Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

Quản trị rủi ro thanh khoản trong kinh doanh ngân hàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (304.71 KB, 31 trang )

ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
CHƯƠNG TRÌNH CHẤT LƯỢNG
CAO, TIÊN TIẾN VÀ POHE
--------------------------------

ĐỀ ÁN MƠN HỌC
Mơn: Lý thuyết tài chính tiền tệ
CHỦ ĐỀ: QUẢN TRỊ RỦI RO THANH KHOẢN TRONG
KINH DOANH NGÂN HÀNG

Tên sinh viên:
Mã sinh vn:
Lớp:

Phạm Quỳnh Anh
11150330
Ngân Hàng CLC57

Hà Nội – 2018


Lời mở đầu
Rủi ro luôn tiềm ẩn và là một điều không thể tránh khỏi trong hoạt động kinh
doanh, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh doanh ngân hàng. Một ngân hàng được coi là hoạt
động hiệu quả khi tối đa hóa lợi nhuận đồng thời có khả năng kiểm sốt giảm thiểu rủi ro,
trong đó rủi ro thanh khoản được đánh giá là một loại rủi ro rất nguy hiểm. Ngân hàng có
khả năng thanh khoản tốt hay nói cách khác là ngân hàng không gặp rủi ro thanh khoản
khi ln có nguồn vốn khả dụng với chi phí hợp lý vào đúng thời điểm mà ngân hàng
cần. Ngược lại, nếu ngân hàng không đáp ứng đủ yêu cầu về vốn khả dụng thì sẽ gây thua
lỗ, đình trệ trong hoạt động kinh doanh và nguy hiểm hơn là mất khả năng thanh khoản,
mất uy tín có có thể dãn đến sự đổ vỡ của toàn hệ thống. Cho nên, việc các ngân hàng


thương mại chú trọng đến công tác quản trị thanh khoản khơng chỉ vì sự an tồn của ngân
hàng mình mà cịn vì sự an tồn chung của hệ thống tài chính- tiền tệ nước nhà. Chính vì
vậy, quản trị rủi ro thanh khoản được coi là một trong những mục tiêu quản trị quan trọng
của các ngân hàng hiện nay.
Việt Nam là một nước đang trên đà phát triển, mơi trường kinh tế cịn chưa ổn
định, thêm vào đó xu hướng tồn cầu hóa kinh tế khiến cho hoạt động kinh doanh trở nên
phức tạp hơn, áp lực cạnh tranh giữa các ngân hàng lớn hơn và cùng với nó, mức độ rủi
ro cũng tăng lên. Vậy nên, để tồn tại va phát triển thì cơng tác quản trị rủi ro nói chung và
quản trị rủi ro thanh khoản nói riêng hơn bao giờ hết là điều thực sự cần thiết đối với các
ngân hàng thương mại tại Việt Nam. Đó là lý do em lựa chọn nghiên cứu đề tài :” QUẢN
TRỊ RỦI RO THANH KHOẢN TRONG KINH DOANH NGÂN HÀNG”.
Do còn hạn chế về mặt thời gian, kiến thức lý luận cũng như thực tiễn nên có thể
bản đề án này khơng tránh khỏi những thiếu sót. Em hy vọng sẽ nhận được những ý kiến
đóng góp, nhận xét để hồn thiện cho đề án cũng như những kinh nghiệm đáng quý cho
những nghiên cứu về sau.

Em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Cao Thị Ý Nhi vì sự hướng dẫn nhiệt tình đã
giúp em hồn thành đề án tốt nghiệp mơn Lý thuyết tài chính tiền tệ của mình.

1


Mục lục
Lời mở đầu.
Chương 1: Lý luận chung về rủi ro thanh khoản và quản trị rủi ro thanh khoản
trong kinh doanh ngân hàng.
1. Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng.
1.1 Khái niệm rủi ro.
1.2 Các loại rủi ro đặc thù trong kinh doanh ngân hàng
2. Rủi ro thanh khoản trong kinh doanh ngân hàng.

2.1 Bản chất của rủi ro thanh khoản.
2.2 Nguyên nhân dẫn đến rủi ro thanh khoản.
2.3 Ảnh hưởng của rủi ro thanh khoản.
2.4 Dấu hiệu nhận biết, các phương pháp đo lường rủi ro thanh khoản.
3. Quản trị rủi ro thanh khoản.
3.1 Khái niệm và mục tiêu của quản trị rủi ro thanh khoản.
3.2 Nội dung quản lý.
Chương 2: Thực trạng quản trị rủi ro thanh khoản của các ngân hàng thương
mại.
1. Thực trạng quản trị rủi ro thanh khoản tại các ngân hàng thương mại.
1.1 Thanh khoản dồi dào nhưng khơng phân hóa.
1.2 Cấu trúc sở hữu và rủi ro thanh khoản.
2. Cuộc khủng hoảng thanh khoản của ngân hàng TMCP Á Châu (ACB).
3. Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro thanh khoản trong kinh doanh
ngân hàng.
3.1 Đối với Ngân hàng Nhà nước.
3.2 Đối với các ngân hàng thương mại.
Kết luận.
Tài liệu tham khảo.

1
3
3
3
3
5
5
6
8
9

12
12
13
19
19
19
21
24
25
25
25
26
26

2


Chương 1: Lý luận chung về rủi ro thanh khoản và quản trị
rủi ro thanh khoản trong kinh doanh ngân hàng.
1. Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng.
1.1 Khái niệm rủi ro.
Có rất nhiều cách hiểu rủi ro khác nhau và cũng có nhiều định nghĩa khác nhau về
rủi ro. Theo định nghĩa chung, rủi ro là xác suất gặp nguy hiểm từ bất kỳ một sự cố tiêu
cực nào như bị thương, mất cắp… do tác động của yếu tố gây nguy hiểm từ bên trong
hoặc bên ngoài gây nên và điều này có thể phịng ngừa và hạn chế được bằng những dự
tính từ trước. Cụ thể hơn, dưới góc độ tài chính, rủi ro được định nghĩa là xác suất mà lợi
nhuận thực tế thu được từ một khoản đầu tư ban đầu thấp hơn mong đợi. Frank Knight,
một học giả người Mỹ, trong tác phẩm “Risk, uncertainty & profit” định nghĩa “rủi ro là
sự bất trắc có thể đo lường được”.
Ngân hàng cũng là một doanh nghiệp nên bản chất tự nhiên của hoạt động ngân

hàng cũng là rủi ro. Rủi ro chung đối với một ngân hàng có nghĩa là mức độ khơng chắc
chắn liên quan đến một vài sự kiện, là những tình huống xảy ra ngoài dự kiến gây nên
những tổn thất về kinh tế, làm chi phí tăng lên, thu nhập giảm và làm lợi nhuận giảm đi
so với dự kiến ban đầu. Rủi ro có thể đo lường được cho các loại sản phẩm, dịch vụ khác
nhau của ngân hàng. Thông thường, mức lợi nhuận mong đợi càng cao thì xác suất rủi ro
xảy ra càng cao.
Như các doanh nghiệp khác, ngân hàng cũng phải gánh chịu những rủi ro do các
tác động của môi trường vĩ mô và vi mô gây nên. Ngoài ra, là một doanh nghiệp kinh
doanh tiền tệ- một loại hình kinh doanh đặc biệt, nên ngân hàng cịn phải đối mặt với các
rủi ro mang tính đặc thù do bản chất ngành và lĩnh vực kinh doanh ngân hàng tạo ra.

1.2 Các loại rủi ro đặc thù trong kinh doanh ngân hàng.(1)
Rủi ro rất đa dạng, có thể phân tích theo nhiều khía cạnh khác nhau, đồng thời các
loại rủi ro có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, rủi ro này có thể là nguyên nhân dẫn đến rủi
ro khác. Trong phạm vi luận án này chỉ đề cập đến một số loại rủi ro cơ bản mà một NH
hiện đại thường gặp phải và mối quan hệ giữa một số loại rủi ro với nhau.
- Rủi ro tín dụng: Hoạt động tín dụng là nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu của NHTM, đem
lại lợi nhuận lớn nhất nhưng cũng là loại rủi ro lớn nhất của NHTM. Theo quan niệm của
Ủy ban Basel (2000) thì “Rủi ro tín dụng là khả năng khách hàng vay hoặc bên đối tác
của ngân hàng không thực hiện đúng cam kết đã thỏa thuận”. Theo khái niệm này thì rủi
3


ro tín dụng có phạm vi khá rộng, khơng chỉ trong quan hệ tín dụng giữa NH với khách
hàng mà trong cả các hoạt động khác như đầu tư, phái sinh mà ngân hàng thực hiện.
- Rủi ro lãi suất: sự thay đổi lãi suất đột ngột trên thị trường gây ra những thiệt hại cho
NHTM. Việc ngân hàng duy trì cơ cấu tài sản Nợ và tài sản Có với kỳ hạn không tương
xứng hoặc khi tỷ lệ lạm phát vượt quá lãi suất cho vay (lãi suất thực tế âm) cũng là
nguyên nhân gây nên rủi ro lãi suất.
- Rủi ro ngoại hối: Theo Peter S. Rose (2001) “Rủi ro ngoại hối là những thiệt hại mà

NHTM phải gánh chịu do sự biến động của giá cả tiền tệ trên thị trường thế giới”. Tải sản
Nợ và tài sản Có bằng ngoại tệ có số lượng và kỳ hạn khơng cân xứng chính là ngun
nhân trực tiếp gây nên rủi ro ngoại hối. Rủi ro ngoại hối và rủi ro tín dụng tác động qua
lại với nhau, ví dụ như: Khi tỷ giá hối đoái biến động mạnh có thể dẫn đến tình trạng
khan hiếm một loại ngoại tệ nào đó và để chi trả cho bên bán, các DN phải mua ngoại tệ
với giá cao ngoài dự tính, lợi nhuận kinh doanh giảm, có thể ảnh hưởng đến khả năng trả
nợ vay.
- Rủi ro nguồn vốn: Cũng theo Peter S. Rose (2001): “Rủi ro nguồn vốn là những thiệt
hại do nguồn vốn huy động của ngân hàng bị ứ đọng không cho vay được, cũng như
không thể chuyển sang được các loại tài sản Có sinh lời khác”. Ngân hàng không khai
thác hết được tiềm năng sinh lời của tài sản Có, hiệu quả sử dụng vốn giảm, dẫn đến thua
lỗ trong kinh doanh, thậm chí là phá sản nếu tình trạng này kéo dài.
- Rủi ro thanh khoản: Là tình trạng NHTM khơng đáp ứng được nhu cầu sử dụng vốn
khả dụng (nhu cầu thanh khoản). Tình trạng này nhỏ thì gây thua lỗ, hoạt động kinh
doanh đình trệ, nặng thì làm mất khả năng thanh toán và dẫn đến ngân hàng phá sản.
Rủi ro thanh khoản cũng còn được hiểu “Là một rủi ro trong lĩnh vực tài chính.
Rủi ro này xảy ra khi NHTM thiếu ngân quỹ hoặc tài sản ngắn hạn mang tính khả thi để
đáp ứng nhu cầu của người gửi tiền và người đi vay”. Thiếu ngân quỹ ở đây có thể được
hiểu theo 2 cách: thiếu dự trữ tại ngân hàng, hoặc là không thể huy động được nguồn vốn
ngay lập tức. Để tránh được rủi ro thanh khoản, các NHTM phải tính tốn được hệ số
thanh khoản của mình, tức là tính được khả năng đáp ứng nhu cầu thanh toán ngay của
các tài sản Nợ.
- Rủi ro hoạt động: Theo Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng, “Rủi ro hoạt động là rủi
ro gây ra tổn thất cho ngân hàng do nguyên nhân con người, sự không đầy đủ hay vận
hành khơng tốt các quy trình, hệ thống, các sự kiện khách quan bên ngoài”. Nguyên nhân
gây nên rủi ro hoạt động là hoạt động ngân hàng kém hiệu quả, điển hình như hệ thống
thơng tin khơng đầy đủ, hoạt động đào tạo nhân viên có vấn đề, có vi phạm trong hệ
4



thống kiểm sốt nội bộ, có sự gian lận hay những thảm họa, thiên tai không lường trước
được.
Mối quan hệ giữa các loại rủi ro:
Giữa các loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHTM nói chung và 5 loại rủi
ro cơ bản được đề cập ở trên nói riêng có mối quan hệ mật thiết với nhau, rủi ro này là
nguyên nhân của rủi ro kia. Trong hoạt động tín dụng, để xảy ra rủi ro với tỷ lệ nợ xấu
cao, khả năng thu hồi nợ thấp sẽ dẫn đến rủi ro thanh khoản. Khi NHTM để xảy ra rủi ro
thanh khoản, phải đi vay vốn trên thị trường, phải huy động vốn với lãi suất cao hơn, lại
gây ra rủi ro nguồn vốn và rủi ro lãi suất. Rủi ro trong hoạt động bởi nguyên nhân con
người, sự không đầy đủ hay vận hành không tốt các quy trình, hệ thống, các sự kiện
khách quan bên ngồi lại gây ro rủi ro tín dụng và rủi ro ngoại hối…

2. Rủi ro thanh khoản trong kinh doanh ngân hàng.
2.1 Bản chất của rủi ro thanh khoản.(2)
Rủi ro thanh khoản là khả năng xảy ra tổn thất cho ngân hàng khi nhu cầu thanh
khoản thực tế vượt quá khả năng thanh khoản dự kiến. RRTK ở mức ngân hàng phải gia
tăng các chi phí để đáp ứng nhu cầu thanh khoản sẽ làm giảm thu nhập ròng của ngân
hàng; ở mức cao hơn, có thể làm cho ngân hàng mất khả năng thanh khoản, sẽ dẫn đến
phá sản.
Theo định nghĩa của Ủy ban thanh tra ngân hàng Basel, rủi ro thanh khoản là “rủi
ro mà một định chế tài chính khơng đủ khả năng tìm kiếm đầy đủ nguồn vốn để đáp ứng
các nghĩa vụ đến hạn mà không làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh hằng ngày và
cũng khơng gây tác động đến tình hình tài chính”. Nếu xét về góc độ “thanh khoản tài
trợ”, rủi ro thanh khoản có thể được thể hiện như sau:
(a) Rủi ro thanh khoản gắn liền với hoạt động tài trợ thể hiện nguồn vốn bị cắt giảm
ngoài dự kiến.
(b) Rủi ro thanh khoản gắn liền với đầu tư do không thu hồi được các khoản đầu tư
trên thị trường và các khoản cho vay từ sự đổ vỡ trong đầu tư của thị trường và các con
nợ bị phá sản.
(c) Rủi ro thanh khoản gắn liền với các yếu tố khác như là thiếu nguồn vốn đổ vào do

khiếm khuyết của công tác sổ sách hoặc các khiếm khuyết khác gây ra, hệ thộng máy tính
bị trục trặc kỹ thuật và hệ thống thanh tốn có vấn đề.
5


Rủi ro thanh khoản là một trong những loại rủi ro chủ yếu nhất của NHTM, là
nguyên nhân trực tiếp có thể dẫn đến khủng hoảng thanh khoản, là nguy cơ đặc biệt
nghiêm trọng có thể dẫn đến phá sản ngay cả tại thời điểm ngân hàng kinh doanh không
thua lỗ. Rủi ro lãi suất có thể được phân loại như sau:
- Rủi ro thanh khoản đến từ bên tài sản nợ: có thể phát sinh bất cứ lúc nào khi người
gửi rút tiền trước han và cả khi đến hạn nhưng NHTM khơng có sẵn nguồn vốn để thanh
tốn, để chi trả. Với một lượng lớn tiền gửi được yêu cầu rút ra và đột ngột buộc NHTM
có thể phải vay trên thị trường tiền tệ với lãi suất cao, phải huy động vốn đột suất với chi
phí vượt trội hoặc bán bớt tài sản với giá thấp hơn thị trường để đáp ứng nhu cầu chi trả
ngay lập tức.
- Rủi ro thanh khoản đến từ bên tài sản có: chủ yếu phát sinh liên quan đến việc thực
hiện các cam kết tín dụng. Có cam kết tín dụng cho phép người vay vốn tiến hành rút tiền
bất cứ lúc nào trong thời hạn theo thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Khi một người vay
yêu cầu NHTM thực hiện cam kết tín dụng thì ngân hàng phải đảm bảo đủ tiền ngay lập
tức để đáp ứng nhu cầu của khách hàng nếu không ngân hàng sẽ phải đối mặt với việc bị
giảm sút uy tín đối với cơng chúng. Tương tự nguyên nhân rủi ro đến từ bên tài sản nợ
khi đó NHTM sẽ phải huy động thêm nguồn vốn mới với chi phí cao hoặc bán tài sản với
giá thấp.
- Rủi ro thanh khoản từ hoạt động ngoại bảng: Khi mà các nghĩa vụ thanh toán (cam
kết bảo lãnh, nghĩa vụ thanh tốn các hợp đồng kì hạn, hợp đồng hoán đổi hay hợp đồng
quyền chọn,…) đến hạn thì sẽ phát sinh nhu cầu thanh khoản. Khi đó, nếu NHTM khơng
có kế hoạch chuẩn bị nguồn thanh khoản kịp thời, khơng có những tài sản nhanh chóng
hay dễ dàng chuyển thành tiền, những cơng cụ có thể giao dijhc trên thị trường tiền tệ thì
có thể phải đối mặt rủi ro thanh khoản.
Tất cả các rủi ro thanh khoản trên nếu phát sinh với quy mô lớn mà NHTM khơng

có biện pháp ứng cứu kịp thời thì sẽ dẫn đến nguy cơ khủng hoảng thanh khoản.

2.2 Nguyên nhân dẫn dến rủi ro thanh khoản.(3)
Bản chất cốt lõi của rủi ro thanh khoản là sự mất cân xứng giữa cung thanh khoản
và cầu thanh khoản do cân đối khơng chính xác luồng tiền vào và luồng tiền ra hoặc do
tác động từ bên ngồi mà khơng lường trước được nên dẫn đến rủi ro thanh khoản. Các
chuyên gia trong lĩnh vực tài chính ngân hàng đã chỉ ra 5 nguyên nhân dẫn đến rủi ro
trong tính thanh khoản của các ngân hàng thương mại trong thời gian qua:

6


- Thứ nhất: tăng trưởng tín dụng q nóng. Sự tăng trưởng tín dụng quá mức của các
NHTM cùng với cơ cấu đầu tư bất hợp lý, vì sức ép lợi nhuận mà tập trung lớn vào đầu
tư bất động sản sẽ gây ra rủi ro khi thị trường đóng băng. Tình trạng này nếu khơng có
biện pháp xử lý kịp thời sẽ gây ra sự mất cân đối về kỳ hạn giữa tài sản Nợ và tài sản Có
do ngân hàng đã sử dụng quá nhiều nguồn vốn ngắn hạn để cho vay dài hạn một cách bẩ
hợp lý, đây là nguyên nhân trực tiếp gây nên rủi ro thanh khoản trong hoạt động kinh
doanh ngân hàng.
- Thứ hai: cơng tác dự báo và phân tích thị trường của các ngân hàng thương mại
(NHTM) Việt Nam còn nhiều hạn chế. Trong khi các ngân hàng nước ngoài, ngoài việc
chấp hành nghiêm túc các tỷ lệ an tồn cịn thường xuyên nghiên cứu, dự báo sát các diễn
biến của thị trường thì các NHTM cịn có tư tưởng ý lại quá nhiều vào cơ chế nhà nước
nên trong nhiều trường hợp chưa dự phịng đủ vốn thanh khoản và có biện pháp điều
chỉnh kịp thời, dần trở nên bị động trước những tác động thị trường.
- Thứ ba: tính liên kết hệ thống giữa các NHTM để đảm bảo an tồn thanh tốn cịn
yếu, tạo sự cạnh tranh khơng lành mạnh, đẩy lãi suất lên cao tạo khe hở cho khách hàng
gửi tiền “làm giá, tăng lãi suất” hoặc rút tiền chuyển sang các NHTM khác dẫn đến làm
suy yếu khả năng chống đỡ thiếu hụt thanh khoản của hệ thống.
- Thứ tư: vấn đề quản trị thanh khoản tại các NHTM chưa tốt. Hoạt động quản trị tài

sản Nợ, tài sản Có của các NHTM chưa tốt; các cơng cụ quản lý chưa được áp dụng một
cách triệt để và hữu hiệu. Điều này một phần gây cản trở NHNN nắm bắt chắc chắn tình
hình thanh khoản cũng như sự thay đổi lớn trong tài sản của mỗi NHTM để điều chỉnh
quy định của mình.
- Thứ năm: xuất phát từ phía khách hàng, đây được đánh giá là nhóm ngun nhân
khiến các ngân hàng khó có thể dùng cơng cụ thị trường để điều tiết có hiệu quả thanh
khoản của các ngân hàng. Ví dụ: trong trường hợp xảy ra thông tin bất cân xứng, chưa
minh bạch, một số khách hàng ngay lập tức có xu hướng rút tiền ra khỏi ngân hàng này
và chuyển sang ngân hàng khác; dân cư rút tiền để tích vàng, đơ la Mỹ,…làm xáo trộn sự
bình ổn của thị trường.
Ngồi những ngun nhân trên, cịn có nhiều ngun nhân như: do các giao dịch
bằng ngoại tệ tại các NHTM Việt Nam chủ yếu tập trung vào một loại ngoại tệ là USD;
những tác động trực tiếp từ các loại rủi ro khác trong hoạt động ngân hàng cũng gây ảnh
hưởng không nhỏ tới rủi ro thanh khoản; hiện tượng một số tập đoàn, Tổng công ty Nhà
nước chuyển tiền hoặc rút tiền với khối lượng lớn; yếu kém trong công tác kế hoạch hóa
và quản trị điều hành…

7


Bên cạnh đó ,(4)theo Nguyễn Văn Tiến (2010), có ba nguyên nhân tiền đề khiến cho

ngân hàng phải đối mặt với rủi ro thanh khoản thường xuyên là:
 Thứ nhất, ngân hàng sử dụng vốn huy động ngắn hạn để cho vay dài hạn. Do đó
nhiều ngân hàng phải đối mặt với sự không trùng khớp về kỳ hạn đến hạn giữa tài
sản có và tài sản nợ.
 Thứ hai, sự nhạy cảm của tài sản tài chính với thay đổi lãi suất. Khi lãi suất tăng,
nhiều người gửi tiền sẽ rút tiền ra tìm kiếm nơi gửi khác có mức lãi suất cao hơn.
Những người có nhu cầu tín dụng sẽ hoãn lại, hoặc rút hết số dư hạn mức tín dụng
với lãi suất thấp đã thỏa thuận. Như vậy, thay đổi lãi suất ảnh hưởng đồng thời đến

luồng tiền gửi cũng như luồng tiền vay, và cuối cùng là đến thanh khoản của ngân
hàng.
 Thứ ba, ngân hàng luôn phải đáp ứng nhu cầu thanh khoản một cách hoàn hảo.
Những trục trặc về thanh khoản sẽ làm xói mòn niềm tin của dân chúng vào ngân
hàng.

2.3 Ảnh hưởng của rủi ro thanh khoản.(5)
- Đối với các Ngân hàng: xét ở chức năng trung gian tín dụng, khi bị mất tính thanh
khoản thì ngân hàng sẽ chịu thiệt hại:
 Buộc phải chạy đua huy động vốn dẫn đến lãi suất huy động cao.
 Lãi suất huy động cao buộc lãi suất cấp tín dụng cao và khó cho vay.
 Khi buộc phải trả lãi suất huy động nhưng không thể cho vay khiến Ngân hàng sẽ
bị lỗ.
 Xói mịn niềm tin của khách hàng khi khơng có khả năng đáp ứng nhu cầu thanh
khoản ngay lập tức.
 Không đáp ứng nhu cầu giải ngân cho các khoản cấp tín dụng.
- Đối với nền kinh tế (như liên quan vấn đề lạm phát, tăng trưởng kinh tế, ổn định đời
sống xã hội…) sẽ chịu một số vấn đề sau:
 Ảnh hưởng đến các hoạt động đầu tư. Khi lãi suất tiền gửi tăng, nguồn tiền tập
trung gửi vào ngân hàng làm cho nền kinh tế sẽ giảm kênh huy động vốn.
 Khi lãi suất cấp tín dụng cao -> điều kiện khơng khuyến khích các doanh nghiệp đi
vay vốn đầu tư -> quy mô kinh doanh giảm -> tăng trưởng kinh tế chững lại.
 Khi giá cả tăng sẽ ảnh hưởng đến đời sống của người dân.

8


 Sự phá sản của một NH có thể dẫn đến sự hoảng loạn của hàng loạt các ngân hàng
khác và ảnh hưởng xấu đến toàn bộ nền kinh tế (do tính hệ thống chặt chẽ của hoạt
động ngành ngân hàng): hàng loạt người gửi tiền, hàng loạt doanh nghiệp không

được cấp vốn.. làm cho nền kinh tế bị suy thoái, giá cả tăng cao, sức mua giảm sút,
thất nghiệp tăng, gây rối lọan trật tự xã hội
 Gây ảnh hưởng xấu đến hàng loạt ngân hàng trong nước và khu vực. Do trong
điều kiện hội nhập và toàn cầu hóa về kinh tế, nền kinh tế của mỗi quốc gia đều
phụ thuộc vào nền kinh tế khu vực và thế giới nên nếu việc ngân hàng gặp nguy cơ
bị phá sản nghiêm trọng thì sẽ ảnh hưởng xấu thậm chí là sự sụp đổ của các ngân
hàng khác trong nước và khu vực.

2.4 Dấu hiệu nhận biết, đo lường rủi ro thanh khoản:
a. Dấu hiệu nhận biết rủi ro thanh khoản:
Khơng một ngân hàng nào có thể khẳng định chắc chắn rằng dự trữ thanh khoản
của họ là hợp lý và đủ khả năng để không bị rơi vào tình trạng rủi ro thanh khoản nếu
chưa vượt qua những thử thách của thị trường. Những thử thách này được biểu hiện qua
những dấu hiệu nhận biết rủi ro thanh khoản sau:
- Lòng tin của khách hàng:
Sự tin tưởng của khách hàng là một trong những dấu hiệu quan trọng để đánh giá
khả năng thanh khoản của một ngân hàng là tốt hay xấu. Khách hàng luôn muốn tài sản
của mình được lưu giữ ở những nơi an tồn nhất. Nếu công tác quản lý thanh khoản của
ngân hàng yếu kém, khơng duy trì đủ lượng tiền mặt hoặc khơng có khả năng hồn trả
các khoản tiền mà khách hàng yêu cầu ngay lập tức thì điều này sẽ làm xói mịn lịng tin
của cơng chúng vào ngân hàng ngay lập tức. Do vậy, ngân hàng sẽ mất dần những khách
hàng là người gửi tiền. Ngược lại, nếu một ngân hàng có được sự tin tưởng của người gửi
tiền thì điều nay có nghĩa rằng khách hàng đã đặt niềm tin vào khả năng hoàn trả cả gốc
và lãi của ngân hàng hay đồng nghĩa với việc ngân hàng đó được thừa nhận là có khả
năng thanh khoản cao.
- Sự biến động giá cổ phiếu của ngân hàng:
Khi giá cổ phiếu của ngân hàng có xu hướng giảm chứng tỏ tính hấp dẫn của
chúng đối với các nhà đầu tư đã giảm đi, ảnh hưởng lớn đến tâm lý của người gửi tiền.
Người dân có xu hướng rút tiền khỏi ngân hàng để gửi sang ngân hàng khác hoặc đầu tư
vào những kênh có lợi nhuận cao hơn trong khi đó có khoản cho vay đến hạn khơng được

thanh tốn hoặc không đáp ứng được nhu cầu thanh khoản, dẫn đến cầu thanh khoản lớn
9


trong khi cung thanh khoản giảm khiến cho ngân hàng rơi vào tình trạng rủi ro thanh
khoản. Ngược lại, giá cổ phiếu duy trì hoặc tăng sẽ củng cố tâm lý nơi dân chúng vào khả
năng thanh khoản cao của ngân hàng.
- Áp dụng mức lãi suất huy động cao hơn thị trường:
Tại sao một ngân hàng lại chấp nhận áp dụng mức lãi suất huy động tiền gửi, kỳ
phiếu, trái phiếu và chấp nhận mức lãi suất đi vay cao hơn mức lãi suất trên thị trường
một cách bất thường hoặc phải đi vay với các điều kiện về tài sản bảo đảm chặt chẽ hơn?
Hay nói cách khác là tại sao thị trường lại đang áp đặt một mức bù rủi ro dưới hình thức
chi phí vay vốn cao hơn cho ngân hàng đó? Nếu xảy ra tình trạng như vậy thì chứng tỏ
ngân hàng đang gặp khó khăn thanh khoản trong hoạt động kinh doanh của mình.
- Lỗ từ việc bán tài sản:
Khi ngân hàng có dấu hiệu bán các tài sản một cách vội vã và sẵn sàng chịu lỗ lớn
chứng tỏ ngân hàng đang gặp một vấn đề nào đó. Chuyển đổi tài sản khơng phải là một
phương pháp quản lý thanh khoản có chi phí thấp bởi vì bán tài sản có nghĩa là ngân hàng
sẽ mất đi những khoản thu nhập tạo ra từ tài sản trong tương lai cũng như các chi phí giao
dịch trả cho người mơi giới liên quan tới việc bán tài sản. Bán tài sản để tăng cường
thanh khoản sẽ làm hình ảnh ngân hàng yếu đi vì tài sản bán đi thường là các chứng
khốn ít rủi ro của Chính phủ, cái thường tạo cho cơng chúng ấn tượng là ngân hàng lành
mạnh về tài chính.
- Khả năng đáp ứng khách hàng vay:
Cho vay là một trong những hoạt động quan trọng nhất của ngân hàng vì hoạt
động này tạo ra nhiều lợi nhuận nhất và kéo theo các nghiệp vụ khác phát triển. Do đó,
khi ngân hàng không đáp ứng đúng hẹn và đầy đủ các cam kết tín dụng hay nhu cầu xin
vay của những khách hàng có hệ số tín nhiệm cao khơng được giải quyết thì điều này
chứng tỏ ngân hàng đang thiếu nguồn cung thanh khoản.
- Vay vốn từ ngân hàng Trung Ương:

Ngân hàng Trung Ương giữ vai trò là người cho vay cuối cùng đối với các
NHTM, nên khi một ngân hàng có dấu hiệu buộc phải vay NHTW với khối lượng lớn và
thường xuyên hay NHTW đã bắt đầu đặt câu hỏi về những khoản vay của ngân hàng thì
ngân hàng đó cần phải xem xét lại chính sách quản lý thanh khoản của ngân hàng mình
để lấy lại niềm tin của thị trường.
Nếu như xuất hiện bất kỳ một dấu hiệu thị trường nào nêu trên đây mà không có
các biện pháp củng cố khả năng thanh khoản kịp thời, ngân hàng có nguy cơ rơi vào tình
10


trạng mất khả năng thanh khoản. Các nhà quản trị ngân hàng cần phải tập trung xem xét
một cách cẩn thận các chính sách và thực tiễn cơng tác quản lsy thanh khoản của ngân
hàng để giải quyết xem những thay đổi gì cần phải thực hiện để cải thiện khả năng thanh
khoản và lấy lại niềm tin nơi thị trường.
b. Đo lường rủi ro thanh khoản.
Các phương pháp đo lường rủi ro thanh khoản sẽ đem lại cho ngân hàng con số lượng
hóa cầu thanh khoản của ngân hàng trong từng thời điểm nhất định. Có ba phương pháp
đo lường sau:
 Phương pháp tiếp cận Nguồn vốn và sử dụng vốn: dựa trên một thực tế đơn
giản: Khả năng thanh khoản của ngân hàng tăng khi tiền gửi tăng và cho vay giảm.
Ngược lại, nó giảm khi tiền gửi giảm và cho vay giảm.
 Phương pháp tiếp cận cấu trúc vốn: do phương pháp này là những ước lượng
mang tính chủ quan, cơ bản dựa vào sự đánh giá kinh nghiệm và quan điểm của
nhà quản lý về vấn đề rủi ro nên nó chỉ được nghiên cứu kĩ khi nhà quản trị thanh
khoản muốn làm rõ trạng thái thanh khoản tốt nhất và xấu nhất tiềm năng mà ngân
hàng có thể gặp phải và phân bổ xác suất cho tất cả các trường hợp có thể.
 Phương pháp tiếp cận tỷ số thanh khoản (6): đây là phương pháp được sử dụng
phổ biến nhất tại các NHTM nên trong bản đề án này, em xin phép chỉ tìm hiểu kỹ
về phương pháp này.
Việc sử dụng các chỉ số tài chính hay các tỷ số thanh khoản thơng dụng là

một cách ước tính yêu cầu thanh khoản dựa trên kinh nghiệm và mức bình quân
ngành. Mỗi chỉ số sẽ thể hiện một khía cạnh về năng lực thanh khoản của ngân
hàng.
Cho tới nay nghiên cứu của một số tác giả như Aspachs và cộng sự (2005),
Rychtárik (2009), Praet và Herzberg (2008) đã tập trung vào 4 tỷ số thanh khoản
như sau:
L1 = Tài sản thanh khoản/ Tổng tài sản
Tỷ số này cung cấp một thông tin chung về khả năng thanh khoản của ngân
hàng tức là trong tổng tài sản của ngân hàng tỷ trọng tài sản thanh khoản là bao
nhiêu. L1 càng cao tức là khả năng thanh khoản của ngân hàng rất tốt.
L2 = Tài sản thanh khoản / (Tiền gửi + Vốn huy động ngắn hạn)
Tỷ số thanh khoản L2 sử dụng tài sản thanh khoản để đo lường khả năng
thanh khoản là rất tốt. Tuy nhiên, tỷ lệ này là tập trung vào mức độ nhạy cảm của
ngân hàng khi lựa chọn các loại kinh phí (bao gồm tiền gửi của các hộ gia đình,
11


doanh nghiệp và các tổ chức tài chính khác). Tỷ số này cũng giống L1 , tức là L2
càng cao cũng thể hiện thanh khoản của ngân hàng là tốt.
L3 = Khoản cho vay / Tổng tài sản
Tỷ số này cho biết có bao nhiêuphần trăm khoản cho vay trên tổng tài sản
ngân hàng. Do đó L3 càng cao tức là khả năng thanh khoản của ngân hàng yếu.
L4 = Khoản cho vay/ (Tiền gửi + Nguồn vốn ngắn hạn)
Tỷ số này cũng giống L3 , tức là nếu L4 càng cao thì khả năng thanh khoản
của ngân hàng yếu.
Mỗi tỷ số nêu trên cần được so sánh với giá trị trung bình của tỷ số này tại các
ngân hàng tương đương trong cùng khu vực. Những tỷ số này rất nhạy cảm với các
mùa trong năm cũng như các giai đoạn trong một chu kỳ phát triển của nền kinh tế.
Các tỷ số thanh khoản thường giảm trong giai đoạn bùng nổ kinh tế. Do vậy, mức
trung bình của tồn ngành thường khơng phải là một dấu hiệu dẫn dắt đúng đắn.

Trạng thái thanh khoản của mỗi ngân hàng cần được đánh giá trên cơ sở so sánh với
trạng thái thanh khoản của các tổ chức tương tự hoạt động trong cùng môi trường.
Hơn nữa, các nhà quản lý ngân hàng thường tập trung vào sự thay đổi trong các tỷ số
thanh khoản của ngân hàng thay vì các mức độ thực tế của mỗi tỷ số.

3. Quản trị rủi ro thanh khoản.(7 )
3.1 Khái niệm và mục tiêu của quản trị rủi ro thanh khoản.
a. Khái niệm:
Quản trị rủi ro là quá trình tiếp cận rủi ro một cách khoa học, tồn diện và có hệ
thống nhằm nhận dạng, kiểm sốt, phịng ngừa và giảm thiểu những tổn thất, mất mát,
những ảnh hưởng bất lợi của rủi ro.
Quản trị rủi ro thanh khoản bao gồm các chính sách, hoạt động nhằm kiểm soát
mức độ RRTK trong giới hạn mà NH có thể chấp nhận. Khung quản lý RRTK bao gồm:
chiến lược quản trị RRTK, cấu trúc tổ chức quản trị RRTK, phương pháp luận RRTK,
các công cụ và kỹ thuật quản trị RRTK, hệ thống trhông tin phục vụ quản trị RRTK, các
kênh báo cáo quản trị RRTK, quy trình quản lý RRTK.
Ngun tắc: đa dạng hóa khách hàng, đa dạng hóa nguồn lực, đa dạng hóa kỳ hạn.
b. Mục tiêu:
12


 Đáp ứng nhu cầu thanh khoản mỗi ngày
 Đáp ứng nhu cầu thanh khoản theo thời vụ
 Đáp ứng nhu cầu thanh khoản do những biến động về điều kiện kinh tế qua độ ảnh
hưởng đến các nguồn vốn và nhu cầu về vốn
 Hạn chế tác động do những ảnh hưởng gây ra từ những thay đổi về tình hình thị
trường có ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản của NH
 Đảm bảo NH vẫn đứng vững ngay cả trong trường hợp khách hàng gửi tiền và các
tổ chức cung cấp vốn cho ngân hàng rút những khoản tiền lớn ra khỏi NH do có
mối lo ngại về tình hình hoạt động và khả năng thanh tốn của NH.


3.2 Nội dung quản trị:
Quản trị rủi ro nói chung và rủi ro thanh khoản nói riêng bao gồm 5 bước:
a. Nhận dạng rủi ro:
Điều kiện tiên quyết để quản trị rủi ro thanh khoản là phải nhận dạng được rủi ro.
Nhận dạng rủi ro là quá trình xác định liên tục và có hệ thống các hoạt động kinh doanh
của ngân hàng; bao gồm: việc theo dõi, xem xét, nghiên cứu mơi trường hoạt động và
tồn bộ hoạt động của ngân hàng nhằm thống kê được tất cả các loại rủi ro, kể cả dự báo
những loại rủi ro mới có thể xuất hiện trong tương lai, để từ đó có các biện pháp kiểm
sốt, tài trợ cho từng loại rủi ro phù hợp.
Chiến lược thanh khoản do Hội đồng quản trị đề ra phải nêu rõ các chính sách cụ thể
về các khía cạnh của quản lý RRTK, ví dụ: quản lý tài sản nợ- tài sản có nên được tích
hợp với nhau để tránh những chi phí do tác động ngược chiều nhau nhằm tối đa hóa lợi
nhuận và tắc tính thanh khoản. Bên cạnh đó, chiến lược cũng cần phản ánh đặc điểm của
NH là các khoản huy động đa số là các khoảng ngắn hạn, phải đảm bảo những tiêu chí
sau:
 Đa dạng hóa và sự ổn định của nguồn vốn: sự phụ thuộc vào một nguồn tiền gửi
lớn có thể dẫn đến tính thanh khoản của ngân hàng bị đe dọa khi khách hàng gửi
tiền đột ngột rút tiền khiến ngân hàng không kịp đáp ứng, có thể dẫn tới mất thanh
khoản tạm thời hoặc ngân hàng phải huy động với chi phí cao để đáp ứng nhu cầu
rút tiền. Đồng thời, việc NH dùng các nguồn vốn không ổn định, biến động mạnh
để cấp tín dụng có thể dẫn đến RRTK khi các nguồn này bị rút khỏi NH. Do đó,
NH nên có quy định liên quan đến việc đa dạng hóa nguồn vốn và ổn định. Để
phân tích tồn diện sự ổn định của nguồn vốn, NH cần xác định nguồn vốn sẽ ở lại
với NH trong bất kỳ trường hợp nào; nguồn vốn ra khỏi NH giảm dần nếu phát

13


sinh vấn đề, nguồn vốn ngay lập tức ra khỏi NH khi xuất hiện các dấu hiệu đầu

tiên.
 Phương pháp tiếp cận quản lý thanh khoản với các loại ngoại tệ khác nhau, qua
nhiều nước, nhiều ngành kinh doanh và pháp nhân khác nhau.
 Các nhu cầu thanh khoản trong điều kiện bình thường cũng như các ảnh hưởng
thanh khoản trong thời kỳ căng thẳng về thanh khoản.
 Đối phó với sự gián đoạn thanh khoản: NH cần phải đưa ra các kịch bản để đối
phó với tình huống mất thanh khoản tạm thời và dài hạn, trong khi việc tiếp cận thị
trường liên quân hàng khó khăn và tốn kém.
HĐQT cần phê duyệt chiến lược, các chính sách và thơng lệ quan trọng, rà sốt các
chính sách chiến lược này ít nhất hằng năm.
b. Phân tích rủi ro:
Sau khi nhận biết được dấu hiệu của rủi ro thanh khoản thì việc tất yếu cần làm đó
chính là tìm ra nguyên nhân của rủi ro thanh khoản đó. Rủi ro thanh khoản có thể đến từ
chủ quan ngân hàng hoặc đến từ các yếu tố khách quan bên ngoài.
-Nguyên nhân chủ quan: bao gồm các nguyên nhân liên quan đến chính việc xác định
nhu cầu thanh khoản của ngân hàng.
+ Ngân hàng khơng dự tính trước được nhu cầu tài trợ khoản vay. Ví dụ: nếu ngân hàng
tập trung tín dụng vào một số khách hàng lớn hoặc tỷ trọng tín dụng cho một ngành, một
địa phương nào đó chiếm phần lớn trong tổng dư nợ hoặc trong tổng huy động có một
khách hàng chiếm tỷ trọng lớn, đến khi họ rút một cách bất ngờ thì dẫn đến rủi ro thanh
khoản.
+ Ngân hàng thiếu đa dạng các loại hình tài trợ, các loại tiền. Ví dụ: trong danh mục tài
sản của mình, ngân hàng có phần đầu tư vào cổ phiếu và trái phiếu, trong đó trong nhất là
trái phiếu Chính phủ hoặc tín phiếu kho bạc. Trái phiếu Chính phủ/ tín phiếu kho bạc mặc
dù lãi suất khơng hấp dẫn nhưng nó lại là một nguồn cực kỳ quan trọng cho ngân hàng để
nhận chiết khấu từ NHNN một khi thanh khoản có vấn đề. Nếu như vì áp lực lợi nhuận
mà ngân hàng chỉ tập trung vào đầu tư cổ phiếu mà hạn chế đầu tư vào các loại tài sản
thanh khoản cao thì có khả năng dẫn đến rủi ro thanh khoản cho ngân hàng.
+ Ngân hàng mất cân đối về thời gian đáo hạn các khoản vay, cho vay. Ví dụ: nếu ngân
hàng sử dụng quá nhiều nguồn vốn ngắn hạn để cho vay dài hạn có thể tạo ra sự mất cân

đối về kỳ hạn giữa tài sản có và tài sản nợ. Khi các nguồn vốn đến hạn chi trả nhưng
khoản cho vay chưa đến hạn, dẫn đến ngân hàng phải huy động các nguồn khác để chi

14


trả, nếu như ngân hàng khơng có khả năng huy động nguồn vốn khác để bù đắp thì sẽ
phải đối mặt với khó khăn thanh khoản.
+ Rủi ro thanh khoản cục bộ trong từng loại tiền tệ do mất cân đối giữa luồng tiền ra và
luồng tiền vào.
- Nguyên nhân khách quan: bao gồm các nguyên nhân liên quan đến ảnh hưởng từ các
tác nhân xấu ngoài dự kiến gây rủi ro như: khủng hoảng kinh tế tài chính thế giới và khu
vực, các tin đồn thất thiệt gây ảnh hưởng đến uy tín ngân hàng và các khoản cho vay đến
hạn nhưng khơng nhận được thanh tốn từ khách hàng do khách hàng làm ăn thua lỗ, phá
sản hoặc gặp thiên tai,…Lạm phát cũng có mối liên hệ mật thiết đến rủi ro thanh khoản:
lạm phát cao và khó đoán trước sẽ khiến cho người dân dè dặt hơn trong việc gửi tiền kỳ
hạn dài với lãi suất cố định. Trong khi đó, các NHTM cũng sẽ rất thận trọng trong việc
trả lãi suất cao cho các khoản huy động dài hạn. Do vậy, các khoản tiền huy động được
của các NHTM trong giai đoạn lạm phát thường mang tính ngắn hạn. Điều này tạo ra sự
chênh lệch kỳ hạn giữa huy động vốn và sử dụng vốn của các NHTM.
Phân tích rủi ro nhằm đề ra biện pháp hữu hiệu để phòng ngừa rủi ro. Nếu
nguyên nhân đến từ chủ quan ngân hàng thì ngân hàng nên ngay lập tức có các biện
pháp điều chỉnh, ngăn ngừa kịp thời. Trên cơ sở tìm ra các nguyên nhân, ngân hàng nên
có các chính sách tác động đến các ngun nhân làm thay đổi chúng, qua đó sẽ phịng
ngừa rủi ro thanh khoản một cách hiệu quả, kịp thời hơn tránh các hệ lụy đáng tiếc xảy
ra.
b. Đo lường và theo dõi RRTK:
Mỗi NH cần phải đo lường và theo dõi RRTK đối với tất cả các đơn vị, chi nhánh
và công ty con của NH.
Đo lường thanh khoản liên quan đến việc đánh giá dòng tiền vào so với dòng tiền

ra của NH và giá trị thanh khoản của tài sản của NH để xác định khả năng thiếu hụt về
vốn có thể xảy ra trong tương lai. Các dự án này phục vụ việc phân tích sự khơng cân
xứng của dịng tiền hay khe hở thanh tốn dựa trên các giả định về diễn biến trong tương
lai của tài sản có, tài sản nợ và các khoản mục ngoại bảng và sau đó, sử dụng chúng đrrt
tính tốn dư thừa hay thiếu hụt rịng tích lũy trong một khuôn khổ thời gian để đánh giá
thanh khoản. Dưới đây là một vài công cụ đo lường rủi ro thanh khoản đang được các
NHTM áp dụng:
- Thang đáo hạn: là cơng cụ hữ ích để so sánh các dịng tiền vào và dòng tiền ra của
ngân hàng hằng ngày và trong một loạt các khoảng thời gian xác định trong tương lai.
Trong ngắn hạn, dòng vốn tài trợ của ngân hàng có thể được ước lượng chính xác và điều
15


này rất quan trọng khi NH đưa ra các quyết định. Hơn nữa, việc phân tích trong thời gian
dài sẽ tối đa hóa cơ hội cho NH khi quản lý mức chênh lệch của dòng vốn vào và dòng
vốn ra khỏi NH trước khi rủi ro thanh khoản xảy ra.
Số lượng các khung thời gian trong thang đáo hạn phụ thuộc phần lớn vào đặc
trưng của nguồn vốn hoặc các nguồn tài trợ của ngân hàng. Nếu NH dựa vào các nguồn
tài trợ ngắn hạn thì sẽ tập trung chủ yếu vào việc quản lý thanh khoản trên khung thời
gian rất ngắn. Trong khi một số NH có thể chủ động quản lý các yêu cầu tài trợ ròng
trong một khoảng thời gian dài hơn. Để đảm bảo khả năng thanh khoản đầy đủ và đáp
ứng kịp thời những biến động bất thường, ngân hàng nên duy trì/ dự trữ mức thanh khoản
dư thừa so với quy định của NHTW. Để đảm bảo khả năng thanh khoản được duy trì, NH
nên ước tính nhu cầu thanh khoản của một loạt các tình huống có thể xảy ra.
Báo cáo MCO là một công cụ để quản lý rủi ro thanh khoản dựa trên thang đáo
hạn. MCO đo lường độ lớn của các chênh lệch thông qua việc đo lường lượng vốn thanh
khoản cần thiết (cộng dồn tối đa các dòng vốn ra). MCO theo dõi tất cả các tài sản có, tài
sản nợ khi đến hạn trong khoảng thời gian tối đa 56 ngày (hoặc 8 tuần).
Để tính chênh lệch cộng dồn, tài sản nợ và tài sản có được đưa vào báo cáo MCO theo
dõi thời gian đáo hạn. khoản cộng dồn là khoản chênh lệch giữa tài sản nợ và tài sản có,

thể hiện khoản vốn khả dụng cần thiết để loại trừ chênh lệch. Dòng vốn ra thể hiện rủi ro
thanh khoản nếu ngân hàng khơng có khả năng đáp ứng vốn khi đến hạn. Vì vậy, vốn ra
cần được giám sát và đặt trong hạn mức. Báo cáo MCO gồm có những nội dung sau:
 Tài sản nợ và tài sản có của NH đối với đối tác thứ ba (khách hàng) bên ngoài
ngân hàng.
 Tài sản nợ và tài sản có giữa các bộ phận (bao gồm cả chi nhánh) bên trong ngân
hàng.
 Tài sản nợ và tài sản có ngoại bảng (kể cả các sản phẩm phái sinh).
 Các nguồn vốn vào và ra bổ sung: là các nguồn vốn và vốn cần sử dụng trong
trường hợp dự phòng.
- Tỷ lệ thanh khoản và hạn mức:
Các tỷ lệ thanh khoản là công cụ quan trọng trong việc xem xét, đánh giá vốn khả
dụng trên bảng cân đối kế toán và là một phần trong kế hoạch vốn khả dụng hằng năm.
Phân tích xu hướng phát triển của các tỷ lệ có thể cảnh báo khi có tình huống xấu. Nếu có
bất cứ tỷ lệ nào bị vượt mức cảnh báo, ngân hàng cần phải có biện pháp xử lý ngay.
Ngân hàng nên xem xét một số tỷ lệ sau:

16


+ Các tỷ lệ theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, như: Tỷ lệ sử dụng vốn
ngắn hạn cho vay trung, dài hạn (tỷ lệ này gián tiếp đánh giá khả năng thanh khoản của tổ
chức tín dụng. Nếu tỷ lệ này cao, tổ chức tín dụng có nguy cơ khơng cân đối thanh khoản.
NHNN thường áp dụng tỷ lệ giới hạn cho các tổ chức tín dụng sử dụng vốn ngắn hạn đi
cho vay trung, dài hạn, ví dụ: NHTM tỷ lệ giới hạn là 40%, quỹ tín dụng 30%); Tỷ lệ dự
trữ bắt buộc; tỷ lệ khả năng chi trả.
+Các tỷ lệ do ngân hàng đưa ra và các mức cảnh báo: tham khảo tại Phương pháp tiếp
cận chỉ số thanh khoản.
- Kiểm tra khủng hoảng:
Ngân hàng cần tiến hành kiểm tra khủng hoảng định kỳ với các kịch bản khác

nhau để đảm bảo rằng ngân hàng có đủ khả năng thanh khoản trong điều kiện tồi tệ nhất.
Hội đồng quản trị và Ban điều hành cần xem xét kết quả kiểm tra khủng hoảng và xây
dựng chiến lược thích hợp để giải quyết nhu cầu dịng tiền bằng cách phân tích kịch bản.
Ví dụ: giảm rủi ro thanh khoản bằng cách lấy thêm nguồn vốn dài hạn hoặc tái cơ cấu các
thành phần của tài sản.
Điều quan trọng là ngân hàng cần xây dựng kịch bản hợp lý khi kiểm tra khủng
hoảng thanh khoản và kiểm tra kết quả nhu cầu dòng tiền. Kiểm tra khả năng chịu khủng
hoảng của ngân hàng dưới các điều kiện:
+ Ngân hàng bị khủng hoảng.
+ Thị trường bị khủng hoảng.
+ Kết hợp cả hai điều kiện trên.
- Hệ thống thông tin quản lý:
Yếu tố chủ chốt quản lý rủi ro tốt bao gồm hệ thống thông tin quản lý hiệu quả để
xác định, đo lường, giám sát và kiểm soát nhwug RRTK hiện tại và tương lai, và báo cáo
trúng để Hội đồng quản trị, Ban điều hành có thể phát hiện kịp thời và đưa ra hành động
chủ động khắc phục hậu quả.
Hệ thống thơng tin có liên quan đến hoạt động ngân quỹ, các giao dịch, hoạt động
của nguồn vốn và chức năng quản lý rủi ro nên được tích hợp để kiểm sốt rủi ro. Hơn
nữa, cần đảm bảo lưu lượng kịp thời và phù hợp của thông tin giữa các bộ phận trong
ngân hàng (font office, middle office và back office), tuy nhiên các báo cáo này cần được
giữ riêng biệt để đảm bảo sự độc lập của chức năng quản lý rủi ro.
c. Giám sát và kiểm soát:
17


Ngân hàng nào cũng cần phải có hệ thống kiểm sốt nội bộ đầy đủ để đảm bảo
rằng q trình quản lý rủi ro thanh khoản của ngân hàng được thực hiện toàn diện và
đúng với quy định. Đây là một phần của hệ thống kiểm soát nội bộ nhằm thúc đẩy hiệu
quả hoạt động, tăng tính tin cậy của báo cáo tài chính, tăng tính tuân thủ các quy định của
pháp luật và chính sách của ngân hàng. Một hệ thống kiểm soát nội bộ hiệu quả đối với

quản lý rủi ro thanh khoản gồm:
- Mơi trường kiểm sốt lành mạnh.
-Một quy trình đầy đủ để xác định và đánh giá rủi ro thanh khoản.
- Hệ thống thông tin quản lý đầy đủ.
- Liên tục xem xét sự tuân thủ các chính sách và thủ tục đã ban hành.
Đồng thời, cần phải đảm bảo rằng các chính sách, thủ tục khác liên quan được phê
duyệt phải phù hợp với mục tiêu của ngân hàng về quản lý rủi ro thanh khoản.
Hệ thống kiểm soát nội bộ cũng nên thường xuyên được xem xét và đánh giá lại.
Điều này bao gồm việc đảm bảo nhân viên nhân hàng đang tuân thủ đúng các chính sách
và thủ tục của ngân hàng cũng như đảm bảo rằng tất cả các đánh giá được tiến hành
thường xuyên, được phụ trách bởi các cá nhân tổ chức độc lập. Khi có vi phạm xảy ra
phải được giải quyết theo quy định đã phê duyệt.
d. Chiến lược huy động vốn và kế hoạch dự phòng:
Để xây dựng một khuôn khổ quản lý rủi ro thanh khoản toàn diện, ngân hàng nên
xây dựng kế hoạch đối phó với tình huống khủng hoảng thanh khoản (khi ngân hàng có
thể bị mất uy tín và thiếu vốn khả dụng; thị trường biến động thiếu vốn khả dụng). Kế
hoạch vốn dự phòng (CFP- Contingency Funding Plans) gồm tập hợp các chính sách và
thủ tục phục vụ cho ngân hàng nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu tài trợ của mình một cách
kịp thời với chi phí hợp lý. Phạm vi áp dụng CFP bao gồm:
- Sử dụng CFP trong hoạt động quản lý thanh khoản hằng ngày: CFP sẽ đảm bảo cho
ngân hàng có sự chuẩn bị tốt nhất để đối phó với những vấn đề khơng mong muốn. Theo
đó, mục tiêu quản lý thanh khoản được đảm bảo bằng cách:
+ Một số lượng hợp lý các tài sản lỏng được duy trì.
+ Đo lường và đặt kế hoạch các yêu cầu tài trợ trong các kịch bản khác nhau.
+ Quản lý các nguồn tài trợ.

18


- Sử dụng CFP đối với trường hợp khẩn cấp và khủng hoảng: CFP đảm bảo cho ngân

hàng có khả năng đáp ứng tốt các nghĩa vụ của mình với các bên liên quan trong trường
hợp căng thẳng thanh khoản đột ngột.
CFP nên bao gồm kế hoạch tài trợ của ngân hàng trong thời gian tạm thời và dài
hạn có ảnh hưởng tới tính thanh khoản của ngân hàng, bao gồm cả ngun nhân gây ra sự
“xói mịn” tài sản Nợ. Đồng thời, CFP phải xác định rõ ràng, định lượng và sắp xếp ưu
tiên tất cả các nguồn tài trợ theo tiêu chí nhất định, phù hợp với ngân hàng như: bán tài
sản, thay đổi cấu trúc hoặc tăng tài sản Nợ, sử dụng các công cụ phái sinh… Bên cạnh đó,
CFP cũng nên chỉ rõ trách nhiệm của các cá nhân, đơn vị liên quan vào thời điểm khủng
hoảng thanh khoản để đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ phận liên quan để giải
quyết các vấn đề phát sinh.

19



×