Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

LÝ LUẬN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÊ NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.08 KB, 25 trang )

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong gia đình sĩ phu yêu nước, quê hương
giàu truyền thống cách mạng,trong một đất nước sớm định hình một dân tộc
có chủ quyền lâu đời,trong đó tinh thần yêu nước là dong chảy chủ yêú trong
suốt chiều dài lịch sử oàn cảnh đất nước ta bị rơi vào cảnh nô lệ lầm than
dưới ách thống trị của thực dân Pháp,dân tộc Việt nam rơi vào khủng khoảng
đường lối cách mạng,với tinh thần yêu nước nồng nàn Hồ Chí Minh đã ra đi
tìm đường cứa nước.Người đã tiếp thu tư tưởng cách mạng của Mác-Lênin
,chọn lựa riêng cho dân tộc Việt nam con đường cứu nước, con đường giải
phóng dân tộc. Đó là con đường cách mạng vơ sản.Người đã truyền bá tư
tưởng của mình về Việt Nam và trở thành hệ thống lý luận về đường lối
chiến lược,sách lược của cách mạng Việt nam.Nó đã trỏ thành hệ tư tưởng
khơng thể thiếu trong con đường giải phóng dân tộc,là kim chỉ nam soi
đường cho cuộc đáu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi. Đồng thời cũng là
tài sản vơ giá của dân tộc ta góp phân vào công cuộc xây dựng nhà nước xã
hội chủ nghiã của nước ta.Nhận thức rõ về tầm trọng của Tư tưởng Hồ Chí
Minh, trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX có ghi:’’ Tư tưởng Hồ Chí
Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ
bản của cách mạng Việt Nam.Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc
đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi và là tai sản vô cùng to lớn của
Đảng và dân tộc ta.”
Tư tương Hồ Chí Minh đã sải bươc cùng chiều dài lịch sử và đi sâu vào
cuộc sống con người Viêt Nam.Với những hiểu biết của mình,sau đây em xin
trình bày những vấn đề cơ bản, một lần nữa làm rõ thêm nhận định của Đảng
ta tại đại hội IX về Tư tưởng Hồ Chí Minh.Từ đó cũng góp phần giúp sinh
viên chúng em trong phong trào học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh.

1



II.NỘI DUNG
A.Tư tưởng Hồ Chí Minh về mặt lý luận:
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc
về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng
và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mac - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt
Nam, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu
tinh hoa văn hoá nhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân
dân, của khối đoàn kết toàn dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng
Nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân; về quốc phịng tồn dân, xây
dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về phát triển kinh tế và văn hố, khơng
ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; về đạo đức cách
mạng, cần kiệm, liêm chính, chí cơng vơ tư; về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách
mạng cho đời sau; về xây dựng Đảng trong. Cụ thể:

1.Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc có thể tóm tắt thành
một hệ thống luận điểm sau đây:
Một là, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường
của cách mạng vô sản. Từ đầu những năm 20 thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc
đã chỉ rõ: Chủ nghĩa đế quốc là một con đỉa hai vịi, một vịi bám vào chính
quốc, một vòi bám vào thuộc địa. Muốn đánh bại chủ nghĩa đế quốc, phải
đồng thời cắt cả hai cái vòi của nó đi, tức là phải kết hợp cách mạng vơ sản ở
chính quốc với cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa.
Hai là, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng của giai
cấp công nhân lãnh đạo.
Nguyễn Ái Quốc đã sớm khẳng định: muốn giải phóng dân tộc thành cơng
"trước hết phải có đảng cách mệnh", "Đảng có vững cách mệnh mới thành
cơng", "Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt" - đó là chủ nghĩa
Lênin.

Ba là, cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết của toàn dân trên
cơ sở liên minh cơng-nơng. Hồ Chí Minh cho rằng, cách mạng giải phóng
dân tộc "là việc chung cả dân chúng chứ khơng phải việc một, hai người", vì
vậy phải đồn kết tồn dân, "sĩ, nơng, cơng, thương đều nhất trí chống lại
cường quyền". Nhưng trong sự tập hợp đó, phải nhớ "công-nông là người
chủ cách mệnh"... "công-nông là gốc cách mệnh".
Bốn là, cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo
và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vơ sản ở chính quốc. Đây là
2


một luận điểm mới và sáng tạo của Hồ Chí Minh.Người đã sớm cho rằng
cách mạng thuộc địa không những khơng phụ thuộc vào cách mạng vơ sản ở
chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước. Đây là một cống hiến rất quan
trọng vào kho tàng lý luận Mác - Lênin, đã được thắng lợi của cách mạng
Việt Nam chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.
Năm là, cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con đường
bạo lực, kết hợp lực lượng chính trị của quần chúng với lực lượng vũ trang
của nhân dân. Ngay từ năm 1924,Nguyễn Ái Quốc đã nói đến khả năng khởi
nghĩa vũ trang ở Đơng Dương. Theo Người, "Để có cơ thắng lợi, một cuộc
khởi nghĩa vũ trang ở Đông Dương... phải có tính chất một cuộc khởi nghĩa
quần chúng...".
Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh thì tư tưởng về giai cấp cơng nhân
trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc là một quan điểm nhất quán,
đánh giá đúng bản chất cách mạng và năng lực lãnh đạo của giai cấp công
nhân Việt Nam. Tùy từng thời kỳ lịch sử, Người đã phát triển nhận thức của
mình về vai trị, vị trí của giai cấp cơng nhân một cách đúng đắn, phù hợp
với nhiệm vụ cách mạng chung của cả nước.
Có thể nói, hạt nhân của tư tưởng Hồ Chí Minh, nội dung cốt lõi của tư
tưởng Hồ Chí Minh là giải phóng con người và mưu cầu hạnh phúc cho hết

thảy mọi người trên trái đất. Giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải
phóng giai cấp cũng là nhằm mục tiêu giải phóng con người. Người quan
niệm, giải phóng dân tộc cũng là nhằm để dân có tự do, hạnh phúc, "nếu
nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng
chẳng có nghĩa lý gì". Theo Người, xây dựng chủ nghĩa xã hội không chỉ là
điều kiện để bảo đảm cho nền độc lập dân tộc và giải phóng giai cấp khỏi áp
bức, bóc lột mà cịn chính vì "khơng có chế độ nào tôn trọng con người, chú
ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thỏa mãn
bằng chế độ xã hội chủ nghĩa", chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho
nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có cơng ăn, việc
làm, được ấm no và sống một cuộc đời hạnh phúc.
Tóm lại, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết của
Lênin về cách mạng thuộc địa thành một hệ thống luận điểm mới mẻ, sáng
tạo, bao gồm cả đường lối chiến lược, sách lược và phương pháp tiến hành
cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa.

2 Sự thể hiện của tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội,kết hợp sức mạnh dân tôc với sưc
mạnh thời đại:
2.1Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội

3


+ Độc lập dân tộc là mục tiêu trước hết, là cơ sở, tiền đề để tiến lên chủ
nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh cho rằng, cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn:
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hai
giai đoạn ấy khơng có bức tường ngăn cách, mà gắn bó chặt chẽ với nhau.
Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân có hai nhiệm vụ chiến lược: chống

thực dân xâm lược và chống địa chủ phong kiến. Nhiệm vụ dân tộc và dân
chủ quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó nhiệm vụ giải phóng dân tộc đặt lên
trên hết, trước hết, nhiệm vụ dân chủ cần thực hiện từng bước và phải phục
tùng sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao gồm cả nội dung dân
tộc dân chủ. Không phải bất kỳ độc lập dân tộc nào cũng tạo cơ sở, tiền đề để
tiến lên chủ nghĩa xã hội. Theo Hồ Chí Minh, để tạo cơ sở, tiền đề cho việc tiến
lên chủ nghĩa xã hội, cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân phải được thực
hiện một cách triệt để, "đến nơi". Đó là một nền độc lập thực sự, độc lập hồn
tồn khơng lệ thuộc vào bất cứ lực lượng nào cả về đối nội, lẫn đối ngoại.
Để tạo cơ sở, tiền đề cho việc tiến lên chủ nghĩa xã hội, đối với Việt Nam,
một đòi hỏi có ý nghĩa sống cịn là độc lập dân tộc phải gắn liền với thống nhất
chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Nước Việt Nam là một, dân tộc
Việt Nam là một, Bắc - Trung - Nam là một khối thống nhất không thể phân
chia, đồng bào Kinh, Mường, Thái, Êdê, Bana… đều là con dân nước Việt, là
con Rồng cháu Tiên. Đó là quan điểm nhất qn, mang tính ngun tắc của Hồ
Chí Minh. Khơng duy trì và phát triển được khối thống nhất đó thì khơng thể có
độc lập dân tộc, càng khơng thể nói đến việc tạo cơ sở tiền đề để tiến lên chủ
nghĩa xã hội.
Để tiến lên chủ nghĩa xã hội đòi hỏi độc lập dân tộc phải đi đôi với tự do
hạnh phúc của nhân dân. Theo Hồ Chí Minh "nếu nước được độc lập mà
người dân không được hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập chẳng có ý nghĩa
gì".
+ Chủ nghĩa xã hội là con đường bảo vệ và phát triển thành quả của độc lập
dân tộc
Độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội thể hiện mối quan hệ giữa mục
tiêu trước mắt và mục tiêu lâu dài. Theo lơgíc của sự phát triển, hai mục tiêu
ấy quan hệ chặt chẽ với nhau. Không thể đi đến mục tiêu cuối cùng nếu
không thực hiện được mục tiêu trước mắt. Chỉ thực hiện được mục tiêu cuối
cùng mới bảo vệ và phát triển được những thành quả của mục tiêu trước mắt.

Vì vậy, nếu độc lập dân tộc tạo cơ sở, tiền đề để đi lên chủ nghĩa xã hội là
con đường tốt nhất để giữ vững và phát triển lên một tầm cao mới - thành
quả của độc lập dân tộc.

4


Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là làm cho dân giàu, nước mạnh, ai
cũng có cơng ăn, việc làm, được ăn no, mặc ấm, được học hành, các dân tộc
trong nước bình đẳng đồn kết, giúp đỡ lẫn nhau. Về mặt phân phối sản
phẩm lao động thì chủ nghĩa xã hội là ai làm nhiều hưởng nhiều, ai làm ít
hưởng ít, ai có sức lao động mà khơng làm thì khơng hưởng, những người già,
đau yếu, tàn tật và trẻ em thì xã hội và cộng đồng có trách nhiệm chăm sóc ni
dưỡng. Trong chủ nghĩa xã hội, văn hóa, khoa học kỹ thuật, chính trị và kinh tế,
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được quan tâm và ngày một nâng
cao. Về mặt đối ngoại, chủ nghĩa xã hội là hịa bình, hữu nghị, làm bạn với tất
cả các nước. Chủ nghĩa xã hội với những đặc trưng đó khơng chỉ bảo vệ những
thành quả của độc lập dân tộc mà cơ bản tạo nên sự phát triển mới vế chất. Hồ
Chí Minh khẳng định chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới bảo
đảm cho một nền độc lập dân tộc chân chính, mới giải phóng các dân tộc một
cách thực sự, hồn tồn.
Hồ Chí Minh cho rằng cách mạng, cả cách mạng giải phóng dân tộc và
cách mạng xã hội chủ nghĩa là việc khó, là cuộc đấu tranh gay go, ác liệt, lâu
dài. Giành độc lập dân tộc đã khó, xây dựng chủ nghĩa xã hội cịn khó khăn
hơn.
* Những điều kiện bảo đảm cho độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội của cách mạng Việt Nam
Thứ nhất, trong suốt quá trình cách mạng, sự lãnh đạo của Đảng phải được
giữ vững, củng cố và tăng cường. Xuất phát từ quan điểm xây dựng chủ
nghĩa xã hội là một nhiệm vụ khó khăn hơn đánh đổ đế quốc, phong kiến, Hồ

Chí Minh khẳng định trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội Đảng phải
mạnh hơn bao giờ hết.
Thứ hai, khối đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh cơng - nơng - trí
thức dưới sự lãnh đạo của Đảng phải được củng cố và mở rộng. Hồ Chí
Minh ln địi hỏi Đảng, Nhà nước và mỗi người dân cần nêu cao trách
nhiệm trong việc làm cho "rừng cây đại đoàn kết ấy đã nở hoa kết trái và gốc
rễ nó đang ăn sâu lan rộng khắp tồn dân, và nó có một cái tương lai 'trường
xuân bất lão'".
Thứ ba, sự ủng hộ giúp đỡ của các lực lượng cách mạng, hịa bình, dân chủ
và tiến bộ trên thế giới được giữ vững và phát triển. Để làm được việc đó,
ngay từ 1947, Hồ Chí Minh đã nêu cao chủ trương: "Làm bạn với tất cả mọi
nước dân chủ và khơng gây thù ốn với một ai".
Ba nhân tố trên luôn được giữ vững và tăng cường, tác động qua lại, liên quan
chặt chẽ với nhau là điều kiện bảo đảm cho sự thắng lợi của mục tiêu độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Đó là ba bài
học lớn mà mỗi cán bộ và đảng viên cần ghi sâu vào lòng và phát huy thêm
mãi".

5


2.2Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại:
Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là một nội dung lớn của
tư tưởng Hồ Chí Minh. Vì vậy trong xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay
nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại là một yêu cầu quan trọng.
Nhân dân ta có lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Trong đấu
tranh chống kẻ thù xâm lược cũng như trong lao động sản xuất nhân dân Việt
Nam đã thể hiện tinh thần chiến đấu ngoan cường, sự thông minh sáng tạo, ý
thức độc lập tự chủ, tự lực, tự cường. Trong truyền thống dân tộc ấy Hồ Chí

Minh nhìn thấy nổi bật lên sức mạnh của lòng yêu nước. Tinh thần yêu nước
của nhân dân Việt Nam có những đặc điểm riêng biệt, đặc sắc, vì phải ln
ln đối đầu với nhiều khó khăn của tự nhiên và chiến tranh xâm lượư, sự đô
hộ của kẻ thù từ nhiều phương kéo đến. Lòng yêu nước Việt Nam đã trở
thành sức mạnh, một thứ đạo lý, một lẽ sống của mỗi người dân, cũng là một
tiêu chí cao nhất để đánh giá con người trong xã hội ta.
Hồ Chí Minh xác định con đường cứu nước đúng đắn để giải phóng dân
tộc đã phát huy lòng yêu nước truyền thống và nâng thành lòng yêu nước xã
hội chủ nghĩa. Tinh thần, ý chí độc lập, tự chủ, tự cường và lịng u nước
phát huy được sức mạnh to lớn, tạo nên truyền thống đồn kết dân tộc, đồn
kết tồn dân. Hồ Chí Minh đã làm nổi bật sức mạnh của con người Việt
Nam, đó là sức mạnh thể lực và trí tuệ, sức mạnh của bề dày lịch sử và trong
cuộc đấu tranh hiện tại, sức mạnh của sự thông minh và dũng cảm, của lịng
tin chân chính khơng gì lay chuyển. Sức mạnh ấy bền vững và được nhân lên
nhiều lần dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
Thời đại của chúng ta mở đầu bằng Cách mạng tháng Mười Nga 1917.
Cuộc cách mạng này đã mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc và cả
lồi người, mở đầu thời đại mới trong lịch sử. Theo Hồ Chí Minh sức mạnh
thời đại là sức mạnh của giai cấp vô sản thế giới, của nhân dân lao động thế
giới. Trong quá trình nhận thức và vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-lênin
vào hoàn cảnh cụ thể của Vịêt Nam, Hồ Chí Minh nhận thấy phải dựa vào
sức mạnh của dân tộc là chủ yếu, đồng thời phải khai thác sức mạnh của thời
đại. Những nội dung, nguyên tắc về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại là một bộ phận quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thời đại ngày nay, đặc biệt là giai đoạn hiện nay đang diễn ra một cuộc
đấu tranh gay gắt trên mặt trận tư tưởng cũng như về hoạt động thực tiễn mà
chúng ta cần nhận thức đúng đắn để tiến hành những hoạt động quốc tế phù
hợp phục vụ sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN.

6



Không ngừng bảo vệ và pháy huy bản sắc văn hóa truyền thống của dân
tộc, làm cho bản sắc văn hoá được giữ vững và phát triển. Giữ vững tinh thần
độc lập tự chủ trong tiếp thu sức mạnh bên ngoài, kết hợp sức mạnh trong
nước. Việc giáo dục tinh thần u nước, lịng tự hào dân tộc chính đáng, ý
thức bảo vệ văn hố dân tộc, tiếp thu có chọn lọc văn hố nước ngồi là
những u cầu cấp thiết được đặt ra đối với việc “mở cửa”. Công tác của thời
đại.
Tư tưởng về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là một bộ
phận quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng đó được vận dụng và
phát triển trong thực tiễn cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Nội dung cuả tư tưởng này rất phong phú, sâu sắc về thời đại, về sự kết hợp
các sức mạnh này trong thực tiễn đấu tranh. Tư tưởng của Người còn thấm
đượm chủ nghĩa nhân văn sâu sắc, tính cách mạng triệt để nên ảnh hưởng to
lớn đến cuộc đấu tranh lâu dài cho nhân dân các nước vì sư nghiệp”Giải
phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người”

3.Tư tưởng Hồ Chí Minh về sức mạnh của nhân dân và khối
đại đồn kết tồn dân tộc:
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế là một
chiến lược cơ bản, lâu dài trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng
như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Luận điểm nổi
tiếng của Người:
“ Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công”
Đã trở thành tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt cả quá trình cách mạng Việt
Nam. Tư tưởng đại đồn kết của Hồ Chí Minh cùng với đạo đức, nhân cách
vô cùng cao thượng và trong sáng cảu Người đã quy tụ được khối đại đoàn
kết dân tộc, đồn kết quốc tế đấu tranh vì thắng lợi của sự nghiệp cách mạng.

Người cho rằng, “hễ là người Việt Nam thì ai cũng có lịng u nước, ghét
giặc” nên ngay sau khi thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam, Người đã đề ra
chủ trương thành lập “Hội phản đế đồng minh” - một hình thức Mặt trận dân
tộc thống nhất rộng rãi chống đế quốc. Thời kỳ 1936 – 1939, Người đã bổ
sung vào tên gọi mặt trận, thành lập mặt trận dân tộc, dân chủ rộng rãi, mặt
trận này khơng chỉ có nhân dân lao động mà gồm cả giai cấp tư sản dân tộc.
Để chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa năm 1945, Người thành lập “Mặt trận Việt
Minh”…

7


Nguyên tắc nhất quán trong tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh là: Lấy
liên minh cơng nơng làm nền tảng, tập hợp rộng rãi nhất mọi tổ chức và cá
nhân yêu nước, vừa đoàn kết vừa đấu tranh, lấy lợi ích tối cao của dân tộc và
quyền lợi cơ bản của nhân dân lao động làm nền tảng, trên cơ sở đó bảo đảm
sự kết hợp hài hồ lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, bộ phận và toàn cục, giai
cấp và dân tộc, quốc gia và quốc tế vì mục tiêu là độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội….
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết là một chiến lược cơ bản, lâu dài
của cách mạng Việt Nam, tư tưởng đó mãi mãi là một sức mạnh làm nên
thắng lợi của cách mạng nước ta trong các thời kỳ.

4.Tư tưởng Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng một nhà nước
của dân, do dân và vì dân.:
Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng một nhà nước của dân, do dân
và vì dân. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà nước của dân đồng nghĩa với
nhà nước của dân tộc Việt Nam, của đại đoàn kết dân tộc. Trong kỳ họp thứ
2 của Quốc hội khố I, Người trịnh trọng tun bố: "Chính phủ sau đây phải
là một Chính phủ tồn dân đồn kết và tập hợp nhân tài không đảng phái".

Trong bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta (1946) do đích thân Chủ tịch Hồ
Chí Minh soạn thảo, ngay từ Điều 1 đã khẳng định: "Tất cả quyền bính trong
nước là của tồn thể nhân dân Việt Nam, khơng phân biệt nòi giống, gái trai,
giàu nghèo, giai cấp".
Lòng dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh là thước đo uy tín, hiệu lực và độ
bền vững của Nhà nước và chế độ. Người tiếp thu tư tưởng của người xưa
"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân..." và "dân là nước, nước có thể đẩy thuyền
và có thể lật thuyền". Nếu dân yên, dân tin u thì khơng thể có sức mạnh
nào từ bên trong và bên ngồi có thể phá hoại chế độ, lật đổ nhà nước.
Cũng như Mác, Ăng-ghen và Lê-nin, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln ln chủ
trương đề cao việc coi trọng quản lý nhà nước bằng công cụ pháp luật. Bộ
máy chính quyền Việt Nam với thiết kế của Chủ tịch Hồ Chí Minh có những
đặc điểm của một bộ máy hiện đại, dân chủ, có hiệu lực. Trước khi có Hiến
pháp, Người quan niệm một xã hội khơng thể sống một ngày khơng có pháp
luật, cho nên Người đã ký Sắc lệnh giữ lại mọi luật lệ của chế độ cũ, chỉ trừ
những điều luật trái với nền độc lập, tự do. Đồng thời, Người ký một loạt Sắc
lệnh cấp bách: Sắc lệnh bảo đảm tự do cá nhân, Sắc lệnh bãi bỏ thuế thân,
Sắc lệnh tổ chức Tồ án độc lập với hành chính... Đó là nền tảng trước mắt
và lâu dài cho một nhà nước pháp quyền. Tư tưởng pháp quyền của Chủ tịch
Hồ Chí Minh thể hiện trong hoạt động của Chính phủ, của các chính quyền,

8


của các tổ chức, Người đòi hỏi tất cả mọi tổ chức và cá nhân phải chấp hành
pháp luật.

5. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quốc phịng tồn dân, xây dựng
lực lượng vũ trang nhân dân:
.

Vận dụng sáng tạo tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin về bạo lực cách
mạng, Hồ Chí Minh ln coi bạo lực cách mạng là sức mạnh tổng hợp của
nhân dân, bao gồm các hình thức: Chính trị, qn sự và sự kết hợp giữa
chính trị và qn sự. Trong q trình đấu tranh giành và giữ chính quyền,
giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, bên cạnh việc chăm lo xây dựng lực
lượng chính trị, phải chăm lo xây dựng, củng cố lực lượng vũ trang, xây
dựng nền quốc phịng tồn dân, thế trận an ninh nhân dân, thực hành chiến
tranh nhân dân với sức mạnh tổng hợp. Người nhấn mạnh: Quân sự phải
phục tùng chính trị, lấy chính trị làm gốc. Quân đội ta là quân đội nhân dân,
từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà phục vụ, quân đội ta là đội quân chính trị,
đội quân chiến đấu, đội quân công tác. Lực lượng vũ trang nhân dân đặt dưới
sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng.
Tư tưởng quốc phịng tồn dân của Hồ Chí Minh được biểu hiện trước hết
là việc phát động một cuộc chiến tranh nhân dân, dùng sức mạnh của toàn
dân để đánh thắng kẻ thù.
Kế thừa truyền thống "giặc đến nhà đàn bà cũng đánh" của dân tộc, vận
dụng quan điểm "Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng" của chủ nghĩa
Mác-Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Dân là chủ, kháng chiến
kiến quốc là sự nghiệp của dân; có dân là có tất cả; khởi nghĩa tồn dân để
giành lại nền độc lập cho dân tộc, kháng chiến toàn dân để giữ vững nền độc
lập ấy. Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp, Hồ
Chí Minh viết: "Bất kỳ đàn ơng, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không
chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên
đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc". Trong quá trình kháng chiến, Người đã
nhiều lần khẳng định: 20 triệu đồng bào Việt Nam quyết đánh tan mấy vạn
quân thực dân phản động. Bước vào cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ,
Người kêu gọi toàn dân với tinh thần: mỗi làng xóm là một pháo đài, mỗi
người dân là một chiến sĩ, quyết tâm "đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy
nhào".
Bằng đường lối chính trị đúng đắn, bằng mục tiêu chính trị đúng đắn với sự

mềm dẻo, linh hoạt trong chỉ đạo, Hồ Chí Minh đã thực hiện thành cơng việc
tập hợp tồn dân vào các hình thức mặt trận, phát huy đến cao độ khả năng
của dân trong cuộc kháng chiến toàn dân toàn diện, trường kỳ để rồi bằng
chính sức mạnh của mình giành thắng lợi.

9


Hai là, xây dựng lực lượng quân sự bao gồm ba thứ quân, kết hợp xây dựng
lực lượng chính trị rộng khắp và chặt chẽ giữa đấu tranh vũ trang và đấu
tranh chính trị, sử dụng linh hoạt các phương pháp tiến công.
Ngay khi Đảng ra đời, dưới sự chỉ đạo của Hồ Chí Minh, Đảng ta đã chú
ý xây dựng các hình thức mặt trận. Mặt trận chính là tổ chức nhằm tập hợp
đông đảo, rộng rãi các tầng lớp nhân dân. Đây là cơ sở để xây dựng một đội
quân chính trị rộng khắp.
Trong xây dựng lực lượng vũ trang, Hồ Chí Minh hết sức chú ý đến việc
giáo dục tư tưởng chính trị và nhiệm vụ chính trị cho họ. Đội quân chủ lực
đầu tiên của cách mạng là Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân. Ở Hồ
Chí Minh, giữa chính trị và qn sự có mối quan hệ mật thiết. Dùng chính trị
để phục vụ cho quân sự, dùng quân sự để xây dựng chính trị và kết hợp chính
trị với quân sự để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc bằng tinh thần và sức mạnh
của toàn dân.
Ba là, kết hợp giữa kháng chiến và kiến quốc, giữa mục tiêu độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội.
Tư tưởng này được thể hiện rất rõ trong hai cuộc kháng chiến. Trong kháng
chiến chống thực dân Pháp, Người chủ trương "Vừa kháng chiến vừa kiến
quốc", khẩn trương xây dựng chính quyền và Mặt trận Liên Việt, kêu gọi
toàn dân thi đua ái quốc "chống giặc đói, chống giặc dốt, chống giặc ngoại
xâm", "hậu phương thi đua với tiền phương", "tất cả cho tiền tuyến, tất cả để
chiến thắng", thi đua thực hành cần, kiệm, liêm, chính, thi hành đúng chính

sách của Đảng và Chính phủ, thực hiện các chính sách bồi dưỡng sức dân để
kháng chiến lâu dài.
Trong kháng chiến chống Mỹ, Người chủ trương xây dựng miền Bắc làm
hậu phương vững chắc cho tiền tuyến miền Nam và là cơ sở vững chắc cho
công cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà. Người đã động viên quân và dân
miền Bắc ra sức xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện cả nước có chiến
tranh, phát triển kinh tế, văn hóa, xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng,
đánh bại chiến tranh phá hoại của địch và chi viện cho miền Nam, với tinh
thần "Tất cả vì miền Nam ruột thịt".
Tiếp nối tư tưởng Hồ Chí Minh về quốc phịng tồn dân, hiện nay, Đảng ta
rất coi trọng việc giáo dục ý thức quốc phòng cho các tầng lớp nhân dân, kêu
gọi nhân dân đề cao cảnh giác, chống các âm mưu và thủ đoạn của địch trong
chiến lược "diễn biến hịa bình". Cùng với chiến lược phát triển kinh tế,
Đảng ta đề ra chiến lược về quốc phòng và an ninh quốc gia; kết hợp kinh tế
với quốc phòng; kết hợp giữa xây dựng lực lượng vũ trang chính quy với các
lực lượng tự vệ ở các địa phương, tạo nên thế trận quốc phịng tồn dân
nhằm xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

10


6. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế và văn hóa,
khơng ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân.
6.1.Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đời sống văn hóa
Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: "Đảng cần phải có kế
hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm khơng ngừng nâng cao
đời sống của nhân dân".
Là người mở đường cho viê ̣c xây dựng nề n văn hóa mới Viê ̣t Nam, là
nhà văn hóa kiê ̣t xuấ t của nhân loa ̣i, Hồ Chí Minh là hiê ̣n thân tiêu biể u nhấ t

của sự kế thừa truyề n thố ng văn hóa tố t đe ̣p của dân tô ̣c, kế t hơp với viê ̣c tiế p
thu tinh hoa văn hóa nhân loa ̣i, kế t hơ ̣p tính dân tô ̣c với tính nhân loa ̣i trong
văn hóa. Chính vì vâ ̣y, Người không ở tầ m cao, xa cách mo ̣i người, mà trái
la ̣i rấ t gầ n gũi với mo ̣i người Viê ̣t Nam; Người không xa cách thế giới mà la ̣i
gầ n gũi với tấ t cả ba ̣n bè gầ n xa trên thế giới. Người đã đưa dân tô ̣c đế n với
nhân loa ̣i và thời đa ̣i – điề u chưa từng có trong lich sử Viê ̣t Nam.
̣
Theo Hồ Chí Minh, văn hóa có ý nghĩa vơ cùng to lớn và giữ vị trí đặc
biệt quan trọng. Theo Người: Văn hóa là một kiến trúc thượng tầng; những
cơ sở hạ tầng của xã hội có kiến thiết rồi, văn hóa mới kiến thiết được và đủ
điều kiện phát triển được; có thực mới vực được đạo; xã hội thế nào thì văn
hóa thế ấy. Nhưng mặt khác, đến lượt mình, văn hóa là động lực của sự phát
triển xã hội, phát triển kinh tế; văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi.
Văn hóa được xây dựng và bồi đắp nên trong suốt chiều dài lịch sử, nó
làm nên nền tảng tinh thần của một xã hội, giữ vai trò quan trọng vừa là mục
tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Trong rất nhiều
bài nói và bài viết, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập đến việc phải giữ gìn và
phát huy những truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc. Đó là những giá trị
bền vững, những tinh hoa của cộng đồng dân tộc Việt Nam được hun đúc
nên qua hàng ngàn năm lịch sử. Đó là lịng u nước nồng nàn, ý chí tự
cường dân tộc, tinh thần đồn kết, ý thức cộng đồng, lòng nhân ái khoan
dung, trọng đạo lý, đức tính cần cù sáng tạo trong lao động, dũng cảm trong
chiến đấu…Bên cạnh việc giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc phải biết tiếp
thu tinh hoa văn hóa thế giới, biết gạn đục khơi trong, nâng cao trình độ văn
hóa của nhân dân, biệt chọn lọc, sáng tạo cho phù hợp với hồn cảnh và đặc
tính của dân tộc mình.Vì vậy, văn hóa cũng phải thấm nhuần sâu sắc quan
điểm: Vì nhân dân phục vụ và phát huy sứ mạng của tồn dân làm văn hóa.
Làm cho văn hóa thấm sâu vào đời sống và hoạt động xã hội, vào mọi lĩnh
vực sinh hoạt và quan hệ con người là yêu cầu rất cao, là nhiệm vụ khó khăn
và lâu dài. Chỉ khi nào được mọi tầng lớp nhân dân, mọi tổ chức chính trị, xã

11


hội, các đồn thể, tơn giáo, nhà trường và gia đình…tham gia tích cực,
thường xun, liên tục, bền bỉ thì văn hóa mới có thể thực hiện được những
nhiệm vụ đã đề ra.
6.2, Xây dựng đời sống cho nhân dân:
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng xây dựng đời sống cho nhân dân phải được
tiến hành xây dựng nếp sống văn hóa. Ngay từ những năm 1946, trong cơng
cuộc kháng chiến kiến quốc, Người đã viết tác phẩm "Đời sống mới" rất sinh
động, sâu sắc, nhằm động viên, kêu gọi các tầng lớp nhân dân thực hành đời
sống mới với tinh thần rất rõ là: "Làm thế nào cho đời sống của dân ta, vật
chất được đầy đủ hơn, tinh thần được vui mạnh hơn. Đó là mục đích đời
sống mới''(2). Quan điểm xây dựng đời sống mới của Chủ tịch Hồ Chí Minh
hết sức rõ ràng, cụ thể, thiết thực, có kế thừa, bảo tồn, phát huy những phong
tục tập quán tốt đẹp mang tính truyền thống, loại trừ những hủ tục lạc hậu,
không phù hợp: "Đời sống mới khơng phải cái gì cũng bỏ hết, khơng phải cái
gì mới cũng làm. Cái gì cũ mà khơng xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi
cho hợp lý.
6.3.Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế:
6.3.1.Vừa kháng chiến vừa kiến quốc. Chính tư tưởng này về sau, trong thời
kỳ đánh Mỹ, đã được tiếp tục thực hiện dưới khẩu hiệu “vừa chiến đấu vừa
sản xuất”.
6.3.2.Tư tưởng tự lực cánh sinh. VN bước vào cuộc kháng chiến trong tình
trạng “tứ cố vơ thân”. Do đó, tự lực cánh sinh có ý nghĩa cực kỳ quan trọng.
Kết quả của tư tưởng đó, như chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết:
“Ta phải làm tự cấp tự túc, dù nó phong tỏa 10 năm, 15 năm ta cũng không
sợ”. (1)
6.3.3.Tư tưởng lấy dân làm gốc. Ở Hồ Chí Minh, tư tưởng dân làm gốc được
hiểu theo cả hai mặt: phải dựa vào dân để phát triển kinh tế và phát triển kinh

tế là để phục vụ dân. Chính Hồ Chí Minh đã giải thích mối quan hệ này:
“Dựa vào lực lượng của dân, tinh thần của dân để gây hạnh phúc cho dân…”.
6.4.4.Tư tưởng nhiều thành phần kinh tế. Chữ dân trong tư tưởng Hồ Chí
Minh cũng chính là dân tộc. Dân tộc là một khối cộng đồng, gồm nhiều

12


thành phần giai cấp, nhiều thành phần kinh tế. Chủ trương nhiều thành phần
kinh tế chính là biểu hiện của tư tưởng đại đoàn kết trong lĩnh vực kinh tế.
6.5.5.Tư tưởng kinh tế mở.
Hồ Chí Minh là hiện tượng hiếm có ở những nước làm cách mạng vơ sản
mà lại có một cách nhìn bao dung, thân thiện với tồn bộ thế giới không cộng
sản. Không ai kiên cường đánh Pháp như Hồ Chí Minh, nhưng cũng khơng
có mấy ai ở VN lại có nhiều người bạn lớn của nước Pháp và các nước khác
như Hồ Chí Minh. Đối với tất cả các nước phương Tây, Hồ Chí Minh đều
tìm nhiều cách khác nhau để mở quan hệ hữu hảo. Đối với các nước Thế giới
thứ ba, ông cũng đặt quan hệ thân thiện, bầu bạn, anh em.

7.Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng
Cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư" là một phẩm chất đạo đức gắn liền
với các hoạt động hàng ngày của mọi người. Nhưng đối với những người
cách mạng, thì đây là một phẩm chất quan trọng nhất. Vì vậy, trong các tác
phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng phẩm chất này được
đề cập đến nhiều nhất, thường xun nhất. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thì
cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư có quan hệ mật thiết với nhau. Có khi
Người coi cần kiệm như hai chân của con người, phải đi đơi với nhau, có khi
Người coi cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính quan trọng của mỗi con
người, mà thiếu một đức tính thì khơng thành người. Đức tính cần kiệm được
thể hiện ngay trong các việc làm nhỏ nhất và thường nhật của Người.cách

mạng: Cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng, thì tự phê bình và phê
bình là một nguyên tắc không thể thiếu được trong xây dựng nền đạo đức
mới - đạo đức cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh những chuẩn mực chung nhất của nền đạo đức cách
mạng Việt Nam gồm những điểm sau:
Một là, trung với nước hiếu với dân.
Đây là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất và chi phối các phẩm
chất khác.
Từ khái niệm cũ "trung với vua, hiếu với cha mẹ" trong đạo đức truyền
thống của xã hội phong kiến phương Đơng, Hồ Chí Minh đưa vào đó một nội
dung mới, phản ánh đạo đức ngày nay cao rộng hơn là “Trung với nước hiếu
với dân”. Đó là một cuộc cách mạng trong quan niệm đạo đức.
“Trung với nước hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự
do của Tổ quốc vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hồn thành, khó
13


khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Câu nói đó của Người
vừa là lời kêu gọi hành động, vừa là định hướng chính trị-đạo đức cho mỗi
người Việt Nam không phải chỉ trong cuộc đấu tranh cách mạng trước mắt,
mà còn lâu dài về sau
Hai là, yêu thương con người
Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người rất tồn diện và độc đáo. Hồ
Chí Minh đã xác định tình yêu thương con người là một trong những phẩm
chất đạo đức cao đẹp nhất. Người dành tình yêu thương rộng lớn cho những
người cùng khổ. Những người lao động bị áp bức bóc lột, Người viết: "Tơi
chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được
hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn
áo mặc, ai cũng được học hành"

Tình yêu thương của Người còn thể hiện đối với những người có sai lầm
khuyết điểm. Với tấm lịng bao dung của một người cha, Người căn dặn,
chúng ta: "Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lịng ta, phải biết làm
cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị
mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng. Đối với những người có thói
hư tật xấu, từ hạng người phản lại Tổ quốc và nhân dân, ta cũng phải giúp họ
tiến bộ bằng cách làm cho cái phần thiện trong con người nảy nở để đẩy lùi
phần ác, chứ không phải đập cho tơi bời"
Trong Di chúc, Người căn dặn Đảng: Phải có tình đồng chí thương u
lẫn nhau, nhắc nhở mỗi cán bộ, đảng viên luôn luôn chú ý đến phẩm chất yêu
thương con người
Ba là, cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư.
Theo Hồ Chí Minh thì: Cần tức là lao động cần cù, siêng năng; lao
động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực
cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. Phải thấy rõ "lao
động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng
ta".
Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của
của dân, của nước, của bản thân mình; phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ,
nhiều cái nhỏ cộng lại thành cái to; "khơng xa xỉ, khơng hoang phí, khơng
bừa bãi", khơng phơ trương hình thức, khơng liên hoan, chè chén lu bù.
Liêm tức là "ln ln tơn trọng giữ gìn của công và của dân"; "không
xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân". Phải "trong
sạch, không tham lam". "Không tham địa vị. Không tham tiền tài. Khơng
tham sung sướng. Khơng ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh
chính đại, khơng bao giờ hủ hố".
Chính, "nghĩa là khơng tà, thẳng thắn, đứng đắn". Đối với mình: khơng
tự cao, tự đại, ln chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát
triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình.


14


Đối với người: khơng nịnh hót người trên, khơng xem khinh người
dưới, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đồn kết thật thà, khơng dối
trá, lừa lọc.
Đối với việc: để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà.
Chí cơng vơ tư, Người nói: "Đem lịng chí cơng vô tư mà đối với người,
với việc". “Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng
thụ thì mình nên đi sau”; phải "lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ".
Bốn là, tinh thần quốc tế trong sáng. Đó là, tinh thần đồn kết quốc tế
vơ sản, mà Hồ Chí Minh đã nêu lên bằng mệnh đề "Bốn phương vô sản đều
là anh em"; là tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao
động các nước, mà Hồ Chí Minh đã dày công vun đắp bằng hoạt động cách
mạng thực tiễn của bản thân mình và bằng sự nghiệp cách mạng của cả dân
tộc.
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng là một di sản tinh thần
vơ cùng q báu của Đảng và dân tộc ta. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh
về đạo đức cách mạng, vấn đề đặt ra không chỉ ở chỗ thừa nhận và khẳng
định những giá trị thực tiễn to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh, mà một điều
rất quan trọng là vận dụng và phát triển những giá trị tư tưởng đó vào sự
nghiệp xây dựng đội ngũ cán bộ của đất nước

8.Tư tưởng Hồ Chí Minh về bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời
sau
Trong suốt cuộc đời và sự nghiệp của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln
chăm lo xây dựng lực lượng cách mạng. Đó khơng chỉ là lực lượng trực tiếp
gánh vác và giải quyết những nhiệm vụ hiện tại, mà còn là đội ngũ kế cận,
nguồn bổ sung có đủ năng lực để kế thừa và tiếp tục phát triển sự nghiệp của
những thế hệ đi trước. Trong 'Di chúc', Người nhắc nhở toàn Đảng, tồn dân

phải ln ghi nhớ rằng, 'Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc
rất quan trọng và rất cần thiết'Luận điểm đó chứa đựng thế giới quan khoa
học của một lãnh tụ cách mạng, phản ánh tầm nhìn xa trơng rộng của một
nhà hiền triết, một nhà văn hóa lớn; nó đã trở thành một chân lý của cách
mạng.
Trong Di chúc Bác đã căn dặn toàn Đảng, toàn dân ta: Đảng cần phải chăm
lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ thành những người kế thừa xây dựng
chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”. Chăm lo đến thế hệ trẻ ở Hồ Chí
Minh là cần làm cho họ thấy được những thuận lợi, khó khăn phức tạp đang
và sẽ đặt ra cho họ mà họ cần phải thực hiện, có nhận thức được đầy đủ vấn
đề đó, thế hệ trẻ mới có quyết tâm và nghị lực để làm lên sự nghiệp lớn.

15


9.Tư tưởng của Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong sạch vững
mạnh:
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập ra Đảng cộng sản Việt Nam
(ĐCSVN). Suốt cả cuộc đời của mình, Hồ Chí Minh ln ln kiên định
quan điểm và lập trường xây dựng ĐCSVN theo chủ nghĩa Mác - Lênin và
rèn luyện ĐCSVN theo hướng đó. Đó là " Đảng của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động, nghĩa là những thợ thuyền, dân cày và lao động trí óc
kiên quyết nhất, hăng hái nhất, trong sạch nhất, tận tâm, tận lực phụng sự Tổ
quốc và nhân dân".
Vì vậy muốn xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, theo Người, trước
tiên là phải tuân thủ theo các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng. Đó là
nguyên tắc tập trung dân chủ. Hồ Chí Minh lý giải vấn đề tập trung trong
Đảng là : Thiểu số phải phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, tất cả
đảng viên phải chấp hành vô điều kiện Nghị quyết của Đảng. Bên cạnh đó,
Hồ Chí Minh nhấn mạnh phải chú ý thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng.

Người nói : “ Phải thật sự mở rộng dân chủ để tất cả đảng viên bày tỏ hết ý
kiến của mình...".
Nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng là sự thống nhất biện chứng giữa
dân chủ và tập trung, tập trung phải trên cơ sở dân chủ và dân chủ phải dưới
sự chỉ đạo của tập trung. Có dân chủ trong Đảng mới có dân chủ ở ngồi xã
hội song dân chủ khơng phải là vơ chính phủ.
Về "ngun tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”, theo quan điểm của
Người, chỉ có tập thể lãnh đạo mới huy động được tất cả trí tuệ của đội tiên
phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của tồn dân tộc, vì "
một người dù khơn ngoan tài giỏi đến mấy, dù nhiều kinh nghiệm đến đâu
cũng chỉ trông thấy, xem xét được một hoặc nhiều mặt của một vấn đề,
không thể trông thấy và xem xét tất cả mọi mặt của một vấn đề. Vì vậy cần
phải có nhiều người, nhiều người thì nhiều kinh nghiệm. Người thì thấy rõ
mặt này, người thì trơng thấy rõ mặt khác của vấn đề đó, góp kinh nghiệm và
xem xét của nhiều người thì vấn đề đó được thấy rõ khắp mọi mặt và có thấy
rõ khắp mọi mặt thì vấn đề mới giải quyết chu đáo khỏi sai lầm”. Nhưng theo
Người, “ tập thể lãnh đạo" mới chỉ là một vế. Người cho rằng : " Tập thể lãnh
đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn đi đơi với nhau". Bởi lẽ "... Nếu
khơng có cá nhân phụ trách thì sẽ sinh ra cái tệ người này uỷ cho người kia,
người kia uỷ cho người nọ, kết quả là khơng ai thi hành. Như thế thì việc gì
cũng khơng xong. Tục ngữ có câu " Nhiều sãi khơng ai đóng cửa chùa" là
như thế".

16


Về nguyên tắc tự phê bình và phê bình, theo Hồ Chí Minh đây là vũ khí
sắc bén nhất để làm cho Đảng ta trong sạch vững mạnh và là quy luật phát
triển của Đảng. Người nhận thức sâu sắc rằng, tuy Đảng ta gồm những người
có tài, có đức, phần đông là những người hăng hái nhất, thông minh nhất,

yêu nước nhất ..., nhưng " không phải là người người đều tốt, việc việc đều
hay”, do vậy trong Đảng phải ln ln tự phê bình và phê bình, mà phê bình
và tự phê bình " phải ráo riết", " triệt để, thật thà, không nể nang, không thêm
bớt". Cách phê bình cũng phải thành thật, giàu lịng nhân ái, khách quan.
Thái độ phê bình phải có văn hố, mang tính chất xây dựng chứ khơng phải
nói xấu nhau. Những người bị phê bình thì phải vui vẻ nhìn nhận để sửa
chữa. Được như vậy thì trong Đảng sẽ khơng có bệnh mà Đảng sẽ khoẻ
mạnh vơ cùng.
Thứ hai là tư cách đảng viên và vấn đề cán bộ. Vấn đề tư cách của người
đảng viên, Hồ Chí Minh đề cập thường xuyên trên tất cả các mặt, nhưng bao
giờ Người cũng coi đạo đức là gốc của người cộng sản: Đạo đức đó khơng
phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó khơng phải vì
danh vọng cá nhân mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của lồi
người". Có thể nói cả cuộc đời Hồ Chí Minh là tấm gương sáng ngời về phấn
đấu, rèn luyện cho đạo đức của người cộng sản - Đó là cần, kiệm, liêm,
chính, chí cơng vơ tư; Nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm mà bất cứ một người đảng
viên nào cũng phải phấn đấu học tập và noi theo.
Còn về vấn đề cán bộ, Hồ Chí Minh coi “ cán bộ là cái gốc của mọi công
việc", " muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém". Yêu
cầu của Hồ Chí Minh đối với cán bộ cách mạng là : Có đạo đức cách mạng Đây là yêu cầu đầu tiên cần phải có của người cán bộ; Có năng lực lãnh đạo,
tổ chức thực hiện đường lối chủ trương của Đảng, có trình độ chun mơn và
nghiệp vụ giỏi; Có mối liên hệ mật thiết với nhân dân; Ln luôn học hỏi lý
luận Mác - Lênin, học tập nâng cao trình độ chun mơn kỹ thuật. Phải có
phong cách công tác tốt, chống bệnh chủ quan, tác phong quan liêu, đại
khái...
Đồng thời với những quan điểm về cán bộ, Hồ Chí Minh cũng nêu ra
những yêu cầu đối với cơng tác cán bộ. Đó là phải " hiểu và đánh giá đúng
cán bộ". Muốn vậy phải có những chuẩn mực phù hợp với từng thời kỳ, từng
địa phương, từng lĩnh vực, hồn tồn cơng minh, khách quan; Phải " khéo
dùng cán bộ", tức là đặt người đúng việc, kết hợp cán bộ trẻ với cán bộ già;

Chống chủ nghĩa biệt phái, địa phương cục bộ trong chính sách cán bộ, tránh
đầu óc phe phái họ hàng; Phải " chiêu hiền đãi sĩ", " cầu người hiền tài", " có
gan cất nhắc cán bộ". Xem xét kỹ trước khi cất nhắc cán bộ, nhưng sau khi
đề bạt cần phải kiểm tra giúp đỡ.

17


Thứ ba là tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân. Hồ Chí Minh
nhấn mạnh, sức mạnh của Đảng chính là bắt nguồn từ mối liên hệ máu thịt
giữa Đảng và nhân dân. Đảng ở trong dân, dân trong Đảng. Sự nghiệp cách
mạng là của dân, do dân và vì dân. Mọi thắng lợi của sự nghiệp cách mạng
đều bắt nguồn từ sức mạnh của nhân dân được Đảng dẫn lối chỉ đường. Đảng
là người đại diện trung thành và đầy đủ nhất lợi ích sống cịn và nguyện vọng
chân chính của nhân dân. Đảng lấy phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân làm
mục đích cao nhất của mình.

B. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mặt thực tiễn:
1.Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh giành thắng lợi có ý
nghĩa lịch sử vĩ đại và tính thời đại sâu sắc, là tài sản tinh thần to lớn của
Đảng và dân tộc ta. Cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và nhân
dân Việt Nam.
Hồ Chí Minh khơng phải là người Việt Nam đầu tiên yêu nước, nhưng
công lao chính của Người là đã nâng chủ nghĩa yêu nước Việt Nam lên tầm
cao mới khi những vấn đề của thời đại tác động vào dân tộc Việt Nam và
những vấn đề mà dân tộc Việt Nam đòi hỏi. Ở Hồ Chí Minh, đức, tài, tâm,
bản lĩnh, nhân cách, p Hồ Chí Minh cho rằng, chủ nghĩa yêu nước và chủ
nghĩa anh hùng là một trong những biểu hiện rõ nhất của phẩm chất cách
mạng Việt Nam.

Giữa lúc cách mạng Việt Nam lâm vào tình trạng bế tắc về đường lối,
Nguyễn Tất Thành (Nguyễn Ái Quốc) là người Việt Nam yêu nước đầu tiên
tìm ra con đường cứu dân, cứu nước. Sau gần 10 năm tìm đường cứu nước,
đặt chân lên nhiều châu lục, tiến hành khảo sát chủ nghĩa thực dân, đế quốc ở
các nước tư bản chủ yếu và nhiều nước thuộc địa của chúng, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã sớm nhận thức được xu hướng phát triển của thời đại; từ một người
yêu nước nồng nhiệt, Người đã bắt gặp chủ nghĩa Mác-Lênin và trở thành
người Cộng sản. Từ đó Người đã rút ra kết luận: Muốn cứu nước và giải
phóng dân tộc khơng có con đường nào khác con đường cách mạng vơ sản.
Đó là con đường cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới do Đảng tiên phong của
giai cấp công nhân lãnh đạo nhằm đánh đổ đế quốc và phong kiến tay sai,
giành độc lập dân tộc, thực hiện người cày có ruộng, sau đó tiến lên làm cách
mạng xã hội chủ nghĩa, thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa Cộng sản ở
Việt Nam. Đó là đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội, kết hợp chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công
nhân, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại nhằm đi tới mục tiêu
cao cả là giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người.

18


Tư tưởng “Khơng có gì q hơn độc lập tự do” là điểm xuất phát của Tư
tưởng Hồ Chí Minh. Dưới ánh sáng Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề
thuộc địa của Lênin và tấm gương cách mạng Tháng Mười Nga, Người đã
khẳng định: Chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa Cộng sản mới giải phóng
được các dân tộc bị áp bức và giai cấp cơng nhân tồn thế giới. Cách mạng
giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải thực hiện được sự liên minh chiến
đấu giữa vô sản ở thuộc địa với vô sản ở chính quốc nhịp nhàng như hai cánh
của một con chim. Cách mạng ở thuộc địa không chỉ trông chờ vào kết quả
của cách mạng vơ sản ở chính quốc mà phải tiến hành song song với cách

mạng ở chính quốc, hơn nữa nó cần phải chủ động và có thể giành thắng lợi
trước, và bằng thắng lợi của mình nó có thể đóng góp vào sự nghiệp giải
phóng anh em vơ sản ở phương Tây.
Đó là một luận điểm sáng tạo mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cống hiến vào
sự phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về cách mạng giải phóng dân
tộc ở thuộc địa. Người cũng đã cùng với Đảng đề ra và giải quyết đúng đắn
nhiều vấn đề về chiến lược và sách lược, dẫn đến thắng lợi lịch sử của cách
mạng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc gắn bó thống nhất với tư
tưởng của Người về chủ nghĩa xã hội. Người khẳng định: Cách mạng giải
phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới
giành được thắng lợi hoàn toàn
Tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tổng hợp
những quan điểm chiến lược có ý nghĩa chỉ đạo lớn về chính trị và lý luận, về
nhận thức và hành động của toàn Đảng, toàn dân ta trong toàn bộ tiến trình
cách mạng Việt Nam. Đây là một đóng góp về lý luận vào kho tàng của chủ
nghĩa Mác-Lênin, vào lý luận cách mạng xã hội trong thời đại ngày nay.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam đang được Đảng ta vận dụng sáng tạo vào sự nghiệp đổi mới
hiện nay, nhằm ra sức phát triển kinh tế, văn hoá làm cho dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, giữ vững độc lập chủ quyền và
tòan vẹn lãnh thổ, xây dựng thành cơng chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta,
góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hồ
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Để bảo đảm cho cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã ra sức chăm lo xây dựng lực lượng cách mạng. “ Trước hết phải có
Đảng cách mệnh...Đảng có vững cách mệnh mới thành cơng”. Tư tưởng Hồ
Chí Minh về Đảng Cộng sản lãnh đạo, đặc biệt trong điều kiện Đảng đã nắm
chính quyền, là một đóng góp mới vào lý luận xây dựng đảng kiểu mới của
19



giai cấp công nhân. Để xứng đáng là Đảng lãnh đạo, Người nêu yêu cầu phải
xây dựng Đảng ta thành một đảng to lớn, mạnh mẽ, chắc chắn, trong sạch,
cách mạng triệt để. Người luôn luôn nhấn mạnh đảng viên phải suốt đời làm
người con trung thành của Đảng, người đầy tớ tận tuỵ của nhân dân. Người
đòi hỏi Đảng ta một mặt phải ra sức nâng cao trí tuệ cho ngang tầm nhiệm vụ
lịch sử, mặt khác phải trau dồi đạo đức cách mạng, không ngừng tăng cường
mối liên hệ máu thịt với nhân dân. Đảng chỉ có thể hồn thành sứ mệnh lịch
sử của mình nếu biết tập hợp, đoàn kết các tầng lớp nhân dân trong một mặt
trận dân tộc thống nhất rộng rãi chống kẻ thù chung và xây dựng đất nước.
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đồn kết. Thành cơng, thành cơng, đại thành cơng” .
Luận điểm nổi tiếng này của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành tư tưởng chỉ
đạo chiến lược xuyên suốt cả q trình cách mạng Việt Nam. Tư tưởng đại
đồn kết của Hồ Chí Minh cùng với đạo đức và nhân cách vô cùng cao
thượng và trong sáng của Người đã quy tụ được khối đại đoàn kết toàn dân
tộc, đấu tranh vì thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Đại đoàn kết dân tộc là
một chiến lược cơ bản, lâu dài, trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân,
cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng đại đồn kết của Hồ
Chí Minh mãi mãi là một sức mạnh làm nên thắng lợi của cách mạng Việt
Nam.
Hồ Chí Minh là người sáng lập Đảng, Mặt trận, Quân đội, đồng thời cũng là
người sáng lập Nhà nước Việt nam Dân chủ Cộng hoà, nhà nước của dân, do
dân, vì dân. Người ln ln coi trọng bản chất giai cấp công nhân của nhà
nước, và cũng luôn nhấn mạnh tính dân tộc, tính nhân dân sâu sắc của nhà
nước. Là nhà yêu nước vĩ đại, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng là nhà quốc tế chủ
nghĩa trong sáng, hiện thân của tư tưởng về kết hợp sức mạnh dân tộc và sức
mạnh thời đại. Người nói: Cách mệnh Việt Nam cũng là một bộ phận trong
cách mệnh thế giới. Ai làm cách mệnh trên thế giới đều là đồng chí của dân
Việt Nam.

Hồ Chí Minh bàn nhiều đến đạo đức và vai trò của đạo đức trong dấu
tranh cách mạng. Người chỉ rõ: Đạo đức là cái gốc của người cách mạng.
Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành
được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là một
thể thống nhất giữa đạo đức với chính trị, đạo đức với tài năng, giữa nói và
làm, giữa đạo đức cách mạng và đạo đức đời thường. Tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh là một bộ phận rất quan trọng trong Tư tưởng Hồ Chí Minh, có sức
sống mãnh liệt, đã sớm đi vào nhân dân, được nhân dân tiếp nhận. Cùng với
tư tưởng đạo đức, tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là một đóng góp có giá trị
vào triết học về con người của chủ nghĩa Mác-Lênin. Chủ tịch Hồ Chí Minh
nói: Tơi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta
được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn tồn tự do, đồng bào ai cũng có
cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành.
20


Tính khoa học và tính cách mạng sáng tạo của Tư tưởng Hồ Chí Minh đã
được lịch sử kiểm chứng. Trải qua những biến động của thời cuộc, Tư tưởng
Hồ Chí Minh càng chứng tỏ giá trị và sức sống mãnh liệt của nó. Tư tưởng
Hồ Chí Minh là tinh hoa của dân tộc Việt Nam, là niềm tự hào của Đảng ta
và nhân dân ta. Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí
Minh, tồn Đảng, toàn dân càng vững tin vào thắng lợi của sự nghiệp đổi
mới do Đảng lãnh đạo
Ngày nay, khi sự nghiệp đổi mới ở nước ta ngày càng đi vào chiều sâu,
những biến chuyển trên thế giới ngày càng lớn, những vấn đề mới đặt ra
trong đời sống xã hội ngày càng nhiều, địi hỏi phải làm sáng tỏ, thì việc
nghiên cứu, học tập, bảo vệ, vận dụng và phát triển Tư tưởng Hồ Chí Minh
vào thực tế cuộc sống, trở thành nhiệm vụ quan trọng, cấp bách trong cơng
tác chính trị, tư tưởng, lý luận của toàn Đảng, toàn dân ta.
2.Di sản của Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho tồn Đảng, tồn dân ta vơ

cùng đồ sộ, phong phú và quý giá, trong đó tư tưởng, lý luận cũng như tấm
gương đạo đức cao đẹp của Người là một bộ phận vô cùng quý báu và
thiêng liêng.
Những nội dung đạo đức cách mạng của Người dạy và nêu gương đối với
các thế hệ cán bộ, đảng viên vô cùng phong phú, sâu sắc, nhưng hết sức cụ
thể, thiết thực, ai cũng có thể hiểu, có thể học và có thể noi theo.
Trải qua nhiều thập kỷ hoạt động cách mạng đầy giông bão, chịu đựng biết
bao hy sinh gian khổ, để hết lòng phục vụ tổ quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
trở thành người thày vĩ đại của cách mạng Việt Nam, người cha thân yêu của
lực lượng vũ trang, anh hùng giải phóng dân tộc và Danh nhân văn hóa thế
giới.

C.Tư tưởng Hồ Chí Minh về thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn
Hồ Chí Minh cho rằng, để quán triệt tốt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn thì trước hết cần khắc phục bệnh kém lý luận, bệnh khinh lý
luận. Bởi lẽ, kém lý luận, khinh lý luận nhất định sẽ dẫn tới bệnh kinh
nghiệm, kém thực tiễn. Hơn nữa, khơng có lý luận thì trong hoạt động thực
21


tiễn người ta dễ chỉ dựa vào kinh nghiệm, dễ dẫn tới tuyệt đối hoa kinh
nghiệm, cho kinh nghiệm là yếu tố quyết định thành công trong hoạt động
thực tiễn.

III.KẾT LUẬN

Tên tuổi và sự nghiệp của Hồ Chí Minh đã thực sự là ngọn cờ trong
khối óc và trái tim cửa người Việt Nam của dân tộc Việt Nam. Giương cao
ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh để vẫy gọi và quy tụ mọi tấm lòng Việt Nam

22


vốn nặng lịng vì q hương, đất nước. Những người đã trải qua sự thử
thách trong gần nửa thế kỷ chiến đấu và chiến thắng. Những người với
những hoàn cảnh và điếu kiện khác nhau đã gửi gắm tình yêu nước thương
nịi của mình trong nhiều hành động và nghĩa cử không ai giống ai. Làm cho
mọi giọt máu của mỗi người Việt Nam cùng chảy về trái tim của dân tộc để
rồi toả đi khắp bốn phương nuôi dưỡng hành động vì nghĩa lớn đất nước.
Làm được điều đó cũng là cách tao nên được sự đồng thuận xã hội sâu sắc
và rộng lớn, có sức vẫy gọi và hội được khối đại đoàn kết toàn dân tộc
hường về mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội dân chủ cơng bằng văn
minh.
"Tư tưởng Hồ Chí Minh" khơng khép kín, tự đủ, không nhất thành bất
biến mà luôn luôn phát triển với dân tộc và thế giới. Phải biết làm cho tư
tường Hồ Chí Minh sống trong cuộc sống của mọi người Việt Nam, tiếp tục
cho nghị lực và tâm hồn của mỗi con người đang xây dựng cuộc sống của
mình, gia đình mình và góp phần vào sự nghiệp chung của đất nước.
Thời gian đủ để kiểm nghiệm độ chính xác và sự tường minh của một
tư tưởng, trải qua những biến động dồn dập cả trong nước và trên thế giới
vẫn chứng minh được sức bền, độ “chín” của tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là
sự kết tinh trí tuệ và khí phách của một dân tộc, là sự tiếp nhận và hội tụ
những tinh hoa của tư tưởng mà lồi người đã giữ lại qua q trình tiếp biến,
thanh lọc và kiểm nghiệm. Vì thế nó đủ tầm cao của sự khái quát của lý luận
và đường hướng phát triển, vừa gần gũi, đi thẳng vào lòng người Việt Nam
vì nó diễn đạt được chân lý của cuộc sống.
một lâ Thêm một lần nữa càng thêm khẳng định: Tư tưởng HCM là
một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về nhưng vấn đề cơ bản của
cách mang việt nam.Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh
của nhân dân ta giành thắng lợi và là tài sản to lớn của đảng và dân tộc ta.


23


TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
BỘ MÔN MAC-LÊNIN VÀ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

TIỂU LUẬN
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ TÀI: LÝ LUẬN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÊ NHỮNG

VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Họ và tên: NGUYỄN VIẾT DOANH
Sinh viên:Tổ 1 Lớp Y6A
Ngày thực hiện:09-04-2009

Hà nội 09-04-2009
24



×