn sẽ có tác dụng quan trọng đối với kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội nói chung và thực tiễn ngân sách nói riêng.

Sau khi ngân sách được phê chuẩn và năm ngân sách bắt đầu, việc thực hiện
ngân sách được triển khai. Nội dung của quá trình này là tổ chức thu Ngân sách nhà
nước và bố trí cấp ngân sách nhà nước cho các nhu cầu đã được phê chuẩn. Việc chấp
hành ngân sách nhà nước thuộc về tất cả các pháp nhân và thể nhân dưới sự điều hành
của chính phủ. Trong đó, Bộ Tài chính có vai trò quan trọng.
Nhóm 8
12
Quản lý chi tiêu công GVHD: PGS.TS Nguyễn Hòa Nhân
Mục tiêu đặt ra trong việc tổ chức chấp hành dự toán thu là không ngừng bồi
dưỡng, tăng nguồn thu, tìm mọi biện pháp động viên mà Quốc hội đã phê chuẩn, đáp
ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước đã hoạch định.
Đối với tổ chức chấp hành dự toán chi, mục tiêu đặt ra là đảm bảo đầy đủ và kịp
thời nguồn kinh phí của ngân sách cho hoạt động của bộ máy nhà nước và thực hiện
các chương trình kinh tế - xã hội đã được hoạch định trong năm kế hoạch một cách tiết
kiệm và hiệu quả.
Khâu cuối cùng trong chu trình trong chu trình quản lý ngân sách nhà nước là
khâu quyết toán ngân sách nhà nước. Thông qua quyết toán ngân sách sẽ thấy được kết
quả toàn diện về hoạt động kinh tế - xã hội của Nhà nước, hoạt động Ngân sách nhà
nước với tư cách là công cụ vĩ mô của nhà nước trong thời gian qua, từ đó rút kinh
nghiệm cần thiết trong điều hành ngân sách nhà nước. Do đó, yêu cầu của quyết toán
Ngân sách nhà nước phải đảm bảo chính xác, tính trung thực và kịp thời.
Khi phân cấp quản lý ngân sách cần phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản sau:
 Phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế xã hội của Nhà nước;
 Ngân sách trung ương giữ vai trò chủ đạo, tập trung các nguồn
lực cơ bản để bảo đảm thực hiện các mục tiêu trọng yếu trên phạm vi cả nước;
 Phân định rõ nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa các cấp và ổn định tỷ
lệ phần trăm (%) phân chia các khoản thu, số bổ sung từ ngân sách cấp trên cho
ngân sách cấp dưới từ 3 đến 5 năm. Hàng năm, trong trường hợp có trượt giá,
chỉ xem xét điều chỉnh tăng số bổ sung cho ngân sách cấp dưới theo một phần
trượt giá;

 Kết thúc mỗi kỳ ổn định, căn cứ khả năng thu và yêu cầu chi,
Chính phủ, Uỷ ban nhân dân tỉnh thực hiện việc điều chỉnh tỷ lệ phần trăm (%)
phân chia các khoản thu giữa ngân sách các cấp và mức bổ sung từ ngân sách
cấp trên cho ngân sách cấp dưới.
Nhóm 8
13
Quản lý chi tiêu công GVHD: PGS.TS Nguyễn Hòa Nhân
Chương 2
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHI TIÊU CÔNG
2.1. Khái niệm, đặc điểm chi tiêu công.
2.1.1. Khái niệm
Chi tiêu công là một phạm trù kinh tế tồn tại khách quan với sự tồn tại của Nhà
Nước. Qua các thời kỳ kinh tế - xã hội,quan điểm về chi tiêu công cũng có những thay
đổi nhất định. Trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, theo các nhà kinh tế
học cổ điển, chi tiêu công là chi tiêu công của cơ quan pháp nhân công quyền. Theo
đó, hoạt động của cơ quan này không mang lại lợi ích cho quốc gia về kinh tế, chi tiêu
là những khoản chi mang tính chất tiêu dùng. Trong khi đó, các nhà kinh tế hiện đại
cho rằng, trong nền kinh tế thị trường hiện đại, chi tiêu công là công cụ tài chính của
Nhà nước để trang trải và đảm bảo các hoạt động của bộ máy quản lý, giữ gìn an ninh,
Nhóm 8
14
Quản lý chi tiêu công GVHD: PGS.TS Nguyễn Hòa Nhân
trật tự xã hội và sự toàn vẹn của đất nước; can thiệp vào các hoạt động kinh tế nhằm
ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, bảo vệ lợi ích chung cho các chủ thể xã hội.
Quan sát hiện tượng bên ngoài của hoạt động tài chính công, ta thấy: Chi tiêu
công là khoản chi tiêu công của các cấp chính quyền, các đơn vị quản lý hành chính,
các đơn vị sự nghiệp được sự kiểm soát và tài trợ bởi Chính phủ. Như vậy, về cơ bản
chi tiêu công thể hiện các khoản chi của Ngân sách Nhà nước hàng năm được Quốc
hội thông qua. Hoạt đông chi tiêu công của các cấp chính quyền và các đơn vị hữu
quan của Nhà nước chính là quá trình mua các yếu tố đầu vào để cung cấp các hàng

hóa dịch vụ công cho xã hội nhằm thực hiện các chức năng của Nhà nước.
Về mặt bản chất: Chi tiêu công là quá trình phân phối và sử dụng các quỹ tài
chính công nhằm thực hiện các chức năng nhiệm vụ của Nhà nước.
2.1.2. Đặc điểm chi tiêu công
- Đặc điểm nổi bật của chi tiêu công là nhằm phục vụ lợi ích cho cộng đồng
dân cư ở các vùng hay ở phạm vi quốc gia.
- Thứ đến, chi tiêu công luôn gắn liền với bộ máy Nhà nước và những nhiệm
vụ kinh tế, chính trị, xã hội mà Nhà nước thực hiện
- Các khoản chi tiêu công hoàn toàn mang tính cộng đồng.
- Các khoản chi tiêu công mang tính không hoàn trả hay hoàn trả không trực
tiếp và thể hiện ở chỗ không phải mọi khoản thu với số lượng và những địa chỉ cụ thể
đều được hoàn trả trực tiếp hình thức các khoản chi tiêu công.
2.2. Nội dung chi tiêu công
Chi tiêu công diễn ra trên phạm vi rộng dưới nhiều hình thức. Trong quản lý
tài chính, chi tiêu công được chia làm 2 nội dung lớn: chi thường xuyên và chi đầu tư
phát triển.
Nhóm 8
15
Quản lý chi tiêu công GVHD: PGS.TS Nguyễn Hòa Nhân
2.2.1. Chi thường xuyên
Chi thường xuyên là quá trình phối, sử dụng quỹ tiền tệ của Nhà nước để đáp
ứng các nhu cầu chi gắn liền với việc thực hiện các nhiệm vụ thường xuyên của nhà
nước về quản lý kinh tế xã hội.
Chi thường xuyên là những khoản chi mang những đặc trưng cơ bản là: mang
tính ổn định, mang tính chất tiêu dùng xã hội, và phạm vi, mức độ chi thường xuyên
gắn chặt với các cơ cấu tổ chức bộ máy Nhà nước trong việc cung ứng các hàng hóa
công cộng.
Các khoản chi thường xuyên thường được tập hợp theo lĩnh vực và nội dung
chi, bao gồm 4 khoản cho cơ bản sau:
- Chi sự nghiệp văn hóa - xã hội: là khoản chi mang tính chất tiêu dùng xã

hội, liên quan đến sự phát triển đời sống tinh thần của các tầng lớp dân cư.
- Chi sự nghiệp kinh tế của Nhà nước: việc thành lập các đơn vị sự nghiệp
kinh tế để phục vụ cho hoạt động của mỗi ngành và phục vụ chung cho toàn bộ nền
kinh tế quốc dân. Các hoạt động sự nghiệp do nhà nước thực hiện để tạo điều kiện
thuận lợi cho các hoạt động của các thành phần kinh tế.
- Chi quản lý hành chính Nhà nước: đây là khoản chi nhằm đảm bảo sự hoạt
động của hệ thống các cơ quan hành chính Nhà nước, và bao quát 5 lĩnh vực cơ bản
sau: chi về hoạt động của cơ quan quyền lực Nhà nước, của hệ thống các cơ quan pháp
luật, về hoạt động vĩ mô nền kinh tế xã hội cho hệ thống các cơ quan quản lý kinh tế
xã hội và các cấp chính quyền, về hoạt động của các cơ quan Đảng cộng sản Việt nam
ở các cấp, về hoạt động của của các tổ hức chính trị xã hội.
- Chi quốc phòng an ninh và trật tự xã hội: đây là khoản chi thường xuyên đặc
biệt quan trọng, được chia làm 2 bộ phận: các khoản chi cho quốc phòng để phòng thủ
Nhóm 8
16
Quản lý chi tiêu công GVHD: PGS.TS Nguyễn Hòa Nhân
và bảo vệ nhà nước, chống sự xâm lược và đe dọa của nước ngoài; các khoản chi
nhằm chi bảo vệ, giữ gìn chế độ xã hội, an ninh của dân cư trong nước.
- Chi khác: ngoài khoản chi đã kể trên cũng có các khoản chi như: chi trợ giá theo
chính sách của Nhà nước, chi trả tiền lãi do chính phủ vay, chi hỗ trợ quỹ bảo BHXH
2.2.2. Chi đầu tư phát triển
Trong cơ chế kinh tế thị trường, với chức năng quản lý kinh tế, Nhà nước sử
dụng công cụ ngân sách Nhà nước để phân phối các nguồn lực tài chính cho sự phát
triển của các lĩnh vực sản xuất kinh doanh và các ngành kinh tế quốc dân. Chi đầu tư
phát triển được thực hiện chủ yếu từ ngân sách trung ương và một bộ phận của ngân
sách địa phương. Đầu tư phát triển là hình thức đầu tư có liên quan đến sự tăng trưởng
quy mô vốn đầu tư của Nhà nước và quy mô vốn trên toàn xã hội. Mục tiêu của đầu tư
phát triển là đầu tư vào khu vực sản xuất, đầu tư vào cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, làm
thay đổi cơ cấu kinh tế xã hội của Nhà nước. Kết quả các khoản chi này là tạo cơ sở
vật chất kỹ thuật của nền kinh tế, làm tăng cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội, tạo ra của cải

vật chất và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Như vậy, có thể hiểu hiểu chi đầu tư phát triển là quá trình Nhà nước sử dụng
một phần vốn tiền tệ đã được tạo lập thông qua hoạt động thu của Ngân sách nhà
nước để đầu tư xây dựng hạ tầng kinh tế xã hội, phát triển sản xuất và để dự trữ vật tư
hàng hóa, nhằm đảm bảo thực hiện các mục tiêu ổn định và tăng trưởng nền kinh tế.
Xét theo mục đích, chi đầu tư phát triển bao gồm:
- Chi xây dựng các công trình thuộc kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội không có
khả năng hoàn vốn: là khoản chi lớn của nhà nước nhằm phát triển kết cấu hạ tầng
đảm bảo các điều kiện cần thiết cho nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội. Đầu tư xây
dựng cơ sở hạ tầng là khoản chi đầu tư xây dựng các công trình giao thông, bưu chính
Nhóm 8
17
Quản lý chi tiêu công GVHD: PGS.TS Nguyễn Hòa Nhân
viễn thông, điện lực, năng lượng, các ngành công nghiệp cơ bản, các công trình trọng
điểm phát triển văn hóa xã hội…
- Đầu tư, hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp Nhà nước, góp vốn cổ phần, góp vốn
liên doanh vào các doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực cần thiết có sự tham gia của Nhà
nước: là những khoản chi của ngân sách nhà nước để đầu tư hỗ trợ cho sản xuất dưới
các hình thức:
+ Đầu tư hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp để xây dựng mới, cải tạo mở rộng cơ
sở vật chất kỹ thuật, trang thiết bị …cho các doanh nghiệp nhà nước.
+ Góp vốn cổ phần hoặc liên doanh.
- Chi hỗ trợ các quỹ hỗ trợ phát triển: đây là khoản chi của ngân sách nhà nước
góp phần tạo lập quỹ hỗ trợ phát triển để thực hiện việc thực hiện hỗ trợ vốn cho các dự
án đầu tư phát triển thuộc các ngành ưu đãi và các vùng khó khăn theo quy định của chính
phủ, nhằm phát triển sản xuất cân đối giữa các ngành, các vùng trong nước. Khoản chi
hình thành vốn điều lệ của quỹ và có thể chi để bổ sung vốn hằng năm khi cần thiết.
- Chi dự trữ nhà nước: khoản chi này nhằm mục đích dự trữ những vật tư, thiết
bị, hàng hóa chiến lược phòng khi nền kinh tế gặp các biến cố bất ngờ về thiên tai,
địch họa…đảm bảo cho nền kinh tế phát triển ổn định.

Như vậy, có thể thấy rằng chi đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước Việt
Nam có những đặc trưng cơ bản sau: chi đầu tư phát triển là khoản đầu tư lớn và
không ngừng tăng lên; chi đầu tư phát triển là khoản đầu tư mang tính chất tích lũy;
phạm vi và mức độ chi đầu tư phát triển gắn chặt với việc thực hiện mục tiêu, yêu cầu
phát triển kinh tế xã hôi của đất nước trong từng thời kỳ và sự lựa chọn phương pháp
cấp phát của nhà nước.
Nhóm 8
18
Quản lý chi tiêu công GVHD: PGS.TS Nguyễn Hòa Nhân
• Ngoài cách phân chia chi tiêu công theo tính chất kinh tế kể trên, chi tiêu
công còn được phân chia theo:
- Chức năng của nhà nước, bao gồm: chi cho các hoạt động xây dựng cơ sở hạ
tầng, tòa án và viện kiểm soát, hệ thống quân đội và an ninh xã hội, hệ thống giáo
dục, hệ thống an sinh xã hội, hỗ trợ cho các doanh nghiệp, hệ thống quản lý hành
chính nhà nước, chi tiêu cho các chính sách đặc biệt (viện trợ nước ngoài ngoại giao,
chính trị…), chi khác.
- Theo trình tự lập dự toán của nhà nước, chi tiêu công được chia thành:
+ Chi tiêu công theo yếu tố đầu vào: căn cứ vào nhu cầu mua sắm, trang bị các
phương tiện cần thiết cho hoạt động các cơ quan đơn vị. Chính phủ xác định mức kinh
phí tài trợ. Thông thường có các khoản mục cơ bản như chi phí mua tài sản lưu động,
chi phí mua tài sản cố định, chi tiền lương và các khoản phụ cấp, chi bằng tiền khác.
+ Chi tiêu công theo yếu tố đầu ra: Mức kinh phí phân bổ cho một cơ quan, đơn
vị không căn cứ vào các yếu tố đầu vào mà dựa vào khối lượng công việc đầu ra và kết
quả tác động đến mục tiêu hoạt động của đơn vị.
2.3. Những tiếp cận cơ bản về quản lý chi tiêu công hiện đại.
2.3.1. Khái niệm quản lý chi tiêu công.
Quản lý chi tiêu công là một khái niệm phản ánh hoạt động tổ chức điều khiển
và đưa ra quyết định của nhà nước đối với quá trình phân phối và sử dụng nguồn tài
chính công nhằm thực hiện các chức năng vốn có của Nhà nước trong việc cung cấp
hàng hóa công, phục vụ lợi ích kinh tế xã hội cho cộng đồng.

Với khái niệm trên cho thấy:
- Chi tiêu công là một trong những thuộc tính vốn có khách quan của khâu tài
chính công, phản ánh sự phân phối và sử dụng nguồn lực tài chính công của nhà nước.
Nhóm 8
19
Quản lý chi tiêu công GVHD: PGS.TS Nguyễn Hòa Nhân
- Quản lý chi tiêu công là hoạt động có tính chủ quan của Nhà nước trong việc
tổ chức điều khiển quá trình phân phối và sử dụng nguồn lực tài chính công.
Xét về phương diện cấu trúc, quản lý chi tiêu công bao gồm hệ thống các yếu tố sau:
- Chủ thể quản lý: nhà nước là người trực tiếp tổ chức, điều khiển quá trình
phân phối và sử dụng nguồn lực tài chính công.
- Mục tiêu quản lý:
+ Mục tiêu tổng quát: thúc đẩy kinh tế tăng trưởng nhanh, bền vững và ổn định.
+ Mục tiêu chi tiết: phân bổ có hiệu quả nguồn lực tài chính của nhà nước; nâng
cao hiệu quả hoạt động về cung cấp hàng hóa, dịch vụ công cộng; thực hiện công bằng
xã hội.
- Công cụ quản lý: để thực hiện quản lý, nhà nước cần phải sử dụng hệ thống
các công cụ, trong đó bao gồm các yếu tố: các chính sách kinh tế - tài chính; pháp chế
kinh tế - tài chính; chương trình hóa các mục tiêu, dự án………
- Cơ chế quản lý: là phương thức mà qua đó nhà nước sử dụng các công cụ
quản lý tác động vào quá trình phân phối và sử dung các nguồn lực tài chính để hướng
vào đạt những mục tiêu đã định.
- Nội dung quản lý chi tiêu công bao gồm tất cả những thành phần của quy
trình ngân sách quốc gia:
+ Dự báo thu nhập và chi tiêu (được thiết lập trong khuôn khổ chi tiêu trung hạn).
+ Gắn kết ngân sách với việc đưa ra chính sách.
+ Chuẩn bị ngân sách.
+ Quản lý tiền mặt và kiểm soát chi tiêu ngân sách.
+ Thực hiện kiểm tra bên trong và kiểm toán.
+ Kế toán và báo cáo.

Nhóm 8
20
Quản lý chi tiêu công GVHD: PGS.TS Nguyễn Hòa Nhân
+ Mua sắm hàng hóa công và tài sản.
+ Đánh giá thực hiện.
+ Điều hành kiểm toán từ bên ngoài.
+ Đảm bảo sự giám sát của cơ quan lập pháp và cơ quan khác.
Nhóm 8
21
Quản lý chi tiêu công GVHD: PGS.TS Nguyễn Hòa Nhân
2.3.2. Nội dung quản lý chi tiêu công.
Chi tiêu công bao gồm chi thường xuyên, chi đầu tư phát triển và chi khác.Vì
vậy,quản lý chi tiêu công chính là quản lý chi thường xuyên, quản lý chi đầu tư phát
triển và chi khác.
2.3.2.1. Quản lý chi đầu tư phát triển.
Đầu tư phát triển là một phương thức của đầu tư trực tiếp. Hoạt động của đầu tư
này nhằm duy trì và tạo ra năng lực mới trong sản xuất kinh doanh dịch vụ và sinh
hoạt của đời sống xã hội.
Như vậy có thể hiểu: chi đầu tư phát triển là quá trình phân phối và sử dụng một
phần vốn tiền tệ từ quỹ công để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, phát
triển sản xuất và dự trữ vật tư hàng hóa của nhà nước, nhằm thực hiện các mục tiêu
nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy kinh tế tăng trưởng và phát triển xã hội.
• Quản lý chi đầu tư xây dựng cơ bản
Cấp phát vốn thanh toán đầu tư xây dựng cơ bản của quỹ công nhằm để trang
trải các chi phí đầu tư và xây dựng các công trình thuộc các dự án đầu tư sử dụng
nguồn vốn từ quỹ công.
Nhà nước thực hiện quản lý chi phí đầu tư xây dựng các công trình thuộc dự án
đầu tư thông qua việc ban hành các chế độ chính sách, các nguyên tắc và phương
pháp lập đơn giá, dự toán; các định mức kinh tế kỹ thuật; định mức chi phí tư vấn đầu
tư, xây dựng và xuất vốn đầu tư để xác định tổng mức vốn đầu tư dự án, tổng dự toán

và dự toán công trình.
Quản lý chi đầu tư xây dựng cơ bản của quỹ công bao gồm các công việc sau:
- Điều chỉnh và lập kế hoạch vốn đầu tư xây dựng cơ bản của quỹ công.
Nhóm 8
22
Quản lý chi tiêu công GVHD: PGS.TS Nguyễn Hòa Nhân
- Cấp phát thanh toán vốn đầu tư đối với các công trình thuộc dự án đầu tư sử
dụng nguồn vốn quỹ công
- Quyết toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản.
• Quản lý các khoản chi đầu tư phát triển khác của quỹ công:
Quản lý chi vốn cho các doanh nghiệp nhà nước:
Trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, việc đầu tư thành lập
các Doanh nghiệp nhà nước và hỗ trợ tài chính từ quỹ công cho các Doanh nghiệp nhà
nước thuộc lĩnh vực, ngành nghề cần thiết nhằm thực hiện vai trò định hướng, điều tiết
nền kinh tế quốc dân của nhà nước.
Việc cấp vốn cho các doanh nghiệp nhà nước được thực hiện hàng năm. Hàng
năm, trong thời gian lập dự toán Ngân sách nhà nước, căn cứ vào quyết định thành lập
doanh nghiệp của cấp có thẩm quyền, kế hoạch sản xuất kinh doanh và kế hoạch chi
tài chính của doanh nghiệp, các Doanh nghiệp nhà nước lập nhu cầu bổ sung vốn từ
quỹ công gửi cơ quan quản lý cấp trên và cơ quan tài chính đồng cấp để tổng hợp đưa
vào dự toán Ngân sách nhà nước. Căn cứ vào nguồn vốn bổ sung cho các Doanh
nghiệp nhà nước bố trí trong dự toán Ngân sách nhà nước được Quốc hội thông qua và
hướng dẫn của Bộ tài chính, cơ quan tài chính các cấp có trách nhiệm thẩm định hồ sơ
đề nghị cấp vốn bổ sung của các doanh nghiệp và trình cấp có thẩm quyền quyết định
mức cấp vốn bổ sung cho các doanh nghiệp.
Quản lý chi trợ cấp tài chính và trợ giá đối với doanh nghiệp:
Đối tượng được chi trợ cấp tài chính, trợ giá sản phẩm từ Ngân sách nhà nước
là các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế khi tham gia thực hiện các nhiệm vụ
hoạt động công ích, an ninh, phòng chống thiên tai hoặc cung cấp sản phẩm dịch vụ
theo chính sách giá của nhà nước.

Nhóm 8
23
Quản lý chi tiêu công GVHD: PGS.TS Nguyễn Hòa Nhân
Hàng năm, căn cứ vào quy định và hướng dẫn của bộ tài chính, nhiệm vụ sản
xuất sản phẩm và cung ứng dịch vụ của nhà nước giao; các doanh nghiệp xây dựng kế
hoạch thu chi tài chính, trong đó có kế hoạch trợ cấp tài chính, trợ giá sản phẩm báo
cáo cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp và cơ quan tài chính đồng cấp. Căn cứ
vào dự toán thu chi hàng năm được duyệt, cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp
có trách nhiệm thẩm tra và trình cơ quan cấp có thẩm quyền xem xét quyết định mức
trợ cấp tài chính, trợ giá sản phẩm đối với từng doanh nghiệp.
Căn cứ vào kế hoạch trợ cấp tài chính, trợ giá sản phẩm hàng năm đã được phê
duyệt, cơ quan tài chính tạm cấp cho doanh nghiệp 70% số trợ cấp, trợ giá theo tiến độ
thực hiện kế hoạch. Kết thúc toàn bộ công việc hoặc kết thúc năm tài chính, doanh nghiệp
có trách nhiệm báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ được nhà nước trợ cấp, trợ giá với cơ
quan giao kế hoạch hoặc đặt hàng và cơ quan tài chính cùng cấp. Cơ quan giao kế hoạch
hoặc đặt hàng và cơ quan tài chính có trách nhiệm kiểm tra đánh giá kết quả thực hiện về
số lượng, hiệu quả kinh tế xã hội của sản phẩm dịch vụ được trợ cấp, trợ giá.
2.3.2.2. Quản lý chi thường xuyên.
Xét theo lĩnh vực chi thì chi thường xuyên bao gồm: chi cho các hoạt động sự
nghiệp thuộc lĩnh vực văn hóa xã hội, chi cho các hoạt động sự nghiệp kinh tế của nhà
nước, chi cho hoạt động quản lý của nhà nước, chi cho các tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị xã hội, và các tổ chức khác được cấp kinh phí từ nguồn quỹ công, chi cho
quốc phòng an ninh và trật tự an toàn xã hội và các khoản chi khác.
Chi thường xuyên của Ngân sách nhà nước là một khoản chi tương đối lớn, để
đảm bảo chi đúng và hiệu quả, nhà nước cần phải tổ chức quản lý chi thường xuyên
một cách phù hợp nhất. Quản lý chi thường xuyên luôn trải qua các trình tự sau:
- Lập dự toán chi thường xuyên.
Nhóm 8
24
Quản lý chi tiêu công GVHD: PGS.TS Nguyễn Hòa Nhân

- Chấp hành dự toán chi thường xuyên.
- Quyết toán và kiểm toán các khoản chi thường xuyên của Ngân sách nhà nước.
2.3.3. Các mô hình quản lý chi tiêu công.
Trải qua nhiều thập kỷ, chính phủ của các nền kinh tế thị trường đã có nhiều nỗ
lực trong việc quản lý chi tiêu công để thực hiện tốt việc phân phối và sử dụng các
nguồn lực tài chính công, qua đó nhằm thực hiện tốt vai trò quản lý kinh tế xã hội của
mình. Cho đến nay, nền kinh tế thế giới đã trải qua các mô hình quản lý chi tiêu công:
2.3.3.1. Lập ngân sách theo danh mục.
Vào trước cuối thế kỷ 19, lập ngân sách ở hầu hết các quốc gia được biểu thị
bằng năng lực điều hành yếu kém, ít sự kiểm soát của trung ương và những cách thức
là thuộc về phong cách riêng. Lập ngân sách danh mục theo truyền thống là một sự cải
cách được quan tâm về kiểm soát chi tiêu, sử dụng hiệu quả nguồn lực và xóa bỏ sự
tham nhũng đang gia tăng đáng kể. Vì lý do này, những người cải cách ngân sách vào
cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 đã ủng hộ hệ thống lập ngân sách theo danh mục nhằm
đẩy mạnh tính trách nhiệm qua việc sử dụng chi tiết các nguồn lực.
Tập trung quan trọng nhất của hệ thống ngân sách là chi tiết hóa chi tiêu ngân
sách trong quá trình phân phối với những giới hạn nhất định để đảm bảo các cơ quan
nhà nước không thể chi tiêu vượt quá nguồn lực được phân phối. Tuy vậy cách quản lý
này có nhược điểm:
- Chỉ nhấn mạnh tới khâu lập ngân sách với những chi tiêu có tính tuân thủ
được đưa ra bởi chính phủ.
- Sự phân phối không trả lời được câu hỏi tại sao tiền phải chi tiêu.
- Ngân sách chỉ được lập trong ngắn hạn.
Nhóm 8
25

×