Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Dàn ý phân tích vợ chồng a phủ của tô hoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (328.67 KB, 15 trang )

Dàn ý phân tích Vợ chồng A Phủ của Tơ Hồi
Tham khảo Dàn ý phân tích Vợ chồng A Phủ của Tơ Hồi, tổng hợp đầy đủ dàn ý chung và
những bài văn cảm nhận ngắn gọn, chi tiết, hay nhất. Qua các bài văn mẫu sẽ giúp các bạn hiểu
rõ hơn về tác phẩm, cùng tham khảo nhé!

Mục lục nội dung
Dàn ý phân tích Vợ chồng A Phủ của Tơ Hồi - Mẫu số 1

Dàn ý phân tích Vợ chồng A Phủ của Tơ Hồi - Mẫu số 2

Dàn ý phân tích Vợ chồng A Phủ của Tơ Hồi - Mẫu số 3

Dàn ý phân tích Vợ chồng A Phủ của Tơ Hồi - Mẫu số 4

Dàn ý phân tích Vợ chồng A Phủ của Tơ Hồi - Mẫu số 5

Phân tích Vợ chồng A Phủ của Tơ Hồi


Dàn ý phân tích Vợ chồng A Phủ của Tơ Hoài - Mẫu số 1


Mở bài
- Giới thiệu về tác giả Tơ Hồi (tiểu sử, các tác phẩm chính, phong cách nghệ thuật…)
- Giới thiệu về truyện “Vợ chồng A Phủ” (hoàn cảnh ra đời, khái quát giá trị nội dung và giá trị
nghệ thuật)
Thân bài
2.1 Nhân vật Mị
* Cảnh ngộ của nhân vật Mị:
- Mị là con dâu gạt nợ của nhà Thống lí: cha mẹ nghèo, khơng trả được nợ (món nợ từ ngày cưới,
lớn dần lên vì nặng lãi), Mị làm dâu gạt nợ cho cha mẹ.


- Mị chỉ biết làm những công việc mà quanh năm ngày tháng làm đi làm lại, làm khơng ngưng
nghỉ: Con trâu con ngựa nó cịn có lúc đứng gãi chân nhai cỏ chứ đàn bà nhà này thì làm khơng
nghỉ tay.
- Mị sống trong một căn phịng chỉ có một ơ vng bằng bàn tay để nhìn ra ngồi cũng khơng thể
biết được trời nắng hay mưa chỉ thấy mờ mờ, trăng trắng.
* Tâm trạng và hành động:
Tâm trạng và hành động của Mị cho thấy, trong Mị có một sức sống tiềm tàng vẫn ln âm ỉ, đó
là khát vọng tự do, khát vọng hạnh phúc dẫu còn tự phát và bản năng. Khát vọng đó rất mãnh liệt
và khi có cơ hội sẽ bùng phát.
* Sức sống tiềm tàng trong nhân vật Mị:
- Đâu đó trong cõi sâu tâm hồn người đàn bà câm lặng vì cơ cực, khổ đau ấy vẫn tiềm tàng một
cô Mị ngày xưa, một cô Mị trẻ đẹp như đoá hoa rừng đầy sức sống, một người con gái trẻ trung,
giàu đức hiếu thảo. Ngày ấy, tâm hồn yêu đời của Mị được gửi vào tiếng sáo: "Mị thổi sáo giỏi,
thổi lá cũng hay như thổi sáo".
- Ở Mị, khát vọng tình u tự do ln ln mãnh liệt. Nếu không bị bắt làm con dâu gạt nợ, khát
vọng của Mị sẽ trở thành hiện thực bởi "trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị", Mị đã
từng hồi hộp khi nghe tiếng gõ cửa của người yêu. Mị đã bước theo khát vọng của tình yêu
nhưng không ngờ sớm rơi vào cạm bẫy.
- Bị bắt về nhà thống lí, Mị định tự tử. Mị tìm đến cái chết chính là cách phản kháng duy nhất
của một con người có sức sống tiềm tàng mà khơng thể làm khác trong hồn cảnh ấy. "Mấy
tháng rịng đêm nào Mị cũng khóc". Mị trốn về nhà cầm theo một nắm lá ngón. Chính khát vọng
được sống một con người đúng nghĩa khiến Mị không chấp nhận cuộc sống bị chà đạp, bị đối xử
bất công như một con vật.


=> Tất cả những phẩm chất trên đây sẽ là tiền đề, là cơ sở cho sự trỗi dậy của Mị sau này. Chế
độ phong kiến nghiệt ngã cùng với tư tưởng thần quyền có thể giết chết mọi ước mơ, khát vọng,
làm tê liệt cả ý thức lẫn cảm xúc con người nhưng từ trong sâu thẳm, bản chất người vẫn ln
tiềm ẩn và chắc chắn nếu có cơ hội sẽ thức dậy, bùng lên.
* Sự trỗi dậy của lòng ham sống và khát vọng hạnh phúc ở Mị:

Những yếu tố tác động đến sự hồi sinh của Mị:
- Cảnh sắc của Hồng Ngài trong những ngày xuân: "Những chiếc váy hoa đã đem phơi trên mỏm
đá, xòe như bướm sặc sỡ, hoa thuốc phiện vừa nở trắng lại đổi ra màu đỏ au, đỏ thậm rồi sang
màu tím man mác", "Đám trẻ đợi tết chơi quay cười ầm trên sân chơi trước nhà."
- Rượu là chất xúc tác trực tiếp để tâm hồn yêu đời, khát sống của Mị trỗi dậy. "Mị đã lấy hũ
rượu uống ừng ực từng bát một". Mị vừa như uống cho hả giận vừa như uổng hận, nuốt hận. Hơi
men đã dìu tâm hồn Mị theo tiếng sáo.
- Trong đoạn diễn tả tâm trạng hồi sinh của Mị, tiếng sáo có một vai trò đặc biệt quan trọng: "Mị
nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha, bồi hồi. Mị ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang hỏi".
"Ngày trước Mị thổi sáo giỏi... Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo", "Tai Mị
vang tiếng gọi bạn đầu làng", "mà tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường", "Mị vẫn
nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi", "trong đầu Mị rập rờn tiếng
sáo"...
* Diễn biến tâm trạng Mị trong đêm tình mùa xuân:
- Dấu hiệu đầu tiên của việc sống lại đó là Mị nhớ lại quá khứ, nhớ về hạnh phúc ngắn ngủi trong
cuộc đời tuổi trẻ của mình và niềm ham sống trở lại: "Mị còn phơi phới trở lại, lòng đột nhiên
vui sướng như những đêm đến ngày trước". "Mị còn trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ lắm. Mị muốn đi
chơi". Mị đã ý thức được tình cảnh đau xót của mình: "Nếu có nắm lá ngón trong tay Mị sẽ ăn
cho chết"...
- Từ những sôi sục trong tâm tư đã dẫn Mị tới hành động "lấy ống mỡ xắn một miếng bỏ thêm
vào đĩa dầu". Mị muốn thắp lên ánh sáng cho căn phòng bấy lâu chỉ là bóng tối. Mị muốn thắp
lên ánh sáng cho cuộc đời tăm tối của mình.
- Hành động này đẩy tới hành động tiếp: Mị "quấn tóc lại, với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía
trong vách".
- Mị đang chuẩn bị sắm sửa để đi chơi nhưng rồi bị A Sử cấm, hắn nhẫn tâm trói đứng Mị vào
cột nhà, Mị vẫn đang ru mình trong đêm xn. Tiếng ngựa ngồi kia làm cho Mị tỉn giấc, nàng
đã trở lại với hiện tại đau khổ cả về thể xác lẫn tinh thần.
* Diễn biến tâm lí trong đêm đơng:



- Trước cảnh A Phủ bị trói, ban đầu Mị hồn tồn vơ cảm: "Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay",
vì cảnh tượng ấy đã diễn ra trong nhà Thơng lí thường xun.
- Nhưng "Mị lé mắt trơng sang... một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen
lại", giọt nước mắt tuyệt vọng của A Phủ đã giúp Mị nhớ lại mình, nhận ra mình, xót xa cho
mình và thương người đồng cảnh. Lịng thương người trắc ẩn và tình giai cấp đã khiến Mị có
hành động mạnh bạo: cắt dây cởi trói cứu A Phủ.
- Hệ quả tất yếu là Mị phải chạy trốn theo A Phủ, vì Mị biết: "ở đây thì chết mất".
- Cắt dây cởi trói cứu A Phủ và cùng A Phủ chạy trốn khỏi Hồng Ngài của Mị là hành động vùng
dậy tự phát của người nô lệ miền núi cao Tây Bắc, phản ứng lại đối với sự cai trị tàn bạo của bọn
thống trị, nhằm mục đích tự giải phóng.
2.2 Nhân vật A Phủ
* Xuất thân của A Phủ
- Khốn khó, mồ cơi cha mẹ, sống tự do, khỏe mạnh, siêng năng, giàu bản lĩnh, nhưng không kiêu
ngạo, là “con trâu tốt” của bản Mường, nhưng vì nghèo nên khơng lấy được vợ.
- Là con người không bao giờ chùn bước trước cường quyền, bạo chúa. A Phủ biết A Sử là con
thống lí nhưng vẫn ra tay đánh, vẫn phải trừng trị kẻ xấu, kẻ gây rối.
* Trải qua những ngày tháng đọa đày cùng cực trong nhà thống lí
- Sau việc đánh con quan làng, A Phủ đã nhận lấy những trận đòn kinh người của nhà thống lí, A
Phủ dù bị đánh đập nhưng không hề kêu van, xin tha đến nửa lời. Anh rất cứng đầu, mạnh bạo và
không chịu khuất phục.
- Bị phạt vạ, A Phủ thành người ở không công quần quật với công việc: “đốt rừng, cày nương,
cuốc mương, săn bị tót, bẫy hổ, chăn bị, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình bơn ba rong
ruổi ngồi gị, ngồi rừng”. Nhưng anh khơng hề nói lại nửa lời mà chấp nhận vì bọn chúa đất
đày đọa, áp bức nhân dân quá trơ trẽn. A Phủ chấp nhận cũng vì chính A Phủ cũng khơng có gia
đình, có nhà, hơn nữa, anh đã gây lên tội thì cũng phải chịu phạt.
- Khi bị hổ vồ mất bò, A Phủ nhất quyết cãi lại lời thống lí, quyết tâm đi bắt hổ. Nhưng cuối
cùng anh đành phải tự tay đóng cọc để người ta trói mình. Đau khổ cùng cực đến nỗi khi Mị nhìn
sang thì thấy “một dịng nước lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đem lại”, “thở phè từng hơi,
không biết mê hay tỉnh”.
* Nổi bật ở A Phủ là một sức phản kháng mãnh liệt

- Điều này thống nhất với bản tính gan góc từ nhỏ: cả nhà chết hết vì bệnh dịch, làng chết và đói
nên “người làng đói bụng bắt A Phủ đem xuống bán đổi lấy thóc của người Thái dưới cánh


đồng. A Phủ mới mười tuổi, nhưng A Phủ ngang bướng, không chịu ở dưới cánh đồng thấp. A
Phủ trốn lên núi, lưu lạc ở Hồng Ngài”.
- Trong đêm tình mùa xuân, trước việc gây chuyện của đám trai làng do A Sử cầm đầu, A Phủ đã
gan góc ”vung tay ném con quay rất to vào mặt A Sử”, “xộc tới, nắm cái vòng cổ, kéo đập đầu
xuống đất, xé vai áo, đánh tới tấp”. Hành động này thật dũng cảm, dẫu chỉ là bộc phát. A Phủ
thể hiện mình khơng chịu nhục trước thế lực cường quyền.
- Đặc biệt khi được Mị cởi trói, mặc dù rất đau đớn đến “khuỵu xuống, khơng bước nổi”, trong
người khơng cịn sức lực do phải chịu cực hình, trói đứng và nhịn đói, nhưng anh đã “quật sức
vùng lên chạy”; cùng với Mị tự giải thốt khỏi nhà thống lí. Khát vọng, sức sống từ người phụ
nữ cùng cảnh ngộ đã thổi bùng trở lại sức sống và khát vọng tự do ở người con trai mang bản
chất tốt đẹp này.
Kết bài
Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của văn bản

Dàn ý phân tích Vợ chồng A Phủ của Tơ Hồi - Mẫu số 2
a) Mở bài
- Tơ Hồi là nhà văn có lối trần thuật hóm hỉnh, ông có sở trường về loại truyện phong tục và hồi
kí.
- Vợ chồng A Phủ được in trong tập Truyện Tây Bắc, tác phẩm là sự phản ánh nỗi khổ của đồng
bào Tây Bắc dưới ách thống trị của thực dân Pháp, đồng thời ngợi ca vẻ đẹp con người nơi đây.
b) Thân bài
* Phân tích nhân vật Mị
- Trước khi trở thành con dâu gạt nợ
+ Mị là cô gái người Mơng trẻ trung, hồn nhiên, có tài thổi sáo.
+ Mị đã từng yêu, luôn khao khát đi theo tiếng gọi của tình yêu.
+ Hiếu thảo, chăm chỉ, ý thức được giá trị cuộc sống tự do nên sẵn sàng làm nương ngô trả nợ

thay cho bố.
- Từ khi trở thành con dâu gạt nợ


+ Nguyên nhân: món nợ truyền kiếp từ thời cha mẹ Mị, tục cướp vợ của người Mông đem về
cúng trình ma. Người lao động bị cả cường quyền và thần quyền buộc chặt.
+ Mị phải chịu những đày đọa về thể xác: phải làm việc không kể ngày đêm, “không bằng con
trâu con ngựa” ; bị đánh đập dã man: bị trói, đạp vào mặt, ...
+ Mị dần trở nên chai sạn với nỗi đau: một cô gái lúc nào cũng “mặt buồn rười rượi”, không
quan tâm đến thời gian (hình ảnh ơ cửa sổ), sống lầm lũi “như con rùa ni trong xó cửa”, “ở lâu
trong cái khổ Mị quen rồi”.
+ Trong đêm hội mùa xuân ở Hồng Ngài, sức sống của Mị đã trỗi dậy:
Âm thanh cuộc sống bên ngoài (tiếng trẻ con chơi quay, tiếng sáo gọi bạn tình, ..) đánh thức
những kỉ niệm trong quá khứ.
Mị ý thức được sự tồn tại của bản thân “thấy phơi phới trở lại”, “Mị còn trẻ lắm ...”, với khát
khao tự do, thắp sáng căn phòng tối, muốn “đi chơi tết” chấm dứt sự tù đày.
Khi bị A Sử trói, lịng Mị vẫn lửng lơ theo tiếng sáo, tiếng hát của tình yêu đến những đám chơi.
Lúc vùng dậy cô chợt tỉnh trở về với hiện thực.
=> Mị luôn tiềm tàng sức sống mãnh liệt, sức sống ấy ln âm ỉ trong lịng người con gái Tây
Bắc và chỉ chờ có cơ hội để bùng lên mạnh mẽ.
+ Khi A Phủ làm mất bị, bị phạt trói đứng:
Ban đầu Mị dửng dưng bởi sau đêm tình mùa xuân, cô trở lại là cái xác không hồn.
Khi thấy giọt nước mắt của A Phủ khiến Mị đồng cảm, chợt nhớ đến hồn cảnh của mình trong
q khứ, Mị lại biết thương mình và thương cho kiếp người bị đày đọa “có lẽ ngày mai người kia
sẽ chết, chết đau,... phải chết”.
Bất bình trước tội ác của bọn thống lí, Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ. Mị sợ cái chết, sợ nhà
thống lí, cơ chạy theo A Phủ tìm lối thốt.
=> Mị là người con gái lặng lẽ mà mạnh mẽ, hành động của Mị đã đạp đổ cường quyền, thần
quyền của bè lũ thống trị miền núi.
* Phân tích nhân vật A Phủ

- Số phận:
+ Mồ cơi cha mẹ, khơng cịn người thân
+ Lớn lên đi làm thuê, sau đó trở thành người ở gạt nợ nhà thống lí Pá Tra.


+ Khi trở thành người ở gạt nợ:
Nguyên nhân: đánh con quan, thua cuộc trong vụ xử kiện quái gở.
A Phủ chịu sự đày đọa về mặt thể chất: phải làm những công việc nặng, nguy hiểm: “đốt rừng,
cày nương, săn bị tót,...”, khơng có giá trị bằng một con bị, làm mất bị mà bị trói đứng đến
chết.
- Tích cách:
+ Lúc nhỏ mạnh mẽ, gan bướng: khi bị bán xuống cánh đồng thấp lại trốn lên núi cao
+ Lớn lên là chàng trai khỏe mạnh chăm chỉ, tháo vát, biết làm mọi cơng việc.
+ Là người biết bất bình trước bất công (đánh A Sử)
+ Khao khát tự do (nén đau để vùng chạy khi được cắt dây trói).
=> Khi phân tích nhân vật A Phủ ta thấy A Phủ được nhìn từ bên ngồi với những lời nói ngắn
gọn, hành động dữ dội mạnh mẽ.
c) Kết bài
- Nghệ thuật: ngơn ngữ, cách nói đậm chất miền núi, lối trần thuật linh hoạt với sự dịch chuyển
điểm nhìn trần thuật, miêu tả thành cơng tâm lí nhân vật và hình ảnh thiên nhiên.
- Tác phẩm chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc: sự cảm thông với số phận đau khổ của những con
người chịu áp bức, tố cáo lên án bọn thống trị miền núi, bọn thực dân, ngợi ca vẻ đẹp, sức sống
tiềm tàng trong mỗi con người Tây Bắc.

Dàn ý phân tích Vợ chồng A Phủ của Tơ Hồi - Mẫu số 3


Mở bài:
– Đôi nét về tác giả



– Hồn cảnh sáng tác
– Nội dung chính của tác phẩm
Thân bài:
1. Xuất thân của Mị và A Phủ
– Mị là một cô gái dân tộc Mèo, xinh đẹp và tài giỏi, có đời sống nội tâm và khát vọng tự do, vì
hồn cảnh gia đình q nghèo nên cơ dã phải làm dâu gạt nợ cho nhà Thống lí Pá tra.
– A Phủ là một chàng trai người dân tộc Mèo, có nhiều phẩm chất tốt đẹp của người lao động.
Sớm tự khẳng định tính cách gan góc, một mình kiếm sống học hỏi đủ thứ nghề.
2. Cuộc sống của Mị khi ở nhà Thống Lí Pá Tra
– Mị từng là một cô gái xinh đẹp, tài giỏi, khát khao được yêu. Để cứu nạn cho cha, cô đã phải
làm dâu để gạt nợ, với danh nghĩa là con dâu, nhưng thực chất là tôi tớ. Mị xuất hiện trong khơng
gian ấy như một cái bóng, suốt ngày cúi mặt im lặng. Đó vẫn chưa phải nỗi đau đớn thật sự. Nhà
văn đã tìm ra sự thê thảm của nhân vật, đó là ý chí của Mị bị mài mòn. Trong đầu Mị, những suy
nghĩ khát vọng, âm thanh sắc màu thời xưa cũ đã mờ dần, thay vào đó là cái phải nhớ, quanh
quẩn lặp đi lặp lại tẻ ngắt như một vịng trịn nặng nề khơng lối thốt: " Mị cúi mặt khơng nghĩ
nữa, mà lúc nào cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau, tiếp nhau vẽ ra trước mắt … con
ngưạ, con trâu làm cịn có lúc nghỉ..đàn bà con gái nhà này thì vùi đầu làm việc cả đêm cả ngày".
– Mị bị hành hạ về thể xác, bản thân thì bị đánh, bị trói và từng chứng kiến khơng biết bao nhiêu
người bị hành hạ đến chết. Và rồi hành động của cô tê liệt “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó
cửa”.
– Bị cấm đốn trong việc hịa nhập với thế giới bên ngồi. Bị chồng trói, dùng bạo lực với mình.
Bên trong thể xác của Mị là tâm hồn cô đơn trống rỗng. Nhà văn đã xây dựng đoạn truyện đầy ẩn
dụ về căn buồng của Mị, giúp người đọc hình dung được nỗi đau tột cùng của kiếp người nơ lệ.
– Sau cuộc nổi loạn trong đêm tình mùa xuân, những tưởng cô gái ấy lại tiếp tục cam chịu, tiếp
tục cuộc sống mê muội ở nhà Thống Lí Pá Tra, nhưng vì lịng thương người, Mị cứu A Phủ va vì
sợ chết Mị chạy theo A Phủ và giải thốt cho mình
3. Sự vùng dậy của Mị và A Phủ
– Vì đánh con quan, sau vụ sử kiện A Phủ đã bị thống lí Pá Tra buộc làm nô lệ không công suốt
đời cho nhà hắn để trừ nợ. Tuy vậy, với bản lĩnh gan góc, khơng chịu khuất phục sẵn có, A Phủ

nhất định khơng chịu chết chôn chân ở cái cộc gỗ ấy mà anh ln tìm cách tự giải thốt: “Đêm
đến, A Phủ cúi xuống, nhay đứt hai đầu dây, nhích dần dây trói một bên tay”. Nhưng chưa kịp
dứt ra thì trời vừa sáng, Pá Tra lại tròng thêm vào cổ A Phủ một vịng dây trói nữa. Và dịng
nước mắt bị xuống hai hõm má đã xám đen của anh chính là những giọt nước mắt của sự cay
đắng, sự cô độc, bất lực và tuyệt vọng. Cũng chính vì trơng thấy những giọt nước mắt đau đớn và


tuyệt vọng ấy mà Mị đã bùng lên ngọn lửa đấu tranh, quyết định cởi trói cho A Phủ và cho chính
mình.
– Hình ảnh A Phủ cùng Mị trốn khỏi nhà thống lý Pá Tra, giác ngộ được chân lý cách mạng là
một hình ảnh đẹp, tiêu biểu cho khả năng cách mạng lớn lao của người dân miền núi Tây Bắc.
4. Nghệ thuật
– Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện đặc sắc
– Nghệ thuật khắc họa hình tượng nhân vật, đặc biệt là miêu tả tâm lí nhân vật Mị và A Phủ
– Tái hiện cuộc sống và vẻ đẹp thiên nhiên, phong tục tập quán của người dân miền núi Tây Bắc
Kết bài
– Vợ chồng A Phủ là một tác phẩm đã tái hiện được cuộc sống của những người dân nghèo miền
núi khi chưa có lí tưởng cách mạng. Tác phẩm là sự lên án tội ác của bọn thống trị và khẳng định
sức sống ngoan cường, khát vọng tự do ở người dân lao động vùng núi cao Tây Bắc.

Dàn ý phân tích Vợ chồng A Phủ của Tơ Hồi - Mẫu số 4
Mở Bài
Truyện " Vợ chồng A Phủ" trích trong tập truyện này đã để lại cho người đọc nhiều ấn tượng
với giá trị nhân văn sâu sắc.
Thân Bài
- Mị vốn là một người con gái xinh đẹp, có tài thổi sáo, lại là người con hiếu thảo
- Số phận trớ trêu khi Mị buộc phải chấp nhận bán mình làm con dâu nhà thống lý để trả món nợ
truyền kiếp
- Mị mất hết quyền tự do, bao nỗi uất ức ,buồn chán→ Sống cuộc sống lầm lũi
- Công việc nặng nhọc, vất vả→ Đày ải , bóc lột thể xác

- Mị sống cam chịu, lầm lũi....rùa ni trong xó cửa → Đời sống tinh thần bí bách , ngột ngạt.
→ Xã hội phong kiến bất công đẩy con người vào tăm tối, mất hết quyền sống, quyền tự do.
- Sức sống mãnh liệt bên trong vẫn tiềm tàng trong Mị:


+ Mùa xuân tới cùng tiếng sáo gọi bạn tình thiết tha, lòng Mị lại bồi hồi rạo rực
+ Mị tìm đến men rượu, hơi rượu đã đưa Mị về với những kí ức xưa -> lịng Mị phơi phới trở lại
- A Sử đã dùng bàn tay tàn ác trói buộc cuộc đời nàng, đến cả điều ước đơn giản muốn được đi
chơi xuân cũng bị hắn vùi dập-> Mị tuyệt vọng một lần nữa
- Sau đêm mùa xuân ấy, Mị cởi trói và đi theo A Phủ->giải thốt cho cuộc đời mình
Tài năng của Tơ Hồi trong việc khắc hoạ tâm lí nhân vật
Kết Bài
Truyện đã vạch trần được những tội ác, sự bất công ngang trái của xã hội xưa, nói lên tiếng
nói thương cảm của nhà văn với những người dân miền núi chịu nhiều khổ cực

Dàn ý phân tích Vợ chồng A Phủ của Tơ Hoài - Mẫu số 5
Mở Bài
Truyện " Vợ chồng A Phủ" trích trong tập truyện này đã để lại cho người đọc nhiều ấn tượng
với giá trị nhân văn sâu sắc.
Thân Bài
- Mị vốn là một người con gái xinh đẹp, có tài thổi sáo, lại là người con hiếu thảo
- Số phận trớ trêu khi Mị buộc phải chấp nhận bán mình làm con dâu nhà thống lý để trả món nợ
truyền kiếp
- Mị mất hết quyền tự do, bao nỗi uất ức ,buồn chán→ Sống cuộc sống lầm lũi
- Công việc nặng nhọc, vất vả→ Đày ải , bóc lột thể xác
- Mị sống cam chịu, lầm lũi....rùa ni trong xó cửa → Đời sống tinh thần bí bách , ngột ngạt.
→ Xã hội phong kiến bất công đẩy con người vào tăm tối, mất hết quyền sống, quyền tự do.
- Sức sống mãnh liệt bên trong vẫn tiềm tàng trong Mị:
+ Mùa xuân tới cùng tiếng sáo gọi bạn tình thiết tha, lịng Mị lại bồi hồi rạo rực
+ Mị tìm đến men rượu, hơi rượu đã đưa Mị về với những kí ức xưa -> lịng Mị phơi phới trở lại



- A Sử đã dùng bàn tay tàn ác trói buộc cuộc đời nàng, đến cả điều ước đơn giản muốn được đi
chơi xuân cũng bị hắn vùi dập-> Mị tuyệt vọng một lần nữa
- Sau đêm mùa xuân ấy, Mị cởi trói và đi theo A Phủ->giải thốt cho cuộc đời mình
Tài năng của Tơ Hồi trong việc khắc hoạ tâm lí nhân vật
Kết Bài
Truyện đã vạch trần được những tội ác, sự bất công ngang trái của xã hội xưa, nói lên tiếng
nói thương cảm của nhà văn với những người dân miền núi chịu nhiều khổ cực.

Phân tích Vợ chồng A Phủ của Tơ Hồi
Tơ Hồi đã kể lại rằng: “Cái kết quả lớn nhất và trước nhất của chuyến đi tám tháng ấy là đất
nước và con người miền Tây đã để thương, để nhớ trong tôi nhiều quá, tôi không thể bao giờ
quên. Tôi không thể bao giờ quên được lúc vợ chồng A Phủ tiễn tôi ra khỏi hốc núi làng Tà Sùa
rồi cùng vẫy tay gọi theo: Chéo lù! Chéo lù!". Có lẽ đây chính là lí do để ơng viết tác phẩm “Vợ
chồng A Phủ” như lời tri ân dành cho con người nơi rẻo cao Tây Bắc.
Truyện ngắn này được in trong tập “Truyện Tây Bắc” (1952) và được tặng giải Nhất - Giải
thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 - 1955. “Vợ chồng A Phủ” là bức tranh Tây Bắc với
những phong tục, tập quán riêng biệt. Ở phần một của tác phẩm, Tơ Hồi đã chủ yếu khắc họa
cuộc sống của nhân vật Mị và A Phủ khi họ ở Hồng Ngài, sống cuộc sống nô lệ trong nhà thống
lí Pá Tra.
Trước khi về làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí, Mị là một cơ gái xinh đẹp, yêu đời, yêu
cuộc sống tự do. Mị có tài thổi sáo giỏi, “thổi lá cũng hay như thổi sáo” khiến “có biết bao nhiêu
người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Tuy sinh ra trong một gia đình nghèo khổ, ngày
xưa bố mẹ phải vay tiền để cưới nhau, đến khi mẹ Mị chết vẫn chưa trả hết nợ nhưng Mị ln có
ý thức về cuộc sống của mình. Cơ đã nói với bố: “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải
làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu” khi thống lí muốn bắt Mị về
làm con dâu gạt nợ. Đó là tiếng nói của sự phản kháng tục dùng con người làm vật thế mạng cho
món nợ tiền bạc của các dân tộc miền núi. Lệ tục cổ hủ này đã cướp đi cuộc sống tự do của biết
bao con người. Đồng thời câu nói ấy cũng thể hiện niềm tin vào sức sống của bản thân trong con

người Mị. Mị tin rằng mình có thể làm nương ngô để trả nợ thay cho bố.
Nhưng Mị đã bị A Sử cướp và đem về “cúng trình ma” nhà thống lí. Cuộc đời của Mị đã gắn
liền với số phận của người con dâu gạt nợ trong nhà thống lí Pá Tra. Cơ phẫn uất, đau đớn cho
chính thân phận của mình. Có đến hàng mấy tháng, đêm nào cơ cũng khóc. Mị định tự tử bằng lá
ngón nhưng cơ “khơng đành lịng chết” vì thương bố. Có lẽ chết là cách tốt nhất để Mị giải thoát
cuộc đời nơ lệ, Mị sẽ khơng phải xót xa hay căm hờn gì nữa.
Từ thái độ phản kháng, Mị trở nên cam chịu hoàn cảnh. Mị đã quen với cái khổ, “Mị tưởng
mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa” quần quật làm việc cả ngày lẫn đêm không được


nghỉ ngơi. Những công việc hái thuốc phiện, giặt đay, xe đay, bẻ bắp, quay sợi, dệt vải, chẻ củi,
cõng nước,…cứ nối tiếp nhau “vẽ ra trước mặt” thúc giục cơ phải làm. Phải chăng vì thế mà
“mỗi ngày Mị càng khơng nói, lùi lũi như con rùa ni trong xó cửa”. Càng ngày, Mị càng câm
lặng, chấp nhận số phận mà khơng một lời ốn trách. Khn mặt cơ dù trong hoàn cảnh nào cũng
“buồn rười rượi”. Người phụ nữ ấy đã bị những khổ cực làm chai lì cảm xúc, mất hết ý niệm về
thời gian, không gian vì buồng Mị nằm có cái cửa sổ có một lỗ vuông bằng bàn tay, “lúc nào
trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”.
Tưởng rằng Mị đã vơ cảm với thế giới bên ngồi nhưng chính thiên nhiên Tây Bắc vào mùa xuân
mà âm thanh của tiếng sáo là tác nhân khơi dậy lòng yêu đời, sức sống trong con người Mị.
Tiếng sáo đã đánh thức tâm hồn bấy lâu ngủ quên của cô. Mị cảm nhận được âm hưởng ‘thiết tha
bổi hổi” của tiếng sáo gọi bạn đi chơi. Khơng khí của những ngày Tết khiến Mị “sống về những
ngày trước”. Mị uống rượu, “uống ừng ực từng bát” như nuốt trôi đi tất cả niềm phẫn uất vào
trong. Tâm hồn Mị “phơi phới trở lại”. Điều đặc biệt là Mị đã có ý thức về bản thân, cơ nhận ra
mình vẫn cịn trẻ và muốn được đi chơi ngày Tết. Mong muốn đã chuyển sang thành hành động:
“Mị lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng” rồi quấn lại tóc, “lấy cái váy hoa
vắt ở phía trong vách” sửa soạn đi chơi. Tiếng sáo lửng lơ, mời gọi khiến Mị không thể chối từ.
Cô đã thực sự hồi sinh và lột xác để thốt ra khỏi vịng áp chế của các thế lực cường quyền, thần
quyền, phu quyền. Nhưng ý định của Mị chưa thực hiện được thì cơ đã bị A Sử trói đứng vào cột
nhà bằng cả thúng sợi đay. Dường như Mị đã quên đi nỗi đau về thể xác để tâm hồn đi theo
những cuộc chơi. Tiếng chân ngựa đạp vào vách đưa Mị trở về thực tại, “Mị thổn thức nghĩ mình

khơng bằng con ngựa”. Thân phận làm dâu gạt nợ nhà thống lí khơng khác gì thậm chí là khơng
bằng thân phận của những con vật như con trâu, con ngựa.
Ẩn đằng sau con người cam chịu đó là một sức sống tiềm tàng đến mãnh liệt. Điều ấy được
thể hiện qua chi tiết Mị cắt dây trói cho A Phủ và cùng anh trốn khỏi Hồng Ngài. Đây cũng là
hành động cởi trói, tự giải thốt cho chính mình. Nó xuất phát từ tấm lòng “thương người như
thể thương thân” của cơ. Mị đã tự giải thốt cho mình khỏi sự áp bức, đè nén của cường quyền,
thần quyền, phu quyền. Hành động tuy có tính tự phát nhưng vơ cùng hợp lí.
Khơng chỉ khắc họa thân phận người phụ nữ, Tơ Hồi cịn khắc họa thân phận của người đàn
ơng miền núi chịu cuộc đời nơ lệ. Đó là A Phủ, anh mồ cơi cha mẹ từ khi cịn nhỏ, khơng có
người thân thích. Anh trở thành món hàng để đổi lấy thóc của người Thái nhưng “A Phủ gan
bướng, không chịu ở dưới cánh đồng thấp, A Phủ trốn lên núi, lưu lạc đến Hồng Ngài”. Tuy
nghèo khó nhưng A Phủ biết lao động để tự nuôi sống bản thân. Anh biết “đúc lưỡi cày, biết đục
cuốc, lại cày giỏi và đi săn bị tót rất bạo”. Vì thế nhiều cơ gái đã ví có được A Phủ “cũng bằng
được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy lúc mà giàu”. Con người A phủ có sự gan góc, biết vượt
qua khó khăn, khổ cực và nguy hiểm. Anh sống tự do, gần gũi với thiên nhiên nhưng vì tội đánh
con thống lí mà phải chịu thân phận nơ lệ.
A Phủ đánh A Sử khơng phải do tính cách hiếu chiến, ngang tàn mà là do anh không chấp
nhận sự thống trị, lên ngôi của cái ác. Sự áp chế của cường quyền đã đẩy một con người tự do,
phóng khống trở thành một con người cam chịu số phận. A Phủ phải chịu những trận đòn roi
tàn nhẫn nhưng anh “chỉ im như cái tượng đá”. Anh đã chấp nhận cuộc đời đi ở trừ nợ cho nhà
thống lí. Vì mải mê bẫy chim mà A Phủ để hổ bắt mất một con bị. A Phủ bị trói đứng vào cột
bằng “dây mây quấn từ chân đến vai”. Tình cảnh này đã lay động được tình thương, lịng đồng
cảm của Mị. Cô nghĩ rằng: “Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết


rét, phải chết” và Mị đã cắt dây trói cứu A Phủ. Hành động “quật sức vùng lên chạy” phần nào
cho thấy khát vọng sống, khát vọng chấm dứt thân phận đi ở trừ nợ của anh. Anh đã thức tỉnh để
đến với khu du kích Phiềng Sa, tham gia vào cách mạng.
Truyện “Vợ chồng A Phủ” chứa đựng những giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo cao cả.Thơng
qua tác phẩm, nhà văn Tơ Hồi muốn tố cáo chế độ phong kiến và giai cấp thống trị bóc lột con

người bằng hình thức cho vay nặng lãi. Vì món nợ của cha mẹ mà Mị bị mang ra làm vật thế
mạng. Ông cũng lên án những hủ tục lạc hậu như “cúng trình ma” đã buộc con người vào vịng
mê tín, khiến họ khơng dám thốt ra vịng vây để tự cứu lấy mình. Đồng thời, tác giả cũng thể
hiện lịng xót xa, cảm thơng với những người dân lao động miền núi phải cam chịu sự áp bức của
tầng lớp thống trị thủ đoạn, gian ác. Tô Hoài ca ngợi sức sống mãnh liệt tiềm tàng trong con
người họ. Chính sức sống ấy đã giúp họ giải thốt họ khỏi cuộc đời nơ lệ để đến với cách mạng,
đến với cuộc sống tự do.
Bằng bút pháp cá thể hóa, nhà văn đã xây dựng nên hai nhân vật đại diện cho những con
người có phẩm chất tốt đẹp nhưng phải chịu số phận bất hạnh, đau khổ. Mị tiêu biểu cho kiểu
nhân vật tâm trạng và A Phủ tiêu biểu cho kiểu nhân vật hành động. Làm nền cho sự nổi bật của
con người trong thiên truyện là bức tranh thiên nhiên Tây Bắc tuyệt đẹp: “gió thổi vào gianh
vàng ửng”, “trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như
con bướm sặc sỡ”. Đây là những chi tiết nghệ thuật giàu tính tạo hình. Cùng với đó là các phong
tục, tập quán như tục bắt vợ, cảnh phạt vạ, cảnh xử kiện được hiện lên độc đáo. Truyện được kể
theo ngơi thứ ba, điểm nhìn trần thuật có sự thay đổi từ điểm nhìn của người đi xa về đến điểm
nhìn của người trong cuộc nên vừa mang tính khách quan lại vừa chứa chan sự cảm thơng với
nhân vật. Ngồi ra, Tơ Hồi cịn xây dựng những chi tiết giàu sức gợi và ý nghĩa như chi tiết
tiếng sáo, tiếng chân ngựa đạp vào vách,... Ngôn ngữ văn xuôi đậm chất thơ cũng là một yếu tố
quan trọng tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm.

T
opl

Với tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, Tơ Hồi đã mang đến cho bạn đọc cái nhìn bao qt, tồn
diện về bức tranh cuộc sống của người dân Tây Bắc. Trang sách đã khép lại nhưng dư âm của nó
thì cịn vang mãi. Và tuy Tơ Hồi đã ra đi nhưng những tác phẩm của ơng vẫn vẹn ngun giá trị
trong lịng bạn đọc hôm nay và cả mai sau.
---/---

Như vậy,

ời giải đã vừa cung cấp những dàn ý cơ bản cũng như một số bài văn mẫu hay
Dàn ý phân tích Vợ chồng A Phủ của Tơ Hồi để các em tham khảo và có thể tự viết được một
bài văn mẫu hồn chỉnh. Chúc các em học tốt mơn Ngữ Văn !



×